Sơn Hà Nguy Biến
Trần
Gia Phụng
Vài nhận xét về Bản Hiệp Ước 30-12-1999 được công bố ngày
20-08-2002
Nhật báo Nhân Dân, Hà Nội, số ngày 20-8-2002, đă công bố một văn
bản mà nhật báo nầy nói rằng đó là toàn văn bản Hiệp ước về biên
giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, kư kết ngày 30-12-1999,
tại Hà Nội, giữa bộ trưởng Ngoại giao Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam (CHXHCNVN) là Nguyễn Mạnh Cầm và bộ trưởng Ngoại giao Cộng Ḥa
Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) là Đường Gia Truyền (Tang Jianxuan) (gọi
tắt hiệp ước nầy là Hiệp ước 1999). Hiệp ước nầy đă được quốc hội
Bắc Kinh thông qua ngày 29-4-2000 và quốc hội Hà Nội thông qua
9-6-2000. Đặc biệt là khi thông qua hiệp ước biên giới nầy, chỉ một
số ít lănh đạo cao cấp trong quốc hội Hà Nội mới đọc được nội dung
hiệp ước, c̣n đại đa số dân biểu không biết ǵ cả, chỉ thông qua
theo lệnh của đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN).(1)
Như thế, từ khi nhà cầm quyền CSVN kư kết hiệp ước cho đến khi Quốc
hội Hà Nội thông qua là nửa năm, và cho đến khi chính thức công bố
cho dân chúng Việt Nam biết là 2 năm 8 tháng. Đó là chưa kể thời
gian hai bên bắt đầu đàm phán. Nói cách khác, việc kư kết hiệp ước
nầy được giữ bí mật hoàn toàn từ khi khởi sự đàm phán cho đến hơn
hai năm sau ngày kư. Tiến tŕnh nầy hoàn toàn đi ngược lại với mọi
sinh hoạt dân chủ b́nh thường.
Trong một nước dân chủ, khi chính quyền thương lượng với nước ngoài
một vấn đề trọng đại như vấn đề biên giới, lănh thổ, mọi diễn tiến
cuả cuộc thượng lượng đều được thông tin cho Quốc hội và toàn dân
biết để theo dơi, góp ư, sửa đổi và nếu cần quyết định. Nhớ lại
trong thời gian thương thuyết và kư kết hiệp định Genève năm 1954 và
hiệp định Paris năm 1973, người Việt dưới chính thể Việt Nam Quốc
Gia (thời Quốc trưởng Bảo Đại) và Việt Nam Cộng Ḥa (thời tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu) đều có thể theo dơi đầy đủ mọi chi tiết diễn tiến
hội nghị được phổ biến công khai trên các phương tiện tuyền thông
quốc nội cũng như quốc tế như báo chí, truyền thanh, truyền h́nh.
Đất đai cuả tổ quốc là di sản chung do tổ tiên để lại trong suốt
lịch sử dân tộc, chứ không phải cuả riêng một người hay một nhóm
người, hay cuả một tổ chức cầm quyền trong một giai đoạn, mà có thể
tự ư đem bán, đổi, hay nhượng. Đặc biệt hơn nữa, quốc hội là cơ quan
dân cử, đại diện cho dân, mà khi biểu quyết, không nắm bắt được nội
dung hiệp ước, hoặc nắm bắt nội dung hiệp ước mà không thông báo cho
dân chúng là những người đă bầu ḿnh ra. Điểm nhận xét thứ nh́ là
toàn văn Hiệp ước 1999 được công bố trên nhật báo Nhân Dân ngày
20-8-2002 mà không có bản đồ thực điạ đi kèm. Vậy làm thế nào để
Quốc hội và dân chúng có thể theo dơi, kiểm chứng được? Nhà cầm
quyền cộng sản hứa rằng sẽ công bố bản đồ một ngày khác, nhưng tại
sao không công bố cùng một lần cho dân chúng dễ theo dơi? Phải chăng
nhà cầm quyền Hà Nội làm như thế để đo lường dư luận và để kiếm cách
ứng phó với dư luận theo từng giai đoạn?
