Mặt thực
của Hồ
(Kỳ 3)
Quả
như Hồ đă thú nhận, ông không hiểu ǵ cả, ông ngồi trong đại hội mà
tưởng như vịt nghe sấm, thế mà ông bỏ phiếu cho đệ tam Quôc tế.
Chỉ v́ lư do đơn giản đê tam quốc tế hỗ trợ cho các
dân tiểu bị áp bức giành lại đôc lập:
Quả là:
“ Một bước sa chân muôn thuở hận
Muốn quay đầu lại đă trăm năm”
Người
xưa đă nói rằng : « Làm cách mạng sai sẽ giết một dân tộc »
Hồ tuổi c̣n quá trẻ, tŕnh độ văn hoá quá non kém nên Hồ đâu có ngờ,
lại mang tham vọng quá lớn, Hồ đâu có biết đệ tam quốc tế do Lénine
thành lập, tù năm 1919, với chiến lược đưa ra khẩu hiệu bịp: Đê tam
quốc tế, giúp các dân tộc nhược tiểu và thuộc địa giành lại độc lập.
Đó chỉ là chiêu bài, cái tḥng lọng đă mở ra và dương lên để lôi keó
những nhà cách mạng những nước bị trị và nhược tiểu vào giọ của Nga
sô. Cho đến ngày hôm nay cộng sản Nga không giúp nước nào hết ? Đó
chỉ là cặm bẫy của CS Nga.
Tôi vẫn băn khoăn tự hỏi, người làm thơ vịnh Kiều thường thấy rất
nhiều nơi đồng ruộng, nhưng lời vịnh của họ chỉ là thơ con cóc cũng
như những lời thơ của Hồ vậy. Thơ văn viết lách của Hồ như vậy, căn
cứ vào đâu mà cơ quan văn Hóa Liên Hiệp Quốc ghi tên dự giải cho Hồ.
Chẳng lẽ Liên Hiệp Quốc, không biết rơ thơ văn của Hồ hay sao ? _
Nếu cơ quan mang danh Văn Hóa Liên Hiệp Quốc lại nhắm mắt làm bậy
th́ c̣n ǵ uy tín của Liên Hiệp Quốc nữa ! Mấy năm gần đây một người
bạn làm ngoại giao cho VNCH kể cho tôi nghe, khiến tôi mới bừng tỉnh,
hiểu rơ uyên nguyên câu chuyện : Hồ được dự giải văn hóa của Liên
Hiệp Quốc. Xin quư vị lưu ư việc dự giải với việc trúng giải hoàn
toàn khác nhau cũng như việc dự thi và trúng tuyển. Thế mà tụi văn
nô đă om ṣm , khoa chân múa tay, viết lách huênh hoang loan tin
của bác của chúng đă trúng giải rồi. Quả là lũ văn nô như ruồi như
nhặng, không c̣n biết liêm sỷ là ǵ ? Giám đốc cơ quan văn hóa Liên
Hiệp Quốc là một anh Tây đen. Anh Tây đen có người anh đăng lính Lê
Dương, trong đoàn quân viễn chinh của Pháp, khi Pháp trở lại Việt
Nam xâm chiếm lần thứ hai, anh Lê Dương có mặt tại chiến trường Việt
Nam, anh lấy được cô vợ Việt Nam vừa đep người vừa đẹp nết. Hiệp
định đ́nh chiến Paris anh được giải ngũ., anh mang cô vợ Việt Nam về
cố hương Phi Châu. Người đàn bà Việt Nam bé nhỏ, sinh sắn , nhất là
cái nết của cô đă chịnh phục dược dư luận nhà chồng. Ông tây đen
giám đốc em chồng mơ ước làm sao lấy được người vợ Việt Nam. Thời
gian anh làm giám đốc cơ quan văn hóa Liên hiệp Quốc, phụ tá cho anh
là người Việt Nam nhiều bằng cấp. Gần ông giám đốc , anh bắt mạch
được mơ ước của ông. Anh đưa ông về Sàig̣n và cho CSVN biết mơ ước
của ông. CSVN cung ứng cho hai anh nhiều gái đẹp, hai người lấy cớ
là đi công tác, nhưng thực sự là để chơi gái. ? Khi miếng ăn đă lọt
vào miệng rồi, chúng mới đề nghị ông giám đốc cho Hồ ghi tên dự giải
nhà văn hóa lớncủa Liên Hiệp Quốc . Anh Tây đen giám đốc cơ sở văn
Hóa Liên Hiệp Quốc làm theo ư chúng.. Người Việt tỵ nạn trên toàn
thế giới biết được thủ đoạn này đă đồng xuống đường., tố cáo dư
luận thế giới những chính sách c̣n đầy máu và cái dốt của nhà thơ
con cóc Hồ…..Người Việt ở Paris đă xuống đường đưa những bằng chứng
của tên sát nhân Hồ…..Giáo sư Lê Hữu Mục một người uyên thâm chữ
nôm đă vạch trần tố cáo Hồ. Tập thơ trong tù của Hồ đă ăn cắp tập
thơ của một người bạn tù Trung Hoa Trước những bằng chứng hiển nhiên,
cụ thể,LHQ không c̣n cách ǵ để trao giải thưởng của LHQ cho Hồ.,
bọn vô liêm sỉ và vô tư cách như lũ văn nô, chúng đều gục mặt và
miệng câm như hến. Ông giám đốc và anh người Việt phụ tá của ông
được CSVN môi giới cho hai cô vợ đẹp, nhưng cả hai đều mất chức.
Các cụ ngày xưa khi cày ruộng hay khi gặt luá thường hay ngâm vịnh
kiều, nhưng v́ ít học, lời thơ không vần , không điệu, không niêm
chẳng có luât, nó ngớ ngẩn như thơ con cóc của Hồ vậy. Từ hai câu
thơ của Nguyẽn Du, để mỉa mai sức mạnh đổi trắng thay đen của đồng
tiền :
« Trong tay đă sẵn đồng tiền
Dù ḷng đổi trắng thay đen khó ǵ "
Hồ đă
vịnh hai câu thơ trong Kiều một cách ngớ ngẩn , không vần chẳng điệu:
“Trong tay đă sẵn súng rồi
Quyết tâm đánh Nhật đánh Tây mới đành”
Tại sao lại mới đành: bị bắt buộc àhay bị gượng ép!
Trong chuyện Kiều
Nguyễn Du viết:
Mụ càng chuốt lục tô hồng
Máu tham dễ thấy hơi đồng th́ mê »
Nhà thơ con cóc Hồ
đă vịnh hai câu kiều thành những câu thơ bất chấp vần điệu :
« Trái đạo đức khinh mẹ cha
Máu tham hễ thấy đô la là mê »
Nguyẽn Du đă viết
hai câu thơ đầy đủ vần điệu, ngắn , gọn và gợi cảm :
« Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người
Nhớ nơi kỳ ngộ bồi hồi chân đi »
Khi nhà thơ con cóc
Hồ mượn cốt của hai câu Kiều để diễn tả th́ cả vần lẫn điệu đều biến
mất, như thế hẳn đau ḷng cho Nguyễn Du :
« Bâng khuâng muốn ở muốn về
Đem lời vàng đá đền ngh́ công nông »
Giử cho tuổi trẻ
nhân dịp Xuân, nhà thơ con cóc Hồ viết như sau, không biết nó là thơ
hay văn, nhưng là thơ của Hồ :
« Một năm khởi đầu muà Xuân
Một đời khởi từ tuổi trẻ
Tuổi trẻ là muà Xuân của Xă Hội »
Trong Ngục Trung
thư lác đác những bài thơ con cóc, hẳn chỉ có ở Hồ. Nó không giống bất
cứ thi sĩ nào cổ kim mà nó phẳng phất hồn thơ tả chân của thi sĩ Trần
văn Hương khi ông ngồi tù như Hồ : « Ngồi tù găi háng giái lăn
tăn » . Những năm cào tuyết bên xứ lạnh Ăng Lê, nhà thơ con cóc Hồ
đă viết cho cụ Phan đang ở Paris, trong đó có hai câu được gọi là
thơ của Hồ :
« Thế giới đang nổi tiếng đùng đùng
Phải có kiên gan mới gọi hùng »
Hẳn là cụ
phó bảng Chu Mạnh Trinh, ngạc nhiên đến độ sững sờ về một người trẻ,
mang mộng lớn mà thơ văn tệ mạt như vậy ! Điều đó minh chứng hùng hồn
rằng Hồ những năm học tiểu học không có thái độ nghiêm túc, thiếu kiến
thức trường ốc nên Hồ thiếu phán đoán trước những sự việc quan trọng
như khi ở hội nghị quốc tế Cộng Sản.
Thôi nói nhiều
thơ Hồ có lẽ có những độc giả phải đi rửa tai. Để kết thúc chương
này, ta nghe nhận định của nhà toán học Hồ Hữu Tường viết về Hồ,
trong « 41 năm làm báo »
« Dù có
đỗ hay không tôi vẫn là người thi thạc sỹ toán mà các cụ không cho
viết bài nào th́ một người mới học cuối năm lớp nhất th́ làm sao có
thể viết nghị luận về vấn đề Việt Nam để tranh thủ dư luận thế giới
về cảm t́nh đối với Việt Nam cho được »
Tóm lai,
căn cứ vào những bài thơ con cóc, cùng 3 bản chúc thư, Hồ đă’ sửa
nhiều lần đă minh chứng hùng hồn rằng: Hồ là người tŕnh độ văn hóa
quá thấp nên câu văn ngập lỗi chính tả….c̣n nhũng danh từ nhà văn
lớn, nhà thơ lớn, nhà triết gia chỉ là nghững lời tô son, trát phấn
của bầy ruồi nhặngvăn nô !
XVII) Những Hiệp định
bán nước của Hồ và lũ đàn em Hồ CSVN :
Hiệp định bán nước
của Hồ Và loài độc vật CSVN !
1) Bán nước lần thứ
nhất :
Hiệp định bán nước
Việt Nam Hồ kư với Pháp ngày 6 tháng 3 năm 1946 của Hồ. Hiệp định ấy
qui định rằng : Việt Nam dung trong khối Liên Hiệp Pháp !!! !
Mùa Thu năm
1945, toàn dân Việt Nam nhất tề đứng lên đ̣i độc Lập của thực dân
Pháp.Máu và sương , tâm và huyết của thanh niên Việt Nam nhiều thế hệ
đă đổ cho tổ quốc Việt Nam. Các phong trào yêu nước Việt Nam đă liên
tiếp đổ máu cho dân tộc . Cái này gục đổ, cái kia tiếp tục đứng lên
như : phong trào văn thân cần vương gục đổ, phong trào Đông Du và
Tây du nối tiếp đứng lên với những kẻ sỹ : Phan Bộ Châu rồi Phan
đ́nh Phùng rồi Hoàng Hoa Thám , Phan chu Trinh….gục dổ. Việt Nam Quốc
Dânđảng rồi Đại Việt đứng dậy…. Caí giá của độc lập , tự do phải trả
bằng sương máu.
Thời và cơ,
t́nh và thế năm 1945 đă mở cửa cho những người đă đổ xương máu, đă
hy sinh cho tổ quốc Việt Nam đă làm ngơ, khiến bọn CSVN đă lợi dụng
thời cơ cướp chính quyền, rồi độc quyền thống trị dân tộc gây ra những
thảm cảnh như ngày nay !
Năm 1946, Hồ
đáp tàu thủy đi Pháp. Phái đoàn Việt Nam chỉ có một ḿnh ông chủ tịch
ra đi và đang đêm ông chủ tịch đến gơ cửa nhà ông bộ trưởng thuộc địa
Pháp xin kư hiệp định.
Năm 1945, miền
Bắc tuyên bố độc lập, chẳng bao lâu quân đội Anh vào miền Nam tước
khí giới của quân đội Nhật. Đi tới dâu quân Anh dẫn theo quân Pháp
vào chiến nước ta !Hồ đă kư văn kiện : « nuớc Việt nam dân chủ cộng
hoà đứng trong khối Liên Hiệp Pháp ». Hồ về nuớc, các lănh tụ Quốc
Dân Đảng, dang hợp tác với Hồ lên tiếng phản đối Hồ : « Người dân
Việt đă đổ bao xươngmáu để giành độc lập, chứ họ đâu có dổ xưong máu
để được đứng trong khối liên hiệp Pháp »
Bán nước lần thứ
hai :
Phạm văn Đồng kư
văn thư bán nước lần thứ hai. Năm 1958, Phạm văn Đồng thủ tướng CSBắc
Việt gưỉ văn thư cho Chu Ân Lai thủ tướng Trung Cộng : Đồng công nhận
hai quần đảo Hoàng và Trường sa thuộc lănh hải Việt Nam, nay thuộc
lănh hải của Trung Cộng. Thời kỳ dó Hồ đang giữ hai chức cao nhất ,
quan trọng nhất trong đảng và nhà nước : Chủ tịch nhà nước kiêm chủ
tịch đảng CSVN !
3) Bán nước lần thứ
ba :
Hiệp định về hải phận
và biên giới Việt Nam Trung Quốc do Lê
Khả Phiêu, tổng
thư kư đảng CSVN, kư ngày30 tháng 12 năm 1999. Hiệp định phân dịnh
vịnh Bắc Bộ kư ngày 25 tháng 5 năm 2000.Lũ bán nước CSVN khi kư đă
viện dẫn nhiều lư do. Chúng ta biết chắc chắn những điều sau đây :
Học thuyết
Marx đă dậy CSVN rằng : « Moị phương tiện đều tốt
, miễn sao đạt được
mục đích » .Với
bản chất của CSVN th́ đất đai, tổ quốc, nhân dân chỉ là những phương
tiện, để chúng đạt mục đích là độc quyền thống trị Việt Nam. Chính
sách này, chúng đă thực hiện nhiều lần ở Viêt Nam và đều mang đến những
thành công cho chúng .
Đất đai của tổ quốc
Việt Nam là xương là máu của bao thế hệ Việt
Nam
để lại cho con cháu. Đất đai của tổ quốc Việt Nam là của toàn dân
Việt Nam , chứ đâu phải phương tiện riêng tư của đảng CSVN mà chúng
độc quyền hiến dâng cho ngoại bang !
Những hiệp định bán nước kể trên, đă kư vàCSVN đă dấu như mèo dấu
cứt. Quốc hội là đại diện cho dân chỉ là quốc hội bù nh́n. CSVN bán
đất đă không hề được đưa ra quốc hội có phê chuẩn hay không ?
-Nhân
dân là chủ đất nước, khi chính phủ CSVN cắt đất , cắt biển
dâng
cho Trung Cộng. Nhân dân những người làm chủ đất nước.Quốc hội là
đại diện người dân. Bọn bán nước CSVN, không hề hỏi ư kiến của Quốc
hội hay ư của toàn dân ?
Đất
nước Việt Nam, dựng nước và mở nước đă trải qua trên 5ngàn
năm,
các triều đại Đinh , Lê, lư , Trần ,Lê, Nguyễn chưa triều đại nào
bán một tắc đất nào của Việt Nam cho ngoại quốc !
Chúng ta đă qua nhiều thăng trầm của lịch sử : một ngàn năm nôlệ
giặc
Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây, rồi phát xít Nhật và bọn thống trị
đui mù CSVN. Chưa bọn thống trị man rợ, tác hại như bọn thống trị CS
ngày nay. Các triều đại kể trên, đất nước của chúng chỉ có mở rộng
chứ chưa bao giờ bị cắt bán cho ngoại quốc như bọn thống tri CSVN
ngày nay.
Đất nươc Việt qua các triều đại kể cả bọn thống trị, chưa
có thời đại nào cắt dất dâng cho ngoại bang. CSVN thống trị dân tộc
từ 1945 đến nay 2ƠO9, trên nửa thế kỷ chúng đă nhiều lần bán nuớc kể
từ Hồ .
XVIII)
Người nói và người viết về cái chết của Hồ.
