Bản Văn "Mật" của Cộng Sản Việt Nam tuyên truyền và giáo dục cán bộ
đảng những phương pháp phá hoại tôn giáo
Prepared for internet by Vietnamese Missionaries in Taiwan
Lê Khả Tín
Chúng tôi
xin gửi đến tất cả quư vị đồng hương Việt Nam trên khắp thế giới,
Bản Văn "Mật" đă bị lọt ra bên ngoài, của Cọng Sản Việt Nam với đề
tài "Địch lợi dụng tôn giáo".
Với
giọng điệu tuyên truyền và vu khống cho các hoạt động bảo vệ nhân
quyền và bác ái của các tôn giáo, Cọng sản Việt Nam thường xếp giáo
hội vào loại "địch lợi dụng tôn giáo". Cùng với chiêu bài cố ư tiêu
diệt tôn giáo, nhà cầm quyền cọng sản Việt Nam đă bắt bỏ tù biết bao
nhiêu linh mục tu sĩ và giám mục Việt Nam. Nhiều người đă chịu cảnh
thảm thương và đă phải chết trong lao tù cọng sản.
Với
những sự thật hiển nhiên xảy ra hằng ngày trên đất nước Việt Nam bây
giờ, ai cũng nh́n thấy rơ, Đảng Cọng Sản Việt Nam đă đưa đất nước
Việt Nam trở thành một nước nghèo nhất trên thế giới. Đă bắt con dân
Việt Nam phải đi làm nô lệ cho các nước láng giềng để làm giàu cho
đảng và cán bộ. Và cũng v́ những hậu quả nghèo đói do Cọng Sản Việt
Nam gây nên đă làm cho biết bao nhiêu cô gái Việt phải tự chấp nhận
bán thân làm vợ cho các người nước ngoài, nhiều lúc bị rơi vào những
ổ măi dâm của những bọn du đảng... Có thể nói được, trong lịch sử
Việt Nam, chưa có thời kỳ nào, Việt Nam bị rơi vào một hoàn cảnh
thảm thương như vậy. Tất cả những sự kiện xảy ra, rồi lịch sử sẽ lên
án. Cả chúng ta nữa, nếu chúng ta không bắt tay ngay để cứu dân cứu
nước, tội thờ ơ này của chúng ta, rồi lịch sử cũng sẽ không tha thứ
cho chúng ta đâu. Biết người biết ḿnh trăm trận trăm thắng, chúng
ta đọc tài liệu này để biết rơ nhiều hơn chính sách đàn áp tôn giáo
của Cọng Sản Việt Nam, và chúng ta cũng có thể t́m ra được một đường
lối lư tưởng hơn để đưa dân tộc Việt Nam thoát khỏi những cảnh bất
công và đầy đau thương này:
BAN DÂN
TỘC VÀ TÔN GIÁO TỈNH LAO CAI MẬT VẤN ĐỀ ĐỊCH LỢI DỤNG TÔN GIÁO
(Tài liệu
dùng cho cán bộ làm công tác tôn giáo - Lưu hành nội bộ)
I. V̀
SAO ĐỊCH CHỌN TÔN GIÁO LÀM ĐỐI TƯỠNG LỠI DỤNG.
Tôn giáo
là một h́nh thái ư thức xă hội ra đời từ thủa xa xưa trong lịch sử
nhân loại và c̣n tồn tại lâu dài. Trong xă hội có giai cấp và đấu
tranh giai cấp, các thế lực thống trị phản động luôn sử dụng tôn
giáo nhằm thiết lập, duy tŕ và thực hiện quyền thống trị của chúng
đối với nhân dân lao động.
Lịch sử
đấu tranh cách mạng giữa những thời kỳ chống Pháp chống Mỹ và chống
ngoại bang của dân tộc Việt Nam cũng cho thấy: kẻ thù luôn luôn t́m
mọi cách lợi dụng vấn đề tôn giáo để thực hiện ư đồ chống phá Cách
mạng của nhân dân ta.
V́ sao
địch lại chọn tôn giáo làm đối tượng lợi dụng? Điều đó có thể cắt
nghĩa bằng những lư do sau đây:
1) Do sự
khác nhau về quan điểm triết học (duy vật - duy tâm) giữa những
người theo chủ nghĩa Mác và người theo tôn giáo. Đây là tiền đề của
sự khác nhau về thế giới quan, sự khó thống nhất trong cách nh́n
nhận đánh giá một sự việc, một vấn đề và do đó dễ phát sinh mâu
thuẫn. Về bản chất đây là mâu thuẫn nội bộ. Song khi bị địch kích
động đúng lúc đúng chỗ, th́ mâu thuẫn này có thể phát triển, chuyển
hóa thành mâu thuẫn đối kháng.
2) Trên
thế giới số người theo tôn giáo chiếm 80% tổng dân số, ở Việt Nam có
khoảng 30% dân số theo các tôn giáo. Rơ ràng đây là một lực lượng
quần chúng đáng kể. Tập hợp những người cùng tín ngưỡng tôn giáo lại
có tính liên kết khá chặt chẽ; họ bị ràng buộc bởi giáo lư, giáo
luật và chịu sự điều khiển của bộ máy tổ chức giáo hội, v́ thế nó có
thể trở thành một "lực lượng xă hội" không thể xem thường. (Lực
lượng này có khả năng hỗ trợ hoặc ngăn cản chính quyền của một giai
cấp). Do vậy đế quốc và bọn phản động rất coi trọng việc sử dụng tôn
giáo nhằm chống lại các phong trào cách mạng.
3) Do xu
hướng muốn gắn "thần quyền" với "thế quyền" của các giáo hội.
Hầu hết các tôn giáo đều có xu hướng thế tục hóa, tham vọng gắn "thần
quyền" với "thế quyền", gắn "giáo quyền với chính trị". Xu hướng lợi
dụng lẫn nhau giữa các giáo hội và các thế lực chính trị, kinh tế là
là xu hướng hiện thực, thời nào cũng có. Nói cách khác, việc các thế
lực thù địch thường chọn tôn giáo làm đối tượng lợi dụng c̣n xuất
phát từ "nhu cầu" của một số người đứng đầu trong các tôn giáo.
4) Niềm
tin tôn giáo có đặc trưng là "không cần sự kiểm chứng", nên người
theo tôn giáo có thể rơi vào trạng thái cuồng tín, cực đoan trong
suy nghĩ và hành động, nhất là khi họ đă nằm trong ṿng tay điều
khiển của các thế lực chính trị phản động.
Những
tín đồ cuồng tín sẵn sàng "tử v́ đạo", thậm chí có người c̣n đi đến
chỗ phủ nhận cả quốc gia, dân tộc là những phạm trù đang được mọi
người tôn trọng, giữ ǵn.
5) Ngày
nay phần lớn các tôn giáo đều có quan hệ quốc tế. Đây là một điều
kiện thuận lợi cho các thế lực chính trị phản động ở nước ngoài thực
hiện ư đồ can thiệp vào công việc nội bộ của các nước ở tại, thông
qua con đường lợi dụng các giáo hội trong nước.
6) Vấn
đề tôn giáo nh́n chung là vấn đề "tế nhị và phức tạp", nó tế nhị và
phức tạp ở chỗ: Vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng là vấn đề thuộc lĩnh
vực nhân quyền và dân quyền, mặt khác kẻ lợi dụng tôn giáo ngày nay
lại có nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn trước. V́ thế, kinh
nghiệm cho thấy giải quyết vấn đề tôn giáo không đơn giản, rất dễ
mắc sai lầm: hoặc tả khuynh, hoặc hữu khuynh (mà ở đây "bệnh tả
khuynh" cũng nguy hại không kém "bệnh hữu khuynh").
7) Khi
vấn đề tôn giáo được gắn với những vấn đề khác (chẳng hạn: với vấn
đề dân tộc), th́ tính phức tạp của vấn đề được nhân lên gấp bội.
Ngày
nay, bên cạnh việc lợi dụng tôn giáo, bọn đế quốc thường gắn vấn đề
tôn giáo với vấn đề dân tộc và xem đó như "hai gọng ḱm" để "bẻ gẫy
xương sống" của Cộng sản.