Thứ ba, một câu hỏi cần được đặt ra là: đây có đúng là nguyên văn
bản Hiệp ước 1999, hay v́ để làm thoa dịu dư luận quần chúng, nhà
cầm quyền Hà Nội gọt sưả, thêm bớt, rồi công bố để lấp liếm theo mục
đích chính trị giai đoạn cuả họ? Bản văn nầy được in trên báo Việt
Nam, cho người Việt Nam đọc, nên nếu sưả đổi vài chữ, ư nghĩa có thể
bị đảo ngược, nhưng bản văn trên báo nầy chẳng liên hệ ǵ đến nguyên
bản hiệp ước kư kết giữa hai nước và nhất là việc thi hành trên thực
tế giữa hai bên. Có lẽ cần phải đợi nguồn tin từ phiá CHNDTH mới có
thể so sánh hư thực như thế nào.
Hơn một năm sau ngày kư kết Hiệp ước 1999, ông Đỗ Việt Sơn, một
đảng viên kỳ cựu (hơn 50 tuổi đảng), nhờ những thông tin nội bộ, đă
báo động việc nầy vào tháng 2-2001, nhưng rất hạn chế. Cho đến khi
20 cử tri, gồm nhiều nhân vật tên tuổi trong nước, gởi kháng thư
ngày 18-1-2001 phản đối việc kư kết Hiệp ước 1999, dư luận mới bùng
nổ mạnh mẽ. Trước t́nh h́nh đó, nhà cầm quyền cộng sản đă cử thứ
trưởng Ngoại giao Lê Công Phụng nói quanh co để biện minh cho hành
động cuả họ trong cuộc phỏng vấn do Công ty Phát Triển Phần Mầm (VASC-Orient)
thực hiện ở Hà Nội ngày 28-1-2002. Dân chúng vẫn tiếp tục lên tiếng
không ngừng chống lại Hiệp ước 1999.
Vả lại giấu măi cũng không được, thế nào cũng đến lúc phải thi hành
bản hiệp ước, nên nhà cầm quyền Hà Nội đành phải công bố, nhưng cách
công bố cuả họ làm cho mọi người nghi ngờ bản văn được công bố chưa
hẳn đă đúng nguyên văn bản hiệp ước, mà họ có thể đă sửa đổi đôi
chút để lừa bịp dư luận.
Câu hỏi nầy không phải là vô lư v́ mọi công dân Việt Nam đều biết
rằng từ khi đảng CSVN được thành lập cho đến nay, v́ nhu cầu chính
trị giai đoạn, đảng nầy đă lừa dối dư luận ở trong cũng như ở ngoài
nước không biết bao nhiêu lần, bằng đủ mọi mánh khóe, về đủ mọi thứ
chuyện, từ nhỏ đến lớn. Vài ví dụ: Năm 1946, Việt Minh giả vờ lập
Chính phủ Liên Hiệp, rồi bắt giết tất cả những thành phần không
thuộc phe Việt Minh cộng sản... Năm 1973, Bắc Việt kư kết hiệp ước
chấm dứt chiến tranh, thành lập chính phủ ba thành phần, để cho Hoa
Kỳ rút lui, rồi cưỡng chiếm miền Nam năm 1975, tiêu diệt tất cả các
thành phần khác, kể cả Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam... Năm
1975, sau khi cưỡng chiếm miền Nam, nhà cầm quyền cộng sản kêu gọi
sĩ quan công chức Việt Nam Cộng Ḥa đi học tập từ vài ngày đến
khoảng một tuần lễ hay một tháng, rồi lùa tất cả vào giam không thời
hạn trong các trại tập trung... Nhiều lần, các nhân vật cộng sản
tuyên bố cam kết trên Phát thanh không đổi tiền, rồi hôm sau đổi
tiền...