Cái
chết của Hồ c̣n nhiều bí mật, gây ra nhiều nghi vấn cho người Việt
Nam ở trong nước cũng như người Việt ở hải ngoại. Theo người Việt ở
trong nước th́ nhiều năm trước khi Hồ chết, Hồ bị phe Lê Duẩn, Lê
Đức Thọ trung ương đảng CSVN bủa vây, cô lập một nơi làm bù nh́n. Hồ
đi đâu có Vũ Kư đi theo là vậy, Hồ mất hết quyền hành, không được
quyết định một việc ǵ ?. Hồ chưa bị phe Lê Duẩn giết, v́ ảnh hưởng
của Hồ trên trường quốc tế hơn nữa Hồ đă được tụi CS và văn nô bơm
Hồ từ con ếch thành con khủng long.. Điều đó hợp với di chúc hai của
Hồ :
« Đầu năm 1963, hồi đó tôi chưa bị bọn bao vây quanh tôi vây chặt
chẽ quá, tôi nhờ mấy ủy viên đ́nh chiến chuyển vào Nam hai cành đào
lớn rất đẹp, kèm theo một bức thư, trong dó tôi chân thành yêu cầu
cụ Ngô cùng tôi thảo luận trong t́nh anh em, để hai bên đều lo cho
dân chúng hai miền , trên căn bản thi đua làm cho nước giàu dân mạnh
theo đường lối của từng người. Truyện lộ ra, làm cụ Ngô bị giết ở
trong Nam, c̣n ngoài Bắc tôi bị kiểm thảo rất khắt khe, không có
quyền quyết định một việc ǵ cả. Đáng lẽ tôi phải bị giết ngay hồi
đó, nhưng tên tuổi của tôi c̣n được thế giới biết đến, nên họ c̣n
phải lợi dụng mà để cho tôi sống thêm. »
Về cái
chết của Hồ, luật sư Nguyễn Duy Hùng viết trong tác phẩm : Bản chất
của Hồ chí Minh : gian xảo, phi dân tộc, trang 151 viết :
« Những tin tức từ hành lang của đảng viên CS cao cấp bàn tán nói
rằng :Hồ chí Minh qua đời v́ đằng sau ót của Y có lỗ hổng dấu vết
của một viên đạn. Giây phút cuối cùng của đời Hồ chỉ có sự hiện diện
của Lê Duẩn nên người ta cho rằng : chính Lê Duẩn đă hạ sát Hồ chí
Minh »
Mấy năm gần đây, tôi được nghe một giai thoại. Làng tôi có một anh
là Trung Kều, anh là trung úy nhẩy dù, thời Pháp trở lại Việt Nam
lần thứ hai, Sau này anh trở thành du đăng. Không phải thứ du đăng
tài tử như băng du đăng chả cá HàNội mà anh là du đăng nhà nghề,
sống bằng nghề du đăng. Có lẽ nhờ anh có học nên anh đối sử với bà
con làng xóm không làm hại ai, trong làng bị bọn du đăng Hà Nội « chơi
gác » hay kiếm chuyện, anh ra tay can thiệp đến nơi đến chốn. Quả
anh giữ được phong thái anh chị, đánh đĩ mười phương để một phương
lấy chồng. Vào Nam anh sống bằng nghề gác ṣng bạc. Gọi là gác,
nhưng anh không phải đứng gác. Muốn yên lành làm ăn chủ ṣng bạc
phải đóng tiền tháng cho anh. Anh cho đàn em đến gác. Cách đây khá
lâu, tôi có thằng bạn người Sàig̣n, hắn là nhà giáo hiền lành bộc
trực. Một hôm thằng bạn đến nhà tôi . Hắn nói với tôi rằng :
« Mày xuống nhà tao chơi, xem chân xem cẳng ông chú vợ tao ra
sao mà ông nói phét quá mày ơi !. Vợ chồng tao mua vé máy bay mời
ông sang chơi…..Nhiều lúc ông nói phét nghe muốn tức nổ ruột. Ông
thường vỗ ngực tự xưng : Hà nội ngày nay phần đông là dân Hà Tĩnh,
Nghệ An, Thanh Hoá và khu năm chiếm hết . Nghe dọng là rơ gốc….Tôi
đây mới là HàNội thứ thiệt100/100, chính hiệu con nai vàng . »
Cái
t́nh quê hương lạ lùng thực. Tôi chẳng rơ xuất xứ của anh. V́ làng
tôi gần như không có ruộng, người làng phải tha phương cầu thực,
nhưng nh́n anh có nhiều nét giống anh Trung kều, cao vời vợi, mái
tóc hợp thời trang...bộ mặt cô hồn nhưng đẹp lăo…..Anh tự giới thiệu
h́nh như anh tên là Khuê th́ phải. Gần anh tôi như có chút ấm ḷng,
như dĩ văng trở lại….Tôi ăn với anh bữa cơm ở nhà thằng bạn. Trong
câu chuyện gợi nhớ quê hương, tôi đề cập đến vài nhân vật, anh lên
tiếng :
« À ra thế, cậu là cháu cụ tổng đốc Nguyễn Hữu Đắc,anh Trung là anh
ruột tớ, thế tớ với cậu là cùng làng đấy.Tha phương ngộ cố tri,
tuyệt thực »
-« Thưa
vâng ,Tôi kêu cụ Nguyễn Hữu Đắc là bác »
Có lẽ
rượu đă hơi ngà ngà say….trong bữa rượu, anh nắm lấy tay tôi nói nho
nhỏ :
« Gặp cậu tớ lại nhớ anh Trung. Ở HàNội tớ cũng làm nghề du đăng,
nhưng tớ không gác ṣng bạc như anh Trung mà tớ làm nghề cố vấn kỹ
thuật, đánh cướp ra sao do tớ nghiên cứu rồi bày kế hoạch. V́ tớ lớn
tuổi có nhiều kinh nghiệm. Khi có bất ḥa giữa các phe nhóm th́ tớ
làm công việc giảng ḥa giữa hai bên »
Cuối
bữa ăn anh nói thực nhỏ h́nh như chỉ đủ tôi nghe :
« Tớ
hiện có cái bàn đèn hút thuốc phiện của Hồ »
-Thế
Hồ nghiện thuốc phiện sao anh ?
- Hồ nghiện quá đi chứ, mà nghiện nặng là đằng khác.
-
Lúc hắn tịch đàn em anh vồ được chứ ǵ ?
-
Không phải vậy mà có trước năm 1970
-
Có ǵ làm bằng chứng là Hồ nghiện
- Có chứ ….. mà c̣n là bằng chứng cụ thể là đằng khác……Này nhé. Hồ
tuổi trẻ hắn hoạt động vô cùng cực khổ, rừng thiêng , nước độc, chỉ
một hang Pắc Bó đủ chết rồi !Cậu thấy Hồ khi Hồ ra mắt năm 1945, hắn
chỉ có bộ xương và bộ râu, nước da hắn đen sạm và tái mét……Sốt rét
rừng ra mặt !. Đầu thập niên 60 thấy hắn mặt mũi phương phi, béo tốt
ra, nh́n kỹ chỉ béo ở mặt, thịt chẩy xuống và nước da trắng nhợt như
người phù thủng……Dân HàNôị, trong đó có cán bộ cao cấp cắt nghĩa
rằng :Hồ bị cánh LêDuẩn , anh em Lê Đức Thọ cô lập , cướp hết quyền
luôn cả cái bàn đèn của Hồ. Thế là Hồ đang nghiện nặng hết thuốc hút
nên Hồ hết cử chỉ lanh lẹ và cái mặt càng ngày càng ph́ ra. Giết th́
chúng chưa, để cho Hồ làm bù nh́n. V́ chúng và bầy thi nô trót bơm
Hồ lên trước nhân dân và quốc tế nên Hồ đi đâu phải có Vũ Kỳ theo là
vậy »
3) Anh có bàn đèn của Hồ trong tay ?
4)Anh gật đầu và nói : Dân quái mà cậu nên những cái bí hiểm, khó
khăn thi tớ lại có. Gặp cậu đây tớ nảy ra ư nghĩ rằng : Dẫu sao cái
bàn đèn cũng có giá trị lịch sử. Tớ với cậu lại cùng quê, cùng làng.
Bây giờ cậu làm sao kiếm cho tớ một vạn rưỡi tiền Pháp, để tớ có
tiền mua vé máy bay và để lại cho vợ con một ít để nó làm vốn , buôn
bán. Không ḿnh cứ đi măi, nó cằn nhằn , lắm lúc khó chịu lắm. Cũng
dịp này sang năm, chính tớ mới đủ tài nghệ mang cái bàn đèn sang đây
cho cậu »
Anh
Khuê hứa với tôi nghe chắc nịch :
Anh em nhà tớ đối với người trong làng không bao giờ làm cái ǵ sai
quấy.
Đúng vậy anh, nhưng tôi vượt biển vào Pháp năm1976, làm nghề gác
gian, có đồng nào bỏ vào tờ báo. Tôi nghèolắm anh ơi !Bây giờ tôi đi
mượn vài trăm c̣n khó, nói chi đến chục ngàn.
4)Vấn
đề Hồ chết ra sao ? C̣n là vấn đề nam giải. Tôi suy nghĩ, tôi liên
hệ đến lá chúc thư thứ hai của Hồ, tôi nhớ mẩu chuyện Nguyễn Hộ viết
rằng : Mấy năm trước khi Hồ chết, Hồ nói lẩm cẩm. Phiên họp trung
ương đảng Hồ dơ tay xin phát biểu ư kiến, đă bị Lê Duẩn không cho
nói. Duẩn nói với Hồ rằng :
« Thôi
, bác để người khác nói với chứ, bác cứ nói hoài ».
Tôi
lẩm bẩm một ḿnh rằng : Đúng rồi , Hồ bị bao vây không thuốc phiện
hút nên thuốc phiện nó phá. Cặp mắt sùm sụp, da vàng như người bị
thủng, đầu óc thiếu minh mẫn ăn nói lạng quạng, đúng là Hồ không có
thuốc phiện hút nên thuốc phiện nó phá rồi. Quyền lựa chọn để phán
quyết là quyền của lịch sử, của đồng bào. Chúng tôi chỉ nhận định
hoàn toán cá nhân đầy tính chất chủ quan về cái chết của Hồ.
Khi tôi chuẩn bị đưa in lần thứ hai, tôi đă tương đối hồi phục sức
khoẻ nên tôi sửa lại lỗi chính tả và bỏ một vài phần nhỏ không đúng
với sự thực.
XVIII) Ba bản chúc thư của Hồ hư thực ra sao ?
Chúng tôi hiện có 3 bản di chúc của Hồ : bản di chúc thứ nhất được
đảng CS công bố tại HàNội. Ông Vũ Kỳ bí thư của Hồ cho biết : Ông
giao tận tay bản di chúc thứ nhất cho Lê Duẩn. Lê Duẩn vào pḥng
đánh máy đă cắt xén nhiều đoạn rồi mới công bố. Như thế bản di chúc
thứ nhất đă bị Lê Duẩn cắt, xén. Di chúc thứ hai một người đàn bà
Pháp từng chung sống với Hồ có một đưá con gái lai Pháp với Hồ, từ
Rennes gưỉ lên cho báo CON ONG TỴ NẠN ở Paris . Di chúc này của một
người đă gần đất xa trời nên tỏ ra hối hận về những hành động của
ḿnh….để mong đồng bào tha bớt tội ác của Hồ. Đọc toàn nội dung bức
thư này ta vẫn thấy cái văn phong giả dối, lừa bịp của Hồ. Chúng tôi
tạm goị là bức thư chạy tội, lừa bịp của Hồ. Nước mắt có rơi chỉ là
nước mắt cá sấu.Chúc thư thứ ba là do bác sỹ Nguyễn- một người có
ḷng với tổ quốc Việt Nam, cho chúng tôi bản di chúc thứ ba có thể
coi di chúc này là di chúc nguyên vẹn, chưa hề bị sửa chữa.
Chúng tôi nghĩ rằng : công việc phán đoán , nhận xét, lựa chọn là
công việc của lịch sử, của đồng bào……Nhận định của chúng tôi chỉ là
nhận định chủ quan của một người .Chúng tôi trích một phần hay toàn
vẹn ba bản di chúc để có tài liệu đồng bào lưạ chọn và phán đoán.
1)Chúc thư thứ hai:
Bản
di chúc hai của Hồ do một người đàn bà Pháp từ Rennes gưỉ cho báo
Con Ong ở Paris. Bà đă từng chung sống với Hồ, có một đứa con Việt
lai Pháp độ 3 tuổi chụp chung với bố là Hồ. Lá thư bà kèm theo bức
ảnh. Bản di chúc thứ Nhất đă bị Duẩn cắt xén, sửa đổi. Di chúc
một hé mở cho ta thấy. Hồ là người theo chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa
duy vật nên ông viết : « Về bên kia thế giới gặp cụ Mác ». Hồ cũng
có cha, có mẹ, ông bà tổ tiên….mà không muốn gặp chỉ muốn gặp cụ
Mác ! Điều đó chứng tỏ rằng Hồ là kẻ vô thần.
2)
Bản di chúc thứ hai dể gây niềm tin. Chúc thư thứ hai mang tâm trạng
của người đang sống trong cảnh già, bị bao vây, bị tước hết quyền
hành . Tâm tư nặng chĩu u buồn v́ những sai lầm của ḿnh trong quá
khứ :
« Cái lầm tai hại nhất của tôi là đi theo cộng sản Mác
xít và chủ nghĩa này chẳng qua chỉ là giả bộ đánh lừa giai cấp
nghèo mà cướp lấy chính quyền cho nước Nga khi đó”
Chao
ôi, Quả là gái đĩ già mồn. Tội của Hồ trong cải cách ruông đất,
không một ngôn ngữ nào có thể bào chữa được !Bản di chúc hai, phủ
nhận tất cả bản di chúc khác của Hồ :
« Nay tôi viết tờ di chúc này, xin coi là chính thức. Ngoài ra
tôi không c̣n nhận bất cứ bản di chúc nào khác.Tôi ước mong một ngày
nào đó, bản di chúc tôi viết đây sẽ được nhiều người biết tới, th́ ở
bên kia thế giới , tôi mới được thỏa ḷng”
Xét bản di chúc hai của Hồ, nó lộ cái duôi dài tḥong của Hồ lưà gạt,
giá dối, mong đánh lận con đen như Hồ viết « Tôi không có vợ
nhưng có đưá con gái lai Pháp « Xin hỏi Hồ ? Nông đức Mạnh là ai ?Nguyễn
tấn Trung là ai ?Hồ c̣n lấy vải thưa che mắt thánh, ngón sở
trường của hắn là lừa dối , bịp bợm. Sau khi đả nhỏ những giọt nước
mắt cá sấu, giả vờ tỏ vẻ vô cùng ân hận về những tôi ác của ḿnh để
mong nhân dân tha thứ cho phần nào tội ác.
Hồ
viết :
« Tôi cũng ngay t́nh dùng những người hợp tác với tôi. Tôi cứ
tưởng người đó yêu quư tôi, ngờ đâu họ đều là mật thám của Nga sô,
vây quanh tôi , để kiểm soát tôi, khéo léo hướng dẫn tôi theo dường
lối của Nga sô đă vạch sẵn. Họ đề cao , tâng bốc tôi để khi làm
những điều ǵ độc ác th́ phải chịu hết trách nhiệm với dân tộc.
