Việt Sử
 

Hoàng Lê Nhất Thống Chí

Ngô Gia Văn Phái

Mục Lục

Hồi thứ nhất

Đặng Tuyên Phi được yêu dấu, đứng đầu hậu cung

Vương Thế Tử bị truất ngôi, ra ở nhà kín

Hồi thứ hai

Lập Điện đô, bảy quan nhận di chúc,

Giết Huy quận, ba quân pḥ Trịnh vương.

Hồi thứ ba

Dương nguyên cữu bàn chém kiêu binh,

Nguyễn quốc sư mưu trừ nội loạn

Hồi thứ tư

Nhờ ngoại viện, Hữu Chỉnh rửa thù thầy

Tỏ ḷng trung, Trần Quán chết theo chúa.

Hồi thứ năm

Pḥ chính thống, thượng công vào điện

Kết duyên lành, công chúa ra xe.

Hồi thứ sáu

Chúa Tây Sơn lẻn rút quân về nước

Quân Đông Giang mưu khởi nghĩa pḥ vương

Hồi thứ bảy

Pḥ Lê đế, đạo Vũ thành lại ra quân

Đốt Trịnh cung, chúa án đô phải bỏ nước.

Hồi thứ tám

Dương Trọng Tế bị dâng tù trước nhà Thái học

Hoàng Phùng Cơ phải tự tử ở ngoài Tây thành.

Hồi thứ chín

Tướng Tây Sơn Vơ Văn Nhậm đem quân lấn ngoài bờ cơi

Quan b́nh chương Trần Công Xán vâng mệnh bàn việc biên cương

Hồi thứ mười

Lân dương hầu pḥ chúa vượt biển đến Yên Quảng

Bằng công Chỉnh mời vua qua sông đi Lạng Sơn

Hồi thứ mười một

Tây Sơn lại kéo vào thành chiếm giữ đất nước

Chiêu thống ba phen tính chước khôi phục kinh đô

Hồi thứ mười hai

Lê sứ thần qua đất Bắc xin quân

Tôn đốc bộ tới ải Nam truyền hịch

Hồi thứ mười ba

Khiếp thanh thế, giặc mạnh rút lui

Nhờ viện binh, vua xưa trở lại

Hồi thứ mười bốn

Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận

Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài

Hồi thứ mười lăm

Dẹp yên cơi Bắc, Nguyễn Huệ được phong

Đánh phá Cao Bằng, Duy Chỉ bị hại

Hồi thứ mười sáu

Tế Linh đường, sứ Thanh bị lừa

Chết Yên Kinh, vua Lê nuốt hận

Hồi thứ mười bảy

Mất thành Thăng Long, vua Cảnh Thịnh bị bắt

Táng lăng Bàn Thạch, Nguyễn Hoàng Phi chết theo

Hoàng Lê nhất thống chí

Ngô gia văn phái

Hồi thứ nhất

Đặng Tuyên Phi được yêu dấu, đứng đầu hậu cung

Vương Thế Tử bị truất ngôi, ra ở nhà kín.

Triều Lê Trang tông Dụ hoàng đế (Tức Lê Trang Tông, tên là Duy Ninh (1533-1548). Các chú thích từ đây trở đi đều của người dịch) trung hưng cơ nghiệp ở sông Tất Mă (Tức sông Mă ở Thanh Hoá). Bấy giờ Thế tổ Minh khang thái vương Trịnh Kiểm làm phụ chính, giúp vua dẹp yên được đảng họ Mạc và trở lại kinh đô cũ. Rồi từ đó, họ Trịnh đời đời kế tiếp tước vương, nắm giữ hết quyền bính trong tay, hoàng gia mỗi ngày một suy yếu dần.

Truyền đến đời Hiển tông Vĩnh hoàng đế, niên hiệu Cảnh hưng (1740-1786), th́ Thánh tổ Thịnh vương (Tức Trịnh Sâm, mới lên ngôi chúa) chuyên quyền cậy thế, làm oai làm phúc; vua Lê chỉ c̣n biết chắp tay rủ áo mà thôi.

Thịnh vương là người cứng rắn, thông minh, quyết đoán sáng suốt, trí tuệ hơn người, có đủ tài về văn lẫn vơ, đă xem khắp kinh sử, biết làm văn làm thơ. Sau khi Thịnh vương lên nối ngôi chúa, từ kỷ cương trong triều đến chính trị trong nước, hết thảy đều được sửa đổi; bao nhiêu tướng giặc, đảng nghịch, đều lần lượt bị dẹp tan, Chúa có cái chí muốn làm bá chủ, nào diệt giặc Trấn Ninh, nào phá bọn Công Chất [đây là hai cuộc khởi nghĩa nông dân lớn ở thế kỷ 18. Cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Mật ở vùng Thanh-Nghệ, lấy Trấn Ninh làm căn cứ, kéo dài 32 năm (1738-1770). Cuộc khởi nghĩa của Hoàng Công Chất ở vùng Sơn Nam và Tây Bắc, kéo dài 30 năm (1739-1769)], quân nhà chúa đă đến, không chỗ nào là không thắng. Lúc đó bốn phương yên ổn, kho đụn đầy đủ, chúa dần dần sinh bụng kiêu căng, xa xỉ, phi tần thị nữ kén vào rất nhiều, mặc ư vui chơi thoả thích.

 

Một hôm, tiệp dư (Một cấp bực của vợ vua, dưới bậc phi) Trần Thị Vịnh sai nữ tỳ Đặng Thị Huệ bưng một khay hoa đến trước nơi chúa ngồi. ả họ Đặng này, quê ở làng Phù Đổng, mắt phượng mày ngài, vẻ người mười phần xinh đẹp. Chúa nom thấy rất bằng ḷng, bèn tư thông với ả.

 

Từ đó, Thị Huệ càng ngày càng được nhà chúa yêu quí, ả nói ǵ chúa cũng nghe và hễ có việc ǵ là chúa cũng bàn với ả. Rồi ả được ở chung một nơi với chúa, y như một cặp vợ chồng nhà thường dân. Xe kiệu, quần áo của ả cũng đều được sắm sửa hệt như đồ dùng của chúa.

 

Thị Huệ từ lúc được nhà chúa chiều chuộng, hơi có vẻ lộng hành. Hễ có chuyện ǵ không vừa ư, là ả xây xẩm mặt mày, rồi kêu khóc thảm thiết để làm rối ḷng chúa.

 

Chúa có một viên ngọc dạ quang, lấy được trong khi đánh dẹp phương Nam, vẫn xâu ở trên đầu khăn làm đồ trang sức. Một hôm Thị Huệ lấy tay mân mê viên ngọc. Chúa nói:

 

- Nhè nhẹ tay chứ, đừng làm ngọc sây sát!

 

Thị Huệ bèn ném viên ngọc xuống đất mà khóc rằng:

 

- Làm ǵ cái hạt ngọc này! Chẳng qua vào Quảng Nam kiếm giả chúa hạt khác là cùng. Sao chúa nỡ trọng của khinh người như vậy?

 

Rồi ả tự ư bỏ ra ở cung khác, từ chối không gặp chúa nữa. Chúa phải dùng nhiều cách dỗ dành cho ả vui ḷng, lúc ấy ả mới chịu làm lành với chúa.

 

Kịp đến khi Thị Huệ có mang, chúa liền sai người đi lễ khắp trăm thần để cầu sinh con thánh. Đến kỳ, ả sinh được một trai, vào năm Đinh Dậu, niên hiệu Cảnh hưng 38 (1777). Chúa hết sức yêu mến đứa bé, lúc đầy trăm ngày, chúa lấy tên của ḿnh lúc nhỏ là Cán mà đặt cho nó, để tỏ ra nó cũng giống ḿnh.

 

Khoa thi hương năm ấy, chúa lấy hai câu: "Sơn xuyên anh dục, hà hải tú chung" (Nghĩa là: "Khí thiêng của sông núi tụ lại, sự tốt đẹp của hồ biển đúc nên", ư muốn chỉ về Trịnh Cán), để làm đề thi. Các quan văn vơ đưa đón ư chúa, cũng có nhiều kẻ lấy chữ: "Tính huy hải nhuận" (nghĩa là: "Sao sáng, biển hoà" tức là điềm sinh ra bậc thánh) làm câu chúc mừng.

 

Lúc vương tử Cán đầy tuổi tôi, cốt cách tướng mạo khôi ngô, đẫy đà, khác hẳn người thường. Đến khi biết nói, vương tử Cán đối đáp găy gọn, cử chỉ không khác ǵ người lớn. Mỗi khi các quan văn vơ vào thăm, vương tử tiếp đón với dáng bộ nghiêm chỉnh. Có người cách hàng năm mới gặp, vương tử cũng vẫn nhớ rơ họ, tên, kể lại chuyện cũ vanh vách. Chúa sai quan từ hàn làm bài tụng 16 chữ, để viên a bảo (viên quan trông nom việc nuôi nấng, dạy dỗ con cái của vua chúa) dạy truyền miệng cho vương tử. Vương tử chỉ nghe qua một lượt là đọc thuộc liền. Thấy vậy chúa càng quí vương tử Cán bội phần.

 

Cũng do đó, Thị Huệ mới ngầm có ư muốn cướp ngôi thế tử.

 

Lại nói, lúc ấy chúa đă có thế tử là Trịnh Tông (sau đổi là Trịnh Khải), do thái phi họ Dương đẻ ra. Thái phi tên là Ngọc Hoan, người ở làng Long Phúc, huyện Thạch Hà. Chị nàng là cung tần của Ân vương (cha Thịnh vương, tức là Trịnh Doanh), sinh ra Thuỵ quận công, được Ân vương hết sức yêu quí. Nhờ chị, thái phi được kén vào làm cung tần của Thịnh vương. Nhưng từ sau khi vào cung, nàng vẫn ngày đêm sống cô quạnh. Bỗng một đêm, nàng nằm mơ thấy vị thần đem cho tấm đoạn có vẽ đầu rồng. Nàng không hiểu đó là điềm ǵ, đem hỏi viên quan hầu là Khê trung hầu. Khê trung hầu biết chắc là điềm sinh thánh.

 

Hôm sau, chúa cho vời cung tần Ngọc Khoan vào hầu. Khê trung hầu cố ư giả làm nghe lầm, đưa ngay thái phi Ngọc Hoan đến. Thấy nàng, chúa có vẻ không thích, nhưng đă chót gọi đến, không nỡ đuổi ra. Sau đó chúa đ̣i Khê trung hầu vào trách mắng. Khê trung hầu cúi đầu tạ tội, đoạn thuật rơ đầu đuôi chuyện thái phi nằm mơ cho chúa nghe. Chúa cũng nín lặng không nói sao cả.

 

Thái phi trải qua một trận mưa móc, liền có thai ngay. Đến kỳ, nàng sinh ra một trai. Năm Quí-mùi, Cảnh hưng 24 (1763).

 

Chúa tự nghĩ đầu rồng tuy có khí tượng làm vua, nhưng là rồng vẽ không phải rồng thật, mà lại chỉ có đầu không có đuôi, như vậy chưa hẳn đă là điềm tốt cả. Vả lại ở triều trước, Trịnh Cối, Trịnh Lệ (Trịnh Cối là con Trịnh Kiểm, Trịnh Lệ là con Trịnh Doanh. Hai người này đều mưu đồ giành ngôi chúa, nhưng đều thất bại) cũng do người Long Phúc đẻ ra và đều mưu sự phản nghịch mà không thành.

 

Do đó, chúa có ư không vui. Các quan văn vơ vào chúc mừng, chúa lấy cớ rằng đứa con ấy không phải là vợ cả đẻ ra, từ chối không nhận lời mừng.

 

Khi thế tử Tông đă lớn, dung mạo rất khôi ngô mà chúa cũng chẳng yêu chiều ǵ mấy.

 

Tính thế tử ham vơ nghệ, không thích học hành. Năm lên bảy tuổi, chúa sai Nguyễn Khản (Nguyễn Khản là con Nguyễn Nghiễm, người huyện Nghi Xuân Nghệ Tĩnh có sách chép là Nguyễn Lệ) tiến sĩ khoa Canh-th́n (1760), làm tả tư giảng, và Trần Thản, tiến sĩ khoa Kỷ-sửu (1769), làm hữu tư giảng để rèn tập cho thế tử. Nhưng chẳng bao lâu, Thản chết. C̣n Khản th́ đang được chúa tin dùng, phải quán xuyến mọi công việc trong ngoài, nên cũng không mấy khi đến được chốn "màn giảng", chỉ có năm sáu viên tuỳ giảng bảo ban việc học cho thế tử theo như nếp cũ mà thôi. Chuyện đó chúa cũng có biết phần nào, nên lại càng không bằng ḷng.

 

Theo lệ cũ, người con trai nối ngôi chúa hễ đến mười hai tuổi th́ phải ra ở Đông cung. Bấy giờ các quan cũng có tâu tŕnh việc ấy; song chúa không cho, bắt thế tử phải đến ở tại nhà riêng của quan a bảo là Hân quận công (Nguyễn Đĩnh). Như vậy, ngôi đông cung vẫn bỏ trống, như có ư chờ đợi người khác.

 

Đến năm thế tử mười lăm tuổi, th́ con nhỏ là vương tử Cán ra đời, chúa hết sức yêu dấu đứa con nhỏ đó. Ba năm sau, thế tử đúng mười tám tuổi. Theo lệ cũ, thế tử đáng được mở phủ riêng; nhưng bấy giờ các quan chẳng ai dám tâu bày, mà chúa cũng không hề nhắc tới việc ấy.

 

Như thế là người nối ngôi vẫn chưa định, nên ḷng người rất phân vân. Hễ ai thuộc về thế tử Tông th́ hùa theo thế tử Tông, ai thuộc đảng Thị Huệ th́ vào phe vương tử Cán. Trong phủ chúa dần dần sinh ra bè nọ cánh kia.

 

Thị Huệ cho rằng thế tử Tông đă khôn lớn, lông cánh đă đủ; mà con ḿnh hăy c̣n trứng nước, nên càng mưu mô để gây thêm thế lực.

 

Khi ấy Huy quận công Hoàng Tố Lư (nguyên trước là Hoàng Đăng Bảo) đang có danh vọng lớn, thường dựa vào sự giúp đỡ của Thị Huệ; mà Thị Huệ thường cũng lấy quận Huy làm chỗ nhờ cậy bên ngoài. Quận Huy người làng Phụng Công, là cháu B́nh Nam thượng tướng quân Việp quận công là Hoàng Ngũ Phúc, vẻ người thanh dật, là tay văn vơ toàn tài. Khoa thi hương năm ất-dậu (1765), Huy đi thi được trúng cách; đến khoa thi vơ năm Bính-tuất (1766) Huy lại đỗ luôn tạo sĩ. Hồi ấy Ân vương c̣n đang trọng dụng quận Việp, mới gả con gái thứ cho quận Huy.

 

Uy quyền quận Việp mỗi ngày một lớn. Có người ngờ sẽ xảy ra điều ǵ bất trắc, hoặc cũng có kẻ bảo quận Việp sắp lấy thiên hạ để truyền cho quận Huy. Căn cứ vào lời sấm hồi ấy có câu: "Nhất thỉ trục quần dương". (Một con lợn đuổi đàn dê); có kẻ tán rằng: Thỉ tức là quận Huy, bởi v́ quận Huy tuổi hợi (thuộc lợn), mà dương đây chỉ vào chúa và thế tử, v́ cả hai đều tuổi mùi (thuộc dê). Rồi những kẻ hiếu sự lại c̣n đặt ra câu sấm: "Thảo nhất điền bát" (Cỏ một, ruộng tám) để chỉ vào chữ Hoàng (thảo nhất điền bát chắp lại thành chữ Hoàng chỉ Hoàng Ngũ Phúc). Có kẻ lại nói: "Thổ sất vân gian nguyệt, hoàng hoa ánh nhật hương". (Mảnh đất sánh trăng trong mây; hoa cúc ánh hương mặt trời). Thổ, sất, nguyệt là chữ tế (chữ tế nghĩa là con rể, chỉ quận Huy). Hoàng, hoa, nhật là chữ Việp (Chữ Việp gồm chữ hoa và chữ nhất, c̣n chữ Hoàng là họ Hoàng), chỉ quận Việp. Thêm nữa, tên cũ của quận Huy là Đăng Bảo (Có nghĩa là: lên ngôi báu) người ta cũng lấy đó để dị nghị. V́ vậy quận Việp muốn tránh sự hiềm nghi ấy mới bảo quận Huy đổi tên Đăng Bảo ra Tố Lư.

 

Sau quận Việp lấy cớ mắc bệnh đau mắt để xin từ chức, chuyện ấy chẳng nhắc làm ǵ nữa.

 

Lại nói năm Giáp-ngọ (1774), quận Việp phụng mệnh kéo quân vào đánh trong Nam, có đem quận Huy đi theo. Quận Huy vốn đă học được phép dùng binh gia truyền của quận Việp, nên được các tướng tá rất sợ phục. Huy lại khéo cắt đặt nhân tài, nên các tay hào kiệt đều vui ḷng chịu sai khiến. Huy có công luôn luôn phá được quân địch, tiếng tăm mỗi ngày một lẫy lừng. Khi dẹp yên được xứ Thuận Hoá th́ quận Việp qua đời. Chúa bèn giao luôn cho quận Huy quản lĩnh số quân của quận Việp, và cho làm trấn thủ Nghệ An.

 

Đóng ở trấn Nghệ An. Huy ra sức tiêu diệt trộm cướp, cấm đổi tiền (đổi tiền đẹp để tích trữ, làm cho tiền khan hiếm), trấn áp cường hào, ngăn chặn việc kiện cáo, làm cho trong hạt rất thịnh vượng, Huy lại thu dụng những kẻ anh tài, đặt ra nhiều chức liêu thuộc. Dưới trướng ông ta có những tên như tả, hữu tham quân chẳng hạn. Thế là thiên hạ lại ồn ào lên, đồn rằng quận Huy sắp sửa làm phản.

 

Chúa nghe tiếng, ngày ngày cùng viên triều thần tin cẩn là Nguyễn Khản và quan thế tử a bảo Hân quận công Nguyễn Đĩnh bàn cách giết Huy. Trong lúc bàn bạc, ba người vẫn dùng tiếng lóng "chữ thập" để chỉ quận Huy. V́ chữ thập cũng na ná chữ nghệ (chữ thập xoay chéo thành chữ nghệ viết tắt) là trấn Nghệ An, nơi quận Huy đóng quân.

 

Họ thường đuổi mọi người đi để bí mật bàn bạc, chỉ có Thị Huệ là biết được.

 

Công chúa vợ quận Huy, ngày đêm ra vào trong phủ luồn lọt Thị Huệ; Thị Huệ mới đem việc kín nói cho công chúa nghe. Quận Huy trong dạ không yên, dâng thư xin về triều. Chúa cho phép ngay.