Do đó, trước tất cả những nguồn tin dù chính thức do đảng CSVN công
bố, đều phải luôn luôn đặt ra câu hỏi mức độ xác tín cuả nguồn tin
cộng sản.
Đi vào nội dung bản văn Hiệp ước 1999 do nhật báo Nhân Dân công bố
ngày 20-8-2002, hiệp ước gồm có phần dẫn nhập và 8 điều, trong đó
dài nhất là điều 2 ghi nhận những giới điểm từ tây sang đông tức từ
biên giới Lào chạy ra tới biển, gồm 62 giới điểm. (Trong tất cả các
hiệp ước quốc tế, điều 2 bao giờ cũng quan trọng hơn cả v́ điều 1
chỉ có tính cách tổng quát và dẫn vào vấn đề.)
Từ điều 3 đến điều 8 nêu ra các điểm thực hiện các việc: phân định
biên giới tại vùng tiếp giáp ba nước Việt Nam, Trung Hoa và Lào (điều
3), phân chia vùng trời và ḷng đất theo đường biên giơi (điều 4),
trung tuyến các ḍng sông (điều 5), sự thành lập các Uỷ ban Liên hợp
phân giới và cắm mốc (điều 6), quy chế quản lư biên giới (điều 7),
việc phê chuẩn và trao đổi hiệp ước (điều 8).
Trước hết, xin nêu ra lời dẫn nhập và điều 1 nguyên văn như sau:
“Nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và nước Cộng Ḥa Nhân Dân
Trung Hoa (dưới đây gọi là hai Bên kư kết”);
Nhằm giữ ǵn và phát triển mối quan hệ láng giềng hữu nghị truyền
thống giữa hai nước và nhân dân hai nước Việt Nam và Trung Quốc;
Với ḷng mong muốn xây dựng đường biên giới ḥa b́nh, ổn định và
bền vững măi măi giữa hai nước;
Trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ cuả
nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ
cuả nhau, b́nh đẳng cùng có lợi, cùng tồn tại ḥa b́nh;
Trên tinh thần thông cảm, nhân nhượng lẫn nhau và hiệp thương hữu
nghị;
Đă quyết định kư kết hiệp ước nầy và thoả thuận các điều khoản sau:
Điều I. Hai Bên kư kết lấy các Công ước lịch sử về biên giới hiện
nay giữa Việt Nam và Trung Quốc làm cơ sở, căn cứ vào các nguyên tắc
luật pháp quốc tế được công nhận cũng như các thỏa thuận đạt được
trong quá tŕnh đàm phán về vấn đề biên giới Việt Trung, đă giải
quyết một cách công bằng, hợp lư vấn đề biên giới vá xác định lại
đường biên giới trên đất liền giữa hai nước.”
Phải ghi lại nguyên văn lời dẫn nhập và điều 1 để thấy rơ những mâu
thuẫn trong ngôn ngữ bản hiệp ước. Nếu hai bên cùng theo đúng tinh
thần như phần dẫn nhập đă viết “giữ ǵn và phát triển mối quan hệ
láng giềng hữu nghị truyền thống giữa hai nước và nhân dân hai nước...
tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ cuả nhau...” và
nếu hai bên cùng đồng ư như đă ghi trong điều 1 là “... lấy các Công
ước lịch sử về biên giới hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc làm cơ
sở... “, th́ tại sao không có những cuộc đàm phán để xác định lại
giá trị các công ước đă từng làm căn bản phân định biên giới giữa
hai nước trong hơn một thế kỷ? Nếu có những ngộ nhận, hiểu sai, và
ngay cả vi phạm các công ước trên, th́ chỉ cần làm sáng tỏ lại những
điều khoản cuả các công ước, xác chứng tại chỗ đường biên giới, rồi
tái gia hạn công ước cũ, hay thậm chí kư lại công ước mới dựa theo
công ước cũ, chứ cần ǵ phải băi bỏ toàn bộ công ước cũ, rồi lại kư
một hiệp ước hoàn toàn mới, trong đó đường biên giới được vẽ ngược
lại với công ước cũ?