Nhiều khi họ quyết mà tôi không biết ǵ như vụ cải cách điền điạ ở
Bắc Bộ chẳng hạn, bây giờ nhân dân có quyền nguyền rủa, oán trách
tôi không để đâu hết”
Hồ
mong lừa gạt, để chạy tội cho ḿnh, nhưng rơ ràng không ổn. V́ toán
dân Việt Nam biết rằng : Thời cải cách ruộng đất diẽn ra toàn miền
Bắc vào những năm 1954, 1955, 1956, nó là quốc sách, thời đó Hồn c̣n
nắm ba chức vụ quan trọng nhất : Tổng thư kư (thay Lê Duẩn) kiêm chủ
tịch đảng CSVN. Chủ tịch nhà nước VNDCCH. Nhân vật số một đảng và
nhà nước hoàn toàn trong tay Hồ nên Hồ phải chịu hoàn toàn trách
nhiệm với nước với dân. Báo Con Ong Ty Nạn cho biết : trước khi đăng
đă được kiểm tự pháp để so tự dạng và đă được công nhận là đúng văn
tự và chữ kư của Hồ. Bản chúc thư thứ hai :
« Đầu năm 1963 hồi đó tôi chưa bị bọn quanh tôi bao vây chặt chẽ
quá, tôi nhờ mấy nhân viên Ủy Hội kiểm soát đ́nh chiến vào Nam hai
bộ cành đào lớn và rất đẹp, để tặng cụ Ngô đ́nh Diệm, kèm theo một
bức thư, trong đó tôi chân t́nh đề nghị thảo luận trong t́nh anh em,
để hai bên cùng lo cho dân chúng hai miền trên căn bản thi đua làm
cho dân giàu , nước mạnh, theo đường lối của t́nh người »
Báo Con Ong nhận định : có nhiều sự kiện được coi là đúng, thí dụ
việc gửi hai cành đàotặng cụ Ngô, cùng một bức thư.
Nguyên văn chúc thư thứ hai đă được báo Con Ong đăng như sau :
« Ngày xưa bên
Trung
Quốc người ta thường nói : Con chim trước khi chết thường cất tiếng
kêu thương, con người trước khi chết th́ lời nói phải……Tôi tự xét
ḿnh sống c̣n chẳng được bao lâu nữa, nên cố gắng viết di chúc này,
mong rằng những điều tôi viết không là những điều sai quấy. Vừa đây
Lê Duẩn có đi với Trần Quốc Hoàn tới gặp tôi, ép tôi phải viết bản
di chúc theo ư muốn của họ. Tôi đă viết mà trong ḷng tấm tức vô
cùng. Nay tôi viết thêm tờ di chúc này xin coi là chính thức. Ngoài
ra tôi không công nhận bất cứ bản di chúc nào khác. Tôi ước mong một
ngày nào đó, bản di chúc tôi viết đây, sẽ được mọi người biết tới,
th́ ở thế giới bên kia tôi mới được thỏa ḷng. Tôi vốn con nhà nghèo,
nhưng từ bé đă nuôi mộng đảo lộn sơn hà và đem lại vẻ vang cho ṇi
giống nên tôi bôn ba hải ngoại bao nhiêu năm không quản ngại khó
khăn, gian khổ, vào tù ra khám , chỉ mong có ngày tổ quốc được độc
lập giàu mạnh, dân ta được hạnh phúc, tự do. Tôi thường đọc lịch sử
Việt Nam ta, thấy có ông Trần thủ Độ là tay hào kiệt hiếm có trên
đời, đă không quản ngại làm việc ác, làm việc phản mà gây dựng cơ
nghiệp hiển hách của nhà Trần, đưổi giặc Nguyên, đem lại vinh quang
cho cả dân tôc về cả văn minh và đời sống. Không lượng sức ḿnh,
không đo tài ḿnh, tôi đă hành động như ông Trần thủ Độ nên đất nước
mới tan nát, nhân dân ta mới điêu linh mà đầu óc tôi nặng nềkhông
biết bao nhiêu tội ác, không thể nào tha thứ được. Cái lầm thứ nhất
của tôilà tôi đi theo chủ nghĩa Mác xít mà không biết chủ nghĩa này
chẳng qua là giả bộ, để đánh lừa giai cấp nghèo mà cướp chính quyền
cho nước Nga khi đó. Tôi đă ngay t́nh mà dùng những người hợp tác
với tôi. Tôi cứ tưởng người đó yêu quư tôi, dâu ngờ họ đều là mật
thám của Nga sô, vây quanh tôi để kiểm soát tôi, khéo léo hướng dẫn
tôi theo đường lối Nga sô đă vạch sẵn. Họ đề cao tâng bốc tôi để làm
điều ǵ ác th́ tôi phải chịu hết trách nhiệm với dân tộc. Nhiều khi
họ quyết định mà tôi không hay biết ǵ như vụ cải cách ruông đất ở
Bắc Bộ chẳng hạn, bây giờ nhân dân có quyền nguyền rủa tôi, oán
trách tôi không để đâu hết. Dù sao đi nữa tôi vẫn là người có tội,
không dám chối căi, chỉ mong sau này lịch sử xét kỹ cho tôi mà đừng
oán trách tôi quá nặng nề. Đầu năm 1963, hồi đó tôi chưa bị bọn bao
quanh tôi bao vây chặt chẽ quá, tôi nhờ mấy nhân viên kiểm soát đ́nh
chiến chuyển vào Nam hai bộ cành đào lớn rất đẹp, kèm theo bức thư,
trong đó tôi chân thành yêu cầu cụ Ngô cùng tôi thảo luận trong t́nh
anh em, để hai bên đều lo cho dân chúng hai miền, trên căn bản thi
đua làm cho nước mạnh, dân giầu của từng người. Truyện này lộ ra làm
cụ Ngô bị giết ở trong Nam, c̣n ngoài Bắc tôi bị kiểm soát rất khắt
khe, không có quyền quyết định diều ǵ cả. Đáng lẽ tôi bị giết ngay
từ hồi đó, nhưng tên tuổi tôi được thế giới biết đến, nên họ lợi
dụng để tôi sống thêm. Tôi đă già rồi, râu tóc đă bạc mà c̣n phải
sống trong cảnh tù giam lỏng, cứ nghĩ đến điều này làm tôi ứa nước
mắt. Họ không giết tôi nhưng bảo bác sỹTôn Thất Tùng cho tôi uống
thuốc độc để không thể đi đâu được nữa, và không tiếp xúc những
người mà tôi muốn tiếp xúc. Tôi chưa chết ngay, nhưng mà chết dần
chết ṃn ở cũng biệt lập một nơi để chờ ngày tắc thở. Thật cũng
tiếc, khi về già biết ḿnh sai lầm, muốn chuộc lỗi mà không được nữa.
Trước khi viết phần cuối của tờ di chúc này, tôi xin thú nhận tôi
không phải là thần thánh ǵ nên tôi c̣n sốngcũng dủ « bảy t́nh” như
nhà Phật đă đề cập. Tôi không có vợ nhưng có đứa con gái lai Pháp.
Tôi ước mong con tôi đọc tờ di chúc này sẽ tha thứ cho tôi đă không
đủ bổn phận làm cha,nhưng phụ tử t́nh thâm, tôi luôn luôn nhớ đến
con gái tôi với muôn vàn âu yếm. Ai cũng tưởng tôi là người vô thần,
nhưng riêng có cha Lê Hữu Từ biếttôi rất tin có đấng tạo hóa. V́ tin
có trời xin khẩn cầu cho nước ta và các nước cộng sản khác trên thế
giới thoát ách cộng sản . Cuối cùng tôi lẩy Kiều mượn tạm hai câu
thơ của Nguyễn Du để tỏ ḷng hối hận trước cao xanh :
« Rằng con biết tội đă nhiều
Dẫu rằng sấm sét búa ŕu cũng cam “
HàNội14.O8.1969
Tên kưHồ chí Minh
Đọc
bản di chúchai của Hồ, chúng tôi nghĩ rằng :
« Một bước sa chân muôn thuở hận
Muốn quay đầu lạị đă trăm năm”
Dù
Hồ có thực tâm hối cải, nhưng tội ác của Hồ đă quá nặng. Lịch sử
trên năm ngàn năm qua các triều đại, kể cả thời kỳ ngoại quốc đô hộ,
thống trị, chưa có triều đại nào cắt đất cho ngoại bang, chưa có
triều dại nào sát hại nhiền dân lành như đời Hồ như : giết hại trong
cải cách ruộng đất, trong tết mậu thân ở Huế và cuộc gây ra nội
chiến trong Nam và ngoài Bắc đă chết bao triệu sinh mạng……Th́ tội
của Hồ đất không thương , trời không tha. Chứ không phải chỉ vài
giọt nước mắt cá sấu, toàn dân Việt Nam lại bỏ qua tội ác cho Hồ,
chúng tôi nghĩ vậy .
3)Chúc
thư thứ ba của Hồ :
khi
cuốn sách này được hoàn tất, chuẩn bị đưa nhà in, chúng tôi điện
thoại cho người bạn- một bác sỹ đáng kính đă, về hưu. Ông cho tôi
biết : Ông mới t́m được di chúc thứ ba của Hồ. Tôi xin ông gửi cho
tôi bản di chúc ấy để độc giả có đầy đủ bản di chúc để phán đoán và
lựa chọn. Về phần chúng tôi , tôi nghĩ rằng : bản di chúc thứ nhất
đă bị Lê Duẩn cắt xén, không c̣n là nguyên bản trước khi công bố.
Bản di chúc thứ hai của Hồ, chỉ là những giọt nước mắt cá sấu để
chạy tội. Bản di chúc thứ ba xét nội dung chung thực hơn bản một và
hai. Đây là nguyên văn chúc thư thứ ba của Hồ :
Việt Nam dân chủ cộng ḥa
Độc lập , tự do, hạnh phúc
Năm nay tôi vừa 78 tuổi, vào lớp « trung thọ » . Tinh thần vẫn sáng
suốt tuy sức khoẻ có kém mấy năm trước dây. Đó là một điều b́nh
thường.
Nhưng không ai đoán biết được, tôi sẽ sống và phục vụ tổ quốc và
cách mạng mấy tháng, mấy năm nữa ?
V́
vậy tôi để lại mấy lời này, pḥng khi tôi sẽ đi găp Các Mác, cụ
Lénine và các vị anh hùng đàn anh khác, th́ đồng bào cả nước, đồng
chí trong đảng khỏi cảm thấy đột ngột :
Về việc riêng :
Suốt đời tôi hết ḷng hết sức phục vụ tổ quốc, phục vụ cách mạng,
phục vụ nhân dân. Nay đă phải từ biệt thế giới này, tôi không diều
ǵ phải hối hận, có tiếc là không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều
hơn nữa.
Sau khi tôi đă qua đời, chớ nên tổ chức phúng điếu linh đ́nh, để
khỏi lăng phí th́ giờ và tiền bạc của nhân dân.
Tôi ỳêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là « hỏa táng” . Tôi mong
rằng cách hỏa táng loại này sẽ được phổ biến. V́ như thế đối với
người sống đă tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng. Khi có
điện th́ điện táng càng tốt hơn.
Tro
th́ chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành, một hộp cho miền Bắc,
một hộp do miền Trung, một hộp cho miền Nam.
Đồng bào mỗi miền nên chọn một quả đồi mà chôn hộp tro đó. Trên mả
không có bia đá tượng đồng mà nên xây một ngôi nhà đơn giản, rộng
răi, chắc chắn , mát mẻ, để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ
ngơi.
Nên có kế hoạch trồng cây trên và xung quanh đồi. Ai đến thăm th́
trồng một vài cây làm kỷ niệm. Lâu ngày thành rừng sẽ tốt cho cảnh
và lợi cho nông nghiệp. Việc săn sóc nên giao cho các cụ phụ lăo.
Tháng 8 năm 1968, khi xem lại thư này, t́nh h́nh tôi thấy cần phải
viết thêm mấy điểm sau khi công việc chống Mỹ cứu nước của nhân dân
ta đă hoàn toàn thắng lợi. Công việc toàn đảng , toàn quân và toàn
dân ta phải ra sức làm ngay mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm
trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dă man.
Đúng là công việc cực kỳ to lớn :
Đầu tiên là công việc đối với con người :
Đối với các liệt sỹ, th́ mỗi địa phương (thành phố, làng xă ) nên
xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các
liệt sỹ, để đời giáo dục tinh thần yêu nước của nhân dân ta.
Đối
với cha mẹ, vợ con (của những thương binh và liệt sỹ) thiếu sức lao
động và túng thiếu, th́ chính quyền địa phương ( nếu ở nông thôn th́
chính quyền xă cùng hợp tác xă nông nghiệp) phải giúp đỡ cho họ công
việc làm ăn thích hợp , quyết không để cho họ đói rét.
Đối
với nạn nhân của xă hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, buôn lậu…V…V…th́
nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa pháp luật để cải tạo họ trở lên
những người lao động lương thiện.
Trong bao nhiên năm chống thực dân Pháp, tiếp đó rồi chống đế quốc
Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào nông dân đă luôn luôn hết sức
trung thành với đảng và chánh phủ ra sức góp của, góp người và chịu
đựng mọi khó khăn gian khổ. Nay ta đă hoàn toàn thắng lợi, tôi đề
nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xă nông nghiệp để
đồng bào ta hỉ hả, mát dạ, mát ḷng thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh
sản xuất.
Ở
đây nói về kế hoạch xây dựng lại thành phố và làng mạc đẹp đẽ, đàng
hoàng hơn trước chiến tranh. Khôi phục mở rộng các ngành kinh tế.
Phát triển công tác vệ sinh, y tế, sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp
với hoàn cảnh mới của nhân dân, như phát triển các trường nửa ngày
học tập, nửa ngày lao động. Củng cố quốc pḥng.Chuẩn bị mọi mặt để
thống nhất tổ quốc.
(
Thanh niên xung phong) và các chiến sỹ có tuổi trong các lực lượng
vũ trang nhân dân, đều đă rèn luyện trong chiến đấu và đều tỏ ra
dũng cảm. Đảng và chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất trong đám
thanh niên ấy, cho các cháu đi học các ngành, các nghề để đào tạo
thành những cán bộ và công nhân có kỷ luật giỏi, tư tưởng tốt, lập
trường cách mạng vững chắc. Đó là quân đội chủ lực để xây dựng thắng
lợi chủ nghĩa xă hội ở nước ta.
Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, phụ nữ dám đông ta đă góp phần
xứng đáng và sản xuất.
Đảng và chính phủ phải có kế hoạch thiết thực để bối dưỡng cân
nhắc và giúp đỡ phụ nữ phụ trách ( ngày càng thêm nhiều ) những
công việc lănh đạo phụ nữ cần phải cố gắng vươn lên. Đó mà một công
cuộc cách mạng đưa dến nam nữ b́nh quyền, b́nh đẳng thực sự. Đề nghị
miễn thuế một năm cho các hợp tác xă nông nhiệp để cho đồng bào ta
hỉ hả, mát dạ, mát ḷng, thêm phấn khởi đẩy mạnh sản xuất.
Phát triển công tác vệ sinh, ytế , , sửa đổi chế độ giáo dục cho
hợp vớihoàn cảnh trong nước. Ở đây nói về kế hoạch xây dựng lại
thành phố và làng mạc đẹp đẽ, đoàng hoàng hơn trước chiến tranh.
Khôi phục và mở măng các ngành kinh tế. Pháỉ hợp với hoàn cảnh mới
của nhân dân ta như phát triểncác trường nửa ngày học tập, nửa ngày
lao động. Củng có quốc pḥng, chuẩn bị mọi mặt để thống tổ quốc….
Công việc trên đây rất là lớn, nặng nề và phức tạp, mà cũng là tác
dụng rất vẻ vang. Đây là cuôc cách mạng chống lại những ǵ đă ,cũ kỹ,
hưhỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Cần phải động viên
toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân,
dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.
Cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta nhất định thắng lợi hoàn
toàn. Đó là một điều chắc chắn.
Tôi có ư định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc để
chúc mừng đồng bào, cán bộ, chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các phụ lăo,
các cháu thiếu niên và nhi đồng yêu quư của chúng ta.