Từ những
lư do nêu trên đủ cho ta thấy: Con bài lợi dụng tôn giáo của địch để
chống phá cách mạng từ bên trong, là một con bài rất lợi hại.
II/
KHÁI QUÁT T̀NH H̀NH VÀ CÁC PHƯƠNG THỨC LỠI DỤNG TÔN GIÁO TRONG LỊCH
SỬ.
1) Lịch
sử lợi dụng tôn giáo trên thế giới.
a- Những
sự kiện đáng chú ư:
Việc lợi
dụng tôn giáo của các triều đại phong kiến châu Âu để xâm chiếm lănh
thổ của nhau đă xuất hiện rất sớm, nhưng nó được thự c hiện một cách
triệt để nhất vào thời kỳ cận-hiện đại. Từ thế kỷ XV-XVII, để phục
vụ cho công cuộc mở mang thuộc địa đến các vùng đất xa xôi, Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha và Pháp đă biết dựa vào thế lực của giáo hội Công
giáo (Ṭa Thánh Va Ti Căng). Với danh nghĩa của những người đi "mở
mang nước Chúa", "cứu chuộc những đứa con tội lỗi ở trần thế", "khai
hóa văn minh", giáo hội Công giáo đă đóng vai tṛ như một lực lượng
mở đường cho công cuộc chinh phục thuộc địa của thực dân. Mặt khác,
thông qua đó giáo hội cũng đạt được một số mục đích như: đẩy mạnh
công cuộc truyền giáo, mở rộng địa bàn ảnh hưởng, thu nạp thêm nhiều
tín đồ, củng cố và nâng cao vị thế của giáo hội Công giáo trên thế
giới.
Giữa thế
kỷ XIX, trên thế giới xuất hiện hệ tư tưởng mới là chủ nghĩa Cộng
Sản, càng ngày càng ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống xă hội, đe dọa
trực tiếp lợi ích của giai cấp tư sản, phong kiến.
Để chống
lại xu thế lịch sử đó, bọn đế quốc mà đứng đầu là đế quốc Mỹù liên
kết với các thế lực phản động áp dụng nhiều thủ đoạn chống phá cách
mạng một cách điên cuồng, trên nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế,
quân sự, ngoại giao... Đặc biệt, chúng tiếp tục đẩy mạnh việc lợi
dụng các tôn giáo (nhất là giáo hội Công giáo) vào mục đích chính
trị: Xóa bỏ nhà nước XHCN, xóa bỏ học thuyết Mác-Lênin.
Năm
1891, Giáo Hoàng Lê-On XIII đă công bố thông điệp "tâm sự" với nội
dung chống chủ nghĩa Cộng sản... Thông điệp Bách Chu Niên (1991) kêu
gọi thay thế học thuyết Mác-Lênin bằng học thuyết xă hội Công Giáo
mà nền tảng là "phúc âm hóa" toàn thế giới.
Từ năm
1945, hệ thống các nước XHCN được thiết lập trên khắp các châu lục.
Để chống lại xu hướng lịch sử đó, đế quốc và các nước phản động khác
(đứng đầu là đế quốc Mỹ), t́m mọi cách kéo giáo hội các tôn giáo vào
cuộc chiến tranh "diễn biến ḥa b́nh", nhằm xóa bỏ chế độ XHCN, xóa
bỏ vai tṛ lănh đạo của Đảng Cộng sản ở các nước này.
Bằng
cách lập ra những trung tâm thông tin, đêm ngày phát sóng tuyên
truyền phát triển đạo, nói xấu Đảng Cộng sản, kích động chiến tranh
tôn giáo, chiến tranh sắc tộc, kêu gọi tín đồ đấu tranh đ̣i tự do
tôn giáo, đ̣i tách giáo hội khỏi sự kiểm soát của Nhà nước XGCN, gây
mất ổn định chính trị xă hội nhằm tạo thời cơ để can thiệp vào công
việc nội bộ của các nước đó.
b. Những
phương thức chủ yếu của bọn đế quốc trong việc lợi dụng tôn giáo
nhằm chống phá cách mạng.
1- Chúng
t́m mọi cách để đưa giáo hội vào các cuộc chiến chính trị. Một mặt
chúng thúc giục các giáo hội ủng hộ các đảng phái đồi lập hoạt động
chống Đảng Cộng Sản. Mặt khác thông qua hoạt động của các đảng phái
đối lập để lôi kéo, tập hợp, kích động các chức sắc, giáo sĩ, tín đồ
chống lại nhà nước XHCN.
2. Xúi
giục các giáo hội đ̣i lập khu tôn giáo tự trị.
Từ sau
chiến tranh thế giới lần thứ hai, bọn đế quốc chú trọng đến việc xây
dựng các khu tôn giáo tự trị ngay trên lănh thổ các nước XHCN. Chẳng
hạn ở Trung quốc, đă một thời xuất hiện khu tự trị Phật Giáo Tây
Tạng.
Mục đích
của việc h́nh thành các khu tự trị tôn giáo này là:
- Tăng
thêm tính độc lập của giáo hội đối với nhà nước.
- Tạo thế và lực cho giáo hội hoạt động chống nhà nước.
- Tạo cơ sở pháp lư để tiến hành các hoạt động can thiệp trực tiếp
khi giáo hội yêu cầu.
3. Khơi
dậy, khoét sâu những mâu thuẫn, những vấn đề tôn giáo và dân tộc;
kích động các cuộc chiến tranh mang màu sắc tôn giáo, sắc tộc, làm
suy yếu tiến tới làm sụp đổ Nhà nước XHCN.
Từ 1985
đến nay, thủ đoạn này được chúng sử dụng một cách triệt để. Hệ quả
của nó là ở một số nước chính quyền không kiểm soát nổi dân, có nước
bị chia cắt thành nhiều quốc gia nhỏ, vai tṛ lănh đạo của Đảng Cộng
sản bị lu mờ (ví dụ Liên bang Nam Tư...).
Với
những thủ đoạn nêu trên, có thể nói bọn đế quốc đă thành công trong
việc lợi dụng vấn đề tôn giáo và dân tộc, tạo thành một đ̣n tấn công
hiểm hóc vào một số nhà nước XHCN ở Đông Âu, và Liên Xô, phối gộp
với các mũi tiến công khác làm sụp đổ XHCN ở các nước này. Ngoài ra,
chúng c̣n gây ra t́nh h́nh phức tạp ở nhiều khu vực khác như Tây Á,
châu Phi, và nhiều nước như Ấn Độ, Trung quốc, Việt Nam, Mianma...
2) Lịch
sử lợi dụng tôn giáo ở Việt Nam.
Việt Nam
là một quốc gia có nhiều tôn giáo, nên việc lợi dụng tôn giáo để
thực hiện mưu đồ chính trị được đế quốc và bọn phản động đặc biệt
quan tâm. Do điều kiện lịch sử, mỗi tôn giáo bị lợi dụng ở mức độ
khác nhau, trong đó giáo hội Công giáo (đạo Thiên Chúa) bị các thế
lực thực dân cũ và mới lợi dụng nhiều nhất.
Tuy
nhiên, ở mỗi giai đoạn khác nhau, phương thức lợi dụng tôn giáo của
kẻ thù cũng có sự khác nhau, tùy thuộc vào mục tiêu chính trị phản
động của chúng trong giai đoạn đó.
a. Giai
đoạn từ thế kỷ XVI đến trước năm 1945.
Đạo
Thiên Chúa truyền vào nước ta từ thế kỷ thứ XVI trong bối cảnh lịch
sử nội chiến Nam-Bắc triều phân tranh Trịnh Nguyễn. Lúc đầu các giáo
sĩ Hà Lan và Bồ Đào Nha đă lợi dụng mâu thuẫn giữa hai tập đoàn
phong kiến Việt Nam lúc đó để đạt mục đích truyền giáo cụ thể: người
Hà Lan th́ bán vũ khí cho chúa Nguyễn ở đằng trong, người Bồ th́ bán
vũ khí cho chúa Trịnh ở đằng ngoài để đánh nhau. Như vậy ngay từ đầu
truyền giáo của các giáo sĩ đă gắn với chính trị; can thiệp vào nội
t́nh chính trị của nước ta, phục vụ cho lợi ích thương mại của các
quốc gia họ.