 

Huy nghĩ rằng Thị Huệ tuy được chúa yêu, nhưng con trai của Thị Huệ c̣n nhỏ, trong khi đó thế tử đă lớn rồi, hùa theo Thị Huệ e không phải là kế lâu bền. V́ vậy, sau khi đă vào hầu chúa, Huy liền lấy châu báu đút lót cho những kẻ chân tay của thế tử, để xin nương tựa vào thế tử. Rồi Huy lại đem một trăm lạng vàng và mười tấm đoạn Nam Kinh làm lễ yết kiến, để xin vào ra mắt thế tử. Nhưng thế tử không nhận đồ lễ, cũng không cho vào gặp, nói riêng với bọn hầu cận rằng:

 

Thằng giặc ấy sao không ở trấn làm phản, mà lại vội về triều? Rồi đây ta sẽ tịch thu hết cả gia sản nhà nó, cần ǵ đồ lễ của nó bây giờ!

 

Quận Huy biết thế tử không dung ḿnh, bèn quyết ư hùa theo Thị Huệ và âm thầm có chí phế lập.

 

Huy đem dâng ngôi nhà cũ của quận Việp cho vương tử Cán làm dinh thự. Từ đó, Huy thành ra người riêng của Thị Huệ. Mà trước mặt chúa, Thị Huệ cũng hết sức bao che cho Huy. Do đó, quận Huy được vào chính phủ (phủ của chúa Trịnh để phân biệt với triều đ́nh của vua Lê) mở dinh quân Trung nhuệ, coi việc trong phủ, đồng thời kiêm lĩnh chức trấn thủ trấn Sơn Nam (địa bàn của Sơn Nam thời Lê gồm: Hà Đông, Hà Nam, Hưng Yên, Nam Định, Thái B́nh), Quận Huy và Thị Huệ, trong ngoài liên kết với nhau, thế lực nghiêng cả thiên hạ. Các viên quan vơ như chức cai cơ, trấn thủ, đều do cửa của họ mà ra. Lúc ấy, duy chỉ có Hồng lĩnh hầu Nguyễn Khản, trấn thủ Sơn Tây hiện đang làm tả tư giảng cho thế tử, và Tuân sinh hầu Nguyễn Khắc Tuân, trấn thủ Kinh Bắc tức con nuôi của Hân quận công, hiện đang làm a bảo cho thế tử, là c̣n dám có ư kia khác với quận Huy mà thôi. Như vậy là cái thế bè đảng đă thành rồi.

 

Lại nói, từ khi vương tử Cán sinh ra, thế tử Tông có ư rất tức bực, chỉ sợ ḿnh không được lập làm chúa. Thế tử cùng với bọn gia thần là mấy tên hầu Thế Thọ, Thẩm Thọ... nho sinh Đàm Xuân Thụ và tên xuất thân tạp lưu (là hạng thư lại không đỗ đạt ǵ, không do chính ngạch mà ra) Vĩnh Vũ, ngày đêm bàn mưu, lo lắng không biết nên làm thế nào.

 

Vừa lúc đó, chứng bệnh cũ của chúa lại phát, bệnh t́nh rất nguy kịch. Một đêm thế tử bỗng mơ thấy ḿnh mặc áo chầu chàm, đội mũ chữ đinh, đứng ở phủ đường. Sáng mai thế tử kể lại với bọn gia thần và nói:

 

- Ta mơ như vậy là điềm có tang, trong cung nay mai chắc sẽ có biến; ta phải sớm lo liệu trước mới được.

 

Bọn tôi tớ ấy liền khuyên thế tử nên ngấm ngầm sắm sửa binh khí, chiêu mộ dũng sĩ; một mai trong cung xảy ra chuyện chẳng lành, th́ cứ việc đóng chặt cổng thành, giết quận Huy, và bắt giữ cả hai mẹ con Thị Huệ, khiến vương tử Cán không thể lên ngôi chúa. Mặt khác báo cho hai trấn Tây, Bắc (Sơn Tây, Kinh Bắc) đem quân vào kinh, bắt ép các đại thần để dựng thế tử lên ngôi chúa.

 

Thế tử nghe theo và phao lên rằng ḿnh sắp được lệnh đem quân vào đánh miền Nam. Rồi thế tử lại sai người báo ngầm cho Khê trung hầu, giao một ngàn lạng bạc cho nho sinh Đàm Xuân Thụ để Thụ phân phát cho bọn tay chân đi mua sắm vũ khí. Tiếp đó, thế tử mật báo cho các viên trấn thủ ở hai trấn Tây, Bắc, chiêu tập dũng sĩ.

 

Thế tử cắt đặt xong th́ bệnh của chúa cũng vừa khỏi, việc ấy bị tiết lộ. Hồi đó, có Nguyễn Huy Bá người ở Gia Lâm (làng Phú Thị, huyện Gia Lâm) tính t́nh nham hiểm, giảo hoạt, thường vẫn quen thói tố giác kẻ khác để kiếm quan chức. Năm trước, chính v́ Bá đă tố cáo âm mưu nổi loạn của Nguyễn Huy Cơ và Thuỵ quận công (Thuỵ quận công tức Trịnh Lệ con Trịnh Doanh, định giành ngôi chúa với Trịnh Sâm) mà y được làm chức tham nghị ở trấn Sơn Nam, dần dà, y ngoi lên chức tiến triều (những người không đỗ tiến sĩ mà được làm quan ở sáu bộ th́ gọi là tiến triều), rồi lại thăng tới chức đốc đồng ở trấn Thái Nguyên. Lúc này v́ có lỗi bị cách chức, y đang nóng ḷng mong lại được ra làm quan. Y bèn sai con dâu cả vào làm đày tớ cho Thị Huệ; rồi thường nhặt nhạnh những chuyện chơi bời đùa nghịch của Tông, xui con dâu kể lại cho Thị Huệ để nịnh nọt, lấy ḷng. Mặt khác, y lại ngầm sai người nhà tin cậy tới làm bộ hạ của hai viên trấn quan Tây, Bắc để ḍ xét t́nh h́nh. Đến lúc ấy, y đă nắm được phần nào sự việc của bọn này, liền vào báo với Thị Huệ.

 

Thị Huệ đem việc đó bàn với quận Huy. Huy bảo Huy Bá viết bức thư kín, rồi Huy tự bỏ vào trong tay áo, đi đến phủ chúa, đuổi hết những người chung quanh, đem thư ra tŕnh chúa.

 

Chúa xem xong, cả giận, định sai người giao xuống trị tội tức khắc. Quận Huy can rằng:

 

- Thế tử quả là có lỗi, nhưng sở dĩ thế tử dám làm chuyện to lớn như thế chính là do hai viên trấn thủ Tây, Bắc chủ mưu. Nay hai viên ấy hăy c̣n cầm quyền ở ngoài, nếu vội vă trừng trị thế tử, e sẽ có biến khác. Chẳng thà trước hết hăy gọi hai viên ấy về triều, giam cả ở trong phủ, rồi bấy giờ hăy tuyên bố tội trạng và trừng trị một thể.

 

Chúa cho là phải. Hôm sau chúa đ̣i thế tử vào cung, vờ quở mắng về việc xao nhăng học hành, rồi bắt thế tử phải đến ở trong một ngôi nhà ba gian trong Trạch các. Lại sai tiến sĩ khoa Bính-tuất (1766) là Nguyễn Quưnh làm tả tư giảng, và tiến sĩ khoa Mậu-tuất (1778) là Nguyễn Đích làm hữu tư giảng. Rồi sau đó chúa cho đ̣i hai viên trấn thủ Tây, Bắc về triều; bữa ấy nhằm ngày 15 tháng 8 năm Canh tư niên hiệu Cảnh hưng (1780).

 

Lại nói, lúc ấy ở trấn Kinh Bắc (địa bàn Kinh Bắc gồm: Bắc Ninh, Bắc Giang, Phúc Yên) có viên đốc đồng là Ngô Th́ Nhậm (người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, con Ngô Th́ Sỹ, sau làm quan với Tây Sơn), tiến sĩ khoa ất-mùi (1775) vốn là gia thần và tuỳ-giảng của thế tử, thường vẫn rất ăn ư với trấn thủ Tuân sinh hầu (Nguyễn Khắc Tuân). Về phía Tuân, không việc ǵ là không bàn với Nhậm, duy chỉ có việc âm mưu của thế tử là Tuân không hề nói đến. Trước đó mấy ngày, Sơn Thọ (có sách chép Hà Như Sơn) là gia thần của thế tử, lại từng là học tṛ của Nhậm, được thế tử sai đến kể rơ mưu mô của thế tử cho Nhậm biết; rồi lại ngầm ra lệnh cho Nhậm phái người cất lẻn lên vùng Lạng Sơn mua ngựa tốt để dùng vào việc binh. Th́ Nhậm hoảng sợ nói:

 

- Thế tử là người sẽ nối ngôi chúa, mà nước là nước của thế tử, lo ǵ mất ngôi mà phải lập mưu ấy? Đây ắt lại do bọn tôi tớ xúi giục. Thế tử trẻ người hăng máu, suy nghĩ chưa chín chắn, nên mới nghe theo họ. Chúa thượng là người xét đoán sáng suốt, há lại che giấu được ngài ư? E rằng tai hoạ sẽ xảy ra lúc nào không biết, bọn gia thần của thế tử rồi không c̣n đất gửi thân đâu.

 

Đoạn Th́ Nhậm vội vă sang kể hết t́nh đầu cho Khắc Tuân nghe, và khuyên Tuân phải hoả tốc về kinh, can ngăn thế tử đừng làm việc đó, để tránh tai vạ sau này.

 

Khắc Tuân không nghe, nói rằng:

 

- Tiểu chức này với quan lớn, chỉ biết việc tuần pḥng khám xét; ngoài ra những việc không dính líu đến ta, th́ không nên hé răng.

 

Th́ Nhậm thở dài mà về.

 

Mấy ngày sau, quả nhiên có lệnh đ̣i Khắc Tuân và Th́ Nhậm. Hai người vội vàng cùng đi. Tới kinh, họ thấy trấn thủ Sơn Tây (Hồng lĩnh hầu Nguyễn Khản) và a bảo Hân quận công (Nguyễn Đĩnh) đều đă bị triệu về, c̣n đang ngồi đợi tội ở nhà Tả-xuyên. Khắc Tuân xin vào điếm Quyển-bồng gặp chúa, nhưng chúa không cho vào, sai viên quan hầu là Quyến trung hầu ra trách Khắc Tuân rằng:

 

- Cậu và thằng Tông đă muốn làm giặc th́ cậu cứ việc ra mà sắp sẵn binh mă, đây ta đă có các tướng mạnh để đối địch với cậu!

 

Khắc Tuân quay ra, gặp Th́ Nhậm ở điếm Tiểu-bút, Tuân cầm tay Nhậm than:

 

- Tôi thờ chúa từ khi lọt ḷng đến giờ, nay chúa gọi tôi là giặc. Hôm nọ quan lớn nói chuyện tôi cứ cho làm thường, nay việc đă như thế, tính sao bây giờ?

 

Th́ Nhậm cũng hoảng hốt chẳng biết trả lời thế nào.

 

Khắc Tuân liền làm tờ khải, cung khai hết những việc trước rồi nhờ Quyến trung hầu đưa vào dâng chúa. Nhưng chúa đang giận, không xem, lại sai Quyến trung hầu đem tờ khải ra xé trước mặt Khắc Tuân.

 

Khắc Tuân lượm lấy tờ khải bị xé ấy mà ra, nhưng sợ hăi luống cuống chẳng biết đi đường nào.

 

Viên trấn thủ Sơn Tây lúc ấy cũng rất lo sợ, có điều muốn nói mà không dám tự bày tỏ. Ông ta bèn cùng Khắc Tuân nói với Th́ Nhậm:

 

Bọn tôi ở ngôi trọng yếu mà bị lời gièm pha nặng nề, bây giờ dù có nói ǵ, chúa cũng chẳng tin. Ngài nên đem những điều nghe thấy viết một tờ khải, đổ tội cho lũ tôi tớ, như vậy may ra bọn tôi mới khỏi bị oan, mà thế tử cũng sẽ được an toàn không việc ǵ.

 

Th́ Nhậm bất đắc dĩ phải làm theo ư hai người. Chẳng ngờ chúa nhận được tờ khải, lại càng giận dữ nói:

 

- Quả như lời nói của người ta không sai!

 

Rồi chúa sai Th́ Nhậm và bọn quan hầu là Ngạn triêu hầu, Đường trung hầu, án trung hầu cùng tra xét vụ án đó.

 

Th́ Nhậm cùng bọn quan hầu định t́m cách gỡ tội cho Khắc Tuân và viên trấn thủ Sơn Tây, nhưng v́ nhà có tang Nhậm phải bỏ việc quan mà về [Nhậm về chịu tang cha là Ngô Th́ Sĩ. Theo Việt sử thông giám cương mục (sau đây gọi tắt là Cương mục) th́ chính Nhậm hợp mưu cùng Huy Bá để tố cáo việc của Tông và Khắc Tuân. Ngô Th́ Sĩ đă cố sức can mà nhậm vẫn không nghe. Sau khi nghe tin Nhậm đă phát giác việc ấy, Sĩ buồn bực, bèn uống thuốc độc tự tử. Nhậm v́ có công tố giác, được thăng hữu thị lang bộ Công. Do đó, người đương thời có câu rằng: "Sát tứ phụ nhi thị lang" giết 4người cha để làm thị lang). Bốn cha là: Sĩ, thân phụ; Tông, quân phụ; Khắc Tuân, và Xuân Hán, phụ chấp (bạn của bố). Có thuyết lại nói tứ phụ là Sỹ và Nguyễn Khản, Phương Định, Khắc Tuân ba người bạn của bố].

 

Chúa bèn giao cho viên đồng tham tụng là Nghĩa phái hầu Lê Quí Đôn, bảng nhăn khoa Nhâm-thân (1752) làm thay việc tra xét. Cuối cùng, nắm được hết t́nh h́nh tội trạng, chúa liền gọi các chính thần vào cung vừa khóc vừa nói:

 

- Quả nhân không may gặp phải thằng con bất hiếu, lũ bầy tôi bất trung, chúng ngầm mưu việc phản nghịch; h́nh tích cũng giống như vụ Thừa Kiền, nhưng tâm địa th́ tệ hơn nhiều. Việc bỏ con cả lập con thứ là bất đắc dĩ. Các ngươi cũng nên hiểu rơ bụng ta, cứ theo phép nước mà định tội chúng nó đi!

 

Các quan trong triều bàn rằng: mấy tên phạm tội đều nên xử tử, c̣n riêng về thế tử th́ không dám bàn.

 

Lời bàn đó dâng lên, chúa cầm bút phê rằng:

 

"Cứ xét theo nghĩa của kinh Xuân-thu th́ phải trị tội tên Tông thật nặng. Nhưng nghĩ t́nh cha con ruột thịt không nỡ như thế, vậy nên truất nó xuống làm con út, trọn đời giữ đạo làm tôi. C̣n bọn các quan, th́ viên trấn thủ Sơn Tây và Khê trung hầu, vốn đă theo hầu ta từ lúc chưa lên ngôi, cũng có công lao, đặc ân cho được tự liệu lấy. Riêng a bảo Hân quận công là người thật thà không tham dự và mưu đó cũng được tha tội chết, nhưng phải cách chức xuống làm dân thường".

 

Mệnh lệnh ban xuống, Khê trung hầu và Tuân sinh hầu đều uống thuốc độc tự tử.

 

Dưới trướng Tuân sinh hầu có viên văn thư là Nguyễn Quốc Trấn cũng bị tội lây với chủ, phải ghép án tử h́nh. Lúc sắp bị chém, Quốc Trấn quát lớn:

 

- Trời không có mắt, triều đ́nh không có quan, nỡ để Quốc Trấn mắc oan.

 

Rồi Trấn dặn người thân thuộc để giấy bút vào tay áo ḿnh và nói thêm:

 

- Sống đă không bày tỏ nỗi oan được, chết phải kiện ở âm phủ.

 

Mọi người nghe câu nói đó, ai cũng thương xót cảm động.

 

Thế tử Tông bị truất rồi, chúa bắt cứ phải ở trong ngôi nhà ba gian, cho người giám sát chặt chẽ; phàm những việc ăn uống Tông đều không được tự do. Bọn gia thần của Tông cũng không được phép ra vào thăm hỏi. Do đó, phe đảng của thế tử, mỗi người lẩn trốn đi mỗi nơi.

 

C̣n phe cánh của Thị Huệ th́ mỗi ngày một mạnh. Các quan lớn nhỏ không ai là không nịnh nọt, hùa theo, mà nhà chúa cũng càng trọng ả hơn trước.

 

Thừa dịp ấy, Thị Huệ bèn hỏi con gái chúa là công chúa Ngọc Lan cho em trai ḿnh là Đặng Mậu Lân.

 

Công chúa này tên chữ là Ngọc Thuyên, là cô con gái yêu quư nhất của chúa. Nguyên chính phi họ Hoàng sinh được hai nàng công chúa. Cô lớn là công chúa Ngọc Anh, tên chữ là Ngọc Loan, đă gả cho Đương trung hầu Bùi Thế Toại, con trai cả của Đoan quận công Bùi Danh Đạt làm trấn thủ Nghệ An trước kia. C̣n Ngọc Lan là cô thứ hai, chưa có chồng, được chúa rất yêu chiều.

 

Ngọc Lan vóc người yếu đuối, từ nhỏ vẫn ở trong cung thuỷ tinh, kiêng nắng, kiêng gió. Nơi Ngọc Lan ở, chúa bắt thị tỳ phải nói năng sẽ sàng để cho nàng khỏi giật ḿnh. Khi Ngọc Lan đă lớn, mỗi lần vào thăm chúa, chúa đều cho phép cùng ngồi với ḿnh như lúc nàng c̣n bé. Phàm những điều Ngọc Lan cầu xin chúa, không có lời nào là không đắt. Các quan vào hàng công thần, quí tộc, nhiều người đă tới cầu hôn, nhưng chúa chưa hứa gả cho ai. Đă có lần chúa hạ chiếu chỉ cho các quan văn vơ, cùng con cháu các ḍng họ công thần vào phủ để cho công chúa tự kén chọn. Chúa bảo công chúa hễ chọn được ai vừa ư th́ chúa sẽ gả cho người đó. Nhưng Ngọc Lan vẫn chưa kén được ai vừa ḷng.

 

Đến nay, Thị Huệ cầu hôn cho em trai, chúa sợ mất ḷng ả ta, bất đắc dĩ mà phải gượng nhận lời.

 

Lại nói, Đặng Mậu Lân này vốn là một tên hung bạo; từ khi Thị Huệ được chúa yêu dấu Lân lại càng ỷ vào thế chị để làm những việc càn rỡ. Hết thảy áo quần, xe kiệu của y, nhất nhất đều rập kiểu theo đúng như của vua chúa. Thường ngày, Lân vẫn đem theo vài chục tên tay sai, cầm gươm vác giáo đi nghênh ngang khắp kinh ấp. Hễ gặp xe kiệu, bất kỳ là của đám quan quân nào, Lân cũng đều cà khịa đánh nhau làm cho họ nhục nhă, rồi lấy thế làm thích thú. Gặp đàn bà con gái giữa đường, hễ người nào trông vừa mắt, tức th́ Lân sai tay chân quây màn trướng ngay tại chỗ, rồi lôi người ấy vào hiếp liền. Ai không chịu, Lân xẻo luôn đầu vú. Chồng hoặc cha kẻ bị nạn, nếu dám hé răng kêu ca, lập tức Lân sai quân vặn găy răng, hoặc cũng có người bị đánh đến chết. Người thiên hạ sợ Lân hơn sợ beo sói.