Kế theo đó tôi sẽ thay mặt nhân dân ta thăm viếng và cảm ơn các nước
anh em trong phe xă hội chủ nghĩa và các nước bầu bạn đă tận t́nh
ủng hộ và giúp đỡ chúng ta trong công việc chống Mỹ cứu nước của
nhân dân ta.
Ông Đỗ Phủ làm thơ rất nổi tiếng ở
Trung
Quốc đời nhà Đường có câu rằng « Nhân sinh thất- thập cổ lai hy « Năm
nay , tôi đă 79 tuổi là người xưa rất hiếm, nhưng tinh thần đầu óc
vẵn sáng suốt, tuy sức khoẻ có kém so với vài năm trước đây. Điều đó
cũng b́nh thường thôị. Khi người ta đă già ngoài 70 xuân, tuổi tác
càng cao, sức khoẻ càng thấp.
Nay, ai c̣n đoán biết tôi c̣n phục vụ cách mạng, phục vụ tổ quốc ,
phục vụ nhân dân được bao lâu nữa ?
V́ vậy tôi để loại mấy lời này, pḥng khi tôi phải đi gặp các cụ Các
Mác, cụ Lênin và các vị các mạng khác, th́ đồng bào cả nước, đồng
chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi khỏi cảm thấy đột ngột.
XX)
Cá tính và hành động của Hồ :
Cuộc
đời cùng khốn và tuổi ấu thơ gây ḷng thù hận :
Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỳ 20, giới nho sỹ 2 tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ
An phát triển rất mau. So sánh giới sỹ phu của hai tỉnh này nhiều
hơn, đông hơn giới sỹ phu toàn miền Bắc Việt Nam. Đầu thế kỷ 2O giới
sỹ phu Nghệ tĩnh và xă hội miền Trung vẫn c̣n ảnh hưởng khá nặng Nho
Giáo. Nói đến giới sỹ phu phải nói đến cái nghèo cực, nhưng đa số
nhà nho vẫn t́m thấy cảnh nghèo một phong vị, như Nguyễn công Trứ
chẳng hạn :
« Người quân tử an chẳng cầu no
Đêm năm canh , an giấc ngáy kho
kho
Đời thái b́nh cửa thườngt bỏ ngỏ “
Hay Tú
Xương:
« Người ta hơn tớ, cái phong
lưu
Tớ cũng hơn ai một cái nghèo »
Cao
Chu Thần là hàn sĩ vẫn ôm mộng lớn:
“ Quyết ném thanh Khâm sang cẩm
tú
Muốn xoay bạch ốc lại lâu
đài “
Danh từ “cá gỗ “ có lẽ xuất phát từ miền sỏi đá .?Giới nho sinh
phải lều trơng lên đường ra HàNội dự thi. Vốn nhà nghèo, ǵới nho
sinh phải tự túc tất cả ! dâu có tiểu đồng theo hầu mà vênh vang
vơng lọng ngựa xe. Đường ta Bắc phải ngừng lại nhiều quán cơm
bên
đường .thày đồ vào quán ăn, cất tiếng gọi nhà hàng:
-Bớ, chủ quán cho ta một đọi cơm ( tô, chén ) và đọi
nước mắm!
- Chủ quán hỏi khách, thưa quư khách dùng món ǵ ?
- Người khách lắc đầu, và rút- bao tải khố quần ra
con cá bằng gỗ, rồi trịnh trọng chấm nước mắm ăn với cơm.
Nguyễn
Tất Thành cất tiếng chào đời, tới tuổi trưởng thành phải chịu cảnh
nghèo cùng cực. Thân phụ Nguyễn tất Thành nhà Nho Nguyễn Sinh Huy mô
côi mẹ và cha hờ từ năm 4 tuổi. Sinh Huy cùng đường phải về sống với
người chị dâu, với ông lại không cùng máu mủ ruột thịt với người
đàn bà vốn nhiều lời ưa ḍm ngó. Sinh Huy chăm học và lanh lẹ, được
ông Tú làng Hoàng Trừu nhận làm con nuôi và cho đị học. Khi sinh Huy
bước vào tuổi trưởng thành ông tú gả cho người con , đứa con đầu
ḷng của ông là Hoàng thị Loan. Ông tú, lập cho vợ chồng Huy một
ngôi nhà và mấy sào ruộng để vợ, tự túc nuôi chồng ăn học. Ta tửơng
tượng một đôi vợ chồng trẻ -“Người chồng vào loại ăn no lại nằm”
và 3 người con thơ. Năm miệng ăn chỉ có vài sào ruộng. Khi chuyển
vào Huế để hai người con trai ông học tiếng Pháp (Thành đă 15 tuổi
), gia đ́nh 5 miệng ăn chỉ sống bằng một học bổng của trường Quốc
Tử Giám !!!...Cảnh nghèo cùng cực của Thành không bút nào có thể
nói hết!.....bằng chứng chỉ v́ nghèo cực kéo dài, bà Loan mẹ Thành,
Xin em trai thành phải chết yểu …Đối phó với cảnh nghèo cùng…miếng
cơm, manh áo đă vô cùng cực khổ, thêm vào đó Thành là ḍng con hoang
nên bịngười Nghệ, xa lánh lạnh nhạt, nḥm ngó của làng xóm. Khi ông
Sinh Huy, được bổ làm tri huyện B́nh Khê, . Ai cũng tưởng rằng: cái
nghèo , cài khổ, cái nhục v́ nghèo không c̣n đeo đưổi gia đ́nh ông
nữa! Nhưng định mệnh ác nghiệt theo ông như h́nh với bóng. Trong một
cữ rượu, ông tri huyện B́nh Khê, nổi cơn cuồng nộ, ông đă khai thác
chết một tù nhân. Như ly nước đă đă đầy, chỉ nhỏ thêm vài giọt nước
sẽ tràn ly chẩy ra ngoài. Hành động sát nhân, khiến ông bị cách
chức tri huyện B́nh Khê. Phải trở về cố hương làm ông khiếp đảm ,
không giám đương đầu, trưc diện với nó. Trở về cố hương những cặp
mắt soi mói, xa lánh của giới sỹ phu nh́n gia đ́nh Hồ, cái nghèo deo
gia đ́nh ông như bóng với h́nh…..Sức người chịu không nổi…hai cha
con Nguyễn Sinh Huy, không hẹn , không bàn mà gặp nhau ở điểm cả hai
bố con cùng lặng lẽ cuí đầu ra đi biền biệt như người lẩn trốn cái
dĩ văng nặng nề oan nghiệt….
Cuộc sống bi thảm tột cùng khắc sâu vào tâm tư người trẻ Nguyễn tất
Thành, khi có hoàn cảnh và quyền uy: chủ tịch đảng CSVN, chủ tịch
nhà nước CSVN….Hồ đă trút hết ḷng thú hận, xuống giới sỹ phu Nghệ
An Hà Tĩnh bằng cuộc cải cách ruông đất cực kỳ bi thảm và man dại…..
Hồ
tính tinh ngang ngược, thiếu giáo dục:
Hồ là con cụ Nguyễn Sinh Huy,từ khi ra đời đến khi trưởng thành Hồ
đă được người
cha
giáo dục theo nền nếp nho gia.Nhưng người ta vẫn nói “Cha sinh
con trời sinh tính “ khi trưởng thành Hồ trở thành chủ tịch
đảng CSVN, chủ tịch quyền uy nước VNDCCH. Dân tộc đă có gần năm ngàn
năm văn hiến. Dân tộc ấy vốn trọng lễ nghĩa. Hồ có nhiều hành động
chứng tỏ hắn là người thiếu giáo dục. Khi làm chủ tịch nước Việt
Nam, Hồ tự xưng là cha già dân tộc. Thời 1945 Hồ mới 55 tuổi, cả
nuớc Việt Nam không thiếu ǵ người 70 tuổi , tám,chín mươi tuổi.
Hành động ấy của Hồ hẳn hắn là người thiếu giáo dục. Khi cầm quyền
Hồ t́m đến đền Kiếp Bạc, nơi toàn dân thờ phụng đức Trần Hưng Đạo,
người đă 3 lần thắng quân Mông Cổ, bảo vệ lănh thổ cho giống Việt
Nam anh hùng. Đức thánh Trần sinh ở thế kỷ 13, kẻ hậu bối Hồ, sinh
vào cuối thế kỷ 19, hai người cách nhau 7 thế kỷ , không thể nào
xưng hồ , bác và tôi như Hồ xưng với đức thánh Trần:
“ Bác giết quân Nguyên thanh kiếm bạc
Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng”
Tôi và bác, chỉ những người ngang lưá nhau theo ngôn ngữ Bắc Kỳ.
Ngôn ngữ ấy không bao giờ có ở một kẻ hậu bối xưng với người tiền
bối, cách nhau cả 7 thế kỷ!!!
“Bác là cha của
chúng con
Hồn của muôn hồn »
Làng quê Việt Nam,
người dân trong làng đối xử vớinhautheotruyền thống, trọng trật
tự « kính lăo đắc
thọ », bảy muơi phải học người bảy mươi mốt kia mà. T́nh và
nghĩa đă được người Việt Nam ǵn giữ bao thế kỷ, trở thành truyền thống
của dân tộc Việt Nam . khi cuộc cách mạng «long trời lở đất » ,
ngôn ngữ cách mạng của Hồ đưa ra buộc người dân phải theo…..Những
người bị coi là điạ chủ hay cường hào ác bá , cũng như kẻ sỹ….Những
người ấy dù già hay trẻ, đều bị ngôn ngữ « cách mạng » kêu bằng thằng
và dối sử tàn tệ hơn như đối với con vật !!!
Hồ bản chất lưu
manh, chiếm đoạt bút hiệu, thi phẩm của người khác, làm hành trang
cách mạng cho ḿnh :
Với hơn nửa thế
kỷ cai trị, Hồ đă xử dụng những quái chiêu vô cùng man dại và tàn bạo.
Người dân Việt Nam đă nhận được bộ mặt đích thực của Hồ là mặt của
con cáo – cáo Hồ. Cái vốn văn hóa của Hồ ch́ là anh học lực cuối năm
lớp nhất. Tất cả hành trang cách Mạng của Hồ chỉ do Hồ chiếm đoạt của
người khác :
Cướp đoạt bút hiệu
Nguyễn Ái Quốc. ?
Năm 1917, Hồ đến
Paris nôp đơn xin học trường thuộc điạ để ra làm quan cho Pháp
Đơn xin bị từ chối,
Hồ t́m đến cụ Phan chu Trinh, người đồng khoá thi với thân phụ của Hồ.
Cụ Phan đă mở rộng cửa đón tiếp Hồ. Đất khách quê người Hồ đă có chỗ
ở, nơi làm việc và đă được nhập nhóm ngũ Long và đảng CSPháp. Nhóm
Ngũ Long kư chung bút hiệu Nguyễn Ố Pháp, nhóm làm việc theo tinh thần
tập thể theo khả năng của từng người . Hồ làm ǵ cho nhóm ngũ Long,
viết bài bằng tiếng Pháp, anh học lực lớp nhất không thể viết. Chỉ
có việc giao bài của nhóm ngũ Long cho báo Pháp , thích hợp với khả
năng Hồ.
Năm 1923, Hồ
được đảng CS Nga, đón nhận từ Đức vế Mạc tư khoa làm gián điệp cho đệ
tam quốc tế. Thời gian nay các cây bút của nhóm ngũ long chuẩn bị về
nước để hoạt đông, Hồ chiếm đoạt bút hiệu Nguyễn Ái Quốc là của
riêng ḿnh. Cái áo Nguyễn Ái Quốc đă tạo cho Hồ khả năng thu phục.
Những nhà cách mạng trẻ tuổi có tổ chức thâm tâm xă, trụ sở ở Quảng
Châu, theo đường lối cách mạng của cụ Phan Bộ Châu đă khuất phuc trước
uy danh của cây bút Nguyễn ái Quốc, họ đă theo Hồ nhập đảng CSVN !!!
Hồ dùng bút hiệu
Nguyễn Ái Quốc cho đến hơi thở cuối cùng !!!
Chiếm đoạt thi phẩm
Ngục Trung Thư .
Hồi Hồ bị tù ở bên
Trung Hoa, hắn có gặp một ngườibạntrong tù, vốn là dân hảo
hán nghĩa hiệp. Hắn
bị chết Hồ chiếm luôn thi phẩm Ngục trung Thư .Khi đảng CSVN đă cướp
được chính quyền Hồ trở thành chủ tịch nước VNDCCH, chúng đă bằng
gaí mua chuộc được giám đốc cơ quan văn hóa Liên Hiệp Quốc. Đảng
CSVN vận động cho Hồ ghi tên thi giải nhân vật lớn của quốc tế.
Nhưng trời bất dung gian : Khối người Việt trên toàn thế giới đă vạch
mặt tên đại gian , đại ác Hồ. Ông Lê Hữu Mục, một giáo sư đại học,
uyên thâm chữ nôm đă minh chứng với thế giới rằng : Ngục Trung Thư
không thể là thi phẩm của nhà thơ con cóc Hồ !!!
Hồ là người thiếu học
nên thiếu nhận thức và phán đoán, suy luận :
Con người khi ra
chào đời, đă được trời phú cho lư trí bẩm sinh,tức khả năng : nhận
thức,phán đoán
suy luận…..ta gọi là trí thức bẩm sinh. Nhờ lư trí được cấu tạo nên
con người lư luận sắc bén, nhận định sâu sắc, phán đoán mạch lạc. Óc
viễn kiến nh́n xa thấy rộng nên con người yếu ớt nhất trong muôn
loài, nhờ lư trí bẩm sinh và lư trí cấu tạo, trở thành thống trị
muôn loài. Pascal đă nhận định : « Con người chỉ là cây sậy,
nhưng là cây sậy có tư tưởng »
Hồ khi tới Paris,
đón nhận nhiều luồng tư tưởng bằng vốn văn hóa cuối nhất lớp tiểu học
nên nhận thức, phán đoán của Hồ nông cạn, lư luận kém sắc bén. Óc
viễn kiến không có. Một vấn đề được đặt ra cho các nhà lănh đạo , thời
chống Pháp. Phần lớn các cụ đều hoạt động ở hải ngoại như : cụ Phan
Bộ Châu, Phan chu Trinh, Phan văn Trường, Nguyễn an Ninh, Nguyễn thế
Truyền, Hồ hữu Tường …V..V các cụ đều tiếp xúc với nước Nga và hiểu
chủ nghĩa Duy Vật của CS.Lư do nào khiến các cụ không rơi vào cạm bẫy
đệ tam quốc tế như Hồ ? Phải chăng các cụ được nhà trường cung ứng
cho Lư trí được cấu tạo vô cùng uyên thâm và sắc bén khi lựa chọn !!!
Ngược lại Hồ vốn văn hóa chỉ cuối năm tiểu học nên nhận thức , phán
đoán của Hồ quá nông cạn !!
Khi lựa chọn đảng
cộng sản Pháp cũng như khi nhập đệ tam quốc tể, chính Hồ thú nhận điều
đó. Năm 1919 Lénin đưa chủ trương bịp đệ tam quốc tế CS chủ
trương hỗ trợ các dân tộc nhược tiểu hay bị trị nhằm giải phóng các
dân tộc khỏi chế dộ thuộc địa….Hồ đă một lần nói thực :
Rơ Đơ
làm thư kư cho đại hội hỏi ông Hồ
« Đồng chí,
bây giờ đồng chí hiểu tại sao ở Paris chúng tôi đă bàn căi nhiều đến
thế chứ ?
Không chưa hiểu thật
đâu !
Thế làm sao đồng
chí lại bỏ phiếu cho đệ tam quốc tế ???