Động cơ
phục vụ lợi ích "chính quốc" được thể hiện rơ nét hơn thông qua hoạt
động của các giáo sĩ người Pháp trong tổ chức truyền giáo gọi là "Hội
thừa sai Pa ri", bắt đầu từ năm 1664.
Ngay từ
khi mới ra đời, hội thừa sai Pa ri đă được chính phủ Pháp sử dụng
vào việc bành trướng thế lực thực dân của ḿnh ở Viễn Đông, đặc biệt
là Việt Nam. Mục đích lợi dụng truyền giáo để phục vụ công cuộc thực
dân được nhấn mạnh trong bản điều trần của Hội gửi quốc hội Pháp năm
1790 như sau:
"Hội
TSPR là tổ chức duy nhất của các thầy tu người Pháp... có sứ mạng
đem ánh sáng của đức tin và ảnh hưởng của nước Pháp tới các nước
phương Đông... Các giáo sĩ của Hội không quên lợi ích của nước ḿnh,
họ sẽ và măi măi có nhiệm vụ thông báo cho nhà nước mọi phát kiến và
những tin tức cần thiết mà họ đă thu được...Họ tạo điều kiện cho
việc buôn bán của nước Pháp ở phương Đông và chính họ đă tổ chức ra
Công Ty Đông ấn... Các giáo sĩ của Hội tin tưởng rằng Nhà nước sẽ có
sự che chở đặc biệt cho Hội, được như vậy th́ toàn thể hội viên của
Hội sẽ có thêm nhiệt t́nh để phục vụ quốc gia ḿnh với ḷng hăng hái
hơn bao giờ hết".
Mục đích
tôn chỉ đó đă được các giáo sĩ thừa sai quán triệt trong suốt quá
tŕnh truyền giáo ở Việt Nam. Tiêu biểu nhất (ở thời kỳ 1664-1802)
là các giám mục Parancois - Pan Luy, Lam-be-de-lamốt, P. Poivre, và
đặc biệt là giám mục Adran - Bá Đa Lộc.
Pan Luy
muốn thông qua hoạt động bạo lực của Pháp để truyền giáo, khuyến
khích Công ty Đông ấn dùng bạo lực, cái mà ông ta gọi là "...một
phương án vinh quang để đưa dân mọi rợ trở lại đạo thánh và qua đó
mà thánh hóa việc thương mại của ḿnh, vừa để mở mang giáo hội vừa
làm giàu cho nước Pháp".
C̣n P
PoivRe, một thương nhân kiêm giáo sĩ, năm 1740 đă gửi về nước một
bản báo cáo tỉ mỉ về hoàn cảnh địa lư, sản xuất, thuế khóa và phong
tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo ở đằng trong.
Tuy
nhiên, hoạt động của hai vị giám mục nói trên mới chỉ dừng lại ở mức
độ cung cấp tin tức t́nh báo về đất nước chúng ta, hoặc khuyến khích
thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Sự kiện có tính chất điển h́nh hơn
cả là hoạt động của Bá Đa Lộc (người được giới thực dân đánh giá như
"một bậc tiên khởi" của quá tŕnh xâm lược Việt Nam, kẻ trực tiếp
làm môi giới cho Nguyễn ánh kư với Pháp Hiệp Ước Véc Xây (1787) với
thỏa thuận:
Pháp
giúp Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn để giành lại Vương triều, Nguyễn Ánh
cắt cho Pháp Côn đảo và Hội an (Quảng nam, Đà nẵng). Với sự giúp đỡ
của Bá Đa Lộc, Nguyễn Ánh đă đánh bại Tây sơn, lên ngôi năm 1802, và
từ đó Việt Nam chính thức nằm trong sự ảnh hưởng của Pháp.
Từ những
dẫn chứng trên cho phép ta kết luận:
Hoạt
động của ba vị giám mục nói riêng, của các giáo sĩ thừa sai Pa-ri
nói chung trong giai đoạn (1664-1802), không c̣n dừng lại ở mức độ
phục vụ cho lợi ích kinh tế thương mại của các thế lực thực dân như
trước.
Hoạt
động của các giáo sĩ đă đạt tới mức độ là tạo ra nền tảng cho công
cuộc thực dân của Pháp ở nước ta. Hậu quả mà dân tộc ta phải gánh là:
Về mặt pháp lư, một phần lănh thổ Việt Nam đă thuộc quyền của thực
dân Pháp.
Đánh giá
về vai tṛ của Hội thừa sai Pa-ri đối với quá tŕnh xâm lược Việt
Nam, vua Napôlêon I của Pháp đă nhận định:
"Những
giáo sĩ của hội truyền giáo ở nước ngoài sẽ rất có ích lợi cho tôi ở
châu Á, châu Phi và châu Mỹ, tôi sẽ cử họ đi điều tra t́nh h́nh các
xứ. Tấm áo của họ sẽ che chở cho họ và dùng để ẩn dấu những mưu đồ
chính trị và thương mại. Phí tốn cho họ ít thôi, họ sẽ được những
người dă man kính trọng. Họ có vẻ không có ǵ là "chính thức" cả nên
không thể gây điều ǵ sỉ nhục cho Nhà Nước, tính mẫn cán tôn giáo sẽ
làm cho họ thi hành tốt mọi việc việc và coi thường hiểm nguy, vượt
hẳn lên trên một viên chức b́nh thường".
Bước
sang thế kỷ XIX, hoạt động cấu kết giữa các giáo sĩ với thực dân
Pháp nhằm đạt mục đích truyền giáo và xâm lược cũng đậm nét. Có thể
nói hoạt động của các giáo sĩ thế kỷ XIX là một bộ phận hợp thành
trong công cuộc xâm lược của Pháp tại Việt Nam. Mối quan hệ giữa
thực dân và truyền giáo trong thời kỳ này được phản ánh qua một số
hoạt động và sự kiện chủ yếu sau đây:
* Các
giáo sĩ tích cực thu thập tin tức t́nh báo phục vụ cho việc can
thiệp bằng quân sự của Pháp vào Việt Nam.
Giám mục
Pơ Lô Ranh và linh mục Húc cai quản địa phận Huế không những tích
cực vận động triều đ́nh Napôlêôn III xúc tiến việc xâm lược bằng
quân với nước ta, mà c̣n trực tiếp dẫn đường cho tàu chiến Pháp
trong quá tŕnh do thám và tiến công nước ta.
* Lợi
dụng khoét sâu mâu thuẫn trong nội bộ dân tộc ta, cụ thể là: Mâu
thuẫn nhân dân ta với các vua triều Nguyễn (do chính sách bóc lột
nặng nề của nhà Nguyễn đưa lại); mâu thuẫn giữa quần chúng giáo dân
theo đạo Thiên Chúa với người không theo tôn giáo, hoặc tín đồ của
tôn giáo khác.
Đặc biệt
là mâu thuẫn giữa quần chúng giáo dân với nhà Nguyễn, do những sai
lầm có tính chất phương pháp trong việc cấm đạo, sát đạo của các
triều đại phong kiến thời Nguyễn, làm rạn nứt khối đoàn kết dân tộc,
tạo cơ hội cho các giáo sĩ tập hợp giáo dân chống lại triều đ́nh,
làm hậu thuẫn cho công cuộc xâm lăng của Pháp.
Điển
h́nh trong lĩnh vực này là vụ giáo sĩ MaRchand (tức cố Dụ) tập hợp
giáo dân vùng Gia Định giúp Lê Văn Khôi chống lại vua Minh Mệnh, vụ
hai giáo sĩ Lêpêbve và Ducloc kích động dân Công giáo nổi loạn thời
vua Thiệu Trị; vụ hai Giám Mục Sampedro, Hermosilla (tức cố Xuyên và
cố Liêm) tổ chức giáo dân ở một số địa phận Nam định, Hải dương,
Hưng yên, với mục đích rước Lê Duy Minh từ Ma Cao (Trung quốc) về
nước để lật đổ triều Nguyễn.