 

Chúa cũng biết thế, nên tuy đă trót nhận lời gả công chúa cho Lân mà trong bụng vẫn c̣n có ư thương tiếc. Vả lại chúa nghĩ, công chúa người yếu ớt, mảnh khảnh, không thể chịu nổi một tên đàn ông cường bạo như thế. Nến đến ngày về nhà Lân, chúa lấy cớ rằng công chúa chưa từng lên đậu lên sởi, để không cho phép Lân hợp cẩn (Theo lễ xưa, đêm tân hôn vợ chồng uống chung một chén rượu, gọi là hợp cẩn). Rồi chúa sai quan a bảo cùng nhiều thị nữ đi theo để hộ vệ công chúa. Tiếp đó, chúa lại phái thêm cả viên nội sai là Sử trung hầu đến làm giám chế, không cho Lân xâm phạm tới công chúa.

 

Thật là:

ái ân, cô gái không e sợ

Hoan hỉ, chàng trai lại dở dang.

 

 

Chưa biết việc tới thế nào? Hăy xem hồi sau phân giải.

 

Last edited by katkatt on Tue Apr 04, 2006 10:46 pm; edited 6 times in total

        

Hoàng Lê nhất thống chí

Ngô gia văn phái

 

Hồi thứ hai

 

Lập Điện đô, bảy quan nhận di chúc,

Giết Huy quận, ba quân pḥ Trịnh vương.

 

Lại nói, Đặng Mậu Lân tuy đă lấy được công chúa Ngọc Lan, nhưng cứ mỗi lần vào với công chúa th́ lại bị Sử Trung ngăn cản; v́ vậy Lân hết sức tức giận, nói với Sử Trung rằng:

 

- Chúa bảo con gái chúa là tiên dưới trần, nhưng ta coi ra, thật không bằng con bé ở xách giày nhà ta, có quư hoá ǵ? Đây ta không phải ham ǵ nhan sắc của nó; nhưng tốn kém mất bao nhiêu tiền của mới lấy được một con vợ, nếu không ra hồn th́ cũng phải vần một trận cho nẫu nhừ ra như bùn, để đền đắp lại sự phí tổn, rồi bấy giờ sẽ tống cổ nó đi. C̣n mày, mày muốn sống muốn tốt th́ hăy t́m đường kiếm nẻo mà bước đi. Kẻo nữa lại kêu ta không bảo trước.

 

Sử Trung đáp:

- Đó là mật chỉ của chúa thượng, không phải tôi dám như vậy!

 

Lân nói:

 

- Mày thử hỏi chúa, xem chúa ở vào địa vị tao liệu chúa có nhịn được không?

 

Sử Trung nói:

 

- Quan lớn đừng nên quá lời như vậy, nhà chúa không thể so sánh với người thường.

 

Lân nổi giận đùng đùng mà rằng:

 

- à, mày đem chúa để doạ tao phỏng? Chúa là cái quái ǵ?

 

Dứt lời, Lân tuốt gươm chém Sử Trung. Sử Trung chết ngay.

 

Giết xong Sử Trung, lân bèn sai đóng chặt cửa dinh, ra lệnh trong không được ra, ngoài không được vào, định ngầm thủ tiêu cái thây Sử Trung.

 

Ngọc Lan nghe chuyện, sợ quá, lập tức bảo một thị nữ chui qua một lỗ hở nhỏ chạy về phủ chúa báo tin.

 

Chúa cả giận, sai viên quan hầu đốc thúc một toán lính đến bắt Lân.

 

Lân cầm gươm lăm lăm, đứng trước cửa doạ:

 

- Đứa nào muốn chết th́ cứ vào đây!

 

Chúa lại phải sai quận Huy đem quân vây bắt Lân, giải về phủ, giao cho triều đ́nh xử tội. Các quan đều nói tội giết sứ giả đáng bêu đầu.

 

Thị Huệ nghe tin, khóc lóc xin chết thay em. Chúa bất đắc dĩ phải tha cho Lân tội chết và giảm xuống thành tội đi đày ở châu xa.

 

Lại nói, vương tử Cán rất tuấn tú, thông minh, nhưng người vốn yếu đuối. Lúc c̣n ẵm ngửa, vương tử đă mắc chứng cam: bụng to, rốn lồi, da nhợt, gân xanh, chân tay gầy khẳng khiu. Chúa phải sai người đi t́m danh y khắp bốn phương về chữa cho vương tử (Hải thượng lăn ông Lê Hữu Trác cũng đă từng bị triệu vào kinh để chữa bệnh cho Cán (xem Thượng kinh kư sự)). Những người do nghề thuốc mà vào phủ đều được thăng trưởng: Nguyễn Thực từ chức huấn đạo lên đến chức tiến triều; Chu Nghĩa Long là người khách buôn Trung Quốc, được phong tước hầu coi việc quân. Thuốc thang tốn kém kể có hàng trăm vạn, nhưng chạy chữa hết năm này qua năm khác mà bệnh vẫn không khỏi.

 

Chúa lại sai người đi lễ bái khắp các đền đài có tiếng linh thiêng; một mặt cho thiết lập đàn tràng ở ngay trong cung để ngày đêm đèn nhang cầu khẩn. Vậy mà bệnh của vương tử vẫn đâu hoàn đấy.

 

Có kẻ tố cáo với chúa, nói là v́ Tiệp dư (Tiệp dư đây không rơ ai, bản chữ Hán không ghi tên họ người nào; bản dịch của Ngô Tất Tố, cho là Dương Ngọc Hoan có lẽ là phỏng đoán như vậy) không được yêu, sinh ra ghen ghét, mượn bọn đồng cốt chôn h́nh người gỗ ở trong cung để trấn yểm.

 

Chúa giận lắm, sai bắt người nhà Tiệp dư để tra hỏi. Nhưng bọn ấy trốn hết, t́m khắp tứ phía không lùng bắt được người nào cả. Sau, kẻ tố cáo tự dẫn người đến đào chỗ chôn người gỗ, cũng không thấy ǵ, việc này mới thôi.

 

Tuy nhiên, bụng chúa cũng vẫn c̣n ngờ, nên cứ để mặc cho Thị Huệ làm chay làm bùa, tha hồ cúng lễ. Do đó, bọn đồng cốt ra vào tấp nập; mà bệnh của vương tử Cán vẫn khi tăng khi giảm chẳng ra thế nào.

 

Đến khi thế tử Tông bị tội, th́ gặp lúc bệnh của vương tử Cán đă hơi đỡ. Năm sau vương tử lên đậu, từ tuần nung mủ đến tuần đậu lặn đều không có ǵ quản ngại. Chúa hết sức vui mừng nói:

 

- Th́ ra trẻ con cam sài cũng là sự thường, chẳng cần phải lo. Mà hễ nó đă lên đậu, lên sởi th́ tức là nên người rồi.

 

Bấy giờ các quan trong ngoài đều có lời chúc mừng.

 

Nhiều người khuyên chúa giáng chỉ lập vương tử Cán làm thế tử cho yên sự mong mỏi của thiên hạ. Chúa nghe lời ngay.

 

Thánh mẫu thái tôn (tức là mẹ Trịnh Sâm) được tin liền nói với chúa:

 

- Thế tử Tông với vương tử Cán đều là cháu cả, già này thực không coi đứa nào hơn đứa nào. Có điều thế tử đă lớn và khoẻ mạnh, c̣n vương tử th́ nhỏ tuổi lại hay đau yếu; khuyên chúa hăy nghĩ đến tôn miếu xă tắc, tạm dành ngôi đông cung lại đó, may ra đứa con út (chỉ Tông v́ Tông bị giáng xuống làm con út) kia nó biết hối lỗi th́ hay, bằng không, đợi lúc vương tử khôn lớn hăy lập trưởng cũng chưa muộn ǵ.

 

Chúa đáp:

 

- Tên Tông và tên Cán đối với mẹ là cháu, chưa bằng đối với tôi là con. Người xưa đă nói: "Biết con chẳng ai bằng cha". Tôi cũng chưa đến nỗi mê lẫn, vả chăng triều đ́nh bàn bạc chung như thế, chứ cũng chẳng phải v́ tôi yêu đứa con nhỏ mà bày đặt ra việc này. Mẹ há chẳng biết rơ rồi sao? Nay nếu không sớm định người nối ngôi, bọn tiểu nhân đâm ra ḍm nom, mong chờ, tôi e tai hoạ sẽ xảy đến lúc nào không biết. Huống hồ ngôi báu của thiên hạ cốt phải giao phó vào tay người xứng đáng. Đă coi tôn xă làm trọng, th́ dẫu con đẻ ra cũng không được tư túi; lẽ nào tôi lại dám tư túi với đứa con nhỏ? Nếu như cuối cùng bệnh của Cán không khỏi, th́ thà lập Côn quận công (có bản chép là Quế quận công, tức Trịnh Bồng, anh em con chú bác với Sâm, con Trịnh Giang), trả lại ḍng chính cho nhà bác; chứ không thể nào giao cho cái thằng Tông bất hiếu, để nó làm hỏng cơ nghiệp của tổ tiên.

 

Thánh mẫu không dám nói ǵ nữa.

 

Chúa bèn sai các quan trong triều làm tờ tâu lên vua Lê, xin lập vương tử Cán làm thế tử (Bấy giờ có nhiều người không đồng t́nh việc lập Cán, nên đă đặt ra câu ca dao:

 

Đục cùn th́ giữ lấy tông:

 

Đục long, cán găy, c̣n mong nỗi ǵ?

 

Dùng chữ tông và cán theo nghĩa đôi để chỉ vào Trịnh Tông và Trịnh Cán.).

 

Lại nói, từ mấy năm nay, bệnh cũ của chúa vẫn thường hay phát trở lại, khi th́ một tháng, khi th́ nửa tháng. Mỗi lần bệnh phát thường hết sức nguy kịch, nhưng rồi dần dần cũng lại khỏi. Chúa rất sợ nắng gió, b́nh thường phải ở luôn trong thâm cung và nơi đó phải thắp nến suốt đêm ngày. Nếu không phải triều hội lớn, th́ không bao giờ chúa ra gặp các quan. Sập ngự trong phủ chúa có che trướng thuỷ tinh, kiệu của chúa đi cũng treo rèm thuỷ tinh, để ngăn nắng gió. Các quan muốn tŕnh báo việc ǵ, đều do quan hầu đem tờ khải vào. Chúa muốn phán ǵ cũng do quan thị truyền chỉ ra. Dẫu đến các bậc thân quí, cũng phải một năm hoặc nửa năm mới gặp mặt chúa một lần. C̣n các hàng văn vơ trong triều, th́ thường không hề được thấy mặt rồng. Việc của phủ chúa, bên ngoài người ta đồn đại như là việc thiên tào. Cứ như thế, sự ngăn cách, che lấp ngày càng thêm tệ.

 

Đến lúc này, bện của chúa lại nguy kịch. Thị Huệ ngày đêm hầu hạ. Trong hàng đại thần chỉ có quận Huy là được ra vào. Mẹ chúa và các con gái chúa cũng ít khi được tới gặp, hàng ngày thăm hỏi sức khoẻ của chúa, họ chỉ đứng ngoài cửa buồng và hỏi qua bọn quan hầu mà thôi.

 

Nhân cơ hội ấy, Thị Huệ bèn nói với chúa:

 

- Thiếp thờ chúa thượng, nhờ ơn được quá thương yêu, thành ra nhiều kẻ thù ghét; không biết rồi đây mẹ con thiếp sẽ gửi thân vào đâu?

 

Chúa yên ủi rằng:

 

- Thế tử đă chính thức lên ngôi đông cung, nước là nước của nó; rồi đây khanh sẽ làm mẹ cả thiên hạ, kẻ nào c̣n thay đổi được?

 

Thị Huệ lại thưa:

 

- Sợ không dự định trước, đến lúc t́nh thế khẩn cấp sẽ bị người khác cướp mất.

 

Bấy giờ quận Huy cũng có ở đó. Chúa nh́n Huy nói:

 

- Sau này ngươi cần hết sức giúp đỡ chính cung và thế tử, để cho yên ḷng ta.

 

Quận Huy thưa:

 

- Tôi dám đâu chẳng hết ḷng về việc này kỳ cho đến chết. Nhưng ngay bây giờ, nhân lúc chúa c̣n tỉnh táo, xin hăy kịp thời truyền mệnh lệnh cho thế tử Cán nối ngôi và lập chính cung làm vương phi, cùng coi việc nước, để cho có mệnh lệnh sẵn sàng.

 

Chúa khen:

 

- Phải đấy! Khanh cần làm phụ chính cho vương tử.

 

Quận Huy lại thưa:

 

- Vâng lời di chúc làm người phụ chính, tôi chẳng dám gánh vác một ḿnh. Hiện nay có Khanh quận công là bậc chí thân, Hoàn quận công là bậc sư phó đại thần, Châu quận công và Tứ xuyên hầu đều ở trong chính phủ, vốn có đức vọng, Diễm quận công là a bảo của đông cung, Thuỳ trung hầu là bảo vệ của đông cung, đều là những bầy tôi tin cậy. Vậy xin nhà chúa hăy cho phép những viên ấy cùng nhận cố mệnh (mệnh dặn lại lúc sắp chết) với tôi.

 

Chúa bằng ḷng.

 

Quận Huy liền sai Tứ xuyên hầu thảo tờ cố mệnh, và quan thiêm sai Nhữ Công Điền làm tờ sách phong Tuyên phi. Giấy tờ lập xong, Huy bỏ vào tay áo đem dâng chúa để xin điền tên.

 

Bấy giờ bệnh chúa đă nguy kịch, nhân có thánh mẫu vào thăm, Thị Huệ phải ôm chúa ngồi dậy. Thánh mẫu đứng ở đầu sập vừa khóc vừa hỏi han. Chúa cũng khóc mà rằng:

 

- Con xin chắp tay cúi đầu lạy mẹ. Nay con chẳng may xấu số, không được thờ mẹ cho đến cùng. Nghĩ đến đạo hiếu chưa tṛn, ruột gan con đau như dao cắt. Xin mẹ hăy ngự giá về cung, cố ăn ngủ cho thảnh thơi, đừng nghĩ ǵ đến con mà đau ḷng mẹ. C̣n việc sớm hôm thăm hỏi sau này đă có tự vương (chúa nối nghiệp, chỉ Trịnh Cán) thay con.

 

Thánh mẫu nức nở, sụt sịt, ngập ngừng hồi lâu, ư muốn nói đến ngôi thế tử, nhưng v́ có Thị Huệ ở đấy nên cũng khó hé răng, dùng dằng măi chưa ra.

 

Chúa thấy vậy lại nói:

 

- Mẹ quá thương con, không nỡ dứt t́nh mà đi. Con trông thấy mẹ cũng đau ḷng không thể nhắm mắt. Vậy cúi xin mẹ hăy ngự giá về cung.

 

Thánh mẫu bèn ứa nước mắt trở ra.

 

Chúa quay sang dặn Thị Huệ.

 

- Bệnh ta không khỏi, không ở được cùng khanh đến lúc bạc đầu. Nay ta về chầu giời, khanh ở lại phụng thờ thánh mẫu, nuôi nấng tự vương; c̣n duyên sắt cầm đành hẹn đến kiếp khác.

 

Thị Huệ nấc lên đến hơn một khắc, rồi ả cắt tóc thề rằng:

 

- Chúa thượng chẳng thương thiếp, nỡ bỏ thiếp ṿ vơ một ḿnh! Thiếp xin liều thân mà chết theo chúa. Thờ phụng thánh mẫu đă có hai công chúa, giúp rập tự vương đă có các quan đại thần, chúa đừng giao những việc ấy cho thiếp.

 

Rồi thị khóc oà lên.

 

Chúa ngoảnh sang Thuỳ trung hầu nói:

 

- Sau khi ta qua đời, các ngươi phải nên khuyên giải chính cung cho khéo, chớ để nàng liều ḿnh. Vạn nhất nếu không ngăn cản nổi ư chí của nàng, th́ cứ để nàng chung thuyền với ta mà đưa đi, cho nàng được hầu hạ ta ở nơi lăng tẩm.

 

Tiếp đó, chúa cho đ̣i quận Khanh, quận Hoàn vào chịu cố mệnh.

 

Hai người vào, chúa truyền miễn lạy và cho ngồi. Hai người khóc lóc hỏi han sức khoẻ. Chúa nói:

 

- Con xin chắp tay cúi đầu lạy chú, lạy thầy. Chẳng may con bị bệnh nặng, nay đă nguy cấp, muốn cho thế tử Cán lên nối ngôi chúa. Vậy nhờ chú và thầy chung sức đồng ḷng, giúp cho qua khỏi bước khó khăn này.

 

Dứt lời, chúa bảo Thị Huệ đặt ḿnh nằm xuống.

 

Quận Huy qú xuống, rút tờ cố mệnh trong tay áo dâng tŕnh, nhưng chúa chỉ lấy tay xua đi.

 

Quận Huy lại thưa rằng:

 

- Nay thánh thể không yên, mà chỗ đề tên họ trong tờ cố mệnh th́ hăy c̣n để trống, vậy xin chúa hăy để cho vương thân Khanh quận công viết thay.

 

Chúa không c̣n nói được nữa, chỉ gật đầu mà thôi.

 

Quận Khanh bèn lấy bút phê, rồi ngay trước sập chúa, lần lượt viết tên mấy người vào chỗ bỏ trắng trong tờ cố mệnh. Viết xong, lại dâng cho chúa xem; nhưng lúc ấy chúa đă nhắm nghiền hai mắt không biết ǵ nữa.

 

Thế là Trịnh vương qua đời. Bữa ấy nhằm ngày 13 tháng quận Huy năm Nhâm-dần (1782). Chúa thọ 44 tuổi, làm chúa được 16 năm.

 

Sau khi chúa tắt thở, quận Huy một mặt cắt đặt cho các quan lo liệu việc tang lễ, một mặt sai Thuỳ trung hầu sao lấy mấy bản thư cố mệnh và tờ sách phong Tuyên phi đưa ra chính phủ, để cho các quan triều tâu lên vua Lê.

 

Ngay hôm ấy, vua Lê hạ sắc dụ lập thế tử Cán làm Điện đô vương.

 

Trăm quan liền đem nghi trượng, binh lính đến cửa Kính-thiên để rước sắc về phủ chúa.

 

Đến phủ, quan a bảo Diễm quận công bế thế tử-đă được mặc áo triều, đội mũ, mang đai màu hoa qú-đứng đón ở sân, quỳ xuống nhận sắc.

 

Xong đó, ngoài phủ đường đă đặt sẵn sập ngự, quận Diễm bồng thế tử Cán lên ngôi chúa. Các quan theo thứ tự lần lượt vào lễ mừng. Lễ xong, quận Diễm lại bế chúa mới (Trịnh Cán) vào cung Huỳnh để lạy thánh mẫu. Rồi sau đấy, mọi người đều thay triều phục, mặc áo trở để làm lễ phát tang.