Các công ước lịch sử nói trên đă được thứ trưởng Ngoại giao Lê Công
Phụng nói đến trong cuộc phỏng vấn do Công ty Phát Triển Phần Mầm (VASC-Orient)
thực hiện ở Hà Nội ngày 28-1-2002. Đó là Công ước phân định biên
giới Hoa Việt kư tại Bắc Kinh (Pékin) ngày 26-6-1887, giữa Ernest
Constans (đại diện Pháp) và hoàng thân K’ing (đại diện Trung Hoa);
và Công ước bổ túc Công ước phân định biên giới Hoa Việt [tức công
ước ngày 26-6-1887], giữa Auguste Gérard (đại diện Pháp) và hoàng
thân K’ing (đại diện Trung Hoa) ngày 25-6-1895 tại Bắc Kinh, ấn định
cụ thể hơn một số điểm về biên giới giữa Vân Nam (Trung Hoa) và Tây
bắc Bắc Việt. Cần chú ư là lúc đó, Pháp và Trung Hoa thượng lượng
hơn 10 năm mới đi đến thoả ước cuối cùng năm 1895. Hơn nữa, khi
thượng lượng về biên giới, Việt Nam chỉ là một nước do Pháp bảo hộ,
nên các đại diện cuả Pháp đă sử dụng lănh thổ Việt Nam như một
phương tiện để đổi chác những quyền lợi ngoại giao khác cuả Pháp ở
Trung Hoa và Đông Á. Sau đó, khi thực hiện sự phân định biên giới
theo các công ước đă kư kết, những đại diện cuả Pháp trong Uỷ ban
phân định biên giới cũng đă nhượng bộ cho phái bộ Trung Hoa rất
nhiều trên thực điạ tại chỗ, cho chóng được việc, v́ thật sự cũng
chẳng phải là đất đai ǵ cuả tổ quốc họ, mà người Pháp phải tranh
đấu đ̣i hỏi. Do đó, Việt Nam đă thiệt tḥi khá nhiều trong các công
ước đó rồi.(2)
Trong 100 năm qua kể từ các công ước Pháp Thanh, khi Trung Hoa yếu
kém (thời nhà Thanh) và chia rẽ (thời Quốc Cộng phân tranh) th́ biên
giới Việt Hoa tạm yên, nhưng khi họ mạnh trở lại sau năm 1949 trong
lúc Việt Nam yếu đi, th́ họ lại lấn đất giành biên. Nay chế độ Bắc
Kinh buộc nhà cầm quyền Hà Nội kư kết hiệp ước mới, có nghĩa là các
công ước cũ không c̣n giá trị với họ, hay nói cách khác họ đă chiếm
thêm nhiều đất đai, và buộc Hà Nội hợp thức hoá những vùng đất họ
mới chiếm bằng một hiệp ước mới.
Câu mở đầu điều 2 cuả Hiệp ước 1999 nguyên văn như sau: “Hai Bên kư
kết đồng ư hướng đi cuả đường biên giới trên đất liền giữa nước Cộng
Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa
được xác định từ Tây sang Đông như sau...”
Chính điều 2 nầy cần phải có bản đồ đi kèm mới có thể nắm biết được
những quy định về biên giới, về các giới điểm nói trong điều 2. Cần
chú ư các điểm sau đây: 1) Các điạ danh Trung Hoa và các điạ danh
Việt Nam cuả các sắc tộc điạ phương trước đây do người Pháp phiên âm
trong các công ước Pháp Thanh kư kết và ngày nay do cộng sản phiên
âm rất khác nhau; nhà cầm quyền cộng sản c̣n đặt thêm hay thay đổi
nhiều điạ danh mới không có trong bản đồ Đông Dương trước đây. 2)
Bản đồ các làng, huyện, tỉnh thay đổi và xáo trộn rất nhiều từ thời
nhà Nguyễn qua thời cộng sản cầm quyền. (Làng nầy nhập vào huyện kia,
rồi đổi qua tỉnh nọ...Ngay cả bản đồ các tỉnh cũng liên tục thay đổi.)