Hoạt
động công cuộc phục vụ thực dân của các giáo sĩ trong quá tŕnh
truyền giáo vào nước ta - thời kỳ từ năm 1802 đến khi nhà Nguyễn kư
ḥa ước nhâm tuất năm 1862 c̣n được phản ánh một cách đầy đủ, trực
tiếp và toàn diện thông qua nội dung, tính chất và mức độ nghiêm
khắc trong các "đạo dụ" (sắc chỉ) của các triều đại phong kiến đương
thời. Cả thảy có 13 đạo dụ, trong đó mức độ "cấm đạo" tăng dần theo
tính chất nghiêm trọng của t́nh h́nh. Chẳng hạn:
- Thời
Minh Mệnh, năm 1836 trước sự gia tăng hoạt động của các giáo sĩ lại
trùng hợp thường xuyên xuất hiện của các tàu chiến Pháp trong vùng
lănh hải của ta, đặc biệt là những vụ lộn xộn về chính trị trong
triều đ́nh sau vụ biến Lê Văn Khôi, Minh Mệnh lập tức ra đạo dụ qui
định "xử tội chém" đối với các giáo sĩ thừa sai có hành vi trinh
thám ḍ la tin tức của ta.
- Thời
Thiệu Trị, năm 1847, sau khi phát giác vụ Vũ Văn Điền tín đồ Thiên
Chúa Giáo tiết lộ bí mật quân cơ cho các tàu chiến Pháp trong sự
kiện thủy chiến Đà Nẵng (1847), Thiệu trị ra đạo dụ cấm các quần
thần của nhà vua theo đạo.
- Thời
Tự Đức, ông tuyên bố tiếp tục theo đường lối cũ của cha ông đối với
đạo Giatô (Thiên Chúa), song ông đă không qui định h́nh phạt một
cách cụ thể hơn.
Cụ thể
là: Các giáo sĩ Tây dương mà phạm luật th́ bị quăng xuống biển, các
linh mục người Việt phạm luật th́ bị xử tử, giáo dân vi phạm th́ bị
thích chữ vào mặt...
Rồi từ
năm 1848, do t́nh h́nh trong nước xảy ra nhiều biến cố phức tạp nên
Tự Đức liên tiếp ra các đạo dụ khác để ngăn cản, hạn chế, trừng trị
các hoạt động của giáo sĩ và giáo dân có ảnh hưởng xấu tới an ninh
quốc gia, chủ quyền dân tộc.
Như vậy,
sự gia tăng về số lượng và mức độ của h́nh phạt được qui định trong
các đạo dụ cấm đạo, sát đạo của nhà Nguyễn hoàn toàn trùng hợp với
sự gia tăng những hoạt động lợi dụng truyền giáo phục vụ công cuộc
xâm lược của các giáo sĩ. Sự trùng hợp đó cho phép ta kết luận:
Chính sách cấm đạo, sát đạo của các vua nhà Nguyễn là hậu quả tất
yếu do nhu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, chủ quyền dân tộc, nảy sinh
từ chính sách thực dân - Gia tô của Pháp đối với nước ta thời đó.
Điều đáng tiếc ở đây là các vua nhà Nguyễn đă phạm sai lầm về phương
pháp. Hậu quả của sai lầm đó như chúng ta đă biết: nó tạo ra cái cớ
để bọn thực dân dụng danh nghĩa "bảo vệ những người đồng đạo" để
tiến hành xâm lược nước ta bằng quân sự.
Sự cộng
tác của giáo hội với thực dân Pháp ở Việt Nam trong thế kỷ XIX c̣n
thể hiện ở chỗ: Giáo hội là chỗ dựa cho chính sách ngu dân về văn
hóa của bọn thực dân. Về thực chất đây là một bộ phận của chính sách
cai trị thuộc địa theo lối đồng hóa nền văn hóa dân tộc. Mục tiêu
của sự đồng hóa này là "Thiên Chúa giáo hóa" Việt Nam để đạt mục
đích xâm lược và cai trị dân. Bằng cách sử dụng giáo sĩ vào công
việc quản lư nhà nước, loại trừ ảnh hưởng của Nho giáo (hệ tư tưởng
chính thống trong nền văn hóa Việt Nam dưới thời phong kiến). Nhiều
giám mục đă đề nghị thực dân đàn áp đội ngũ sĩ phu "Văn Thân" của
Việt nam, v́ theo họ: "Bọn Văn Thân rất có ảnh hưởng, họ công tiến
lớn và một khi được làm quan là thiên hạ kính trọng họ, v́ vậy nhất
thiết phải thanh toán bọn họ đi..., bởi v́ họ quá yêu nước không thể
nào chấp thuận sự cai trị của chúng ta. Hơn nữa, chẳng bao giờ một
người Văn Thân chịu theo đạo Ki-Tô!" (theo lời kể của toàn quyền Lan
Ít xăng).
Đối với
quần chúng, các giám mục Pháp chủ chương tôn giáo hóa bằng nhiều
biện pháp khác nhau: Làm cho họ thấy rơ lợi ích của việc theo đạo;
hoặc bằng cách nào đó để họ thấy được vấn đề là nếu đă theo đạo mà
bỏ đạo th́ không an toàn về cuộc sống; kể cả dụ dỗ và cưỡng bức theo
đạo.
Đối với
giáo dân, giáo hội cấm không cho họ tiếp xúc với xă hội người lương,
các tài liệu sách báo có tư tưởng yêu nước, cách mạng. Việc làm này
phục vụ cho chính sách chia rẽ lương - giáo, biến các làng giáo dân,
khu vực giáo dân thành những cứ địa riêng để cha cố dễ bề quản lư
hoặc huy động vào các mục đích thực dân khi cần thiết.
Về phía
thực dân Pháp, trong quá tŕnh thực hiện chính sách ngu dân của ḿnh
ở Việt Nam, chính phủ Pháp đă tiến hành nhiều biện pháp để ngăn cản
việc truyền chức linh mục, giám mục cho giáo sĩ người Việt Nam. Họ
sợ rằng nếu các giáo sĩ Việt Nam có tinh thần yêu nước và tự tôn dân
tộc nắm giữ các chức vụ quan trọng trong giáo hội th́ sẽ tác động
trực tiếp tới giáo dân và làm cho giáo dân thức tỉnh chống lại kẻ
xâm lược. Trong nội bộ giáo hội, các giáo sĩ nước ngoài cũng t́m
cách ngăn cản xu hướng tiến bộä của một số giáo sĩ người Việt, ngăn
cản luồng tư tưởng đ̣i trả giáo hội Việt Nam cho người Việt Nam.
Trên
thực tế, trong chừng mực nhất định, thực dân Pháp đă thực hiện được
âm mưu tách cộng đồng giáo dân của Đạo Thiên Chúa ra khỏi cộng đồng
dân tộc, bằng cách tạo ra trong giáo dân sự mặc cảm, sự ngộ nhận
nguy hiểm rằng giữa đức tin và nghĩa vụ công dân có một sự mâu thuẫn
không thể dung ḥa, mà sự lựa chọn theo đúng ư Chúa là từ bỏ dân tộc
để giữ lấy đức tin. Hướng giáo dân vào cuộc đấu tranh chống lại
chính dân tộc ḿnh để bảo vệ đức tin - vào cuộc đấu tranh giữa các ư
thức hệ và chủ thuyết khác nhau. V́ thế khi Đảng Cộng Sản Việt Nam
ra đời, lănh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc th́ bọn thực dân
và những người cầm đầu giáo hội lại tung ra các luận điểm về "mối
hiểm họa cộng sản", "mâu thuẫn cộng sản - công giáo" "vô thần - hữu
thần" để biện hộ cho hành vi cướp nước và bán nước, chống lại các
phong trào đấu tranh đ̣i dân sinh dân chủ và ḥa b́nh của nhân dân
ta.
b- Giai
đoạn 1945-1954.
Ngày
02.9.1945, Nước Việt Nam dân chủ cộng hào được thành lập, sự kiện đó
đă mở ra giáo hội Việt Nam một cơ hội: Từ bỏ con đường cũ, con đường
hoàn toàn phụ thuộc vào thực dân, phục vụ cho những mục đích xâm
lược và cai trị của chúng, để vươn lên tự khẳng định ḿnh, ḥa nhập
vào trong ḷng dân tộc. Đa số giáo dân và giáo sĩ người Việt yêu
nước đă hân hoan đón chào độc lập, hăng hài góp phần nhỏ bé của ḿnh
của ḿnh vào sự nghiệp chung của đất nước.