 

Lúc Thịnh vương c̣n sống có soạn ra cuốn Vạn niên thư, phàm việc tang lễ từ lễ "phạm hàm" đến lễ "đại tường", "nhập miếu" (Phạm hàm: Lễ đặt vàng, ngọc hoặc các của quí khác vào trong miệng người chết. Đại tường: Lễ giỗ sau khi chết hai năm. Nhập miếu: Lễ rước linh hồn vào nhà thờ, để thờ chung với các tổ tiên), nghi tiết như thế nào đều đă chua rơ; cho cả đến mấy chữ miếu hiệu "Thánh tổ Thịnh vương" cũng được ghi sẵn. Nay cứ theo đó mà làm.

 

Bảy viên đại thần ngày đêm túc trực ở trong phủ, chia nhau coi sóc mọi việc.

 

Lại nói về bảy viên phụ chính này.

 

Khanh quận công tên là Trịnh Kiều, tức là con thứ năm của Hy tổ Nhân vương, và là em Nhị tổ Ân vương, đối với chúa mới là hàng ông chú. Kiều là bậc tuổi cao, đức cả, song tính t́nh chất phác, thật thà, đối với công việc nên hay không nên cũng mặc, chẳng có ư kiến ǵ.

 

Hoàng quận công tên là Nguyễn Hoàn, người làng Lan Khê huyện Nông Cống, đỗ tiến sĩ khoa Quí-hợi (1743). Trước Hoàn làm hữu tư giảng cho Thịnh vương, sau lên đến chức thượng thư bộ Lại, rồi làm Tham tụng. Hoàn đă về trí sĩ nhưng lại bị gọi ra tham dự triều chính, Hoàn là một vị trọng thần của nhà nước, nhưng tính người hoà hoăn, ch́m nổi theo đời, gặp việc thường dè chừng, không quyết đoán.

 

Tứ xuyên hầu tên là Phan Lê Phiên (có sách chép Duy Phiên hoặc Trọng Phiên), người làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, đỗ tiến sĩ khoa Đinh-sửu (1757). Phiên từng làm tả thị lang bộ Hộ, làm tham tụng; là người có phong độ đoan trang, học vấn rộng răi, nhưng tính nết thâm trầm lại hay nương nhờ vào bọn quyền thế.

 

Châu quận công, Diễm quận công và Thuỳ trung hầu đều xuất thân từ hàng quan hoạn.

 

Châu quận công tên là Lê Đ́nh Châu, người làng Liên Hồ, huyện Ngọc Sơn, hầu hạ các chúa trải đă mấy triều. Châu có làm chức tri binh phiên cơ mật, là người trung hậu, lúc đă già v́ là bậc kỳ cựu, nên được vào chính phủ, nhưng không giữ việc ǵ.

 

Diễm quận công tức Trần Xuân Huy, người làng Khoái Lạc, huyện Thiên Bản; nguyên là gia thần của Thịnh vương, khi vương chưa lên ngôi. Lúc Thịnh vương lên cầm quyền, Huy được giao cho chức tri hộ phiên. Huy là người thuần thục, cẩn thận. Thịnh vương rất tin, sai Huy làm a bảo cho thế tử, ngày đêm ở luôn bên cạnh thế tử, không dự ǵ đến những việc bên ngoài.

 

Thuỳ trung hầu tên là Tạ Danh Thuỳ, người làng Khang Thượng, huyện Yên Mô, từng làm chức xuất nạp (một chức quan hầu cận của vua chúa chuyên giữ việc phát nhận giấy tờ, và truyền đạt mệnh lệnh) rồi lại làm trấn thủ Thanh Hoa (thời Lê trung hưng, Thanh Hoá gọi là Thanh Hoa). Thuỳ là người cơ trí, giỏi văn học, biện luận như gió. Thịnh vương vốn tin trọng, sai Thuỳ làm chức bảo vệ cho thế tử; nhưng v́ Thuỳ tuổi trẻ chưa có danh vọng ǵ mấy, nên không tránh khỏi phải lép vế và chiều theo ư những kẻ đồng liêu.

 

Bởi vậy, hết thảy mọi việc trong thiên hạ đều do một tay quận Huy quyết định, không có ai bàn qua nói lại ǵ hết.

 

Nguyên sáu người kia, không phải hết thảy đều một ḷng với quận Huy cả. Chẳng qua thấy họ có địa vị và danh vọng, nên quận Huy mới lôi kéo họ vào cùng cánh với ḿnh để họ khỏi có ư khác mà thôi.

 

Chỉ Diễm quận công vốn là phe đảng của Thị Huệ, xưa nay lại rất ăn ư với Tứ xuyên hầu; nên hai người này đều một bụng một dạ với quận Huy. Song quận Diễm là người dốt nát, ít hiểu biết, việc ǵ cũng phải nhờ Tứ xuyên hầu chỉ vẽ cho; mà Tứ xuyên hầu th́ cũng như quận Huy, đều đang mê mẩn trong t́nh thế lúc bấy giờ.

 

C̣n Hoàn quận công là bậc lăo nho. Thuỳ trung hầu là hạng khôn vặt. Rút lại không lường được bụng dạ của họ ra sao.

 

Trong đó, thực thà không có ư ǵ, duy chỉ có Khanh quận công và Châu quận công mà thôi.

 

Quận Huy tự đứng làm chủ cuộc, phàm mọi việc đều tự ḿnh gánh vác, không cần đùn đẩy cho ai; người khác có đồng ư hay không, Huy cũng chẳng thèm kể đến.

 

Lúc đó, chúa mới lên ngôi, v́ c̣n thơ ấu nên người trong nước không khỏi có ư ngờ. ở phố phường người ta túm năm tụm ba bàn tán. Kẻ nói chúa mới bị bệnh rất nặng, chưa biết chừng ngày nào đó trong cung sẽ có biến; quận Huy uy quyền lớn quá, không khéo hắn sẽ cướp nước mất. Người bảo chính cung tư thông với Huy, ả sắp đem xă tắc giao phó cho quận Huy. Bấy giờ, đầu đường xó chợ có câu ca dao như sau:

 

Trăm quan ít sáng nhiều mờ (có sách chép: "Trăm quan có mắt như mờ" hoặc "Sáu ông cố mệnh ngẩn ngơ");

 

Để cho Huy quận vào rờ chính cung.

 

Huy nghe tin, bèn sai quan đề lĩnh đem móc sắt và kéo treo khắp các chợ, doạ rằng những ai c̣n dám tụ họp nói chuyện th́ sẽ móc lưỡi cắt đi. Do đó, ở ngoài đường sá người ta chỉ dám ghé mắt ngó nhau; dân chúng kinh kỳ đều sợ nơm nớp.

 

Lại nói về thế tử cũ, từ khi chúa mới lên ngôi, Thị Huệ vẫn muốn ngầm hại thế tử, nhưng Thuỳ trung hầu thường t́m lời khôn khéo để che chở cho. Thị Huệ bị lời lẽ Thuỳ trung hầu giằng giữ, nên không dám quả quyết hành động. ả bèn bắt Tông ra ở tại nhà Tả-xuyên, rồi giao cho bốn đội Nội-khuông, Nội-dực, Nội-nhưng, Nội-kiệu giám sát. Mỗi ngày chỉ có ba bữa cúng cha, thế tử mới được vào phủ đường, lễ xong lại về sở giam. V́ vậy, thế tử ngày đêm lo lắng, sợ rằng không giữ được tính mạng.

 

Mẹ thế tử là thái phi họ Dương nhờ người chị là quận phu nhân họ Dương kêu van với quận Huy rằng:

 

- Em thiếp là cung tần Dương thị mỗ và con út chúa là vương tử mỗ xin gửi lời lạy tŕnh quan lớn xét cho: Đứa con út đó có tội, gạt bỏ là phải, không dám phàn nàn. Nhưng nay nó ở vào cảnh ngộ hiềm nghi, t́nh thế cấp bách, khôn xiết nguy hiểm sợ hăi. Vậy muôn vàn lần mong mỏi quan lớn hăy rủ ḷng thương, che chở cho nó được toàn vẹn; công ơn cứu sống của ngài, mẹ con nó xin ghi xương tạc dạ.

 

Quận Huy vừa khóc vừa trả lời:

 

- Tôi thờ tiên chúa, được chịu ơn huệ đă nhiều, nghĩa tuy là vua tôi, nhưng t́nh là cha con. Thế tử cũ cũng là con của chúa tôi, tôi có ḷng nào, th́ xin trời đất tru diệt. Phu nhân trở về, cho tôi gửi lời tŕnh trước màn tang của vương tử và quư cung tần rằng, xin cứ yên ḷng, tôi sẽ hết sức giúp đỡ, không có điều ǵ phải lo ngại.

 

Rồi Huy bí mật sức cho bốn đội quan quân, ra lệnh phải lỏng lẻo bớt trong việc giam giữ thế tử. Từ đó các gia thần và các người thân tin cũ của thế tử mới được ra vào dễ dàng, không ai xét hỏi.

 

Thế tử có người đầu bếp tên là Dự Vũ, vốn là người cơ trí, nói năng rành mạch. Một hôm, thế tử hỏi bên ngoài ḷng người ra sao, Dự Vũ đáp:

 

- Nhà chúa bỏ con cả lập con út, thiên hạ đều căm ghét, nhất là quân lính lại càng bất b́nh lắm. Hôm nọ trong khi tân chúa lên ngôi, theo lệ có ban tiền bạc cho các quân sĩ, nhưng trong quân nhao nhao, có kẻ không chịu nhận tiền ấy. Sau, quận Huy phải ra lệnh nghiêm cấm, họ mới miễn cưỡng nghe theo, mà trong ḷng vẫn c̣n hậm hực.

 

Thế tử mừng thầm, đem chuyện ấy bàn với một viên gia thần tên là Gia Thọ.

 

Thọ người làng Bát Tràng, huyện Gia Lâm, cũng là kẻ tinh khôn; hắn nói với thế tử:

 

- Ḷng người như thế, nếu lấy nghĩa khí mà khích động, khiến cho họ một ḷng tôn phù, th́ việc lớn ắt thành.

 

Thế tử mừng lắm, bèn sai Dự Vũ làm cơm rượu, mời bọn biện lại trong đám thân quân tới đánh chén, rồi nói với họ rằng:

 

- Thế tử chẳng có tội ǵ, nhưng bị mụ đàn bà ác nghiệt họ Đặng làm mê hoặc tiên chúa, vu tội hăm hại thế tử để cướp ngôi. C̣n quận Huy vốn có chí phản nghịch, lợi dụng vương tử Cán bé dại dễ kiềm chế, nên hắn mới vào hùa với mụ mà gây ra việc bỏ người này lập người kia, để hắn làm phụ chính cho tiện cái mưu cướp nước của ḿnh. Nay tân chúa bị bệnh nặng, sự nguy biến chỉ trong sớm tối. Không biết rồi đây cơ nghiệp nhà chúa sẽ do ai làm chủ? Ba quân đều là người ở đất "thang mộc" ("thang mộc" nghĩa là tắm gội. Đất "thang mộc" là đất thiên tử phong cho các chư hầu, để làm nơi cung đốn việc tắm gội hoặc nơi ăn ngủ trước khi vào chầu. Do đó, đất "thang mộc" cũng dùng để trỏ chung đất quê hương của vua chúa. ở đây đất "thang mộc" trỏ vào Thanh Hoá, đất quê hương của vua Lê.) và là binh lính ứng nghĩa, làm nanh vuốt của nhà nước, ai cũng sẵn ḷng trung nghĩa. Nếu anh em c̣n nghĩ đến cái ơn của nhà chúa nuôi nấng trong hai trăm năm, th́ hăy nên một ḷng giúp đỡ nhà chúa. Mai đây nếu trời cho xong việc, tất nhiên sẽ có sách son, khoán sắt (văn thư viết bằng son, khoán ước chế bằng sắt, ban cho bầy tôi có công để tỏ ư cùng được hưởng phú quí lâu dài với nhà vua) lưu truyền muôn đời.

 

Mọi người đều nói:

 

- Chúng tôi vẫn có bụng đó, nhưng chưa biết ư vương tử ra sao. Sợ đến lúc ấy nhỡ có điều ǵ kinh động, người lại quở trách chúng tôi gây việc. Nay vương tử đă ngỏ ư cho biết như thế, th́ việc này chắc không khó ǵ.

 

Sau đó, họ bèn ngầm đi báo cho nhau, hẹn ngày tụ họp ở chùa Khán Sơn (chùa Khán Sơn xưa ở trên trái núi đất gần khu vực vườn Bách Thảo Hà Nội, chùa bị phá từ cuối đời Cảnh-hưng).

 

Lúc quân lính đến hội họp, bàn về việc ấy không ai là không hăng hái. Nhưng họ c̣n sợ thanh thế quận Huy, nên chưa biết khởi sự như thế nào cho ổn thoả.

 

Giữa lúc đang bàn bạc như thế, th́ bỗng một người đứng phắt lên nói:

 

- Chỉ sợ anh em không cùng một bụng thôi. Chứ nếu ba quân đồng ḷng, th́ bất quá chỉ thừa dịp cúng cơm sáng xong (theo tang lễ xưa, người chết khi chưa chôn th́ gia đ́nh mỗi ngày cúng hai lần cơm), đánh một hồi trống trong phủ làm hiệu, rồi kéo ùa cả vào, nắm cẳng hắn, vứt chỏng gọng xuống dưới thềm một cái là xong thôi mà!

 

Mọi người đều reo mừng hưởng ứng, và cùng nh́n về phía kẻ mới nói, th́ ra đó là viên biện lại của đội Tiệp-bảo (đội thân binh hầu hạ) tên là Bằng Vũ.

 

Gă Bằng Vũ này là người huyện Thanh Chương, xứ Nghệ An, ông cha vốn là công thần đời Lê trung hưng. Về sau tập ấm (đây dịch theo hai chữ ấm tận. Trong chế độ phong kiến, những kẻ làm quan, tuỳ theo thứ bực, con cháu đều được nối nghiệp làm quan gọi là tập ấm; đến lúc nào không được hưởng tập ấm nữa th́ gọi là ấm tận) đă hết, con cháu trở nên nghèo nàn. Bằng Vũ được người làng thuê đi lính thay. Gă người thấp bé, thanh nhă như dáng học tṛ. Sau khi vào đội Tiệp-bảo, nhờ biết dăm ba chữ, gă được làm chân biện lại. ở kinh, gă thường làm mướn đơn kiện cho người ta, vẫn lừng tiếng là tay điêu toa trong việc xui nguyên giục bị.

 

Lúc này Bằng Vũ thủ xướng ra lời bàn đó, cả bọn liền bầu ngay gă làm chủ mưu, giao cho gă đánh trống trước để thúc giục ba quân.

 

Bằng Vũ mạnh bạo nhận lời. Rồi cả bọn cùng nhau uống máu ăn thề. Nhưng họ không dự định ngày nào, chỉ hẹn nhau hễ nghe hiệu trống của Bằng Vũ th́ cùng kéo đến để khởi sự.

 

Mưu toan bí mật đă bàn định xong. Chợt lại có người nói:

 

- Việc này hết sức quan hệ. Nên nhờ quốc cữu tâu với thánh mẫu, xin lĩnh ư chỉ của thánh mẫu mà làm. Vạn nhất quận Huy có biết, ḿnh c̣n có mật lệnh làm cớ để mà nói, tỏ rằng ḿnh vẫn làm việc minh bạch. Như thế mới là kế vạn toàn!

 

Người ấy là Bùi Bật Trực, quán làng An Toàn, huyện La Sơn, một tay danh sĩ xứ Nghệ. Bật Trực trước đă từng làm chức viên ngoại lang, hồi này v́ bị mất quan vẫn nương nhờ ở trong nhà quốc cữu Viêm quận công (Viêm quận công Nguyễn Trọng Viêm là em mẹ Trịnh Sâm, do đó gọi là quốc cữu). Khi bọn biện lại hẹn quân sĩ đến tụ tập ở chùa Khán Sơn, Bật Trực cũng đă nghe phong thanh. Gă liền đem mưu mô của bọn quân sĩ nói nhỏ với Chiếu lĩnh bá (tức Nguyễn Trọng Chiếu), con Viêm quận công, và khuyên nên nhập bọn để hớt lấy công ấy. C̣n bản thân gă th́ đứng ra làm người manh mối giữa Chiếu lĩnh bá và bọn quân sĩ. V́ thế, nên gă mới đến dự cuộc họp để nói với bọn họ như vậy.

 

Quân sĩ vốn không cần chỉ của thánh mẫu, nhưng thấy người nhà quốc cữu cũng có mặt trong cuộc hội họp, khước từ sẽ lộ chuyện. Vả lại, lời của Bật Trực nghe cũng có lư, họ bèn cùng đi với Bật Trực đến gặp quận Viêm.

 

Lúc quân sĩ chưa đến, Chiếu lĩnh bá đă đem chuyện nói trước với cha. Cha hắn ta vốn là người tầm thường, nghe thấy chuyện đó th́ sợ lắm, bèn nói:

 

- Lũ lính tráng này là đồ thô lỗ, khinh suất nên mới làm việc ấy: ḿnh can dự vào làm ǵ? "Con vua th́ lại làm vua". Ai làm chúa ta cũng vẫn không mất cái chân là quốc cữu tiền triều. Nay lại muốn cầu công trạng, nếu việc thành, ta không thể giàu sang hơn thế này nữa; mà ngộ nhỡ công việc vỡ lở, hẳn là chết không có đất chôn!

 

Chiếu lĩnh bá đáp:

 

- Bọn họ bàn bạc, ước hẹn với nhau đă đâu vào đấy rồi. Thế nào nay mai họ cũng ra tay, mà đă ra tay là phải xong việc. Cự tuyệt họ tức là bỏ uổng cơ hội. Vả chăng sự giàu sang của cha dẫu đă đầy đủ rồi thật, nhưng cha cũng nên để cho chúng con nhân dịp này mà lập công danh. Hơn nữa con đă trót hứa với họ, bây giờ dù có muốn thoái thác cũng không thể được.

 

Một lát quân sĩ kéo đến. Quận Viêm bất đắc dĩ phải ra tiếp.

 

Sau khi nghe họ nói, quận Viêm trả lời:

 

- Các anh em c̣n có ḷng v́ nước, tôi đây há lại dám có bụng dạ nào khác. Có điều anh em muốn xin ư chỉ của thánh mẫu, th́ nên đến nhà cháu tôi là viên phó tri binh phiên Nguyễn Kiêm mà bảo viên ấy vào bẩm với thánh mẫu. Viên ấy giữ chức tri lệnh sử, nên ra vào cung Huỳnh người ta sẽ không nghi ngờ. C̣n tôi, tôi cũng xin gửi lời tŕnh thêm với thánh mẫu nữa.

 

Quân sĩ nghe lời, lại kéo cả sang nhà Nguyễn Kiêm.

 

Kiêm vốn là hạng hèn nhát, nghe quân sĩ nói th́ hoảng hốt chối đây đẩy. Nhưng bọn người vẫn cố nèo:

 

- Việc này cũng đă bẩm với quốc cữu và Người đă dạy như thế.