Rất đơn giản. Tôi
không hiểu chị nói thế nào ?là chiến lược , chiến thuật vô sản vànhiều
điểm khác. Nhưng tôi rơ một điều, đệ tam quốc tế rất chú ư đến vấn
đề giải phóng thuộc địa. Đệ tam quốc tế nói giúp đỡ các dân tộc bị
áp bức dành lại tự do và độc lập của họ. C̣n đệ nhị quốc tế không hề
nhắc đến vận mạng thuôc địa. V́ cậy tôi bỏ phiếu tán thành đệ tam quốc
tế »
Hồ đă trở thành người
mù, loà trước hội nghị Quốc tế CS và học thuyết Marx đă trở thành những
cây gậy, dẫn đựng cho người mù dẫn Hồ vào đệ tam Quốc tế cộng sản
cho đến ngày nay.
O hô, vận nước
đă trở thành cơn điên đảo, khiến những « người mù » trở thành những
người lănh đạo !!!
5) Hồ, người
CS không có gia đ́nh, không có tổ quốc !!!
Hồ là người không
có trái tim họ không có gia đ́nh, không có tôn giáo, không có tổ quốc.
Hồ quả là người Cộng Sản điển h́nh. Con người của Hồ, tâm tư hành động
của Hồ đă thể hiện bằng những việc làm cụ thể của Hồ. Không có t́nh
gia đ́nh, ta thấy thân phụ Hồ , sau khi đánh chết người mang án sát
nhân. Sinh Huy và Hồ cúi đầu lặng lẽ ra đi như người lẩn trốn ? Hồ
noi theo con đường của cha không có t́nh gia đ́nh như Hồ đối với người
anh ruột (ông cả Đạt) và người chị ruột (bà Thanh ) cũng như đối với
cô Xuân người đă sinh cho Hồ một đứa con trai : Nguyễn Tất Trung…..không
hề có một liên hệ t́nh cảm. Hồ quả là người khổng lồ không trái tim.
6- Hồ là
người không có tôn giáo ?
Khi trở thành chủ tịch
nước VNDCCH và lănh đạo kháng chiến chống Pháp, Hồ đă thục hiện quốc
sách tiêu thổ kháng chiến nên những đ́nh chùa bị phá hoại đầu tiên
nhằm tiêu diệt phật giáo tại gốc rễ. Chính sách tiệu diệt tôn giáo
c̣n được duy tŕ đến ngày nay !!! Học thuyết Marx đă dạy Hồ một điều,
nó đă được Cộng Sản Việt Nam biến thành kim chỉ Nam cho hành động :
« Mọi phương tiện đều tốt, cốt sao đạt được mục đích »
7- Hồ là người
không có tổ quốc !!!
Đất
nước với Hồ và lũ con cháu CSVN của Hồ : với họ chỉ là phương tiện tốt,
cốt sao chúng dạt được mục đích.Cướp được chính quyền, chính chúng
ta nh́n thấy như ngày nay !! Lịch sử dân tộc Việt Nam qua bao các
triều đại có triều đại đă 3 lần bán nước như triều đại của Hồ đă kư
với Pháp và Trung cộng. Việt Nam nằm trong khối liên hiệp Pháp để mở
đường quân đội viễn chinh Pháp chiếm Việt Nam. Năm 1958, Phạm văn Đồng
đă kư dâng 2 đảo Hoàng và Trường Sa của Việt Nam cho Trung. Những
năm gần đây Lê Khả Phiêu đả kư dâng đất đai và sông biển của Việt
Nam cho Trung Quốc.Con đường gần của dân tộc Việt Nam, với CSVN đất
nước yêu quư của chúng ta sẽ lần lượt vào tay của Trung Quốc !
VI) Tại sao dân
tộc Việt Nam không lập đền thờ Hồ như thờ các vị anh hùng của dân tộc.
« Cây
có cộị » « nước có nguồn », « người có gốc » .
Người Việt Nam từ ngày lập quốc đến nay đă gần năm ngàn năm lịch sử.
Dân tộc ấy cư sử và hành động có t́nh và có nghĩa nên được Tàu gọi
là văn hiến chi bang. Dân tộc Việt Nam trọng t́nh, trọng nghĩa nên
các vị anh hùng đă xả thân, đă đổ máu, hy sinh cho sự nghiệp dựng nước
và giữ nước đều được kính trọng , tưởng nhớ muôn đời lập miếu thờ của
toàn dân Việt Nam , như quốc tổ Hùng Vương bà Trưng bà Triệu, Ngô
quyền , Lê lợi, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ vân vân….Cây phải có gốc
nên người ăn trái phải nhớ ơn kẻ trồng cây. Nước phải có nguồn nên
người uống nước phải nhớ nguồn. Người phải có gốc nên nhân dân Việt
Nam đời đời nhớ ơn kẻ giữ nước và mở rộng bờ cơi Việt Nam.Người Việt
đă lập dền thờ các vị anh hùng của dân tộc, riêng Hồ không được nhân
dân lập miếu tôn thờ v́ có dân tộc nào thờ chồn cáo bao giờ.
Con người của
Hồ, chẳng những thiếu văn hoá. Hành dộng của Hồ là người thiếu giáo
dục và dộc hại hơn loài ác thú. Một dân tộc có chiều dài lịch sử và
văn hiến như dân tộc Việt Nam không thể có người lănh tụ ḷng lang dạ
thú như Hồ. Chúng ta phải vô hiệu hoá, nguồn gốc của bạo quyền CSVN
để xây dựng dất nước và nối tiếp truyền thống bất khuất của ṇi giống
Việt.
7) Hồ là
tên sát nhân của thế giới:
Trên mạng của Mỹ,
có tài liệu của người Mỹ đă tố cáo Hồ: Hồ tung ra quốc sách bịp
“đánh Mỹ cứu nước “ Hồ bằng xương máu của thanh niên Việt Nam để mở
đường cho tuị bành trướng Liên Xô và Trung Cộng , Hồ đă sát haị 6
triệu dân Việt! Cũng trên mạng của Mỹ, họ đă ghi tên những tên sát
nhân của thế giới: đứng đầu là Hitller, Staline, Mao Trach Đông, sau
tới Hồ!!!
Phạm - Hữu
Tiền văn Minh, hậu
sư cụ
Thuở ấu thời
tôi theo bác tôi - cụ cử Nhu học chữ nho. Khi bác tôi mất tôi theo
các anh chị tôi đi học quốc ngữ. Nhung hè nào tôi cũng được về sống
với mẹ tôi mấy tháng. Năm tôi bốn tuổi đến nay tôi c̣n nhớ : Làng mẹ
tôi có một ông cốnông, không có một tấc đất cắm dùi , không có một mảnh
đất để dựng mái nhà tranh. Ông khoảng ngoài bốn mươi tuổi, người ông
cao nhưng gầy, ông rất khoẻ mạnh, nuớc da hồng hào, bộ râu mép được
ông vuốt ve o bế, râu hai mép dược ộng vặn xoáy lên. Đầu ông húi chọc
đằng sau, mái tóc phiá trước để dài trải ra đằng sau, ông gọi là mái
tóc hớt kiểu tiền văn minh hậu sư cụ. Vợ chồng ông lấy nhau đă lâu
năm mà không có mụn con. Điều đặc biệt ông có sức khoẻ, lại quá
nghèo sống ở sau lũy tre xanh…Mà ông lại không biết cày bừa hay gặt
hái hoạc làm công việc đồng áng….Những nhà giàu trong làng cần người
vụ cày hay vụ mùa không ai thuê mượn ông đi làm. !
Ông Thắp
nghèo lắm, nhưng trẻ con bám lấy ông, ông yêu trẻ con lắm, ông làm hộ
chúng cái diều , khoét hộ chúng cây sáo….Ông Thắp cực nghèo – ,
nhưng xét ra đời sống của ông khá ung dung….Mỗi khi ông bắt được con
ếch , con nhái hay con cóc, con ốc nhồi hay băy được con chim, hoặc
con gà chết toi người ta vất đi là ông nhặt về vặt lông rồi xào với
xả ớt, mùi thơm lừng….Thế là ông phải đổ vào miệng chai rượu đế. Rượu
say ông không đi ngủ mà có một cố tật, h́nh như rượu làm tâm hồn ông
nổi sóng , nói năng như đ́ên cuồng….Ông ở trần mặc chiếc quần đùi,
tay ông cầm một cây nhọn như một thứ vũ khí. Ông đi kắp làng, quát
tháo inh ỏi. Cả làng như gặp tai nạn v́ ông có thịt và có rượu, ông
vừa đi vừa đá vào hàng cây rứa, rồi ông múa vơ , cây trong tay ông
phạt vào đầu những ngọn rứa, rồi ông xuống tấn, vỗ vào đùi bành bạch.
Ong đi hết ṿng làng, ông đi lại lần thứ hai, tay chân vẵn khuỳnh
khuỳnh khoàng kḥang, miệng lời vẫn tuôn ra như nước suối chẩy. Lũ
nhóc t́ chúng theo sau ông chúng vỗ tay rầm trời khi ông múa vơ, lúc
ông làm hề….Cho tới khuya hết hợi rượu, ông đổ xưống gốc cây đa hay
ngay đường, rồi ông ngáy rống như ḅ mộng…..Theo chân ông một thời
gian thực lâu, lũ trẻ chúng tôi nhận thấy rằng : những đem tối trời,
ong thắp nhậu từ khoảng 2 giờ chiều đến 5 giờ chiều là ông sách gậy
ra đi. Những đêm sáng trăng ông nhậu, lè nhè nói một ḿnh, tới 7 giờ
tối ông mới ra đi « phát hỏa ». Tối nào ông cũng hát đi hát lại ít
nhất là hai ba lần bài ca tục. Có lẽ nó là bài hát sở trường của ông:
Mở đầu bài
thơ, ông ngửng cao đầu, cây ở tay chỉ lên trời, tiếng ông lớn vang dội
khắp vùng như tiếng « sư tử hống » của Hồng Thất Công, rồi tiếp bằng
câu ca mở đầu bài:
« Gió hiu hiu mời
móc củ th́u
Tḥ tay lên mũi ngửithấy
mùi thiu
Ô hay ! cóc chết
đâu đây nhỉ?
Chỉ tại lâu nay chẳng
rửa th́u…… »
Những đem vắng
tiếng ông Thắp đập phá, la hét, chúng tôi lũ trẻ như thiếu như vắng
một cái ǵ. Lũ nhóc chúng tôi nói với nhau buồn quá mày ơi ! Sao chú
Thắp đêm nay lại ngủ sớm vậy ?
Ông Thắp
không có mảnh đất cắm dú, ông nghèo lắm lắm….Khi tôi ra đời ông đă
chiếm một khoảng đất lớn ở chân núí. Xung quanh vườn ông trồng lũy
tre để làm hàng rào. Trong vườn ông trồng đủ mọi thứ cây ăn trái như:
mít tố nữ, ḅng, cam quưt và măng cầu dai…..Mùa nào ông có trái cây
đó để ăn, để bán….trong vườn ông cất một ngôi nhà thực nhỏ bé – hai
gian, một gian để ông bà ngủ, một gian làm bếp. Trước cửa nhà ông để
một khoảng đất rộng để trồng các thứ rau thơm như : xả, giềng, tiá
tô, kinh giới, rau ng̣ gai, rứa và rau muống rau đay, mồng tơi….những
cây ớt tháng hè màu chín đỏ tươi, tô điểm cho ngôi vườn thêm hương,
thêm sắc. Vườn nhà ông tiếp giáp với lũy tre của hàng xóm, ông đào một
cái mương khá xâu, lúc nào cũng có tiếng kêu róc rách. Từ cổng vào đến
nhà ông con đường nhỏ, hơi dốc khá xa , ông lát bằng đá cho đỡ lầy
lội những ngày mưa. Vườn nhà ông có cái không khí của một gia đ́nh
nghệ sĩ,nó đầy chất thơ và nhạc….Chú Thắp rủ tôi đến vườn chú để bắn
chim bằng súng cao su. Năm ấy tôi 6 tuổi, bước vào ngơ tre nhà chú,
tôi đă ngửi thấy mùi thơm ngát của hoa mộng lan, tiếng ếch kêu ồm ộp
và tiếng ve sầu rả rích. Cây cỏ và hoa lá vườn chú Thắp xanh tươi
mơn mởn như cô gái chớm tuổi dậy th́, .hương thơm của da thịt, với
cặp má đỏ hây hây, cặp mắt như xa vắng, dầy tính chất đón mời với những
chàng trai trẻ chưa bước vào trường t́nh, nhưng ḷng đầy mộng và đầy
mơ.
Chú Thắp đưa
tôi vào vườn hàng hàng , lớp lớp, đủ thứ cây ăn trái và đủ thứ hoa
thơm và phô sắc thắm. Bắn chim ở vườn chú Thắp có nhiều lợi điểm :
vườn chú gần nuí có lợi điểm :nhiều chim c̣, có hoa lá che, để ẩn
núp, chim hót ở trên cây không nh́n thấy người. Chú Thắp chỉ những
con mồi, lần đầu tiên trong đời tôi đă hạ được hai con mồi :- một
con chào mào và một con c̣ trắng phau. Nhà tôi không ai chịu làm thịt
chim, tôi biếu chú cả hai con mồi. Chú xoa đầu tôi, tay xoắn râu ,
miệng cười hể hả :
Thế là ngày mai chủ
nhật , tôi không phải đi làm, tôi sẽ nướng than một con, một con ướp
xả để xào.
Ngày mai tôi có đồ uống rượu ung dung và phải đổ vào miệng trai
rượu. Lại có mồi ngon, đổ vào mồm , lại được ca hát và múa vơ……a
ha …ha…sướng quá chú ơi…. Cám ơn chú….
Từ ngày làng mẹ tôi
trở thành làng tề, chú Thắp ngoài năm mươi tuổi, có nghề mới- nghề
đi phu quét dọn cho những đồn bốt Pháp.Mỗi làng tề , mỗi ngày phải cử
mấy người phu đến quét dọn , khuân vác trong các đồn của Pháp. Những
người đă lớn đến phiên ḿnh họ không dám đi, những người không chịu
đi hầu Tây nên họ đều mướn chú Thắp đi thế, từ đó chú Thắp có nghề -
nghề đi làm phu . Người gíup việc cho nhà tôi đi phu về kể với tôi rằng :
-Đi làm phu
cho Tây có chú Thắp vui lắm cậu ơi, Thứ nhất là chú đă già gần 6O
mươi, hàm râu cằm , chú để đă dài, suốt ngày chú nói chuyện với Tây,
vỗ vai Tây , nói cười ha hả….
Lũ Tây xem ra cũng
khoái chú lắm….
Chú Thắp có đi học
bao giờ đâu mà nói tiếng Tây ?
Chú nói toàn tiếng
Việt, chú ra dấu, Tây nó hiểu hết…cười khà khà….
Chẳng hạn chú nói
ra sao ?anh c̣n nhớ không ?
Nhớ chứ ! như hôm
qua, tây chỉ chú coi 1O người, trộn cát với vôi để xây cất.
Tôi ở trong
toán trộn cát.
Sáng thằng đội ra hỏi toán chú có mấy người, chú ra dấu và nói rằng :
Chú chỉ tay vào đống
cát, dơ bàn tay năm ngón , miệng nói rằng : cinq cu ly cát cát .Rồi
chú chỉ vào vôi, dơ
bốn ngón tay, miệng nói : cát cu ly vôi vôi.
Cuối chú chỉ tay vào ngực ḿnh, do một ngón tay chú nói, c̣n một
ḿnh tôi là dít,chú dơ trước mặt hai bàn tay mười ngón. Thằng
đội Tây hiểu hết, nó bắt tay chú và nó nói tôi cố nhớ về hỏi cậu nó
nói ǵ. ?
Nó nói sao hả anh ?
Nó nói : on
travail ?
Có lẽ nó nói bon
travail anh ạ !
Nghĩa là ra sao hả
cậu ?
Là làm việc tốt, !
Đúng rồi !