Song,
phần lớn các giáo sĩ ngoại quốc vẫn giữ thái độ im lặng, chờ thời,
hoặc hoạt động chống phá ngầm. Và đúng như bản chất phản cách mạng
của chúng, khi Pháp trở lại xâm chiếm Việt Nam, bọn phản động trong
giáo hội lại tiếp tục phản bội dân tộc Việt Nam. Tính chất chính trị
phản động của giáo hội ở thời kỳ này biểu hiện chỗ: Lợi dụng các sắc
chỉ chống cộng sản của ṭa thánh để chống lại chính phủ ta (V́ chính
phủ là cộng sản) sử dụng những khẩu hiệu như: "Nguy cơ đỏ", "Hăy
tiêu diệt cộng sản để làm vinh danh Chúa"... Nhằm mục đích chia rẽ
đối lập giữa đồng bào Công giáo với Chính phủ với đồng bào không
theo tôn giáo.
Tinh
thần đó được bộc lộ một cách công khai trong thư chung của Hội đồng
giám mục Việt Nam năm 1951: "... Chúng tôi thấy ḿnh có bổn phận
nhắc nhở anh chị em đề cao cảnh giác, chống lại nguy cơ hết sức to
lớn: Chủ nghĩa Cộng sản vô thần là một mối đe dọa lớn nhất hiện nay.
Chẳng những cấm anh chị em vào Đảng Cộng sản mà anh chị em cũng
không được hợp tác với họ, hoặc làm bất cứ việc ǵ có lợi cho Đảng...
Chúng tôi có bổn phận nhắc nhở anh chị em đề pḥng cả đối với những
kiểu lượn lẹo và mưu chiếc của người Cộng sản dùng để đánh lừa dân
chúng. Những mưu chước ấy chỉ phục vụ cho các mục tiêu của người
cộng sản mà thôi..."
Có thể
khái quát thủ đoạn lợi dụng giáo hội Công giáo của thực dân Pháp vào
mục đích chống lại cuộc kháng chiến của dân tộc ta như sau:
- Tuyên
truyền về "hiểm họa cộng sản" để lôi kéo mê hoặc, xô đẩy tín đồ vào
cuộc phản chiến chống cộng sản, bất hợp tác với chính phủ v́ chính
phủ là cộng sản.
- Gán
cho Cộng sản tất cả những gi xấu xa nhất.
- Đưa ra
những triết lư biện minh cho chính sách thực dân, như: "Chính sách
thực dân dưới con mắt của các nhà luật học và lư luận học vẫn là một
việc hợp lư, vừa giúp ích cho nhân loại vừa là hành vi nhân đạo".
- Tuyên
truyền về "Cộng sản đàn áp giáo hội", thúc ép giáo dân di cư vào nam
(năm 1954).
- Bên
cạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo hội c̣n tiến hành thành lập
các tổ chức, Đảng phái hoạt động để "đoàn ngũ hóa" giáo dân, biến
giáo dân thành tai mắt và thành lũy để chống lại kháng chiến, như: "Đạo
Binh đức mẹ", Đạo Binh Xanh". Hiệp hội hiến sỹ đức mẹ bảo vệ nhà thờ...".
- Phạt
vạ những giáo sĩ và giáo dân tham gia ủng hộ giúp đỡ kháng chiến.
- Nguy
hiểm nhất là chúng tiến hành vũ trang cho dân công giáo. Thực tế cho
thấy vào năm 1950, hầu hết các xứ đạo đều được vũ trang (Tề, Ngụy).
Lính công giáo được thôi thúc bởi tín điều chống cộng sản nên hành
động rất điên cuồng. Sử sách c̣n ghi lại những cuộc hành quân càn
quét và những hành động tàn sát dă man của lính công giáo với người
lương, đặc biệt là với "quân của kháng chiến". Với một đội quân khát
máu bởi bị mê hoặc vào chiêu bài chống cộng của bọn thực dân, lính
công giáo đă thực sự trở thành cái mà đế quốc Pháp và bọn phản động
đội lốt tôn giáo cần "để nói chuyện với chính phủ cộng sản" như giám
mục Lê hữu Từ đă từng tuyên bố.
- Với
những thủ đoạn nói trên, thực dân Pháp và bọn phản động trong giáo
hội lại một lần nữa đẩy quần chúng giáo dân vào hoàn cảnh khó xử...
muốn giữ đạo th́ phải từ bỏ kháng chiến, từ bỏ dân tộc... nên thực
tế chúng đă thực hiện được một phần mục đích chia rẽ khối đoàn kết
toàn dân tộc là một yếu tố đóng vai tṛ to lớn với sự thành công của
cách mạng.
c- Giai
đoạn 1954-1975.
Trong
những năm 1954-1955 các thế lực phản động đă kêu gọi người Công giáo
di cư vào miền nam nhằm thực hiện ư đồ xây dựng một chính quyền mà
trong đó người Công giáo chiếm đa số để đối đầu với Cộng sản.
Thời kỳ
này đế quốc Mỹ đă thi hành chính sách thực dân kiều mới ở Miền Nam
Việt Nam dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đ́nh Diệm mà ṇng cốt là
những người Công giáo: 50% lính trong quân đội Ngụy là người Công
giáo, 40% tướng tá Ngụy là Công giáo. Mỹ ngụy đồng loạt dựng lên các
tổ chức Công giáo phản động: "Liên đoàn sĩ quan Công giáo khu thủ đô
sài g̣n", "Thanh niên công giáo tiến hành", ?thanh niên thôn quê
Công giáo", "Thanh niên cộng ḥa" do chính các linh mục và giám mục
chỉ huy hoặc làm cố vấn, các tổ chức trên được sử dụng nhiều trong
chiến dịch "tố cộng", "diệt cộng".
-
Mỹ-Ngụy đă sử dụng thủ đoạn kích động tư tưởng kỳ thị tôn giáo giữa
đạo Công giáo với đạo Phật: đưa đạo Công giáo lên hàng quốc đạo,
thẳng tay đàn áp những giáo tín đồ có tư tưởng tiến bộ.
- Thấy
việc lợi dụng đạo Công giáo chống phá cách mạng vẫn chưa đủ, Mỹ-Ngụy
ra sức lợi dụng đạo Ḥa Hảo và đạo Cao đài, đồng thời Mỹ c̣n hậu
thuẫn cho việc phát triển đạo Tin Lành ở miền Nam, xây dựng và gắn
kết lực lượng phản động Fulro ở vùng Tây nguyên với đạo Tin lành.
- Từ năm
1974 trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, nguy cơ sụp đổ của
chính quyền Ngụy ngày càng trầm trọng, Mỹ đă chuyển hướng lợi dụng
tôn giáo theo một chiều hướng mới để phục vụ cho mục đích chống phá
cách mạng thời kỳ hậu chiến tranh cụ thể là:
- Đối
với đạo Công giáo: không trực tiếp chống cộng sản bằng vũ lực mà
chống phá mạnh mẽ trong lĩnh vực chính trị tư tưởng. Ngăn chặn các
chức sắc tiếp xúc với những luồng tư tưởng tiến bộ, cô lập các chức
sắc có tư tưởng tiến bộ, kích động các tín đồ xuống đường biểu t́nh
phản đối các chính sách của chính quyền cách mạng.
- Đối
với đạo Tin Lành: Tiếp tục củng cố các tổ chức ở vùng dân tộc ít
người, gắn kết tin lành với phản động FULRO xây dựng thêm nhiều cơ
sở phản động trong đao tin lành để đối phó với cách mạng sau khi
miền Nam được giải phóng.
- Đối
với đạo Cao đài và Ḥa hảo: Đế quốc Mỹ đă giúp đỡ các tổ chức tôn
giáo xây dựng lực lượng vũ trang nhằm mục đích chống phá cách mạng
trên cả hai lĩnh vực chính trị và quân sự.
- Đối
với đạo Phật: Đế quốc Mỹ nhận định đối với Phật giáo ở Việt nam
trước mắt chưa thể lợi dụng được nhưng sẽ lợi dụng bằng cách dùng
các tổ chức Phật giáo ở ngoài nước để tác động vào một số chức sắc ở
Việt Nam, (tổ chức mà Mỹ chuyên lợi dụng là "tổ chức thân hữu Phật
tử thế giới").
d- Giai
đoạn 1975 đến nay:
Đế quốc
Mỹ và các thế lực phản động quốc tế vẫn chủ trương tiếp tục lợi dụng
các tôn giáo vào hoạt động chống phá Việt Nam nhất là đối với đạo
Công giáo và đạo Tin Lành.