 

Rồi họ thúc ép Kiêm phải đến nhà quận Viêm để nhận lời dặn mà vào tâu với thánh mẫu.

 

Nguyên việc bỏ con lớn lập con nhỏ, thánh mẫu vốn không hài ḷng, v́ vậy khi được nghe mưu toan ấy, thánh mẫu đă thấy hợp ư ngay. Nhưng dẫu sao cũng chưa thoát khỏi chí khí đàn bà, thánh mẫu sợ nhỡ công việc bại lộ, quốc cữu sẽ bị vạ lây; nên muốn hăy ngầm dỗ dành quận Huy để hắn đưa thế tử Tông lên quyền ngôi chúa cho khỏi sinh biến. Lại nghĩ trong bọn bảy tên phụ chính, chỉ có quận Hoàn vừa là thầy học của chúa trước vừa là bố vợ Kiêm, bụng dạ có thể tin được, mà lại là bậc lăo nho có nhiều mưu trí, có thể cùng bàn mọi việc với ông ta. Thánh mẫu bèn bảo Nguyễn Kiêm một mặt báo cho bọn quân sĩ hăy chậm khởi sự lại vài ngày, c̣n một mặt th́ tới bàn mưu với quận Hoàn.

 

Quận Hoàn nói:

 

- Nếu ba quân làm như thế, tất sẽ gây ra rất nhiều việc lôi thôi. Nay thánh mẫu quyết đoán sáng suốt như vậy, thực là phúc cho xă tắc. Lăo thần đây cũng không thể nghĩ hơn thế được. Nhưng xin thánh mẫu hăy hạ chỉ dụ quận Huy, c̣n tôi ở trong sẽ nói thêm vào.

 

Kiêm đem lời ấy tâu với thánh mẫu. Thánh mẫu bèn sai người bảo quận Huy rằng: "Nay tân chúa bị đau, trong nước đang lo lắng, nghi ngờ. Tướng quân nếu c̣n coi xă tắc là trọng th́, hăy nên tạm để cho vương tử Tông lên quyền ngôi chúa để yên ḷng người. Đợi khi nào tân chúa trưởng thành, vương tử Tông sẽ lại trao trả chính quyền và lui về giữ trọn đạo làm tôi. Tướng quân nên đem ư đó bày tỏ với Tuyên phi và để vương tử Tông nhận Tuyên phi làm mẹ nuôi, lấy tướng quân làm a bảo. Mong rằng tướng quân hăy hết sức giúp đỡ cho được chu toàn!".

 

Quận Huy đáp lại rằng: "Lư tôi gửi lạy dưới cửa thánh mẫu. Thánh mẫu đă lo đến việc lớn của xă tắc, tôi đâu dám chẳng vâng mệnh. Nhưng có điều việc này không phải ư của tiên vương. Tôi được tiên vương trao gửi con bồ côi, ngài đă dặn ḍ rất cặn kẽ. Nay tử cung (quan tài của vua chúa) c̣n quàn tại đây mà đă thay đổi mệnh ngài, ḷng tôi tự thấy không yên. Vậy chuyện này xin hăy để liệu sau. Vả tiên vương cũng không c̣n người con nào khác, chỉ có tân chúa và vương tử Tông mà thôi. Nếu tân chúa không gánh vác nổi công việc, th́ sau đó tất là phải đến vương tử Tông. Lúc đó vương tử Tông cứ việc đường hoàng mà thay thế, há chẳng tốt đẹp hơn sao, cần ǵ phải vội vă hấp tấp, làm việc trái với lẽ thường như vậy? C̣n như kẻ lo lắng, th́ lâu rồi họ khắc yên ḷng; kẻ nghi ngờ, lâu rồi họ khắc tin tưởng. Dám xin thánh mẫu cứ yên tâm... ".

 

Sứ giả ra chưa khỏi cửa, quận Huy đă hằn học:

 

- Việc này dẫu có đánh chết ta cũng chẳng nghe!

 

Sứ giả về thuật với thánh mẫu. Thánh mẫu biết chí của Huy không thể lay chuyển, bèn đem lời Huy nói lại với Nguyễn Kiêm.

 

Kiêm sợ việc lộ, vạ lây, lại đến bàn với quận Hoàn.

 

Quận Hoàn nói:

 

- Bây giờ sự thế đă như vậy, thôi th́ mặc cho ba quân họ muốn làm ǵ th́ làm!

 

T́nh cờ có một tên lính ở xă Vạn Lộc, huyện Động Sơn, đem các công việc báo với người cùng làng làm viên thiêm tri binh phiên Trần Hữu Cầu. Cầu vốn tính hiếu sự, lại giỏi làm văn, tức th́ soạn ngay bài hịch Ba quân pḥ chính, rồi ngầm đem dán ở khắp các đường phố. Do đó, trong kinh kỳ nôn nao cả lên.

 

Thấy chuyện đă vỡ lở như vậy, bọn Bằng Vũ cho là thế không thể đừng được, bèn quyết định ngay ngày hôm sau khởi sự, không cần phải tâu với thánh mẫu. Hôm ấy là ngày 24 tháng 10 năm Nhâm dần (1782).

 

Bấy giờ quận Huy cũng biết tai hoạ sắp xảy ra, liền nói toạc ra ở trong triều rằng:

 

- Ngày mai có biến, tôi sẽ chết. Nhưng tôi chết cũng phải có dăm ba mạng đi theo.

 

Các quan nói:

 

- Lẽ nào lại có chuyện ấy?

 

Quận Huy bèn đưa ra một tờ khải nói là Huy Bá tố cáo quận Viêm đang âm mưu làm phản và xin các quan hăy tra xét để trừng trị.

 

Gặp lúc trời sắp tối, người nhà quận Huy có kẻ khuyên hắn nên bế tân chúa đi trốn, rồi gọi quân bên ngoài vào bắt bọn gian; có kẻ khuyên hắn nên đưa nghĩa sỹ vào trong phủ để tự vệ... Nhưng quận Huy đều gạt đi mà rằng:

 

- Xưa nay thói đời vẫn hay phao nhảm, chưa chắc việc đó đă có thật. Mà dù có đi nữa th́ cứ để thong thả rồi cũng tra ra, chúng nó trốn đi đằng nào được. Nếu việc quá gấp không thể trị nổi bọn chúng, th́ ta đây vâng mệnh của đấng tiên vương, sống thác cũng cam, cần ǵ mà phải hốt hoảng!

 

Đêm ấy quận Huy ngủ ở trong phủ, cũng chỉ đem theo vài người hầu như mọi ngày, không hề pḥng bị ǵ hết.

 

Sáng mai, lễ cúng cơm bữa sáng vừa xong, các quan đang sắp lui trào, Bằng Vũ vào trong phủ, đánh luôn ba hồi chín tiếng trống.

 

Các quan ngơ ngác nh́n nhau. Quận Huy sai người đóng chặt cửa các, bắt trói Bằng Vũ đem chém. Khi Bằng Vũ đă bị trói rồi, Thuỳ trung hầu bảo quận Huy rằng:

 

- Bọn chúng lập mưu này không phải chỉ có một đứa, nếu chém Bằng Vũ th́ đảng gian sẽ lọt lưới hết. Chi bằng hăy giam nó lại, để tra xét thêm cho tiệt hết mầm loạn.

 

Quận Huy cho là phải, thế là Bằng Vũ không bị giết chết.

 

Lại nói, quân lính nghe thấy tiếng trống tức th́ người nào cũng nhảy nhót hăng hái, cùng cầm binh khí xô lấn nhau mà vào trong phủ.

 

Lúc ấy cửa các đă đóng, quân lính ở bên ngoài không vào được, họ cứ đứng ḥ reo quát tháo long trời lở đất.

 

Quận Huy gọi quận Châu ra bảo:

 

- Cậu (Quận Châu là bà con họ ngoại của chúa Trịnh, do đó gọi là cậu) giữ chức binh phiên, làm sao không biết răn đe chúng nó?

 

Quận Châu sợ hăi, vâng dạ mà ra.

 

Quận Huy tự làm tờ khải rằng:

 

"Lư tôi kính khải như sau: Tôi được tiên vương giao cho giúp đỡ nhà chúa. Nay đám ba quân nổi loạn, làm cho kinh khuyết náo động. Tôi xin vâng lĩnh mệnh chúa đem quân giết chúng. Nếu dẹp được, ấy là nhờ về oai linh của chúa, nhược bằng không dẹp được, tôi cũng xin liều chết để xuống ra mắt tiên vương ở dưới âm cung".

 

Khải làm xong, quận Huy giao cho quan xuất nạp dâng tŕnh, và xin lấy thanh bảo kiếm của chúa để ra đánh giặc.

 

Khi bảo kiếm đưa tới, quận Huy quỳ gối lĩnh nhận, rồi lập tức truyền lấy voi để ra trận.

 

Lúc ấy quận Châu đang đứng ở phía trái trong cửa các, cách quân lính một bức tường, lên tiếng dụ họ rằng:

 

- Làm lính phải biết lễ phép. Nay tử cung c̣n quàn ở đây, các người không được làm ồn ào như vậy. Nếu có điều ǵ muốn nói, cứ về viết một tờ khải đem lại, ta sẽ tŕnh bày giúp.

 

Quân lính thét lớn:

 

- Cậu cũng định theo quận Huy làm phản à? Nếu cậu không mở ngay cửa ra, chúng tôi trèo tường mà vào, th́ xác cậu sẽ nát như cám!

 

Quận Châu run sợ, phải mở cửa. Quân lính chen vai xông vào.

 

Quận Huy chống kiếm lên voi, cưỡi ra giữa sân phủ, trỏ ba quân quát:

 

- Bớ ba quân! các người phải đâu về đấy ngay, không được làm ầm ỹ, ta sẽ chém đầu chúng mày!

 

Quân lính vốn sợ Huy, thấy hắn cưỡi voi, lại càng khiếp đảm, đều ngồi sụp xuống nghe lệnh, không dám lên tiếng, cũng không dám xông tới.

 

Nhưng chỉ được một lát, bao nhiêu người đang ngồi lại nhao nhao đứng dậy, kéo ập vào trước đầu voi. Voi vươn đầu ra húc, quân lính chạy quanh chân voi để tránh cặp ngà. Rồi họ lấy khí giới đâm chém túi bụi, có kẻ cạy gạch ngói ở phủ ném ra tới tấp, voi co ṿi mà gầm không dám húc nữa. Quận Huy giương cung định bắn, chẳng may cung bị đứt dây; lại vớ lấy súng để nạp đạn, nhưng mồi lửa tịt không cháy. Quân lính thừa dịp dùng luôn câu liêm lôi viên quản tượng xuống đất mà chém. Voi bước lùi trở lại. Quân lính xúm đến vây kín dưới chân voi. Quận Huy lấy mũi lao phóng xuống, làm bị thương vài người. Quân lính hăng máu kéo đến càng đông. Lại có một toán ở cửa Tuyên-vũ xông vào, đứng chắn ở đằng sau voi, khiến voi phải đứng im không thể nhúc nhích. Họ bèn dùng câu liêm móc cổ quận Huy kéo xuống, rồi đánh đấm túi bụi giết chết ngay tại chỗ.

 

Sau đó, họ phanh bụng quận Huy lấy gan ăn sống, c̣n thây chết th́ lôi ra ngoài cửa Tuyên-vũ.

 

Em ruột quận Huy là Lư vũ hầu Hoàng Lương nghe tin có biến, vội vàng chạy bổ vào phủ đường. Nhưng mới đi đến cửa chùa Báo Thiên th́ bị quân lính quát đứng lại, rồi họ vớ luôn gạch đá trên đường đập cho vỡ đầu và vứt xác xuống hồ Thuỷ Quân (Hồ Hoàn Kiếm bây giờ).

 

Anh em quận Huy chết rồi, quân lính vui mừng reo ḥ như sấm. Họ kéo nhau vào nhà Tả Xuyên pḥ thế tử Tông lên phủ đường. Họ kiệu thế tử lên vai, rồi đứng xúm chung quanh, gào lên vui sướng:

 

- Xin ngồi cao thêm nữa để thiên hạ đều được thấy mặt rồng, cho thoả ḷng vui của mọi người!

 

Trong lúc gấp vội không có kỷ sập, họ phải dùng tạm chiếc mâm vẫn bày cỗ lộc làm ghế, đặt thế tử ngồi lên, rồi tám người kề vai vào khiêng. Chốc chốc họ lại nâng bổng chiếc mâm lên trên đầu mà đội; đầu mỏi lại hạ xuống vai, rồi vai mỏi lại nâng lên đầu. Cứ thế lên lên xuống xuống y như người ta giỡn quả cầu hoặc rước pho tượng phật. Mỗi lần thế tử được nhô lên cao, quân lính lại vỗ tay reo ḥ vang lên một chặp. Những kẻ buôn bán ở các phố phường, chợ búa đều tranh nhau kéo đến xem chúa, sân phủ đông như họp chợ.

 

Quận Châu phải đem ngọn cờ đuôi báo phất ở giữa sân, rồi khua chiêng thu quân, măi đến hơn một trống canh mới yên.

 

Mấy hôm trước, ngày nào trời cũng u ám. Hôm ấy tự dưng bầu trời lại trong sáng, mọi người đều cho đó là cái điềm thái b́nh, thánh chúa. Kẻ qua người lại trên đường đều hư hửng nói: "Chúa ta lập rồi!". Thế rồi họ truyền miệng nhau mà reo mừng, kinh kỳ hôm ấy v́ thế phải nghỉ phiên chợ.

 

Quân lính đặt chiếc sập ngự ở ngoài phủ đường, các quan đều d́u thế tử lên ngôi chúa. Cuộc lễ mừng xong rồi, các quan mới đem đạo sắc của nhà vua và tờ chỉ của thánh mẫu dụ ba quân về việc pḥ lập chúa, tới dán ở cửa các. Những tờ ấy đều là tạm thời thảo ra, nhưng được gọi là mệnh lệnh định sẵn.

 

Hôm ấy, việc biến xảy ra, Thị Huệ khiếp sợ vô cùng, phải thay đổi quần áo, nấp ở hậu cung. Các gia thần của vị chúa nhỏ cũng đều chạy trốn hết cả. Riêng quận Diễm bế chúa lánh đi ở một nơi khác, từ sớm đến tối không được miếng ǵ vào mồm, chúa gào khóc nheo nhéo. Quận Diễm phải doạ: "Không được khóc to, kẻo quân lính nghe tiếng, chúng nó kéo đến đánh chết!" Chúa nhỏ sợ hăi, mới không khóc nữa.

 

Đến đêm, thánh mẫu sai người đi t́m Thị Huệ cùng chúa nhỏ về cung, cho thay quần áo và ăn uống. Chúa nhỏ v́ quá sợ hăi không ăn uống ǵ được, bệnh càng thêm nguy kịch.

 

Chúa mới (Trịnh Tông) bèn treo giải hễ người nào chữa khỏi bệnh cho chúa nhỏ, th́ thưởng một trăm lạng vàng và phong cho tước hầu. Nhưng rốt cuộc không có ai nhận chữa.

 

Hôm sau, chúa mới ra lệnh cho quan tham tụng Tứ-xuyên hầu, thay chúa nhỏ làm một tờ khải xin tự lui xuống làm vương đệ. Tờ khải làm xong, chúa mới giao xuống cho các đ́nh thần bàn bạc. Các quan xin giáng phong chúa nhỏ làm Cung quốc công. Được ít lâu sau th́ Cung quốc công qua đời.

 

Lại nói, bọn quân lính tuy đă giết chết anh em quận Huy, nhưng cơn giận vẫn chưa hả. Pḥ lập thế tử Tông lên ngôi chúa xong xuôi, họ lại kéo đến quỳ ở trước mặt chúa xin phá tất cả dinh cơ của quận Huy.

 

Chúa ưng lời ngay. Ba quân liền reo lớn:

 

- Quan cứ lệnh, lính cứ truyền, mau đi phá huỷ dinh quận Huy anh em ơi!

 

Chỉ trong chốc lát, nhà cửa của quận Huy bị phá tan tành, một mảnh ngói cũng không c̣n. Rồi bọn quân lính càng thừa thế hoành hành. Phàm các quan văn vơ hễ ai thuộc bè đảng của Thị Huệ và quận Huy, cùng những người dự vào việc tố giác vụ án năm Canh-tư (việc Tông mưu cướp ngôi khi trước) những viên quan hầu mọi ngày có tính nghiệt ngă mà quân lính vẫn ghét, lúc ấy cũng đều bị phá nhà hàng loạt và bị lùng bắt đem giết chết.

 

Luôn trong mấy ngày, họ làm náo động cả kinh thành. Tông phải hạ chỉ ngăn cấm mà họ vẫn không thôi.

 

Sau, chúa phải sai người ḍ xét trong kinh kỳ, lén đến chỗ họ tụ họp, rồi bắt phứa lấy một người thường dân ở gần đó đem chém để ra oai. Từ đó về sau việc phá phách nhà cửa mới tạm ngừng, nhưng việc lùng bắt người để giết th́ vẫn chưa dứt.

 

Lại nói, trong bọn thủ hạ của quận Huy có một người tên là Nguyễn Hữu Chỉnh, quê ở làng Đông Hải, huyện Chân Phúc, trấn Nghệ An.

 

Cha Chỉnh nhờ nghề buôn bán, trở nên giàu sang, gia tư kể có hàng vạn, thường vẫn ở dưới cửa quận Việp.

 

Chỉnh, phong tư đẹp đẽ, trí tuệ hơn người. Lúc nhỏ theo học nho, đă đọc khắp các kinh sử, năm mười sáu tuổi đỗ hương cống; đă từng theo cha nương nhờ dưới cửa nhà quận Việp.

 

Chỉnh giỏi về thơ văn quốc âm. V́ mến công nghiệp của Quách Tử Nghi nhà Đường, Chỉnh có làm bài Quách lệnh công phú bằng chữ nôm, được nhiều người trong nước truyền tụng.

 

Tính Chỉnh lại hào hiệp, giao du khắp thiên hạ. Trong nhà Chỉnh lúc nào cũng có vài chục người khách, khi ngâm thơ, khi uống rượu, tuỳ theo sự hứng thú mà thù tạc với nhau. Nhà Chỉnh nuôi mười mấy ca nhi và vũ nữ; Chỉnh tự tay soạn ra bài hát, phổ vào đàn sáo, ngày đêm bắt họ ca múa để mua vui.

 

V́ thế, Chỉnh được xem là tay phong lưu bậc nhất ở đất Trường An (tức là kinh đô Thăng Long. Nguyên là tên kinh đô nhà Hán, sau thành danh từ chung chỉ kinh đô) hồi ấy.

 

Ngoài ra, Chỉnh lại c̣n có tài khôi hài, mỗi khi bông đùa ai cũng phải phục.