Do đó, rất khó theo dơi và hiểu biết tường tận nếu chỉ đọc suông
điều 2 nầy mà không có bản đồ đi kèm, để so sánh với bản đồ cũ theo
các công ước Pháp Thanh.
Tiến tŕnh phân định biên giới theo Hiệp ước 1999 c̣n đi ngược lại
với tiến tŕnh phân định biên giới trong các công ước Pháp Thanh vào
thế kỷ 19. Các công ước Pháp Thanh về biên giới tính từ đông sang
tây, tức bắt đầu từ duyên hải Biển Đông (giữa Quảng Yên cuả Việt Nam
và Quảng Đông cuả Trung Hoa) đi vào đất liền, đến vùng ba biên giới
Việt, Lào và Trung Hoa.
Trái lại, trong Hiệp ước 1999 mới được công bố, điều 2 đă ghi
“hướng đi cuả đường biên giới trên đất liền giữa nước Cộng Ḥa Xă
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa được xác
định từ Tây sang Đông như sau...” Cũng theo điều 2 nầy, biên giới
Việt Hoa được chia thành 62 giới điểm. Giới điểm số 1 ở điểm cực tây
cuả tỉnh Lai Châu ngày nay (phiá tây Bắc Việt), và giới điểm số 62
nằm ở Mong Cái thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay (phiá đông Bắc Việt).
Cách làm nầy nhắm mục đích làm lạc hướng so sánh đường biên giới
mới cuả Hiệp ước 1999 với đường biên giới cũ theo các công ước Pháp
Thanh vào thế kỷ 19. Do đó, dân chúng rất khó có thể phát hiện những
vùng đất mà Hà Nội đă nhượng cho Bắc Kinh, hay nói đúng hơn, Trung
Hoa đă chiếm cuả Việt Nam. Giả dụ nếu có người phát hiện được việc
nhượng đất ở một vùng nào đó, th́ dựa vào cách vẽ biên giới mới cuả
Hiệp ước 1999, Hà Nội cũng có cách để biện minh như nói rằng bớt chỗ
nầy, thêm chỗ khác, hoặc khi vẽ lại đường biên giới th́ không thể
nào vẽ như cũ được.
Như trên đă viết, không ai là không biết thủ thuật lừa dối cuả cộng
sản Việt Nam. Nay lại thêm sự tiếp tay đồng mưu cuả cộng sản Trung
Hoa. Tuy nhiên, dầu khó khăn như thế nào, chắc chắn dần dần cũng sẽ
có người phát hiện những điểm mà cộng sản Hà Nội đă nhượng đất cho
cộng sản Trung Hoa, nhất là khi bản đồ biên giới được công khai. Chỉ
tiếc là khi đó, mọi sự đă được an bài, các cột mốc đă được cắm xuống,
và đất đai đă bị ngoại bang chiếm đóng. Thật là một bất hạnh lớn cho
người Việt Nam.
Cuối cùng, sau việc ông Lê Công Phụng, thứ trưởng bộ Ngoại giao Hà
Nội, phải xuất hiện để biện minh cho nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam
vào đầu 2002, nay đến việc công bố bản văn Hiệp ước 1999 trên nhật
báo Nhân Dân ngày 20-8-2002, dầu đúng nguyên văn hay không đúng
nguyên văn, cũng chứng tỏ nhà cầm quyền Hà Nội rất lo ngại về dư
luận và phản ứng ở trong cũng như ngoài nước, nên họ phải công bố
nội dung hiệp ước hầu mong thoa dịu những đ̣i hỏi cuả dư luận.
Do đó, việc dân chúng ở trong cũng như ngoài nước liên tục lên
tiếng phản đối việc nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội nhượng đất, rất
cần thiết để:
1) Chứng tỏ rằng công luận Việt Nam hoàn toàn phủ nhận hiệp ước
biên giới kư kết giữa hai nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội và Bắc Kinh
ngày 30-12-1999.