Căn cứ
vào t́nh h́nh kinh tế, chính trị xă hội nước ta, thực lực của giáo
hội Công giáo Việt nam, Va ti căng chỉ đạo giáo hội: Không nên manh
động, đối đầu với nhà nước, mà phải tập trung phát triển thế lực, là,
cho giáo hội có đủ lực lượng để có thể làm đối trọng với nhà nước ta;
phải đặc biệt chú trọng tới việc củng cố các đại chủng viện để phục
vụ cho việc đào tạo một lớp giáo sĩ có khả năng thích ứng nhằm chống
lại chế độ ta trong tương lai...; phải tích cực tham gia các hoạt
động từ thiện xă hội để nắm quần chúng tạo vốn chính trị cho giáo
hội; phải đổi mới thường vụ hội đồng giám mục Việt Nam theo hướng
các thành viên là người có thái độ "cứng rắn" về nguyên tắc nhưng
phải "mềm mỏng và hợp thời" trong hoạt động thực tiẽn, có khả năng
tranh thủ nhà nước và thu hút được giáo dân; cấm các giáo sĩ tham
gia Ủy Ban đoàn kết công giáo; đặc biệt chú ư đến lôi cuốn thanh
thiếu niên, trí thức, cán bộ Đảng viên trong các vũng giáo.. như vậy,
ư đồ của Va ti căng là củng cố thế và lực cho giáo hội Công giáo
Việt nam đủ mạnh mẽ để sử dụng như một công cụ, phương tiện chống
phá ta lâu dài. Dùng giáo hội để làm xói ṃn cơ sở quần chúng, cơ sở
Đảng của ta trong các vùng giáo, biến các địa bàn Công giáo thành
các lănh địa riêng.
Hiện
nay, Va ti căng đang t́m mọi cách để đặt quan hệ ngoại giao với Việt
Nam (Ṭa Khâm Sứ) để trực tiếp chỉ đạo giáo hội Thiên Chúa ở nước ta
như trước đây.
Những
năm gần đây, Va ti căng đặc biệt chú ư lợi dụng số tín đồ Công giáo
Việt Nam lưu vong ở nước ngoài (Mỹ, Pháp, Italia) để tác động vào
giáo hội Việt nam hoạt động chống phá chế độ. Số này có khoảng 400
linh mục, 200 tu sĩ và hàng trăm ngàn giáo dân, tập hợp trong các tổ
chức "Thiên Chúa giáo Việt Nam hải ngoại", "Liên đoàn Công giáo Việt
nam", "Cộng đồng giáo sĩ, tu sĩ Việt Nam" ở Mỹ. Nhiều người trong số
đó có hận thù với cộng sản, thuộc các đảng phái phản động trong Ngụy
quân ngụy quyền trước đây, một số tín đồ là đảng viên đảng cần lao
nhân vị thời Ngô Đ́nh Diệm. Va ti căng đă cho thành lập "văn pḥng
trung ương tông đồ mục vụ Việt nam - Hải ngoại" để tập hợp số tín đồ
Việt nam lưu vong ở nước ngoài. Văn pḥng này là một thành viên tích
cực tham gia dàn dựng cho việc phong 117 thánh tử đạo cho Việt Nam (năm
1988).
Việc
phong thánh lần này là sự kiện mang tính chất chính trị, v́ nó được
thực hiện vào đúng ngày thành lập "quân lực Việt nam Cộng ḥa", phần
lớn các giáo sĩ được tân phong thánh tử đạo lại có quá tŕnh cộng
tác với thực dân Pháp chống lại nhà nước Việt nam, vi phạm chủ quyền
độc lập dân tộc ta thời các vua nhà Nguyễn.
"Văn
pḥng trung ương tông đồ mục vụ Việt nam hải ngoại" đă chỉ đạo số
tín đồ là Đảng viên Đảng cần lao nhân vị khôi phục lại đảng của
chúng, và ra thông bào "hiệp thông" đề ra kế hoạch hậu cộng sản, gửi
về nước nhằm tác động vào bọn phản động trong nước, số ngụy quân
ngụy quyền cũ hoạt động chống phá ta.
Văn
pḥng này c̣n tập hợp tín đồ các tôn giáo khác (Cao đài, Ḥa hảo,
Tin lành, Phật giáo), với ư đồ tạo ra một liên minh tôn giáo chống
cộng ở nước ngoài, rồi từ đó tác động vào trong nước, để các tôn
giáo ở trong nước hoạt động chống phá sự nghiệp đổi mới của nhân dân
ta. Đây là một thủ đoạn mới của kẻ thù.
Để tạo
ra điều kiện vật chất cho giáo hội Công giáo Việt nam hoạt động theo
ư muốn của ḿnh, Va ti căng chỉ đạo nhiều tổ chức tôn giáo nước
ngoài viện trợ tiền, tài liệu phản động và trao đổi kinh nghiệm
chống CNXH ở Đông Âu, Liên Xô với giáo hội Việt nam. Va ti căng c̣n
gửi vào Việt nam hằng trăm tài liệu, sách báo có nội dung xấu, bôi
nhọ chế độ XHCN, kích thích tinh thần tử v́ đạo của quần chúng tín
đồ. Từ năm 1981 đến 1986 có 765 tài liệu phản động, riêng năm 1986,
có 200 tài liệu có nội dung chống phá cách mạng nước ta.
Va ti
căng c̣n sử dụng quyền ṭa thánh để sắp đặt những người có ư thức và
kinh nghiệm chống đối nhà nước vào chức tổng giám mục ở các ṭa.
Cùng với
những hoạt động hà hơi tiếp sức cho các phần tử chống chế độ trong
giáo hội, Bộ đế quốc phối hợp với Ṭa thánh Va ti căng c̣n sử dụng
các đài phạt thanh của các nước tư bản, các báo, tạp chí của các tổ
chức người Việt nam di tản để phát tán vào nước ta, ḥng phá hopại
tư tưởng quần chúng, chia rẽ dân với Đảng, chia rẽ dân tộc, lương
giáo. Đài phát thanh "nguồn sống" hàng ngày phát sóng bằng tiếng
Việt và tiếng Mông để tuyên truyền phát triển đạo, vu khống ta vi
phạm nhân quyền, vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo...
Ngoài ra,
Va ti căng c̣n chú ư lợi dụng các tổ chức tôn giáo phi chính phủ
(NGO), giáo hội Công giáo ở các nước tư bản đế quốc, đặc biệt là
Pháp, Mỹ, vào Việt Nam với danh nghĩa viện trợ nhân đạo từ thiện,
tham quan du lịch để nắm tin tức t́nh h́nh mọi mặt của ta.
Va ti
căng c̣n gửi cho giáo hội Công giáo Việt Nam "Thông điệp bách chu
niên" của giáo hoàng Gioan Pôn II, một văn kiện phản ánh chiến lược
"xă hội Công giáo" của ṭa thánh trong bối cảnh thế giới "một siêu
cường" (theo quan niệm của họ). Về thực chất, đây là một văn kiện
chống CNXH vàCNCS trên cả hai b́nh diện học thuyết và hiện thực, rất
phù hợp với quan điểm phản động chống học thuyết Mác và CNXH hiện
thực của bọn đế quốc trong chiến lược diễn biến ḥa b́nh.
Vậy là
trong giai đoạn hiện nay, đế quốc Mỹ và Va ti căng vẫn đang thực
hiện chiến lược sử dụng các tôn giáo nói chung, giáo hội Công giáo
nói riêng vào mục đích chính trị đen tối của chúng, thực hiện diễn
biến ḥa b́nh ở Việt Nam.
Tuy
nhiên, phương thức lợi dụng tôn giáo đă có phần thay đổi, từ chỗ
trước đây thành lập các tổ chức chống phá cách mạng công khai, điên
cuồng, chuyển sang phương thức mềm dẻo và "hợp thời" hơn (song bản
chất phản động vẫn không thay đổi), v́ thế mà cũng nguy hiểm hơn. Nó
có thể tạo nên tư tưởng lơ là, mất cảnh giác, hữu khuynh trong công
tác quản lư nhà nước về tôn giáo.