Vui chuyện anh kể
tiếp, mấy ngày trước có dàn bèo Tây trôi vào đồn Tây. Tên đội ư sợ
du
kích núp vào bèo
tây đánh đồn. Tên đội bắt chúng tôi vớt hết bèo Tây lên. Chúng tôi bắt
được hai con ếch lớn, chúng khoái quá, chúng để hai con ếch trên bàn
tay, cười nói hô hố. Nghịch chán chúng hỏi, chú Thắp có lấy hai con
này không ?
Chú gật đầu, và chú
nói với lũ Tây rằng : - Chú chỉ tay về bụi tre làng ḿnh, miệng chú
nói : -Bố cu te, bố
cu tơm, bố cu ồm ồm ộp, thế mà tụ Tây cũng hiểu hết là chú muốn nói :
làng tao ở những bờ tre, có nhiều con ếch nó nhẫy xuống ao kêu đánh
tơm một cái và miệng nó kêu ồm ôp.
Chú Thắp đi
phu cho nhà mẹ tôi, tối về chú trở về nhà cất đồ và hái mấy thứ rau
thơm
đến nhà tôi để ăn
cơm tối. Chú ưa món con rưốc kho lỏng , ăn với dưa chua và rau thơm.
Tôi ngồi bên cạnh chú, lân la hỏi chuyện :
- Chú Thắp,
ngày xưa chú không bao giờ đi làm, th́ tiền đâu hai ba ngày chú lại
uống một chai rược đế… ?
- Tôi có hai vợ
chồng, tôi không đi làm nhưng vợ tôi nó đi làm mỗi bưổi sáng ! cậu
có biết vợ tôi nó làm nghề ǵ không ?
- Không chú ạ !
- Nó làm cái nghề
cả làng này không ai làm là nghề hót cứt chó…Sáng nó dậy sớm, vai
quẩy đôi sọt, tay cầm
cái gắp bằng tre khá lớn, nó đi xung quanh làng gắp phận, gọi là gắp
phân chó cho nó nhẹ, người làng thương gọi vậy cho nó nhẹ, thực ra
nó gắp phân người cậu ạ…. đến gần 12 giờ là nó đầy hai xọt phân, nó
gáng đến những chỗ ủ phân của những nhà giàu như nhà cậudổi lấy ba bốn
đấu gạo, vợ chồng tôi ăn được ba bốn ngày, vợ tôi mua cho tôi một
chai rượu đế.
Những bữa không uống rượu, tôi ăn nhiều thứ trái cây, chỉ ăn hơn
một chén cơm thôi… !
Cháu nghe họ nói :
-chú đi phu, chú nói tiếng Việt, Tây nó hiểu hết hả chú ?
Chú cười tơn tẽn và
nói với tôi :
Tôi nói tiếng Việt,
nhưng chúng nó hiểu hết, tôi cả ngày nói vơi chúng đủ chuyện.Cậu ạ,
tụi Tây nó xuống
làng ḿnh càn
nó hung hăng , tàn ác…nhưng đến đồn nó làm phunó đối với phu tốt
lắm cậu ạ !
Chẳng hạn ra sao hả
chú ?
Chẳng hạn như hôm
nay chẳn hạn, tôi vừa về cất ở nhà.
Chung cho tôi cả cây thuốc dài tên noa
Gau llois chứ ạ !
V́ thế, từ ngày đi
làm phu, có thuốc « chùa » bỏ nó phí, chú thây tôi nghiện thưốc là từ
lâu rồi.
Không có thuốc lá tôi thấy mồm miệng nhạt thếch. Nó cho
tôi 4 hộp :hộp thịt ḅ, thịt lợn… bơ, phô ma…thế là vợ chồng tôi lại
có đồ Tây ăn cả tháng dư giả cậu ạ. Thế mà , chính tôi cách đây đi
phá đ́nh chùa, đi phá nhà chú, nay thấy ḿnh ngu quá cậu ạ.
Tây nó đóng ở đồn bốt của nó,nó có thèm đóng ở làng ḿnh đâu mà phá… !
Tôi đă nhiều lần bắn
chim, ngưỉ hoa hoàng lan , nghe tiếng ve sầu keu ve ve và nghe tiếng
sáo diều của chú Thắp vi vu. Tôi thấy vợ chú hiền lành chất phác,
tôi hỏi chú :
Tây nó đến làng càn
chú có dám nói chuyện với chúng không ?
Tôi sợ ǵ mà tôi
không nói, nhưng chưa bao giờ chúng bước vào vườn tôi cả.
Chú chỉ vào
cái cổng nhỏ sau
nhà chú, đi thẳng lên ngọn nuí.
Mỗi lần chúng càn ở làng ta, tôi không đi làm phu, là trôi chèo
lên ngọn núi nói chuyện với chúng, v́ chúng bao giờ cũng giữ thế thượng
phong : - Một tiểu đội gáckhẩu súng máyở trên nuí , bắn ́ ùng…thế là
tôi leo lên nuí gặp chúng. Chúng nói cười vui ra phết cậu ạ !
Thế chú không sợ du
kích : - tôi dơ tay làm dấu cắt cổ….
Tôi sợ đếch ǵ tụi
nó…thằng Trai đội trưởng là cháu gọi tôi bằng bắc ruột mà… hơn nữa
cả làng đều biết
tôi có biết một chữ nào tiếng Tây đâu mà nói về những chuyện khó hiểu…Hả
cậu.
Tôi hỏi những
người lân cận với ông Thắp, họ nói với tôi rằng :
-Ông Thắp
giỏi lắm cậu ơi, ông trồng cây trồng hoa đă giỏi.Ngày nhỏ đến
khi giàchú chẳng làm nghề nghiệp ǵ, chỉ chăm sóc một cái vườn rộng
, tuyệt đẹp. Không biết ông dậy vợ ra sao mà người vợ đi làm
nuôi chồng , mua rượu về cho chồng uống …say nhè suốt ngày mà vợ sơ
chồng một phép. Những tháng hè, các cậuthường đi theo ông ấy múa vơ
và ca hát. Dă rượu ông lăn quay ra gốc đa ngủ một giấc,khoảng
ba giờ ông đi về nhà, vạ gàn nhà ông hét thực lớn :
- Bà ơi ! bà đă
ngủ rối à, bà không chờ cái thằng chồng naỳ hay sao ?hay bà chê tôi
hả bà ?
- Không đâu ông
ơi, tôi nằm nhưng vẫn mở mắt chờ ông đây, ông vào ngay ngủ với tôi… !
- Ông Thắp cười sằng
sặc…nói thực lớn – à tốt…
Bà Thắp khi ngủ quá
say không nghe tiếng ông kêu th́ ông quát lớn :- bà chỉ ngủ cho
sướng mắt, không thèm nghĩ đến thằng chồng già này là tội lớn, chiều
mai tôi phạt bà phải làm năm thước cỏ vê.
Chiều hôm sau ông
Thắp ra vườn, ông bước ngang dọc,mỗi chiều năm bước, phạt vợ phải
làm 5 thước cỏ vê.
Khi trưởng
thành , tôi đă học Đại Học Huế, tôi đă dạy giở ở trường Đồng Khánh,
tôi đă được tận mắt chiêm ngưỡng cái vườn được chồng cấy, nằm trong
biệt thự An Hiền th́ phải- nó ở phiá sau chùa Thiên Mụ. Cũng như sau
này thời cụ Diệm, tôi được nh́n cái vườn trúc của tiến sĩ Trịnh đ́nh
Thảo. Tôi ngắm kỹ, không nói ra miệng nhưng nghĩ rằng : Hai vườn rộng
hơn vườn ông Thắp một chút, nhưng nó không toả ra chất nghệ sĩ như
cái vườn của ông Tháp.
Quê hương của
mẹ tôi c̣n đó với những lũy tre trơ trụi, với những cánh đồng khô cằn
nứt, với những thân xác gày ốm, nét mặt phờ phạc như mất hồn. Nhà
tôi đă bị đập phá từ thời kháng chiến. Bố mẹ tôi đă đi vào cơi miên
viễn. Ba bà chị của tôi và thằng em út tôi vô cùng thương yêu họ, họ
đă đi về thế ǵới miên viễn với cha mẹ tôi Bao giờ ? ngày nào ?,
tôi mới được trở về quê mẹđược nh́n phần mộ của ông nội tôi, đă được
em trai út tôi cải táng ở Huế về chôn cất tại nghĩa trang nhà tôi ở
HàNội. Ông Thắp chắc đă chết, vườn đẹp của ông chỉ c̣n lại những gốc
cây, tôi muốn nh́n lại khuôn vườn một lần chót cũng như nh́n lại những
ngày thơ ấu của tôi . Đó là niềm mong ước của kiếp người chỉ giản dị
có vậy.
Phạm- Hữu
Nhớ thày
và thương bạn
Dầu hè, năm 1954,
tôi và thằng bạn Ngô Xuân Chương xuống HảiPḥng để chuẩn bị đường đi
Nam. Chẳng biết làm công việc ǵ, tôi rủ thằng Chương ghi tên học lớp
riêng Pháp văn để nhị của thày Chu văn B́nh. Thằng Chương, mấy năm
nay hắn trổ mă nổi tiếng thằng đẹp trai - hắn cao trên một thước tám,
mái tóc dài bồng bềnh như một đại nghệ sĩ, môi đỏ như son, răng trắng
như ngà, cười tươị như hoa. Thằng Chương là loại người phổi ḅ, ruột
để ngoài da….Nó có đức tính thực tốt, nó quư bạn và trung thành với
bạn. Bạn bè nhờ hắn chưa bao giờ tôi thấy hắn từ chối ai, nhát là những
vụ đánh lộn, hắn tự ư như xin việc với bạn bè :
Yên chí lớn ! mày để
nó mặc tao, tao « ghè » cho nó một trận là nó sợ đến già… !
Những chiều đi đáng
volley hay đi tập tạ hoặc đi ăn thịt ḅ đu đủ ở gần quán mụ béo. Có
thằng trong chúng tôi nói đùa, nó goi :
-Chương ơi !
- Có ta đây !
- Đẹp trai như
mày đến chúng tao nh́n cũng thấy sướng co mắt…chứ đừng nói con gái,
đưá nào lấy được mày, cả đời nó sướng cái âm hộ nhà nó !
- Chứ sao, tao
mà « phập » th́ các nàng chân tay co cắp, miệng rên ư ử…quên mẹ nó cả
liêm sỉ và danh dự chúng mày ạ.
Chương, nói tục th́
giỏi, c̣n học th́ hắn vô cùng dốt, môn nào hắn cũng dốt. Hắn có học
bài bao giờ đâu sao mà không dốt ? Đi học về đến nhà cơm nước xong lấy
xe mobyllette của bố, đi chơi với bạn bè, hay đi chơi thể thao. Tối
về là hắn mệt, lăn vào ngủ, hắn ngáy rống như con ḅ. Một buổi sáng
tinh mơ, tôi c̣n nằm nướng, Chương đế gơ cửa tôi cồng cộc, tôi mở cửa
hắn ôm tôi và hổn hển nói rằng :
Tao vừa có việc sợ
muốn chết mày ơi ! đêm qua tao không thể nhắm mắt được, mày ạ !
Sao việc ǵ đó mày ?
Tối qua trong bữa
cơm, bố tao nói với tao rằng :- con sắp học đệ nhị rồi, em gái con
nó
mới học đệ ngũ, con
phải dạy nó tuần vài giờ,
để sang năm nó thi trung học phải dỗ, nếu nó lại rớt như con th́
bố mẹ khổ lắm…
Tao cũng nhanh trí
, trả lời bố rằng : - Con là anh nó, con dạy nó rất khó, con lại
nóng tính đánh em th́ tội nghiệp nó, bố để con nhờ thằng Hữu mỗi chiều
thứ bảy và sáng chủ nhật nó dạy em con mấy giờ lư hoá :
Mày có chịu không
mày ?
-Tao chịu quá đi chứ,
con em mày nó đẹp nhất trường…vào loại đẹp nhát nh́ HàNội
đấy…tao vẫn thầm
yêu , trộm nhớ em mày !
-Ừ…Mày tán nó đi…Mày
có thuận lợi : lũ bạn tao,bố mẹ và em tao yêu quư nhất là mày.Mày lại
có tao làm « nội công », như đưa banh cho mày sút…là ăn chắc rồi….a
ha ha…
- Mày nói dễ dàng vậy,
tao cũng như mày : nói miệng th́ bạo chứ tao nhát giái mày ơi. Trước
mặt các nàng tao khó cậy răng nói được một lời mày ạ… !
- Lửa gần
rơn lâu ngày cũng bén….lại có tao luôn luôn bỏ nhỏ vào nữa…th́ ăn chắc
rồi mày ạ ! Thôi , mày dạy đánh răng mặcquần áo, tao đèo xe mày đến
phở Tứ ta làm mỗi thằng một tô phở tái và ly cà phe đá. Tao mới
« điạ » được bào mẹ tao 200 …
₪
₪
₪
Cuối hè năm
1954, Ngô xuân Chương và tôi xuống HảiPḥng. Chúng tôi ghi tênhọc lớp
Pháp văn cour riêng của giáo sư Chu văn B́nh. Tḥi gian này thày
B́nh là đương kim hội đồnh thành phố Hải Pḥng và là hiệu trưởng trường
Phùng Hưng. Trường này chỉ dạy đến lớp đệ tứ, cour riêng của thày ở
nhà thày trong biệt thự nhỏ ở phố Trại Cau, trong thẳng sang chợ Cột
Đèn lầy lội. Chương và tôi , ngồi bàn cuối lớp. Bữa dó thày B́nh dậy
bài Le Lac, thày hỏi học tṛ :
Các con có hiểu
không ?
Chương là thằng lớn
tiếng nhất :
Thưa thày dậy hăy lắm,
chúng con hiểu hết… !
Thày tiếp tục
analyse gramatical, analyse Logique hỏi :
-Các con
có hiển không ?
Vẫn
thằng to họng Chương nói thực lớn:
Thưa
thày hiểu ạ!
Cuối
giờ, học sinh ra về, Chương bấm tôi cùng ra sau chót, Chương đi lên
bảng hỏi thày:
- Thưa
thày Le Lac là cái ǵ ạ !
Thày B́nh trố mắt ,
mặt tái xanh nh́n Chương, ong tát một cái thực mạnh vào mắt Chương
và nói :
-Cái ǵ mày
cũng hô lớn là hiểu, thế mà mày lại hỏi thày Le Lac là cái ǵ…là ra
làm sao. Học với hành mà như thế à….
Những nhà giáo nói
rằng : thày giáo thường nhớ lâu hai người trong lớp : một người học
sinh giỏi nhất lớp, một người học dốt nhát lớp. Một thời gian sau
thày B́nh và thằng Chương ggắn bó vơi nhau. Một chiều thày B́nh nói
với tôi rằng :
- Con ạ, thằng
Chương no lười và học dốtnhưng nó là thằng can đảm , tốt bụng có nhiều
nhiệt huyết, nó sẽ là ngtười công dân tốt của xă hội .
Sát ngày CS tiếp
thu thành HàNội, gia đ́nh Ngô Khắc Chương đi mắy bay di cư vào Nam,
tôi đi chơi với Chương cả tuần lễ. Gia đ́nh gặp khó khăn, v́ không
lúc nào hội đủ con cái. Ba nguười chi, nghe ai nói chồng chết ở đâu
là khăn gói đi t́m xác chồng. Mẹ tôi nhất định không chịu bỏ con ra
đi. Ngày tôi tiễn gia đ́nh Chương lên máy bay, chúng tôi không thể
ngăn được ḍng nước mắtTôi cầm tay Chương nói lời chót :
Chương ơi ! mày vào
Sàig̣n không nên tiếp tục học nữa, v́ mày có học th́ không tài nào
qua được « cửa aỉ »
tú tài1.
Bác làm công chức lớn, nhung ông đă già rồ, mày nên gánh vác đỡ
ông về gia đinh. Tao nghĩ kỹ , vào Sàig̣n mày t́nh nguyện vào
học khoá sỹ quan Thử Đức nghe mày !