 

ở trong nhà quận Việp hơn mười năm, Chỉnh mới được cử ra coi đội Thiện-tiểu; có kẻ thấy vậy chê rằng: "Sao nhỏ thế?". Chỉnh liền đáp lại ngay: "Chớ cho điều thiện nhỏ mà không làm!" (câu này rút trong bài di chúc của Lưu Bị đời Tam quốc để lại cho con. Nguyên văn là: "Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi", ở đây Chỉnh mượn hai chữ Thiện-tiểu của Lưu Bị để chỉ đội Thiện-tiểu với ư khôi hài). Cả đám đều bật cười. Tài bông đùa của Chỉnh đại để là như vậy.

 

Khi quận Việp vào đánh phương Nam, Chỉnh được đi theo giúp việc bút nghiên. Thấy Chỉnh có tài, quận Việp hết sức yêu mến.

 

Sau khi quận Việp qua đời, có kẻ tố cáo rằng trong lúc làm việc quan, Chỉnh đă đánh cắp vàng bạc của công kể đến hàng trăm vạn. Việc ấy liên luỵ đến cả quận Huy. Chỉnh bị tống giam vào ngục và bị tra tấn đến gần chết, nhưng vẫn nhất định không xưng. Nhờ vậy Chỉnh mới được vô tội. C̣n quận Huy thấy thế th́ lại càng trọng Chỉnh bội phần.

 

Lúc vào làm trấn thủ Nghệ An, quận Huy dùng Chỉnh làm hữu tham quân; thường giao cho Chỉnh luyện tập thuỷ thủ để chống giặc biển. Chẳng bao lâu Chỉnh trở thành vô địch trong nghề thuỷ chiến. Ngoài biển, mọi người thường gọi Chỉnh là "con hải ưng".

 

Đến hồi quận Huy đổi về trấn Sơn Nam, Chỉnh cũng được đổi sang cai quản đội Tiền-trung, đem quân đi tuần mặt biển. Rồi ít lâu sau, Chỉnh lại được đổi về trông coi cơ Tiền-ninh ở trấn Nghệ An.

 

Ngôi mả tổ nhà Chỉnh nằm ở trên núi Côn Bằng. Về thế đất ấy, sách địa lư nói rằng: "Ngàn vạn con rồng đuổi ngàn vạn con hổ; xưng bá xưng vương đều được như ư". Nhân đó Chỉnh mới tự đặt hiệu là Bằng lĩnh hầu.

 

Thời kỳ c̣n ở dưới trướng quận Việp, Chỉnh có một người quen cùng làng tên là Nguyễn Viết Tuyển, thi vơ đỗ biền sinh. Tuyển vốn có sức lực hơn người, lại là tay can đảm, mưu lược, nhờ Chỉnh tiến cử lên quận Việp, nên Tuyển được coi trung đội của đạo Hậu-kiên đóng ở trấn Sơn Nam.

 

Đến lúc này nghe tin trong kinh có biến, Tuyển vội vă vượt biển về quê. Giương buồm ra đi từ ngày 26 đến ngày 28 th́ đến làng Đông Hải. Tuyển đem hết mọi việc ở đường ngoài kể lại với Chỉnh. Chỉnh bối rối, hoảng hốt, không biết nên làm thế nào.

 

Thật là:

 

Sóng nổi đất bằng ai chẳng sợ,

Nắng thiêu núi tuyết khó nương nhờ

 

Chưa biết Chỉnh tính liệu như thế nào? Hăy xem hồi sau phân giải.

 

---------------------------------------------------------------------- ----------

Sách Thông giám chép: Đời Đường, có người bảo Trương Thoàn nên tới nhà Dương Quốc Trung. Thoàn nói: "Các người tựa vào Dương hữu tướng như tựa núi Thái Sơn; tôi th́ cho đó là trái núi băng. Hễ mặt trời lên th́ các người hết chỗ dựa". Câu này lấy ư ở điển ấy.

 

Last edited by katkatt on Mon Mar 27, 2006 4:23 am; edited 1 time in total

 

 

Hoàng Lê nhất thống chí

Ngô gia văn phái

 

Hồi thứ ba

 

Dương nguyên cữu bàn chém kiêu binh,

Nguyễn quốc sư mưu trừ nội loạn..

 

Lại nói, Nguyễn Hữu Chỉnh nghe lời Viết Tuyển, bị một phen giật ḿnh sợ hăi, nhưng rồi lại cố trấn tĩnh ngay và giữ kín chuyện đó không để lộ cho ai biết, chỉ bí mật dặn vợ mấy điều, rồi đi thẳng đến trấn sở Doanh cầu để bàn với Dao trung hầu [tức Vũ Tá Dao, người huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh (Nghệ Tĩnh)].

 

Dao trung hầu nguyên là em rể quận Việp, hiện làm trấn thủ Nghệ An, nghe lời Chỉnh nói, sợ lắm, liền hỏi mưu kế nên như thế nào.

 

Chỉnh nói:

 

- Trấn này giáp liền trấn Thuận Hoá, hiện nay phó tướng Phú Xuân là Thể quận công, đồn thủ Động Hải là Khôi thọ hầu (Thể quận công tên là Hoàng Đ́nh Thể. Khôi Thọ hầu tên là Khôi Thọ), đều là môn đồ của cụ quận Việp; với chúng ta cũng là những người cùng thuyền. Quan lớn nên viết thư kín bảo quận Thể t́m cách giết viên đại tướng Phú Xuân, chiếm lấy thành đó, rồi kíp cho người ra dụ Khôi Thọ. Khôi Thọ thế nào cũng đem cả thành Động Hải mà hưởng ứng với ta. C̣n ở đây, quan lớn cứ việc giữ lấy trấn này để làm cái thế môi răng với hai nơi ấy. Rồi ngài thu dùng hào kiệt, chiêu mộ thổ binh, chặn đường Hoàng Mai và đóng đồn lớn ở vùng Quỳnh Lưu để làm kế cố thủ. C̣n về việc pḥng giữ mặt biển, tôi xin đảm đương. Trấn này địa lợi có thể nương tựa, nhân tâm có thể trông cậy. Năm trước, quận Siêu bị tội với đức Dụ tổ (tức Trịnh Giang) cũng giữ trấn này để chống lại nhà chúa, cuối cùng đă thoát khỏi tai nạn. Huống chi sự thế ngày nay lại c̣n dễ dàng hơn hồi quận Siêu, nếu ngài làm được như vậy, ấy là đă lấy được nửa thiên hạ rồi. Chẳng những triều đ́nh không làm ǵ nổi, mà ngài c̣n có thể giữ cơi yên dân, ung dung ngồi nh́n sự thay đổi của thiên hạ. Như thế, chẳng những trước mắt khỏi bị tai vạ mà về sau c̣n có thể lập được kỳ công nữa!

 

Dao trung hầu ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:

 

- Kế của ông quả thực là hay lắm. Nhưng tôi tự liệu tài sức không thể làm được như thế. Xin ông nghĩ cho cách thứ hai nữa xem sao?

 

Chỉnh đáp:

 

- Ngoài kế ấy ra, chỉ c̣n một cách bỏ nước mà đi thôi!

 

Dao trung hầu lại hỏi:

 

- Nhưng mà đi đâu?

 

Chỉnh nói:

 

- Thiên hạ vạn nước lo ǵ không có chỗ đi?

 

Rồi Chỉnh ghé tai Dao trung hầu nói nhỏ mấy câu. Dao trung hầu nửa muốn nghe theo, nửa lại mơ hồ chưa quyết, liền nói với Chỉnh:

 

- Đó cũng là việc to lớn lắm, để tôi nghĩ lại xem đă!

 

Chỉnh nói:

 

- Bây giờ sự biến chỉ trong chốc lát, đợi khi ngài nghĩ lại th́ có lẽ cái lệnh tróc nă đă tới nơi rồi. Vậy ngài hăy ở lại mà nghĩ, xin để cho tôi được tự tiện!

 

Rồi Chỉnh cáo từ ra về. Tới nhà, Chỉnh hỏi vợ biết mọi việc đă sửa soạn xong; bèn nói là có lệnh của quan trấn thủ sai đi tuần tiễu mặt biển, rồi đưa hết người nhà từ già đến trẻ và tất cả các thứ gia sản xuống thuyền. Mọi người trong nhà đều không hiểu là chuyện ǵ.

 

Khi tất cả đă ở trên thuyền rồi, Chỉnh mới gọi hơn ba trăm lính cơ do Chỉnh trông coi, bảo họ đứng ở bờ sông, nói rơ ràng duyên cớ cho họ nghe, để lại cho mỗi tên lính một quan tiền đen, rồi từ biệt họ. Đến tận lúc ấy, bọn lính mới hiểu công việc của Chỉnh.

 

Thuyền nhổ neo, Chỉnh cho bắn ba phát súng lớn, rồi sai chèo ra giữa ḍng sông và kéo buồm cho thuyền chạy thẳng ra biển.

 

Lại nói, ba quân sau khi đă pḥ lập được thế tử Tông lên ngôi chúa, họ cậy vào công đó sinh ra kiêu căng. Hàng ngày họ tụ họp để cùng nhau bàn việc triều đ́nh. Thường khi họ viết giấy đưa vào trong triều, nói việc này nên để, việc kia nên đổi. Nhiều khi những việc vô lư họ cũng bắt buộc triều đ́nh phải làm. Chẳng những thế họ c̣n đ̣i hỏi những ơn này ơn khác, không biết thế nào là đủ. Triều đ́nh hễ có ai bàn chuyện phải chăng, th́ họ lấy việc phá nhà, đánh giết ra để hăm doạ. Những lúc các quan xử kiện, họ cũng nhúng tay vào, hoặc nhận bên nguyên là người họ, hoặc nhận bên bị là người quen, rồi ép các quan phải đổi trắng thay đen. C̣n dân chúng trong vùng họ đóng có kiện cáo ǵ, th́ họ tự ư đ̣i bắt và xử đoán lấy, không cần ǵ đến quan tư.

 

Các quan đều phải nhịn hơi nuốt tiếng, không dám động chạm đến họ. Trong cung hễ động làm việc ǵ bất kể lớn nhỏ, họ cũng ḍm nom bàn tán; hoặc bẻ việc này sao làm thế kia, hoặc hỏi việc kia sao làm thế này. Chúa và Dương thái phi cũng tự thấy bị bó buộc quá, không thể chịu nổi.

 

Triều đ́nh bàn nên xét công ban thưởng, để tỏ rơ sự đền ơn, khiến cho họ đều được măn nguyện; rồi sau đó sẽ dùng phép vua mà trừng trị dần dần. Chúa cho là phải, bèn sai các quan bàn định về công giúp đỡ tôn pḥ nhà chúa. Phong cho Bằng Vũ là Suy trung dực vận công thần, tước hầu, coi đội quân chầu chực ở nội cung. Quận Viêm, quận Hoàn cùng bọn Nguyễn Kiêm, Gia Thọ, Dự Vũ đều được phong làm Tuyên lực công thần và theo thứ bực khác nhau, đều được thăng chức tất cả. Riêng ba chục người nhóm họp ở chùa Khán-sơn lại c̣n được ghi tên vào sổ trung nghĩa và cho thăng thưởng thêm. Ngoài ra, các quân lính thuỷ, bộ, trong, ngoài đều được thăng chức một lần, đồng thời được ban tiền thưởng tuỳ theo công trạng nhiều hay ít. Triều đ́nh lại cấp cho họ những đạo sắc bỏ trống chỗ đề tên người, họ có thể nhượng lại cho kẻ khác mà lấy tiền để hưởng được ơn huệ thực sự.

 

Sau khi quân lư đă nhận thưởng đâu vào đấy, chúa bèn dụ họ ai nấy đều nên tuân theo pháp luật để cùng vui hưởng thái b́nh.

 

Bấy giờ, quân lính liền răn bảo nhau rằng:

 

"Cánh ḿnh đă pḥ lập ông ấy làm chúa, th́ cũng đừng nên quấy nhiễu quá để cho ông ấy được biết cái thú vui làm chúa. Rồi xem sau này dần dần thuận cảnh ông ấy cư xử ra sao? Nếu ông ấy càn rỡ quá đáng, th́ lúc bấy giờ sẽ liệu cách mà trừng trị. Chúng ḿnh đằng nào cũng không mất quyền làm lính kia mà!".

 

Rồi từ đó, họ cũng bớt làm bậy.

 

Chúa được yên ổn đôi chút, liền đưa những người thân tín cũ vào các chỗ trọng yếu. Lấy tả tư giảng Nguyễn Khản làm tham tụng; cậu cả là Khuông thọ hầu Dương Khuông làm quyền phủ sự.

 

Nguyễn Khản người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, là con Xuân quận công Nguyễn Nghiễm. Khản sinh ra là một trang phong lưu công tử, thi đỗ rất sớm, theo pḥ Thịnh vương từ lúc chưa lên ngôi chúa, được vương rất đỗi yêu mến. Kịp đến khi vương lên ngôi, Khản lại càng được tin dùng, được ra vào trong cung cấm, y như các viên nội giám.

 

Tính Khản hào hoa, trong lâu đài không mấy khi dứt tiếng sênh ca, hoặc tiếng ngâm thơ, đánh đàn để mua vui. Người ta thường xem Khản là bậc phong lưu đại thần. Tại đ́nh Kim-âu nơi Khản ở, có đủ cả nước, non, trúc, đá, cảnh trí hết sức thú vị. Thịnh vương hay ngự chơi nhà Khản, thường ban thưởng rất nhiều.

 

Trước Khản làm tả thị lang sung chức bồi tụng, với Xuân quận công cùng ở trong chính phủ. Sự yêu quư của chúa đối với Khản hồi ấy, thật là có một không hai trong hàng các quan văn vơ.

 

Sau đó, Khản được đổi làm trấn thủ Sơn Tây và kiêm cả trấn thủ Hưng Hoá. Đến khi xảy ra vụ án năm Canh tư, tội Khản đáng phải chết, nhưng Thịnh vương nghĩ thương t́nh, đặc cách cho giảm nhẹ, chỉ bắt giam ở nhà quận Châu. Hồi ấy quận Huy và Thị Huệ cũng muốn t́m cớ đưa Khản đến chỗ chết. Nhưng Khản biết ư đă làm một bài Tự t́nh khúc bằng chữ nôm, kể hết những sự đăi ngộ quư mến ngày xưa, rồi nhờ người lén đưa giấu cho chúa. Chúa xem bài đó, động ḷng thương; nhờ vậy Khản mới thoát chết.

 

Kịp đến khi thế tử Tông lên ngôi, Khản lại được phục chức về ban cũ, rồi thăng chức thượng thư bộ Lại, tước Tán quận công.

 

Nguyên ngày đi đánh dẹp phương Nam, Khản làm tham lĩnh trấn Nghệ An, kiêm trông coi về lương hướng của quân lính; Khản có dung túng cho người nhà quấy nhiễu xứ ấy. Nên bây giờ thấy Khản được phục chức, th́ bọn lính xứ Nghệ lại lôi cái oán cũ ấy ra. Họ nhao nhao bảo nhau: "Lăo ấy là người xa xỉ, phóng túng, năm xưa đă từng gieo rắc bao nhiêu tội ác cho trấn ta, ta kiện nhưng không được xử. Nay lăo ấy lại làm quốc sư, rồi nếu để lăo ấy lại làm tể tướng nữa th́ dân chịu sao nổi? Chi bằng chúng ta mỗi đứa cho một quả đấm cho xong đời lăo ấy đi!

 

Nhưng rồi trong bọn lại có kẻ đứng ra khuyên giải, nên Khản mới được vô sự.

 

Dương Khuông là em ruột Dương thái phi; người rất dung tục bỉ ổi, không có tài năng ǵ hết. Vụ án năm Canh tư, tôi tớ, họ hàng, bè đảng nhà thế tử Tông đều bị tai vạ, riêng Khuông nhờ ngu si mà được hưởng phúc thái b́nh.

 

Khi thế tử mới lên ngôi, Khuông liền được giao cho trông nom cơ Trung uy, cùng với Dương thái phi nấp bên trong mà định đoạt mọi việc. Quân lính đă từng nhạo báng rằng: "Cậu ấy th́ có tài cán ǵ? Chẳng qua chỉ nhờ vào cái bóng của người mặc váy mà được như thế. Nay vừa khỏi ṿng cùng khốn, đă muốn vội giàu sang. Cũng ví như kẻ bị đói đă lâu, lúc gặp cơm th́ ăn ngốn ăn ngấu rồi cũng đến nứt ruột ra mà thôi!".

 

Đến bây giờ thấy Khản và Khuông cùng vào chính phủ, ḷng họ đều không phục. Tuy vậy, bọn họ cũng rất giảo quyệt, kẻ này oán nhưng kẻ kia lại ơn, sau lưng họ chê mà trước mặt họ lại khen, chẳng c̣n hiểu đầu đuôi ra sao?

 

Vả chăng những nhà có chức quyền trọng yếu thường thường chỉ nghe lời nói chuyện thái b́nh mà không nghe lời nói chuyện nguy biến. Việc ǵ cũng muốn mạnh bạo tiến tới, nhưng không biết ngoảnh nh́n mối lo về sau. Họ chỉ muốn nóng vội làm cho chóng được thái b́nh. Cho nên mới có những mưu kế sâu sắc, những lời bàn bạc kín đáo, mà việc cần kíp thứ nhất là đè nén bọn kiêu binh.

 

T́nh cờ lúc đó, trong đám kiêu binh có bốn người lính giả lấy danh nghĩa đồng đội, ức hiếp người lái buôn Đông Hà để mượn thuyền. Việc này bị người đội trưởng phát giác và triều đ́nh đem chém cả bốn. Bọn kiêu binh đều oán là h́nh phạt quá lạm. Nhưng v́ họ đă trót tự ḿnh phát giác ra, nên cuối cùng cũng đành im.

 

Khản và Khuông thấy đám lính im lặng, cho là uy quyền đă được lập lại; hai người mừng rỡ bảo nhau: "Nhà nước đă sẵn có pháp luật. Nếu ta cứ giữ vững pháp luật như thế vài lần, th́ dù chúng có kiêu cũng chẳng kiêu được!".

 

Bấy giờ có viên tri huyện Đông Thành là Mai Doăn Khuê, người làng An Toàn, huyện La Sơn. Khuê vốn là tay giảo quyệt ghê gớm trong trấn Nghệ An. Việc quân lính ngông nghênh làm bậy, phần nhiều đều do hắn xui giục. V́ muốn tâng công với triều đ́nh, Khuê bèn mật báo với Tán quận công Nguyễn Khản rằng:

 

- Triều đ́nh cho rằng kiêu binh có thể dẹp được, nhưng không biết rằng hoạ lớn sắp xảy ra không thể nào ngăn nổi. Tôi nghe bọn lính bàn nhau: Hoàng tự tôn (Hoàng tự tôn là cháu nối nghiệp của hoàng thượng, chỉ Lê Duy Kỳ, tức Chiêu-thống sau này) nguyên trước do họ đón về, nay hoàng thượng tuổi già, mà hoàng tự tôn cũng đă khôn lớn, họ muốn họp nhau tâu xin hoàng thượng nhường ngôi cho cháu. Khiến cho ngôi vua ngôi chúa đều do tay quân lính dựng lên, để công của họ càng to thêm. Trong bọn họ lại có một số người cậy ḿnh có công rồi tỏ ư oán vọng, họ muốn pḥ cho nhà vua thống nhất thiên hạ, để cướp lại quyền ở nhà chúa. Nếu kế ấy mà thành được, tôi e các ngài sẽ không c̣n đất mà gửi thân nữa.