Song
song với việc lợi dụng Công giáo, Mỹ c̣n đạo diễn các hệ phái Tin
lành nước ngoài tác động trực tiếp vào các tổ chức Tin Lành trong
nước, cung cấp tài chánh cho các hệ phái trong nước hoạt động nhằm
củng cố tổ chức, phát triển tín đồ, mở rnang địa bàn ảnh hưởng lên
vùng núi phía Bắc và vùng Tây Nguyên. Đẩy mạnh công cuộc truyền giáo
vào đồng bào các dân tộc ít người, Đế quốc Mỹ đang muốn diễn lại mô
h́nh "truyền giáo - xâm lăng" của thực dân Pháp thuở xưa, nhưng ở
một tŕnh độ cao hơn, bằng những thủ đoạn tinh xảo hơn và phương
tiện truyền giáo hiện đại hơn !...
Chính
nhờ có sự hậu thuẫn của đế quốc mà những năm qua đạo Tin lành ở nước
ta phát triển với tốc độ rất nhanh.
Năm 1945:
cả nước có 6,000 tín đồ.
Năm 1954: cả nước có 50,000 tín đồ.
Năm 1995: cả nước có 300,000 tín đồ.
Vậy là
chỉ trong ṿng một nửa thế kỷ, số tín đồ đă tăng gấp 50 lần. Nhất là
trong mười năm trở lại đây, đạo Tin lành phát triển với tốc độ không
ngờ ở một số địa bàn. Chẳng hạn:
Tại các
tỉnh miền núi phía Bắc: Mặc dù đă tiếp cận với đồng bào dân tộc từ
năm 1986, nhưng từ năm 1991 đến nay đă phát triển thành phong trào.
Số tín đồ tăng từ 0 lên 5 vạn người.
Vùng Tây
nguyên: Năm 1975 mới có 5 vạn tín đồ, gần đây phát triển nhanh, chủ
yếu ở thị xă, thị trấn, thị tứ và vùng có đồng bào dân tộc ít người.
Đến nay con số này đă lên tới 20 vạn tín đồ.
Bọn đế
quốc thừa biết là Nhà nước Việt nam không khuyến khích phát triển
tôn giáo, nên chúng càng ra sức hỗ trợ cho các giáo hội phát triển
tín đồ, mở rộng địa bàn; chúng hy vọng sẽ xảy ra sự đụng chạm giữa
chính quyền cơ sở với tập hợp những người mới theo đạo Tin lành, (nhất
là với các đối tượng truyền đạo đang hoạt động bất chấp sự phản ứng
của chính quyền). Để rồi từ đó, dần dần h́nh thành "một cách tự
nhiên" luồng suy nghĩ mặc cảm, oán ghét chính quyền trong dân chúng.
Khi mâu thuẫn đó phát triển đến mức độ nhất định, địch sẽ biến số
quần chúng này trở thành lực lượng đối trọng với Nhà nước. Có thể
nói đây là một thủ đoạn "ly gián" rất tinh vi, rất xảo quyệt.
III/
MỘT SỐ NHIỆM VỤ CHỦ YẾU NHẰM PH̉NG, CHỐNG ĐỊCH LỠI DỤNG TÔN GIÁO
TRONG T̀NH H̀NH MỚI.
Âm mưu
của địch lơi dụng tôn giáo để chống phá cách mang rất nham hiểm,
song việc chúng có thực hiện được hay không c̣n phụ thuộc vào phía
ta. Nhiệm vụ bao trùm hiện nay là: bằng mọi cách, chúng ta phải làm
mất cơ sở lợi dụng của địch. Muốn vậy, cần thực hiện tốt những nội
dung sau đây:
1. Phải
có chủ chương, chính sách đúng, phù hợp với t́nh h́nh, làm cho đồng
bào có tôn giáo yên tâm tin tưởng vào Đảng và Nhà nước. Các cấp phải
tổ chức thực hiện đúng cả chủ chương, chính sách đó, làm cho nó đi
vào cuộc sống.
2. Việc
tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của dân, đảm bảo cho các tín đồ (người
thực sự có niềm tin tôn giáo) có nơi để thờ tự, có kinh sách để đọc,
có người tốt hướng dẫn việc đạo, đồng thời phải quản lư chặt chẽ
t́nh h́nh tư tưởng và mọi hoạt động tôn giáo, xă hội của các tổ chức
tôn giáo, không được lơ là cảnh giác, buông lỏng công tác quản lư
nhà nước về tôn giáo.
Trong
thực tiễn, điều khó nhất là phân biệt hoạt động tôn giáo chính đáng
đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của người có đạo với những hoạt động mê
tín dị đoan và những âm mưu, hành động lợi dụng tôn giáo lôi kéo
đồng bào có đạo vào các hoạt động phá hoại cách mang. Cùng một hành
động có khi mang ư định lành mạnh, có khi chứa đựng dụng ư xấu; hoặc
có khi ư đồ xấu của một số phần tử thù địch xâm nhập và ẩn dấu dưới
những hoạt động b́nh thường của đông đảo đồng bào có đạo.
V́ vậy,
cần phải cố gắng phân tích, tách yếu tố chính trị phản động ra khỏi
yếu tố tôn giáo thuần túy.
3. Giúp
đỡ các giáo hội xây dựng tổ chức và duy tŕ đường hướng hành đạo
theo đúng tinh thần của nước Việt Nam độc lập, có chủ quyền.
"Nhưng
đất nước độc lập th́ tôn giáo cũng phải được độc lập, các tôn giáo
phải hành đạo đúng với tư cách tôn giáo ở một nước độc lập tự chủ.
Các tôn giáo, nhất là thiên chúa giáo, không thể lệ thuộc bên ngoài.
Phải nâng cao ư thức dân tộc của chức sắc và giáo dân."
(trích
bài phát biểu hướng dẫn tổng kết nghị quyết 24 của Bộ chính trị -
của dồng chí Phạm Thế Duyệt, UVBCT).
4. Ra
sức cũng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân trong đó có
đông bào theo các tôn giáo. Muốn đoàn kết được, trước hết phải xóa
bỏ định kiến, mặc cảm hiện nay đang tồn tại ở cả hai phía: cán bộ và
nhân dân, đồng thời phải đấu tranh ngăn chặn các biểu hiện kích bác,
gây chia rẽ giữa lương và giáo, giữa tôn giáo này với tôn giáo khác,
giữa quần chúng có đạo với chính quyền địa phương.
"Quan
điểm của Đảng cũng như tư tưởng của Bác Hồ hoàn toàn xa lạ với thái
độ kỳ thị tôn giáo, chỉ thấy những biểu hiện tiêu cực, trái khoa học
mà bỏ qua mặt tích cực, coi tôn giáo chỉ có tác dụng xấu.
Trong
đời sống thực tế, nổi lên t́nh h́nh khá phổ biến là đồng bào có đạo
thường tích cực tham gia làm việc nghĩa, ít tiêm nhiễm các tệ nạn xă
hội; các h́nh thức hoạt động xă hội tự quản của dân cư, hỗ trợ và
phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để giữ ǵn trật tự trị
an, giải quyết các tranh chấp nội bộ, chống các tệ nạn xă hội và
hành vi phạm pháp cũng xuất hiện sớm và phát triển nhanh ở một số
nơi đồng bào có đạo; những cuộc vận động xóa đói giảm nghèo, xóa nạn
mù chữ, nâng cao dân trí, xây dựng gia đ́nh và khu dân cư văn ḥa
mới cũng được đông bào có đao nhiệt t́nh hưởng ứng tham gia.
Những
kinh nhiệm và mô h́nh tốt, thể hiện mặt tích cực của đồng bào có đạo
cần được tổng kết và nhân rộng. Đồng thời đó là căn cứ thực tế giúp
cho việc khắc phục thái độ c̣n hẹp ḥi, nặng về đối phó của một số
cán bộ, đảng viên và cơ quan chính quyền đối với tôn giáo, dẫn tới
việc làm sai chính sách khiến cho chức sắc tôn giáo và đồng bào có
đạo ở một số nơi c̣n giữ mặc cảm, nghi kị đối với chính sách của
Đảng và Nhà nước ta".