Tao sẽ làm như lời
mày dặn ! Thôi từ biệt mày !
Từ biệ !
Cuối năm 1957, tôi
vượt tuyến vào Sàig̣n, ba ngày sau Chương là thiếu uư vào trại thăm
tôi. Hơn tháng sau tôiđi dự buổi deo lon trung uư củaChương. Chúng
tôi đă nhậu một bữa không c̣n biết trời đất là ǵ.
Tôi ở đường
Chi Lăng , giáp chợ Cầu Cống với anh chị tôi. Tôi gặp thày Chu văn
B́nh nhà ông ở gần ngơ Chu Mạnh Trinh. Tôi va thày ngồi trong nhà
thày, ông hỏ tôi thực nhiều về cải cách ruộng dất. Tôi kể thảm cảnh
, ông chú ư nghe và nước mắt sụt sùi.
Con xin lỗi đă kể
chuyện thương tâm khiến thày khóc !
Không tại con kể
chuyện, thày khóc v́ thày nhớ mẹ
Thưa cụ nhà cũng là
điạ chủ ạ ?
Quê thày ỏ SơnTây,
mẹ thày cũng bị Việt Cộng bắn trong cải cách ruộng đất !
Thày B́nh vào trong
nhà rửa mặt cho tỉnh táo, khi ra ông nói với tôi :
Hồ nó là thằng ngậm
máu phun người.
Nó tuyên bố rằng : « giai cấp địa chủ nợ máu giai cắp nông dân.
Máu phải trả bằng máu » . Câu đó có nghĩa là không phải một
người địa chủ hay nhiều người địa chủ giết nông dân. Con c̣n
nhỏ không nói làm ǵ, nhưng những người giàcó ai thấy có người địa
chủ nào giết nông dân không ? và toà án đă kết tôi kẻ giết nông dân
ra sao ?Không có, thế mà hắn bơm phồng lên là giai cấp địa chủ giết
giai cấp nông dân. Câu ấy quả là hắn ngậm máu phun người.
Hồ hắn đă giết bao trăm ngàn địa chủ th́ c̣n có trời đất ǵ nữa
không ??? Tôi quê ở Sơn Tây, mẹ tôi là người nhà quê cậu ạ.
Bà cần kiệm đến mức : Sáng sớm bà ra thăm ruộng, trên đường đi có
băi phân trâu, bà liền chiếm băi phân trâu bằng hai động tác : bà bằng
hai tay, xúc băi phân trâu về nha ủ phân hoặc bà cắm vào bài phân
trâuhay cay mạ, để chứng tỏ băi phân trân đă có sỡ hữu chú, lúc về
nhà bào sẽ hót băi phân trâu….Tôi nghĩ rằng bà giàu có là gia sản do
ông bà tôi để lại, bàlại dè sẻn ăm mắm mút gịi, chứ mẹ tôi đâu có
giàu mà v́ bóc lột mà chúng bắn mẹ tôi.
Máy năm sau
thày B́nh làm hiệu trưởng trường Thăng Long ở đường Bùi Viện, ngôi
trường lớn nhất ở Sàig̣n(thời đó chưa có trường Hưng Đạo).
Ngô chí Thậm , người bạn ruột cùng vượt tuyến với tôi, thôi thúc
tôi xin thày B́nh cho hắn dạy Pháp Văn hai lớpthát và Lục.
Hôm tôi tới thăm thày, thày kéo tôi về pḥng thày nói chuyện :
- Cậu ạ ! Cái
cậu ban cậu, dạy Pháp Văn đệ thất và đệ lục trường tôi, không rơ hắn
học đến lớp nào, bằng cấp ǵ ? mà hắn quá dốt cậu ạ, hắn dạy Pháp
Văn mà sai be bét.
Cửa sổ văn pḥng hiệu trưởng nh́n ra là pḥng lớp đệ lục, chính mắt
tôi nh́n thấy chứ không phải tôi nghe lời đồn. Thày B́nh nh́n
lên bảng xếp giờ cho giáo sư ông nói với tôi :
- Chút nữa tôi
và chú ra nh́n tận mắt xe hắn dậy ra sao ?
Qua khung cửa sổ
chúng tôi nh́n giáo sư Thận đang giảng Pháp.
Hắn đọc thực điệu, có lẽ Tây hơn cả Tây, hắn đọc rằng : Ouvre ver
be Ouvier….hắn viết những chữ đó cho học sinh chép cha mẹ học sinh
biết được, họ sẽ chửi cha tôi …th́ làm sao mà căi….Thôi đành cậu ạ !
Chút nữa cậu nói với bạn cậu ra văn pḥng lănh lương và bữa sau khỏi
phải tới trường.
I) Nhóm ngũ Long
và bút hiệu Nguyễn ái Quốc:
A)
Nhóm Ngũ Long:
Cụ
Phan chu Trinh tới Pháp năm 1911. Năm 1912 cụ ở chung vời cụ Phan
văn Trường. Nhóm Ngũ Long được thành lập những năm đầu thập niên
1910 ở số 6 đường Gobelin quận 13 Paris.Nhóm Ngũ Long đa số gồm các
nhà khoa bảng Á Âu. Cụ Phan Chu Trinh đỗ phó bảng, cụ Phan văn
Trường luật sư, cụ Nguyễn Thế Truyền người nổi tiếng thông minh đang
chuẩn bị cho luận án tiến sĩ ở Sorbonne, cụ Nguyễn An Ninh đỗ cử
nhân Luật. Năm 1917, Nguyễn tất Thành đến Paris để nộp đơn xin học
trường thuộc địa của Pháp, để ra làm quan cho thực dân Pháp. ? Đơn
xin học của ông bị Pháp từ chối. Nguyễn Tất Thành t́m đến cụ Phan
chu Trinh người bạn cùng khóa thi với thân phụ ông và từ đấy Hồ ở số
6 Gobelin, Ông nhập nhóm Ngũ Long, vào đảng Cộng Sản Pháp, và tập
tễnh vào nghề viết báo Pháp. Nhóm Ngũ Long kư chung bút hiệu Nguyễn
Ái Quốc, khi làm việc tuy không phân công, nhưng họ làm việc theo
khả năng từng người trong nhóm. Khi viết bài để đăng báo, người đưa
tư tưởng, lập trường, đường lối đấu tranh thường do cụ Phan chu
Trinh, một người đă có nhiều kinh nghiệm tranh đấu, khi chuyển sang
tiếng Pháp th́ do các cây Pháp văn như: cụ Trường, Cụ Truyền hay cụ
Ninh. Xét về tuổi tác và tŕnh độ văn hoá Hồ thuộc lớp người nhỏ
tuổi và tŕnh độ văn hoá (lớp đệ thất) quá thấp kém nên chỉ có khả
năng và thích hợp với công việc đưa bài đến các toà soạn báo Pháp.
Hồ, buớc đầu đời nơi xứ lạ quê người, quả gặp nhiều may mắn, nghề
nghiệp không có, chữ Pháp vốn đệ thất chỉ bập bẹ. Được ở chung với
hai cụ Phan,Hồ đă t́m được nơi chốn yên thân, có công việc làm ( cụ
Phan dạy nghề rửa ảnh cho Hồ), có người đồng hương dẫn dắt, giới
thiệu để Hồ tập tễnh vào giới báo chí Pháp.Nhóm Ngũ Long lúc đầu kư
chung bút hiệu Nguyễn Ố Pháp, được độc giả ái mộ,viết thư hỏi Nguyễn
Ố Pháp mang ư nghĩa ǵ? Các cụ ngay t́nh trả lời Nguyễn Ố Pháp là
anh họ Nguyễn ghét Pháp.Độc giả phản đối rằng : Các anh đang chiến
đấu cho Việt Nam trên đất Pháp, các anh được người Pháp hỗ trợ sao
các anh lại ghét người Pháp? V́ nước Pháp, nguời Pháp, đâu có thể
đồng hoá với thực dân Pháp được. Nghe độc giả phản đối hợp lư, các
bài sau các cụ đổi bút hiệu Nguyễn Ố Pháp ra bút hiệu Nguyễn Ái
Quốc. Năm 1923, Hồ lọt vào « mắt xanh » của CS Nga, chúng đón Hồ về
Mạc Tư Khoa hoạt động cho Đệ Tam Quốc Tế. Cũng năm 1923 các cụ về
nước hay chuẩn bị về nước hoạt động. Hồ hoạt động cho đệ tam Quốc tế
hắn « chiếm đọat » bút hiệu nổi danh trên quốc tế là bút hiệu của
riêng Hồ. Khoác cái áo Nguyễn Ái Quốc, Hồ đă chinh phục được nhiều
người. Nguyễn Ái Quốc với Hồ, nó như cái thang đă giúp Hồ leo lên
dài danh vọng !
1)
Phan Chu Trinh :
Phan
chu Trinh sinh ngày 9 tháng 9 năm 1872, nguyên quán Làng Tây Lộc,
huyện Tuy Phước tỉnh Quảng Nam, hiệu là Tây Hồ,bút hiệu là Tư Mă;
Thân phụ cụ là Phan văn B́nh làm quản cơ sơn pḥng. Cụ theo cha vào
núi và gia nhập Hội Cần Vương chống Pháp. Cụ mồ côi mẹ năm 14 tuổi,
16 tuổi cụ mồ côi cha. Phong trào Cần Vương tan ră cụ Tây Hồ trở về
làng theo nghiệp sách đèn.Cụ đậu cử nhân năm 1900, đậu phó bảng năm
1901. Năm 1903 cụ được bổ làm thừa biện bộ Lễ. Hai năm làm quan cụ
dành cả thời gian đọc tân thư của Khang Hữu Vi, Đàm tự Đồng, Lương
Khải Siêu. Cụ kết thân với cụ Phan Bộ Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Trần
Quư Cáp. Năm 1905 cụ từ quan, cụ ra thăm miền Bắc, cụ tiếp xúc ông
Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế và cụ sang quan sát t́nh h́nh nước Nhật. Về
nước cụ tranh đấu công khai và bất bạo động. Năm 1906, cụ gửi quan
toàn quyền Đông Dương và khâm sứ Huế lá thư cụ kể tôị vua quan. Năm
1907, cụ ra Bắc diễn thuyết tại trường Viễn Đông Bác Cổ cụ hô hào
cải cách và theo tân học. Năm 1908 miền Trung biểu t́nh chống sưu
thuế, cụ bị bắt và bị kết án tử h́nh sau đổi ra lưu đày vĩnh viễn ở
Côn Đảo, từ năm 1909 đến nam 1911, nhờ ông Barbus và hội Nhân quyền
Pháp can thiệp, cụ được trả tự do. Tháng 4 năm
1911
cụ cùng con trai là Phan văn Dật sang Pháp. Đến Paris cụ viết cuốn
« Trung Kỳ dân biểu thi mạt kư “cụ tả nỗi khổ của dân chúng v́
sưu cao thuế nặng mà nổi lên đ̣i giảm thuế. Cụ viết cuốn “Đông Dương
chính trị luận “ cụ tŕnh bày tệ hại của chính trị hà khắc, cụ kết
tội thực dân. Năm 1912 cụ cùng cụ Phan văn Trường lập hội: “Đồng
Bào Thân Ái”Pháp nghi ngờ hai cụ hoạt động chính trị nên bắt giam
hai cụ tại ngục Santé. Nhờ hội Nhân Quyền can thiệp hai cụ được trả
tự do. Ra tù cụ Tây Hồ bị cúp tiền trợ cấp ( 450fr) một tháng, cụ
phải học nghề rửa ảnh để sinh nhai. Năm 1919, hội nghị hoà b́nh họp
ở Versailles, cụ gửi cho hội bản yêu sách. Bản này được cụ Phan văn
Trường dịch sang tiếng Pháp. Năm 1920 cụ đến bộ thuộc địa gặp ông bộ
trưởng, xin ân nhà vua lá thư cụ kể tôi nhà vua 7 điều. Cụ trở về
nước năm 1925. Ở Sàig̣n cụ diễn thuyết 2 lần. Cụ từ trần tại Sàig̣n
ngày 24 tháng 3 năm 1926.
2)
Phan văn Trường :
Phan văn Trường, sinh năm 1872, nguyên quán làng Đông Ngạc,
phủ Hoài Đức,tỉnh Hà Đông, cụ thuôc ḍng dơi sử gia Phan Phụng Tiên
Phan Tuấn Phong anh trai cụ và Phan Trọng Kiên em cụ, đều hoạt động
chống Pháp, cả hai bị lưu đầy ở đảo Guyanne; Cụ học trường thầy
ḍng Hà Nội, cụ nổi tiếng là người giỏi tiếng Pháp. Cụ làm thư kư
thông ngôn phủ Bắc Kỳ. Năm 1908 cụ đậu kỳ thi tham tá thông ngôn phủ
thống sứ Bắc Kỳ và cụ được biệt phái sang Pháp làm ôn tập viên
trường Đông phương ngữ tại Paris. Năm 1912 cụ ở chung nhà với cụ Tây
Hồ hai cụ lập Hội Đồng Bào Thân Ái. Pháp nghi ngờ hai cụ hoạt động
chính trị nên hai cụ bị bắt giam ở ngục Santé. Sau nhờ hội Nhân
Quyền Pháp can thiệp hai cụ được trả tự do. Cuối năm 1912 cụ thôi
làm việc cho trường Đông Phương Ngữ , cụ ghi tên luật sư tập sự tại
ṭa thượng thẩm Paris. Tháng 4 năm 1919 cụ măn lính, cụ về Paris làm
luận án tiến sĩ với đề tài “ Khảo luận về luật Gia Long” Cụ kết
duyên với thiếu nữ Pháp, sanh được một người con trai là Robert Phan
văn Trường năm 1921. năm 1930 cụ về nước mở văn pḥng Luật sư tại
Sài g̣n. Cụ về thăm quê miền Bắc, cụ tạ thế tháng 4 năm 1933.
3 -
Nguyễn Thế Truyền
Cụ
Nguyễn Thế Truyền , sinh ngày 17 tháng 12 năm 1898, làng Hành Thiện,
phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Thân phụ Nguễn Thế Truyền là Nguyễn
Duy Nhạc., hai lần đỗ tú tài nên goị là cụ tú kép. Ông nội Nguyễn
Thế Truyền là Nguyễn Duy Hàn. Nguyễn thế Truyền là con nhà giàu,
gia thế, ngay từ bé cụ nổi tiếng thông minh. Nhờ học gỉỏi Nguyễn thế
Truyền được học bổng..Năm 1910 ông Charles Maries Gaston là phó sứ
Bắc kỳ về Pháp nghỉ phép, ông dẫn theo cậu bé Nguyễn thế Truyền,
đến Paris ông gửi cậu Truyền học một trường tư ỏ Joinville le
Pont.Nguyễn thế Truyền học xuất xắc, cậu luôn luôn đứng đầu lớp nên
được hội Alliance Francaise xin chính phủ Đông Dương cấp học bổng
cho cậu. Năm 1915 Nguyễn Thế Truyền đậu bằng Brevet Supérieur, tương
đương với bằng tú tài toàn phần. Sau khi thi đậu cậu đáp tàu thủy về
thăm quê hương Năm 1916 Nguyễn thế Truyền đi Pháp du học, cậu dẫn
theo các cậu Nguyễn thế Tắc và Nguyễn thế Phu. Đợt sau các cậu
Nguyễn Đương Năng, Nguyễn Thế Rục, Nguyễn thế Thạch và Nguyễn thế
Vinh cũng đi Pháp du học.Năm 1920, NgNguyễn Thế Truyền đậu cử nhân
khoa học và kỹ sư cậvề thăm nhà và cưới vợ. Vợ cậu người cùng làn
gcùng tuổi với cậu tên Phạm
Thị Luyến. V́ nh́n lầm mặt vợ nên đêm động pḥng hoa
chúc
chú dể không vào pḥng cô dâu mà chú ngủ ở hàng
hiên.