 

Tán quận công đem lời ấy tâu lại với chúa. Chúa sai Doăn Khuê phát giác chuyện đó.

 

Khuê bèn vu cáo cho viên câu kê Siêu thọ bá, cháu gọi Tứ xuyên hầu bằng cậu, cũng có dự mưu.

 

Việc ấy được giao xuống tra xét th́ không thấy bằng chứng ǵ hết. Nhưng triều đ́nh vẫn cho là người tố cáo nói đúng, bèn đưa Siêu Thọ về giam ở quê quán.

 

C̣n Doăn Khuê v́ có công phát giác, được phong làm Khuê lĩnh bá, cho cai quản toán lính chầu hầu ở nội điện. Khuê lại c̣n được kiêm chức giảng quan cho hoàng tự tôn và được ở luôn trong nội điện để ḍ xét công việc của ông hoàng đó.

 

Lại nói, hoàng tự tôn Lê Duy Kỳ (trước tên là Duy Khiêm, hoặc Tư Khiêm), là con thái tử Lê Duy Vỹ đă mất.

 

Thái tử xưa vóc người đẹp đẽ, tư chất thông minh. Thấy nhà vua bị mất quyền, thái tử căm tức lắm, thường vẫn khảng khái nuôi chí thu phục lại quyền bính. Thái tử lại từng xem khắp kinh sử, yêu mến các nho sinh; nên hào kiệt trong thiên hạ không ai là không ngưỡng vọng. Trong lúc Thịnh vương c̣n là thế tử, chỉ v́ tranh giành trên dưới mà vương có bụng ghét thái tử.

 

Khi ấy chính phi của Ân vương không có con trai, chỉ sinh được một con gái tức là công chúa Tiên Dung. Tiên Dung được vương hết sức yêu chiều. Năm nàng mới mười tuổi, chính phi xin với vương gả cho thái tử để sau này nàng làm hoàng hậu. Vương bằng ḷng.

 

Một hôm thái tử và thế tử cùng vào thăm Ân vương; vương mời ăn cơm và để con rể với con trai cùng ngồi một mâm. Chính phi thấy vậy liền nói rằng:

 

- Sao chúa lại được cùng ăn với vua?

 

Rồi bà ta bắt ngồi riêng ra mỗi người một nơi. Thế tử giận tái mặt lại, nhưng vẫn cắn răng không dám nói. Lúc tan tiệc trở ra, thế tử bảo với thái tử:

 

- Hai chúng ta sẽ phải một người sống, một người chết. Vua ấy cũng không nên đứng cùng với chúa này!

 

Đến khi Thịnh vương lên ngôi chúa, liền lập mưu với gia thần là viên quan hoạn Thiều quận công Nguyễn Kim Đĩnh (chính tên là Phạm Huy Đĩnh, người xă Cao Mỗ, nay là xă Kim Bôi, huyện Tiên Hưng, Thái B́nh), vu cho thái tử Vỹ thông dâm với cung nữ của Ân vương; rồi đem tội đó tâu lên hoàng thượng để bắt thái tử bỏ ngục.

 

Trước đó, trong giếng Tam Sơn ở mé sau điện bỗng có tiếng nổ như sấm. Thái tử dùng thuật số để bói, biết ḿnh sắp gặp nạn, bèn đến nói với hoàng thượng. Hoàng thượng cũng lấy làm lo, vẫn phải luôn luôn cầu nguyện cho con.

 

Kịp tới ngày bị bắt, thái tử biết tai nạn xảy ra đến nơi, liền vào ẩn ở trong điện ngủ của hoàng thượng.

 

Quận Thiều dẫn toán lính trước tiên xông thẳng vào Đông cung, định bắt thái tử đă rồi mới tâu vua, nhưng t́m khắp cả Đông-cung không thấy. Quận Thiều liền vào thẳng trong điện, kể tội thái tử cho vua nghe, rồi nói rằng:

 

- Tôi nghe nói thái tử náu ở chỗ ngủ của bệ hạ, xin hăy bắt giao cho tôi.

 

Hoàng thượng ôm măi lấy thái tử không nỡ rời ra. Quận Thiều cũng cứ quỳ măi ở giữa sân điện.

 

Thái tử tự biết ḿnh không thể thoát được, liền lạy trước mặt hoàng thượng, rồi ra cho quân lính trói.

 

Sau khi giải về phủ chúa, thái tử bị truất xuống làm dân thường và bị giam vào ngục. Rồi Thịnh vương ép hoàng thượng lấy người con thứ tư là Lê Duy Cận làm hoàng thái tử.

 

Được ít lâu sau, quận Thiều lại sai tay chân vu cáo cho hai nho sinh thi đỗ ở làng Đan Luân là Nguyễn Huy Sưởng [chính là Vũ Bá Sưởng người làng Đan Luân, nay thuộc B́nh Giang, Hải Dương (Hải Hưng)] và Lương Giản (người xă Tào Sơn, huyện Ngọc Sơn, nay là Tĩnh Gia, Thanh Hoá), rằng hai người này âm mưu cướp thái tử ra khỏi ngục để cùng dấy quân làm loạn. Việc này được đưa xuống các quan bàn bạc, và bắt Sưởng để tra xét. Giản khi ấy đă kịp bỏ trốn. C̣n Sưởng bị đánh đau quá, không chịu nổi roi vọt, đành phải nhận liều. Thế là thái tử phải ghép vào tội thắt cổ.

 

Ngày hành h́nh, bầu trời tự nhiên tối tăm, giữa ban ngày mà chỉ cách nhau gang tấc cũng không trông rơ. Chừng hơn một khắc mới lại sáng sủa. Già, trẻ, trai, gái trong thiên hạ, không ai là không rơi nước mắt. Họ đều cho rằng đó là việc trái ngược nhất, bi thảm nhất từ xưa đến nay. Hôm ấy nhằm ngày 20 tháng chạp, năm Tân-măo, niên hiệu Cảnh-hưng (1771).

 

Sau khi giết thái tử, Thịnh vương bắt đầu có chí thống nhất đất nước, định bắt cả ba con của thái tử giam vào một nơi. Một hôm, chúa tắm gội ăn chay, rồi ngự ra hồ Tây để cầu thần báo mộng. Đang đi, chợt thấy trước mặt có một cái kiệu, trên kiệu có một người ngồi chĩnh chện, nh́n kỹ té ra đó là thái tử Vỹ. Chúa truyền hỏi quân lính có ai trông thấy xe kiệu ǵ ở trước mặt không. Quân lính đều nói không thấy. Chúa lo lắm, liền sai quay ngay về cung. Đêm ấy, chúa đang nằm trong màn, bỗng thấy một người đầu đội khăn hồng, ḿnh vận áo đỏ, tay cầm một chiếc mái chèo, vạch màn ra rồi đứng ở đầu giường trừng mắt nh́n ḿnh. Chúa vội hỏi ai th́ người ấy đáp rằng:

 

- Ta là Duy Vĩ đây!

 

Chúa cả sợ, bấy giờ mới biết đó là linh hồn của thái tử Vỹ.

 

Nguyên khi thái tử bị bắt th́ một người đàn bà trong cung bế các con của thái tử chạy trốn về phía tây, vào ngủ nhờ nhà một người dân ở làng Dịch Vọng, huyện Từ Liêm.

 

Người dân này đêm trước đă mơ thấy có người bảo rằng: "Mày phải quét rửa nhà cửa, sân sướng cho sạch sẽ, thiên tử và thái hậu sắp sửa tới nơi?" Tỉnh dậy hắn ta nghĩ bụng: "Ḿnh là nhà dân, đâu được cái may mắn có các bậc chí tôn ngự tới?" Rồi suốt ngày hôm đó, hắn ta chắp tay đứng đợi ở ngoài cổng; nhưng đợi măi mà vẫn chả thấy một ai. Đến xẩm tối, mới thấy một người đàn bà bồng con xăm xăm tiến đến trước cổng xin ngủ nhờ; hắn ta liền đón ngay vào trong nhà và mời ngồi lên chiếc phản cao nhất. Sau khi đă kể qua câu chuyện chiêm bao cho người đàn bà nghe, hắn ta lại nói:

 

- Cứ theo giấc mộng đêm qua của tôi như thế, th́ bà và các cậu đây hẳn phải là ḍng dơi quí tộc; nếu không phải thân thích nhà vua, ắt cũng là họ hàng nhà chúa!

 

Người đàn bà đó chính là cung phi họ Nguyễn, nghe nói, vội gạt đi mà rằng:

 

- Câu chuyện chiêm bao, có ǵ là bằng cứ. Bác đừng nói nhảm, đó là việc chết người chứ không phải chuyện chơi đâu!

 

Ngay sớm hôm sau, mấy mẹ con lại từ giă chủ nhà mà ra đi. Nhưng chẳng bao lâu, bị người ta ḍ theo tung tích bắt được, đưa về an trí ở trấn Sơn Tây, rồi lại bị giải về kinh đô và giam ở ngục đề lĩnh.

 

Kịp đến khi quân lính pḥ thế tử Tông làm chúa, th́ hoàng tôn (Lê Duy Kỳ) đă 17 tuổi. Nhâ dịp ấy, quân lính bèn mang luôn kiệu tới nhà giam đón hoàng tôn về điện.

 

Hoàng tôn mặt rồng mắt phượng, tiếng nói như chuông, quân lính thấy vậy đều khen: "Thật đúng là bậc thiên tử"

 

Bà nội thế tử Tông xưa nay vốn thân với thái tử Lê Duy Cận. Thấy hoàng tôn về, bà ta sợ thái tử Cận mất ngôi, liền sai người giả vờ mời hoàng tôn vào chầu ở cung Huỳnh, để lừa bắt hoàng tôn đem d́m xuống sông Nhĩ Hà. Lúc hoàng tôn vào cung, bà ta cho tay chân bức hoàng tôn phải nằm lên cáng rồi bí mật khiêng đi.

 

Khi qua hồ Sen. hoàng tôn nằm trong cáng kêu gào ầm ĩ: lính canh nghe tiếng, quát phải đứng lại. Phu cáng và tên đi theo bỏ chạy tứ tung, nhân đó hoàng tôn được thoát nạn (theo Cương mục th́ hơi khác; bà nội Tông sai hoạn quan Liêm Tăng ép Kỳ tới chầu hầu, để bí mật giết chết. Kỳ chối không được, vừa khóc vừa đi. Do đó, quân lính phát hiện được la hét đ̣i tra ra kẻ thủ mưu. Họ t́m Liêm Tăng không thấy, có ư ngờ cho Cận chủ mưu).

 

Bấy giờ ba quân ồn ào nhốn nháo, muốn tra ra kẻ mưu hại hoàng tôn để bắt mà giết đi.

 

Thái tử Cận nghe được chuyện đó, liền vào phủ hầu chúa.

 

Thấy kiệu thái tử để ở ngoài cửa phủ, quân lính đều tức giận nói: "Ngôi vua lại có thể cầu may mà được à? Để chi cái của này để hắn tiện đường chạy chọt làm những việc bậy bạ!"

 

Rồi họ phá tan chiếc kiệu. Thái tử Cận hoảng sợ phải ăn mặc giả làm thường dân mà lẻn về cung.

 

Chúa biết việc đó là do ở nơi bà ḿnh gây ra, bèn dụ quân lính không nên làm ồn ào. Rồi lập tức sai triều đ́nh bàn định việc dựng hoàng tôn Kỳ lên ngôi đông cung, cho được yên ḷng ba quân.

 

Chúa ép thái tử Cận phải nhường ngôi và giáng phong làm Sùng nhượng công.

 

Thế là hoàng tôn Lê Duy Kỳ được lên ngôi làm hoàng tự tôn. Hoàng thượng liền sai đặt ra các giảng quan để trông nom việc học hành. Công phu dạy dỗ ấy, ngày tháng thêm nhiều măi. Do đó cái tiếng thánh hiền nhân hiếu của hoàng tôn được đồn vang khắp cả trong ngoài. Cũng do đó mà quân lính mới có cái mưu tôn pḥ cho hoàng tôn lên làm vua.

 

Đến khi Doăn Khuê tố cáo, tuy tra xét không thấy có bằng chứng ǵ, nhưng cuối cùng chúa cũng vẫn ngờ.

 

Một hôm, quân lính họp nhau, đem việc đón rước hoàng tôn ở nhà giam ra tâu lên hoàng thượng, để kể công và xin được ban ơn. Hoàng thượng cho ba quân vào lạy ở sân điện Vạn-thọ, tuyên chỉ uư lạo họ. Rồi truyền cho viên tả phiên lại sai người đánh cá hồ Sen lên, chọn lấy cá trắm làm gỏi thết đăi cả bọn. Sau đó mới từ từ bàn đến cách thưởng công cho họ.

 

Lúc quân lính ngồi dự yến tiệc ở trên điện, có kẻ chạy đi báo tin với chúa. Chúa cho đ̣i ngay quốc sư Nguyễn Khản, quốc cữu Dương Khuông vào phủ và bảo:

 

- Cái mưu mô tôn pḥ của bọn kiêu binh thật là giập không thể tắt được! Hiện giờ chúng nó đang tụ họp trên điện nhà vua. Vậy ta nên làm thế nào?

 

Quốc sư Nguyễn Khản đáp:

 

- Xin cho bắt mà giết đi!

 

Chúa bèn sai viên đầu hiệu đội Nhưng-nhất là Triêm vũ hầu (tên là Nguyễn Triêm) đem đội quân Phong-vân đến vây bắt.

 

Gă Triêm vũ hầu này người làng Phú Hoa, huyện Yên Lăng, thi đỗ tạo sĩ, dáng người hùng vĩ, có can đảm lại có sức khoẻ. Sau khi vâng mệnh chúa, Triêm vũ hầu liền xách gươm đi thẳng ra ngoài cửa phủ, rồi tuốt gươm ra, lấy tay gại gại vào lưỡi gươm mà nói: "Gươm sắc lắm! Gươm sắc lắm!

 

Chém được đầu kiêu binh đây!". Tiếp đó gă dẫn quân xông thẳng lên trên điện, vây lấy chỗ bọn kiêu binh đang tụ họp ăn uống.

 

Ba quân đang mải mê chè chén, thấy có lính đến vây bắt th́ đều hoảng hốt bỏ chạy tán loạn. Triêm vũ hầu và đội quân Phong-vân đuổi bắt được bảy tên, đem giải về phủ chúa.

 

Chúa lập tức cho với các quan tới để bàn cách xử trí. Các quan tới đông đủ, đem cả bảy tên ra tra hỏi. Bảy tên cứ thực t́nh khai hết, không có âm mưu ǵ khác cả. Các quan họp bàn đều có ư che chở cho họ. Riêng nguyên cữu Dương Khuông lại quả quyết mà rằng:

 

- Không phải hỏi tội trạng nào cả! Chỉ cái thói hay tụ họp mà không chừa cũng đáng xử chém rồi, c̣n phải bàn bạc làm ǵ nữa? Bọn chúng cứ cậy đông người mà ngông nghênh, không thể một lúc giết cho hết được. Nhưng hễ đứa nào phạm tội th́ quyết không dung tha. Ví như cả bó đũa th́ không thể nào bẻ găy được, nhưng nếu cứ rút riêng một hai chiếc ra mà bẻ, th́ lâu dần rồi cũng phải găy hết. Hôm nọ chém bốn đứa đó, thế là chịu chết bốn đứa, có thấy chúng bắt đền được ai đâu?

 

Quốc sư Nguyễn Khản cũng nói thêm:

 

- Lời bàn của quốc cữu thực là có lư. Các quan cứ nên theo luật mà thi hành.

 

Các quan bèn chiểu theo điều luật "vào trộm hoàng thành" mà xử cả bảy tên vào tội bêu đầu.

 

Tờ khải dâng lên, chúa sai đem tội phạm ra chém ngay hôm đó. Trong triều ngoài phố, ai cũng lấy làm hể hả. Bữa ấy nhằm ngày 15 tháng thái tử năm Nhâm th́n, niên hiệu Cảnh hưng (1772).

 

Sau vụ bảy kiêu binh bị giết chết, ba quân thẩy đều đem ḷng oán giận. Họ lại họp nhau bàn bạc.

 

Một người trong bọn nói:

 

- Ngày nay được có triều đ́nh này, khiến cho chúa tôi ngồi yên mà hưởng phú quí, đều là do công sức của chúng ḿnh cả. Thế mà, họ chẳng ơn th́ chớ, lại c̣n cho là kẻ thù, động một tí là bị đè nén. Nếu chúng ta cứ chần chừ nín nhịn măi, khiến cho cái mưu "bẻ đũa" của họ thành được, th́ rồi bọn ḿnh sẽ không c̣n người nào sống sót đâu!

 

Một người khác lại nói:

 

- Chúng ta không biết bẻ, chỉ biết "đả" thôi! Mau mau mỗi người một đấm, đưa ngay chúng đi theo quận Huy, xem chúng nó có c̣n bẻ được nữa hay không?

 

Rồi họ hẹn nhau đến hôm sau, vào lúc tan chầu th́ sẽ khởi sự.

 

Có kẻ đem việc đó mật báo với các quan trong triều. Các quan nửa ngờ, nửa tin. Sớm hôm sau, quốc cữu Dương Khuông và Triêm vũ hầu đi lén vào trong phủ. C̣n quốc sư Nguyễn Khản th́ đóng cửa nằm nhà, không dám vào triều. Tan chầu, quân lính chia nhau đi bủa vây các dinh thự. Vào nhà Dương Khuông và Triêm vũ hầu, không thấy hai người, quân lính tức th́ ḥ nhau phá nhà. Chỉ trong chốc lát, cả hai dinh đó đều bị san thành đất bằng.

 

Riêng ở dinh quốc sư Dương Khuông, có một thủ hạ là người khách phương Bắc (chỉ người Trung Quốc lúc bấy giờ), vốn rất giỏi thuật đánh kiếm. Nghe tin có biến, hắn vội tuốt gươm ra đứng giữ ở cổng. Quân lính nom bộ dạng người khách phương Bắc ngờ ở trong c̣n nhiều tay kiếm khách khác, nên không dám vào. Nhưng lâu lâu, họ thấy ra ra vào vào vẫn chỉ có một hắn ta; tức th́ cả bọn liền sấn ngay vào sát cổng. Người khách múa gươm ra đánh, chém bị thương vài người, quân lính kéo ùa vào, vằm hắn ra nát như bùn. Rồi họ xông thẳng vào trong dinh; lúc ấy Khản đă thay đổi quần áo, theo đường tắt chạy ra cửa ô Trường Bắn mà trốn đi rồi. Quân lính lập tức phá tan dinh của Khản.

 

Chúa nghe tin dinh thự của quốc sư Nguyễn Khản có người canh giữ, cho rằng Khản đă pḥng bị, chắc không việc ǵ; bèn sai một hiệu quân đến ngay đó để phân giải. Nhưng lúc quan quân tới nơi th́ Khản đă bỏ trốn, dinh thự đă bị phá gần hết.