2) Chận đứng sự nhượng bộ cuả đảng CSVN. (Hiện nay, quan hệ giữa
CHXHCNVN và CHNDTH là quan hệ sinh tử v́ ít nhất đă 3 lần đảng Cộng
Sản Trung Hoa đă ra tay giúp đỡ, đảng CSVN mới thành công và đứng
vững cho đến ngày nay.(3) Nếu đảng CSTH rút lui sự ủng hộ th́ đảng
CSVN đă tiêu vong lâu rồi, nên hầu như đảng CSVN luôn luôn nhượng bộ
trước những đ̣i hỏi càng ngày càng quá đáng cuả đảng CSTH. Do đó,
dân chúng Việt Nam phải lên tiếng để chận đứng sự nhượng bộ cuả đảng
CSVN.)
3) Phản đối chiến thuật bành trướng kiểu mới, một thứ “diễn tiến
hoà b́nh” cuả nhà cầm quyền cộng sản Bắc Kinh, càng ngày càng lấn
chiếm đất đai cuả Việt Nam.
Trần
Gia Phụng
CHÚ THÍCH:
1. Nguyễn
Thanh Giang (trong nước) trả lời phỏng vấn ngày 24-2-2002 của Đài
Phát thanh Little Sài G̣n, Orange County, California.
Người Việt Online, ngày 25-1-2002, mục “Tin Việt Nam”.
2. Ví dụ: Bác sĩ P. Néis là một thành viên người Pháp trong phái
đoàn chung Pháp Hoa để thi hành việc cắm mốc biên giới Việt Hoa, đă
viết bài “Sur les frontières du Tonkin” [Về biên giới Bắc Kỳ], đăng
nhiều kỳ trên báo Le Tour du monde [Ṿng quanh thế giới], Paris,
1887. Bài nầy được ông Walter E. J. Tips giới thiệu và dịch qua Anh
ngữ, thành sách The Sino-Vietnamese Border Demarcation 1885-1887 [Cuộc
phân định biên giới Hoa-Việt 1885-1887], Nxb.
White
Lotus Press, Bangkok, Thái Lan, 1998. Trong bài viết nầy, có đoạn
bác sĩ P. Néis viết và được dịch ra Anh ngữ (trang 38 sách dịch) như
sau: “We go to the place and, as a great concession on our part, of
which we ourselves were later to boast incessantly, we agreed that
the border would follow the brook which passes at the foot of the
hills of the Gate to China, about 150 metres before the gate... (xin
tạm dịch: “Chúng tôi đến tận chỗ và, với sự nhượng bộ lớn lao về
phiá chúng tôi, mà sau đó chúng tôi không ngớt khoe khoang, chúng
tôi đồng ư rằng biên giới chạy theo con suối dưới chân đồi Cổng
Trung Hoa, cách trước mặt cổng khoảng 150 thước...”
3. Ba lần
đó là: 1) Thứ nhất, trong cuộc chiến tranh Việt Nam lần thứ nhất từ
1946 đến 1954, nếu Mao Trạch Đông không thành công ở Trung Hoa năm
1949 và nếu không có sự viện trợ to lớn cuả CHNDTH, th́ chắc chắn
đảng CSVN không thể thành công ở Việt Nam năm 1954. 2) Thứ nh́, khi
Cộng Sản Bắc Việt phát động chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng Ḥa
năm 1956, nếu 300.000 CSTH không tiến qua bảo vệ miền Bắc, và nếu
CHNDTH không làm hậu cứ tiếp liệu chiến trường cho CSVN, th́ CSVN
không thể cưỡng chiếm miền Nam. 3) Thứ ba, vào năm 1991, khối Liên
Xô và Đông Âu hoàn toàn sụp đổ. CSVN sợ sẽ sụp đổ theo, nên quay qua
cầu cứu CSTH. Chính nhờ vào CSTH, CSVN mới đứng vững cho đến ngày
nay.
|