(trích
phát biểu của Phó thủ tướng: Phan Văn Khải, UVBCT, tại hội nghị tổng
kết hướng dẫn nghị quyết 24/NQ/TW).
5. Xây
dựng và phát triển phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc trong vùng đồng
bào có dạo. Song, nội dung phải thiết thực, sát với đặc điểm từng
nơi. Phong trào phát triển [13] tốt, chính là tại thế trận "thiên la
địa vơng" làm cho kẻ địch khó bề hoạt động, đụng vào đâu cũng vấp
phải sức phản kháng tại chỗ.
6. Làm
tốt công tác nắm các chức sắc, chức việc, giáo sĩ để tranh thủ họ.
Đối tượng đầu tiên mà địch nhắm tới để lợi dụng là đội ngũ, chức sắc,
chức việc, giáo sĩ (nhất là chức sắc cao cấp trong các giáo hội),
thủ đoạn của địch là gây chia rẽ trong nội bộ các chức sắc, tạo ra
xu hướng ly khai trong một số giáo sĩ để rồi lợi dụng họ vào mục
tiêu chống phá cách mạng. V́ vậy, nếu ta tranh thủ được đội ngũ này
tức là đă làm mất đi cơ sở lợi dụng quan trọng của địch. Muốn thế ta
phải tôn trọng họ, hiểu từng người một, tranh thủ mặt tích cực của
họ dù là nhỏ. Khi xuất hiện xu hướng ly khai phải xử lư kịp thời,
không để đích tạo dựng ngọn cờ rồi tập hợp lôi kéo quần chúng chống
phá ta. Phải chủ động, không để sự việc xảy ra rồi mới tập trung
giải quyết.
7. Khi
giải quyết các vấn đề tôn giáo phức tạp, cần thực hiện tốt một số
yêu cầu sau:
- Chủ
trương giải quyết thế nào là do ta, nhưng phải lấy giáo hội để giải
quyết vần đề của giáo hội (thông qua các chức sắc tiền bộ). cơ quan
điều hành của giáo hội có trách nhiệm về mọi vấn đề có liên quan đến
tôn giáo, xă hội xảy ra trong phạm vi quản lư của ḿnh, v́ vậy họ
không thể từ chối trách nhiệm khi ta yêu cầu phối hợp giải quyết.
- Việc
giải quyết các vấn đề tôn giáo phức tạp phải êm và gọn, không để lây
lan, phát triển thành điểm nóng, nên khoanh lại từng vùng, từng việc
một để giải quyết cho ổn. Không để các thành phần chống đối liên kết
thành tổ chức. Khi phát hiện có sự liên kết trong và ngoài nước, cần
phải có kế hoạch "phá" càng sớm càng tốt. Phải giải quyết cả những
vấn đề "bên trong" và "bên ngoài", nhưng "trong" là chính - làm mất
cơ sở của địch ở bên trong là chính.
- Khi
giải quyết một vấn đề tôn giáo phức tạp (hoặc liên quan đến tôn giáo)
vấn đề quan trọng là phải ổn định được t́nh h́nh, giữ vững được đoàn
kết, không tạo ra kẽ hở để địch có thể kích động lợi dụng quần chúng.
Nếu xử lư mà không ổn định được t́nh h́nh th́ phải coi việc xử lư đó
là không đạt yêu cầu và phải xem xét lai.
- Trong
quá tŕnh giải quyết, có thể kết hợp một cách khéo léo, hài ḥa giữa
"luật đạo" và "luật đời", tuy nhiên vẫn phải bảo đảm nguyên tắc
chung là "luậït đạo" phục tùng "luật đời" (luật pháp nhà nước).
8. Tăng
cường giáo dục, bồi dưỡng kiến thức khoa học, kỹ thuật, h́nh thành
chủ nghĩa vô thần cho quần chúng có đạo bằng nhiều cách, thông qua
nhiều con đường (như: Giáo dục, nghệ thuật, truyền thông đại chúng,
phim ảnh, báo chí, băng dằi,...).
Nói
tôn trọng tự do tín ngưỡng không có nghĩa là khuyến khích phát triển
tôn giáo. Trong một điều kiện nhất định, khi tín ngưỡng và niềm tin
tôn giáo c̣n tồn tại như một hiện tượng khách quan, khi nó c̣n là
nhu cầu của một bộ phâÏn nhân dân th́ nhà nước của dân có trách
nhiệm tạo điều kiện để bộ phận quần chúng đó thức hiện nhu cầu tâm
linh của ḿnh. Song, tôn giáo bao giờ cũng có hai mặt tích cực và
tiêu cực. Mặt tiêu cực của tôn giáo luôn luôn ảnh hưởng ngược chiều
đến sự phát triển của cá nhân và sự tiến bộ xă hội. Bây giờ không
phải là lúc ngồi tranh căi suốt ngày xem "vô thần" đúng hay "hữu
thần" đúng. Vả lại , làm như vậy không khéo chúng ta lại trúng kế
của địch: chúng đang muốn khoét sâu mâu thuẫn giữa "vô thần" và "hữu
thần", giữa cộng sản với người theo tôn giáo, muốn chuyển hóa mâu
thuẫn nội bộ thành mâu thuẫn đối kháng để chúng lợi dụng. Cái cấp
thiết hiện nay là nâng cao tŕnh độ dân trí, nâng cao sự hiểu biết
về những kiến thức khoa học, kỹ thuật cần thiết nhất, trên cơ sở đó
mà h́nh thành và phát triển chủ nghĩa vô thần trong nhân dân. Chính
khoa học - kỹ thuật - công nghệ sẽ là lực lượng chủ công để giải
quyết một cách cơ bản sự tồn vong của tín ngưỡng và tôn giáo.
9. Phải hết sức chú trọng vấn đề nhân sự của giáo hội ở tất cả các
cấp, v́ đường hướng hoạt động của tổ chức tôn giáo phụ thuộc rất lớn
vào lập truờng quan điểm, tư tưởng, phẩm hạnh... của đội ngũ này.
Nhân sự là vấn đề nội bộ, nhưng chính quyền các cấp phải "điều khiển"
được ở một mức độ cần thiết. Mặt khác phải chủ động trong việc hướng
dẫn các tổ chức tôn giáo bồi dưỡng nhân sự cho chính họ.
10. Tăng cường chất lượng công tác tuyên truyền trong vùng đồng
bào dân tộc ít người dang bị ảnh hưởng của đạo "tinh lành". Nh́n
chung hiệu quả tuyên truyền của ta c̣n thấp, có lẽ do ta chưa thoát
khỏi phương pháp tuyên truyền cũ, lời lẽ tuyên truyền nhiều khi c̣n
mang nặng tính chất áp đặt, vội vàng muốn ăn ngay, tuyên truyền theo
kiểu trực diện . Phải cải tiến công tác này cả về nội dung, h́nh
thức và phương pháp sao cho: Người được tuyên truyền cảm thấy như là
ḿnh không bị tuyên truyền!... Khi đó mới trở thành "nghệ thuật
tuyên truyền". Cũng nên t́m hiểu cách tuyên truyền của "phía bên kia"
để ta nghĩ cách "phản " lại, đồng thời cũng là để rút kinh nghiệm
cho ta trong việc lựa chọn h́nh thức, phương pháp tuyên truyền như
thế nào cho thích hợp nhất.
Để chống đích lợi dụng tôn giáo có hiệu quả, cần phải áp dụng đồng
bộ nhiều biện pháp. Tuy nhiên nếu làm tốt mười nhiệm vụ nói trên,
đồng thời thường xuyên tổng kết đúc rút kinh nghiệm, kết hợp với
những vaÏn dụng kinh nghiệm của các tỉnh bạn, th́ công tác chống
địch lợi dụng tôn giáo ở tỉnh ta nhất định sẽ đạt kết quả tốt hơn.
Lào cai, ngày 24 tháng 12 năm 1998.
Lê Khả Tín, nghiên cứu và b́nh chú, 2001. (Xin gửi đến quí vị tài
liệu này, nguyên bản 14 tt, khổ A4, font chữ 12, để nghiên cứu và
hiểu rơ thực chất nền tảng của chính sách cùng pháp chế tự do tôn
giáo và tín ngưỡng của Nhà nước CSVN).
|