Nguyễn Thế Truyền nhờ cha mẹ xin lỗi cụ cả Thông và
viết
cho cô dâu mấy chữ để cô đi lấy chồng Ông Nguyễn Thế
Truyền lại tiếp tục đi Paris du học, ông vẫn được
học bổng.
Ông Nguyễn Thế Truyền ghi tên học tiến sỹ khoa học
tại
Sorbonne, đồng thời ông đậu cử nhân Triết trong thời kỳ
này.
Ông Nguyễn Thế Truyền kết duyên với cô Madeleine Marie
Clatour, có bằng y tá nhưng cô không hành nghề. Ông
Truyền
sinh được 4 người con, ba người sinh ở Pháp, một người
sinh ở
Nam Định:- Nguyễn Trung Trắc( Chistiane), Nguyễn Trưng
Nhị( Niquette), Nguyễn Quốc Tuấn ( Claude) và Nguyễn
thế
Hào (Jean) sinh ở Việt Nam năm 1931.Ông Nguyễn Thế
Truyền
học Sorbonne, ông thường lui tới thăm hai cụ Phan. Ảnh
hưởng
tư tưởng cụ Tây Hồ, ông nhập nhóm Ngũ Long và trở thành
bạn
thân của hai cụ Phan. Về nước ông từ chối mọi mua chuộc
của
chính quyền Đông Dương dành cho ông. Năm 1941 ông bị an
trí
Madagascar, năm 1946 ông được trả tự do trở về nước ông
tiếp
tực hoạt dộng chính trị. Năm 1954 ông di cư vào Nam , ông
sống
cuộc đời rất nghèo, nhưng tinh khiết của một người trí
thức đối
lập. Vợ ông mất năm 1940 khi ông đang ngồi tù, con ông
không rơ
ở đâu . Ông từ giă cơi đời năm 1969 tại Sàig̣n.
4)
Nguyễn An Ninh :
Nguyễn
An Ninh, sinh ngày 15 tháng 9 năm 1900 tại làng Long Thượng. Nguyễn
An Ninh thừa hưởng truyền thống cách mạng. Thân phụ ông cụ Nguyễn an
Khương là thủ lănh phong trào Duy tân ở Nam Kỳ, đồng thời là nhà
văn nổi tiếng làm trợ bút báo Nông Cổ Mím Đàm, cụ chuyên dịch các
truyện Tàu như Tam Quốc, Thủy Hử , Phấn Trang Lâu .......ra tiếng
Việt để lấy tiền đóng góp cho thanh niên Đông Du. Sau khi thi đậu tú
tài, năm 1921, ông xin đi Pháp du học. Vốn giỏi Pháp văn ,chỉ một
năm ông đậu cử nhân Luật, ông nhập nhóm Ngũ Long. Cuối năm 1922 ông
về nước, tranh đấu bằng ng̣i bút, ông ra báo La Cloche Fêlée chống
thực dân Pháp, và đ̣i quyền sống cho đồng bào. Năm 1924, ông Nguyễn
An Ninh đi Pháp để hoạt động chung với ông Nguyễn thế Truyền trong
hội liên hiệp Việt Kiều. Năm 1925 ông đưa cụ Phan về nước và tiềp
tục làm báo. Năm 1925, ông nhường quyền điều khiển tờ báo cho cụ
Phan văn Trường. Năm 1927, ông sang Pháp hoạt động với ông Nguyễn
Thế Truyền trong đảng Việt Nam Độc Lập; Thời kỳ Mặt Trận B́nh Dân
cầm quyền tại Pháp vào các năm 1936, 1937, 1938 ông được bầu làm Hội
viên thành phố Sàig̣n.
Ông
Nguyễn An Ninh là người thông minh, quả cảm, suốt đời chiến đấu cho
độc lập quốc gia. Thế chiến thứ hai bùng nổ ông bị bắt đi đầy ở Côn
Đảo, Ông mắt tại đây năm 1943
5)
Nguyễn tất Thành :
Nguyễn
Tất Thành, có nhiều năm sinh khác nhau, theo Trần dân Tiên bút hiệu
mạo danh của Hồ, Nguyễn Tất Thành sinh năm 1890, nguyên quán làng
Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (miền Trung). Tuy là con ông
phó bảng Nguyễn Sinh Huy làm tri huyện B́nh Khê.Nhưng cơn say rượu
cụ đă khai thác chết một tù nhân tên Quang nên cụ bị cách chức tri
huyện. Cụ đă lặng lẽ từ bỏ quê hương và 3 người con dại, vào Sàg̣n
làm nghề bắt mạch và cho đơn thuốc Bắc để sinh sống. Bản chất gia
đ́nh Nguyễn Tất Thành rất nghèo, khi bà nội ông có bầu với gia sư Hồ
Sỹ Toàn, ông Toàn đă có vợ. Để tránh tai tiếng, dị nghị , phạt vạ
của dân làng.....gia đ́nh họ Hoàng thương lượng gả bà Nội ông cho
người nông dân Nguyễn Sinh Nhậm, nhà nghèo có vài ba sào ruộng , ông
Nhậm góa vợ, có một dứa con trai.. Thế là thân mẫu Nguyễn Sinh Huy
ôm bụng về nhà chồng. Lấy chồng trong hoàn cảnh miễn cưỡng, lứa đôi
lại không xứng nên duyên chẳng lành thân mẫu Nguyễn Sinh Huy sống
trong cảnh hờn tủi. Năm Sinh Huy được 4 tuổi th́ mồ côi mẹ, ít lâu
sau mồ côi cha hờ. Mồ côi cả cha lẫn mẹ, Sinh Huy phải sống với
người chị dâu vốn đanh đá và nhiều lời, lại không cùng máu mủ với
ông. Sau Sinh Huy lọt vào « mắt xanh”một gia đ́nh giàu có – ông Tú
làng Hoàng Trừu thấy đứa trẻ lanh lợi, hiếu học nhận làm con nuôi và
cho đi học. Thế là Sinh Huy chuyển từ kiếp con hoang sang thân phận
con nuôi. Nguyễn Tất Thành ra đời trong cảnh nghèo nàn cùng cực của
một gia đ́nh, có hai vợ chồng và 3 đứa con thơ mà chỉ có vài sào
ruộng! cũng như sau này, đôi vợ chồng và 3 đứa con thơ kể cả tiền
thuê nhà mà chỉ sống bằng học bổng của một người! Năm 1905 Thành 15
tuổi, cùng với cả gia đ́nh vào Huế. Thân phụ ông có học bổng trường
Quốc Tử giám và anh em ông được vào học lớp vỡ ḷng:
« Anh vào học lớp vỡ ḷng,chữ quốc ngữ chua biết,
chữPháp: un, deux cũng chưa «
( Bác Hồ thời niên thiếu- Nguyễn đắc Xuân
)
Năm
1909 , thân phụ Thành làm tri huyện B́nh Khê, theo cụ Đặng Ngọc Thụ
Thành về nơi cha đang làm tri huyện, và Thành ghi tên dự th́ lớp
giáo viên tiểu học nông thôn do nhà nước mở , không trúng tuyển
Thành bỏ học t́m đường vào miền trung (Phan Thiết) rồi vào Sàig̣n
xin làm phụ bếp dưới tàu thủy t́m đường đi Pháp.Tháng 6 năm 1911,
Thành xin được một chân phụ bếp tàu Touche Tréville chạy qua và
ngừng lại ở nhiều hải cảng Âu châu, Á Châu, Mỹ Châu. Năm 1917,
Thành từ Anh qua Pháp nộp đơn xin học trường thuộc địa để ra làm
quan cho thực dân Pháp. Đơn xin học trường thuộc địa của Thành bị bộ
thuộc địa từ chối. Thành t́m đến cụ Phan Chu Trinh ở số 6 đường
Gobelin quận 13 Paris,v́ cha Thành đậu phó bảng cùng khóa với cụ
Trinh.Thành được cụ Trinh dạy cho nghề rửa ảnh để kiếm sinh nhai.
Thời gian này Thành nhập đảng Cộng Sản Pháp, nhập nhóm Ngũ Long và
hoạt đông cho hội Việt Kiều thuộc địa và viết báo Le Paria.Năm
1920, ở hội nghị Tour của đảng xă hôi Pháp (đảng CS Pháp nằm trong
đảng XH ) Thành dơ tay tán thành chủ trương chi bộ đảng CS Pháp tách
rời khỏi đảng xă hội Pháp và gia nhập dệ tam quốc tế của Nga. Hành
động ấy của Thành lọt vào “mắt Xanh” của CS Nga. Thành được CS Nga
đón về Mạc Tư Khoa để họat động cho Quóc Tế CS năm 1923. Năm sau
1924 Thành được QTCS biệt phái phục vụ cho Komintern, làm thông dịch
viên Hoa ngữ cho borodine và từ đấy Thành chiếm đoạt bút hiệu Nguyễn
Ái Quốc bút hiệu có tầm vóc quốc tế của nhóm Ngũ Long là bút hiệu
của riêng ḿnh Năm 1938, Thành được QTCS cử về biên giới Việt Trung
ở hang Pắc Bó để lấy tin tức của quân đội Nhật cung ứng cho quân đội
đồng Minh. Thời gian này Thành bắt liên lạc với viên thiếu tá người
Mỹ, trong một tổ chức , tiền thân của tổ chức C.I.A. viên thiếu tá
này đă cung ứng cho bộ đội của Hồ ở chiến khu một ít vũ khí và dậy
cho du kích Việt Cộng nghệ thuật đánh du kích.Năm 1945 Thành trở về
Hà Nội ra mắt quốc dân ở vườn hoa Ba Đ́nh với cá tên hoàn toàn xa
lạ với quốc dân Việt Nam là Hồ Chí Minh.Hồ Chí Minh là cái tên
Nguyễn Tất Thành trở về với ḍng dơi máu mủ của ḿnh, ông nội ông là
Hồ Sĩ Toàn
̀I)
Bút hiệu Nguyễn Ái Quốc
Nhóm
Ngũ Long có 5 người, Họ làm việc theo tinh thần tập thể và kư chung
một bút hiệu Nguyễn Ái Quốc, tuy không phân công rơ ràng nhưng mọi
người trong nhóm làm việc theo khả năng của ḿnh; Con chim đầu đàn
Phan Chu Trinh khi viết bài thường đưa ra đường lối, lập trường ,
quan diểm của cụ - một người có nhiều kinh nghiệm tranh đấu nên được
anh em trong nhóm tín nhiệm ,lắng nghe. Bài dịch sang tiếng Pháp
thường do các cây Pháp văn như:: Phan văn Trường, Nguyễn Thế Truyền,
hay Nguyễn an Ninh......năm 1917 Nguyễn Tất Thành nhập nhóm Ngũ
Long- Người coi như nhỏ tuổi, tŕnh độ học lực quá kém nên thích hợp
với việc mang bài từ nhà đến các báo Pháp. Khi các cụ trong nhóm Ngũ
Long về hay chuẩn bị về nước tranh đấu. Kẻ dưa thư Nguyễn Tất Thành
tự nhận bút hiệu Nguyễn Ái Quốc là của riêng ḿnh. Năm 1923 Nga đón
Nguyễn Tất Thành về Mạc Tư Khoa hoạt động cho Đệ Tam Quốc Tế Hồ đă
nhận bút hiệu nổi danh và đă gây sự chú ư của dư luận thế giới là
Nguyễn Ái Quốc là của tiêng ḿnh:
“Trao
lời hỏi để giới thiệu th́ thanh niên tự xưng ḿnh là Nguyễn Ái
QuốcLàm cho khán giả chăm chú nghe, và thám tử đêm ấy vô cùng sung
sướng, V́ đă viết được bản phúc tŕnh cho bộ trưởng. Bộ trưởng thông
tin th́ nghĩ rằng: Nguyễn Ái Quốc chỉ là bút hiệu của Phan
chu
Trinh mà thôi. Nhưng trước sự thật bằng xương bằng thịt dầu là ông
bộ trưởng làm sao mà căi bây giờ. Bèn ra lệnh đến bộ thuộc địa gặp
ông bộ trưởng; nhưng trát lại mang đến nhà cụ Phan chu Trinh, cụ Tây
Hồ gọi Nguyễn Tất Thành đến giao tớ trát. Tất Thành cầm đến ông bộ
trưởng Pháp và câu đầu tiên nói xỏ rằng: Nguyễn Ái Quốc là tên tôi.
May mà trát gửi đến
nhà
chú tôi là Phan Chu Trinh nên được chú tôi đưa lại, không th́ lạc
mất rồi. Từ nay về sau, hễ muốn gặp tôi, th́ gọi ngay tôi nơi địa
chỉ ............dừng làm phiền đến chú tôi. Bộ trưởng đành câm miệng
hến. Ngày ấy cụ Phan chu Trinh xỏ tế nhị được ông bộ trưởng, xuống
chợ mouffetart mua ḷng lợn về mời đủ 5 con rồng xơi một bữa khải
hoàn”
( Hồ Hữu Tường 41 năm làm báo )
Cũng
trong 41 năm làm báo, Hồ hữu Từơng đă viết; nó như cái chià khóa đă
giúp ta phân định rơ ràng, tách bạch về vai tṛ người trẻ Nguyễn Tất
Thành trong nhóm Ngũ Long, Ông viết rằng: “Khi thi thạc sỹ toán ở
Lyon xong,chưa biết đậu hay rớt,sáng hôn sau ông đáp xe về
Paris nhập nhóm Ngũ Long để hoạt động chính trị .......dù
có kém ông cũng đă thi thạc sỹ mà ông không được các
cụ chỉ định viết bài, huống hồ, Nguyễn tât Thành mới
học lớp đệ thất th́ làm sao viết về chính trị, nghị
luận về Việt Nam để chinh phụcgiới trí thức, báo chí
Pháp và dư luận quốc tế cho được ” Quả vậy, tŕnh độ Pháp văn
của luật sư Phan văn Trường hay Nguyễn Thế Truyền hoặc Nguyễn an
Ninh trong nhóm Ngũ Long so với tŕnh độ Pháp văn Nguyễn Tất Thành
mới học cuối năm đệ thất, quá non kém, nó cách xa nhau lắm lắm. Cách
xa đến độ không thể nào lầm lẫn được..........nó như trắng với đen,
như thày với tṛ........ Hồ Chí Minh không thể nào , chẳng bao giờ
là bút hiệu của Nguyễn Ái Quốc được ? V́ cuối đời Hồ (79 tuổi ) Hồ
viết đi sửa lại đến năm lần bằng tiếng mẹ đẻ mà bản di chúc của Hồ
gần nửa trang giấy học tṛ tới 14 lỗi chính tả.......c̣n thơ của Hồ
toàn thơ con cóc.........nên rơ ràng đến hiển nhiên Nguyễn Áí Quốc
không thể nào, chẳng bao giờ là bút hiệu của Hồ Chí Minh được!
Người ta nói rằng : « Cái ǵ của César phaỉ trả về cho
César”th́ Nguyễn Áí Quốc là bút hiệu của nhóm Ngũ Long. Hồ đă
làm công việc lập lờ đánh lận con đen”chiếm đọat” bút hiệu nhóm Ngũ
Long. Ngay từ bây giờ sự kiện lịch sử đă được phơi bàydưới ánh măt
trời th́ chúng ta phải tách bạch Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh chẳng
bao giờ, không thể là một được Những người CS nếu c̣n chút liêm sỉ
phải dẹp ngay những cơ quan c̣n mang tên Nguyễn Ái Quốc. V́ nó đă
không c̣n lừa bịp được ai và quí vị c̣n “chiếm đoạt “ bút hiệu
Nguyễn Ái Quốc th́ người dân Việt Nam chỉ nghĩ đến hành động vô liêm
sỉ của quư vị mà thôi
Phạm Hữu.
Mặt thực của Hồ
Kỳ ‒
1
‒ 2
‒ 3 ‒
4 ‒ 5 ‒ 6
‒
|