 

Sau đó, đám kiêu binh lại kéo về phủ bảo với chúa rằng:

 

- Quốc sư mang quân ra ngoài làm loạn, xin chúa cho người đuổi theo!

 

Chúa bất đắc dĩ phải sai viên thị thần là thiêm tri binh phiên Thoan trung hầu đem quân đuổi theo Khản; nhưng lại dặn ngầm là cứ đi từ từ để cho Khản chạy thoát. Thoan trung hầu đuổi đến ô Cầu Giấy không theo kịp Khản, lại quay trở về.

 

Quân lính giận Thoan trung hầu không chịu đem hết sức ra đuổi, liền kéo đến nhà phá luôn nhà hắn ta.

 

Thoan trung hầu cũng phải chạy trốn nốt.

 

Quân lính không bắt được ba viên quan ấy, lấy làm căm tức lắm. Sau khi ḍ biết quốc cữu Dương Khuông và Triêm vũ hầu lẩn trốn trong phủ chúa, họ bèn chai nhau chắn kín cửa phủ, rồi cho một toán xông vào bên trong, đ̣i chúa phải đưa hai viên ấy ra cho họ.

 

 

Chúa nói dối rằng:

 

- Không thấy ai trong này cả!

 

Quân lính đều nhao nhao:

 

- Chúng trốn vào phủ, đă có người trông thấy rơ ràng. Người ta c̣n nhớ cả giờ chúng đi vào nữa, thế nhà chúa c̣n chối à? Xưa nay há lại có chuyện vua chúa chứa giặc ở trong cung bao giờ?

 

Dương thái phi vừa khóc vừa dỗ dành các quân lính rằng:

 

- Cái thân goá bụa may nhờ có ba quân pḥ chúa mới được như thế này! Nay chỉ c̣n có một đứa em, xin ba quân hăy tha mạng nó, để cho được trọn vẹn cái ơn xương thịt.

 

Đám kiêu binh thét lên:

 

- Tha mạng cậu ấy à! Thế hôm nọ bảy mạng người chết, ai tha? Nếu c̣n cố giấu, cung khuyết sẽ ra tro ngay lập tức, cái đó chắc cũng không hay ho ǵ!

 

Thái phi bèn ngồi sụp xuống đất, chắp hai tay lại vái lạy, van xin.

 

Các quân lính lại nói:

 

- Không nói chuyện với đàn bà. Chỉ hỏi nhà chúa thôi!

 

Chúa nói:

 

- Bức bách nhau thế này, thà đừng lập làm chúa c̣n hơn!

 

Quân lính nói:

 

- Tưởng rằng muốn làm chúa nên mới lập, chớ nếu không muốn th́ có ai ép?

 

Một người nữa hùa theo nói:

 

- Bẻm mép thế! Thôi, hăy xuống khỏi bệ đi! Chúng tôi mời Thuỵ quận công đến là khắc yên chuyện.

 

Chúa hoảng sợ, không dám ho he ǵ nữa.

 

Lúc bấy giờ đă sắp tối, bọn quân lính đều tản ra về, và họ c̣n nói thêm:

 

- Bắt chúng nó cũng ví như bắt cá. Nước sâu th́ cá c̣n lặn; đến mai tháo cho cạn nước, xem chúng nó có thể bay lên trời được không?

 

Đêm ấy, kiêu binh canh giữ cửa phủ rất chặt chẽ.

 

Chúa bàn với thái phi rằng:

 

- Khí thế của chúng như vậy, không thể dùng lời nói suông mà giảng giải được đâu. Cần phải mất nhiều của đấm mơm cho chúng nó, may ra mới xong, nếu không, th́ phải xoay kế khác...

 

Thái phi đáp:

 

- Nghe nói có tên Nhuyến Thọ, biện lại đội Nhưng-nhất là một đứa giảo quyệt, bọn kiêu binh làm ǵ cũng phải hỏi mưu nó.

 

Sáng mai, chúa bèn cho người ra dụ Thọ, ngỏ ư đút lót, bảo Thọ hễ nhận thu xếp việc này, sẽ giao một vạn lạng bạc, ba vạn quan tiền, cho y mặc sức muốn làm ǵ th́ làm, không cần hỏi đến. Lại hứa thêm rằng: "Nếu làm xong việc, sẽ c̣n có trọng thưởng nữa".

 

 

Nhuyến Thọ trong bụng đă ưng, nhưng c̣n làm bộ khó khăn mà rằng:

 

- Bọn họ muôn người muôn miệng, khó mà nói năng được với họ. Vả chăng, hễ đă ngỏ ư đút lót th́ thế nào họ cũng sinh ngờ vực. Rồi ngộ nhỡ lúc ấy lại có một vài người bàn ngang vào nữa, làm cho cơn giận của họ bốc lên, th́ lưng tôi phỏng chịu được mấy đấm?

 

Người của chúa sai đến vẫn cố kèo nài. Nhuyến Thọ ngần ngừ đáp:

 

- Nếu vậy để tôi lựa chọn lấy mấy chục người hung hăng, táo tợn nhất, đem t́nh thực ra bàn với họ, rồi bảo họ phụ hoạ thêm với tôi. Nhưng khi bàn bạc, giả sử mấy chục người này có đ̣i thêm điều ǵ, th́ tuỳ nhà chúa thương lượng lấy; tôi chỉ xin đứng ra làm kẻ dàn xếp mà thôi. C̣n như cái khoản tiền bạc công cộng kia, cũng xin đợi đến lúc quân lính tập hợp đông đủ đă. Bấy giờ nhà chúa sẽ tự ngỏ lời trước; tôi và mấy chục người này ở bên cạnh hùa thêm vào, như thế việc mới có thể thành được!

 

Người ấy về nói lại với chúa. Chúa bằng ḷng, liền sai đưa riêng Nhuyến Thọ một ngàn lạng bạc để hắn phân phát.

 

Gần chiều, quân lính lại tụ họp và tiến sát vào tận trong phủ. Chúa và thái phi lại phải ra dỗ dành. Bọn lính nói:

 

- Việc ǵ mà phải lắm mồm! Cứ vào trong cửa cấm lùng khắp toà phủ, rồi túm búi tóc lôi ra, hỏi hắn xem cái nắm đũa ấy c̣n có thể bẻ được mấy chiếc nữa?

 

Chúa nói:

 

- Ba quân làm như vậy th́ có sướng ǵ, chẳng qua chỉ thêm bẩn tay mà thôi! Nay quả nhân có chút quà mọn là một vạn lạng bạc, ba vạn quan tiền, xin đưa để khao thưởng ba quân, mong ba quân hăy nghĩ lại mà tha thứ cho hai cái mạng nhỏ bé đó!

 

Đám kiêu binh đáp:

 

- Chúa c̣n tiếc hai người đó, rồi sẽ thấy phủ đường cũng không giữ được đâu. Bọn tôi cần ǵ số tiền bạc ấy!

 

Giữa lúc họ đang nhao nhao, Nhuyến Thọ bỗng vượt lên phía trước và nói:

 

- Nhà chúa là bề trên đă phải chịu nhũn như vậy; các anh em không nên ăn nói cạn tàu ráo máng quá!

 

Tiếp đó bọn mấy chục người kia cũng mỗi người một câu phụ hoạ thêm vào. Rút cục lính tráng ai chẳng hám lợi, họ bèn dịu giọng mà rằng:

 

- Đă thế, th́ hăy tha cho em ruột thái phi. C̣n Triêm vũ hầu là người giữa trời, bọn tôi phải xin mỗi người một miếng thịt để nhắm rượu, rồi sẽ tan về ngay tức khắc. Nếu không, th́ dẫu có số tiền ấy cũng chẳng làm cho ba quân nguôi giận được.

 

Chúa nói:

 

- Tha th́ tha cả. Sao c̣n tách bạch người nọ người kia?

 

Quân lính nói:

 

- Nhà chúa nếu c̣n quanh co che chở cho Triêm vũ hầu; bọn tôi khi "máu đă nhập tim" (do câu tục ngữ: "Máu nhập tim, nhà lim cũng nhỏ"), th́ ngay cả quốc cữu cũng không tha nữa!

 

Nguyên hôm trước Triêm vũ hầu trốn vào phủ, lẩn ở trên gác Kỳ-lân, vẫn dùng đôi kiếm để giữ ḿnh. Trong lúc bọn quân lính đ̣i giết, Triêm vũ hầu bụng bảo dạ: "Nếu chúng không nghe nhà chúa điều đ́nh, mà cứ xông vào bắt ta, th́ phải đứng trên thang chém lấy dăm ba cái đầu của bọn chúng, chứ ta không chịu chết một ḿnh!".

 

Đến lúc này việc đă gấp quá, chúa bèn sai người đến dỗ Triêm vũ hầu rằng: "Bây giờ xă tắc nguy nan như treo trên sợi tóc, nhà chúa không thể cố giấu tướng quân được nữa. Vậy xin tướng quân hăy v́ chúa chớ tiếc cái chết, để cho nhà chúa được yên. Đó là công muôn đời của tướng quân!"

 

Triêm vũ hầu bất đắc dĩ phải trèo thang xuống ra mắt chúa mà nói:

 

- Chết th́ chết, thần xin hai tay hai kiếm tung hoành với chúng nó một trận, giết gọn lấy vài trăm đứa, cho hả bớt cơn giận của nhà chúa!

 

Chúa nói:

 

- Như thế chỉ làm cho thái phi kinh sợ, mà quả nhân cũng chẳng được yên nào!

 

Triêm vũ hầu quẳng hai thanh gươm xuống đất nói:

 

- Bó tay mà chịu như thế, thần đành chết uổng vậy!

 

Chúa khóc mà từ biệt Triêm vũ hầu. Rồi lại hứa với Triêm vũ hầu rằng, sau khi y chết, sẽ cấp cho một ngàn khoảnh ruộng làm của nối đời và phong cho làm phúc thần, bắt dân mười làng thờ cúng.

 

Triêm vũ hầu đáp:

 

- Thần chỉ v́ chúa mà chết, đâu phải cầu mong tước lộc? Xin chúa hăy ra sức tăng thêm uy quyền, xoay loạn làm trị, th́ thần dẫu chết, xương vẫn không mục nát!

 

Chúa bèn tự tay viết sáu chữ: "Trung nghĩa tráng liệt đại vương" đưa cho Triêm vũ hầu. Triêm vũ hầu qú xuống nhận mảnh giấy đó, vê tṛn, nuốt vào bụng, rồi lạy tạ chúa mà đi ra. Khi qua điếm Tiểu-bút, Triêm vũ hầu bị đám kiêu binh lôi kéo và hỏi:

 

- Gươm sắc của mày bây giờ như thế nào?

 

Triêm vũ hầu đáp:

 

- Tao không thể dùng thanh gươm đó chém đầu chúng bay là theo mệnh chúa và v́ xă tắc đó thôi. Nhưng mà, chẳng lâu ǵ đâu, tao chết rồi, sẽ có người khác đến chặt đầu lũ chúng bay. Đến lúc ấy, chúng bay sẽ biết gươm có sắc hay không!

 

Quân lính xúm vào toan đánh Triêm vũ hầu, gă cản lại mà rằng:

 

- Đây là nơi nghiêm cấm, không được hành hung. Hăy để tao ra khỏi cửa phủ, ngồi yên đâu đấy, rồi tha hồ cho chúng bay muốn làm ǵ tao th́ làm.

 

Đoạn gă bước khoan thai đến bên cạnh cầu đá, t́m chỗ, ung dung ngồi xuống và bảo bọn quân lính:

 

- Nào, bây giờ chúng bay làm ǵ tao th́ làm đi!

 

Đám kiêu binh lấy gạch đá đập măi vào đầu Triêm vũ hầu khiến máu chảy đầy mặt. Nhưng gă vẫn ngồi yên không cựa, khẽ lấy tay áo lau mặt, rồi vừa cười vừa nói:

 

- Bây giờ tao không thi đấu vơ, nhưng vẫn c̣n thi can đảm! Thế mới lạ chứ!

 

Ngay đó, một tên lính đứng sau cầm giáo đâm thọc vào lưng gă, gă mới chết.

 

Triêm vũ hầu chết rồi; quân lính vẫn chưa hết giận, lại vào buộc chúa phải xử lại vụ án vừa qua.

 

Chúa bất đắc dĩ phải giao việc đó xuống cho triều đ́nh bàn định. Quốc sư, quốc cữu đều bị băi chức làm dân thường. Bảy tên ĺnh bị chém ngày trước đều được đền mạng.

 

Từ đó, kiêu binh lại càng ngông nghênh tợn. Tại các đường phố, họ cứ dăng tay nhau mà đi. Các vị công hầu gặp họ đều phải quay xe tránh sang lối khác.

 

Lại nói, Nguyễn Khản lúc mới phục chức, được làm trấn thủ Sơn Tây; đến khi vào làm tể tướng th́ cho em ruột là Điền nhạc hầu Nguyễn Cương (Cương mục chép là Nguyễn Điều. Có sách lại chép Nguyễn Điền) ra thay.

 

Hôm ấy, Khản lật đật trốn ra ngoài thành, dùng vơng một đ̣n bắt hai người khiêng đi, nhằm hướng Sơn Tây mà chạy. Tới trấn, Cương ra đón vào trong dinh và hỏi duyên cớ. Khản đáp:

 

- Tục ngữ nói: "Quân bất trị". Thật là đúng lắm!

 

Rồi Khản đem đầu đuôi câu chuyện kể hết cho Cương nghe. Cương nói:

 

- Bây giờ việc đă như thế, anh định đối phó ra sao?

 

Khản vốn là hạng người xuềnh xoàng, không có cơ mưu, nghe em hỏi liền cười và đáp:

 

- Trừ ra có thuật quỷ thần, hễ thấy chúng nó họp nhau, tức th́ theo đến mà ám ảnh, làm cho chúng nó đau bụng nứt ruột, như Tề thiên đại thánh bóp Hoàng My (Điển này lấy ở truyện Tây du), không biết đằng nào mà lần nữa, hoạ may chúng nó mới sợ. Chứ c̣n sức người th́ không làm sao được!

 

Cương là kẻ có nhiều mưu mẹo khôn ngoan, liền nói với Khản:

 

- Tôi có một mẹo, có thể khiến cho chúng nó chết ráo.

 

Khản hỏi:

 

- Mẹo như thế nào?

 

Cương đáp:

 

- Ngày nay dân trong bốn trấn (Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương. Thời Lê, 4trấn ở chung quanh kinh đô này được gọi là kinh trấn hay kinh lộ, là những nơi che chở cho kinh đô; ngoài kinh trấn lại có 9 phiên trấn hay phiên lộ như Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quangv.v... là phên giậu che chở cho các kinh trấn) đang oán ghét chúng nó đến xương tuỷ; nếu ai lấy danh nghĩa diệt kiêu binh để kêu gọi, th́ chỉ cần hô một tiếng, không người nào là không hưởng ứng. Trấn này ở về miền thượng du, dân chúng thuần hậu dễ bảo. Trước kia anh làm trấn thủ Hưng Hoá, các tù trưởng địa phương đều là thuộc hạ của anh, anh bảo chắc họ phải nghe. Trên vùng Tuyên Quang, phiên mục Diễn quận công (tức Hoàng Văn Đồng giữ Mỏ đồng Tụ Long, Tuyên Quang) giàu có nhất thiên hạ, năm xưa có tội được anh cứu giúp, ông ta hẳn c̣n nhớ ơn; nếu viết thư lên rủ, thế nào ông ấy chả theo. ở trấn Sơn Nam, quận Thạc (tức Hoàng Phùng Cơ) là tướng đánh trăm trận, vốn nổi tiếng là bậc vô địch. Rồi ở trấn Kinh Bắc th́ Thần trung hầu (tức Trương Tuân), ở trấn Hải Dương th́ Thái đ́nh hầu (tức Trịnh Tự Quyền), đều là những tay có mưu trí. Bây giờ hăy dùng mật lệnh nhà chúa, sai họ ngầm nuôi nghĩa sĩ, giữ vững dinh trấn, và nghe theo sự điều khiển của anh. C̣n anh, vốn là một vị tể tướng lại kiêm chức sư phó, th́ một lời nói ra khỏi miệng, trấn nào lại dám không tuân theo. Bên Kinh Bắc c̣n có hai tên tướng giặc đầu hàng là tú Huy và cai Hồ, đều là những tay dữ tợn, tinh khôn. Hiện chúng đang ở chỗ viên nội thần Nhật trung hầu; nếu thả cho chúng và sai đi xui giục hai phủ Lạng Giang, Bắc Hà (đều thuộc Bắc Giang), chắc cũng giúp cho ḿnh được một tay. Trên Thái Nguyên lại có tên giặc già là cai Già, thuở xưa đă từng làm môn hạ của anh, hẳn anh cũng có thể sai khiến được. Cả bấy nhiêu nơi ta hẹn nhau cùng ngày khởi sự. Phàm ưu binh (thời Lê trung hưng, kén lính ở 3 phủ thuộc Thanh Hoá và 12 huyện thuộc Nghệ An để chuyên bảo vệ kinh thành. Loại lính này được ưu đăi hơn các lính nơi khác, v́ thế gọi là ưu binh, hoặc cũng gọi là lính tam phủ) Thanh-Nghệ, hễ đứa nào ở các trấn ngoài đều phải trừ cho hết. Đứa nào trốn thoát, cho dân sở tại cứ bắt mà giết đi. Rồi th́ bốn phương tám mặt cùng ập vào kinh thành kiêu binh ắt sẽ không c̣n đường mà chạy nữa. Đó là một kỳ công muôn đời mới gặp, anh nên tính gấp đi!

 

Khản nghe xong, nói:

 

- Hay lắm! Nhưng nay chúa c̣n đang ở trong tay chúng; ném chuột lại có thể không kiêng đồ vật được ư? (ư muốn nói diệt kiêu binh lại sợ vạ đến Trịnh Tông)

 

Cương nói:

 

- Đó là việc rất dễ: Trước hăy sai người tŕnh với chúa, bí mật lấy hết vàng bạc, của cải trong kho, phân tán ra các trấn; thái phi, vương tử và các cung tần cũng lén đưa cả ra ngoài thành, hễ gặp chỗ nào tiện th́ hăy ở tạm. Sau đó ngầm báo cho quận Thạc đem thuyền chở quân đến bến Thanh Tŕ, nói phao là đi tuần sông: rồi giấu kín một chiếc đ̣ ngang, đợi sẵn ở bến Tây Long. C̣n chúa th́ sẽ mặc quần áo thường dân, cất lẻn xuống chiếc thuyền ấy đi xuôi đến dinh trấn Sơn Nam và tạm đóng tại đó. Xong đâu đấy bấy giờ các trấn mới cùng khởi sự. Như vậy, th́ không c̣n lo ngại ǵ nữa!

 

Khản mừng mà rằng:

 

- Không có chú, tôi không nghĩ được đến thế. Dẫu không thành cũng là một việc làm hả dạ!

 

Rồi Khản làm tờ mật khải đưa về cho chúa. Chúa mừng lắm, viết ngay tờ mật chỉ khen ngợi, đồng thời hẹn sẵn mọi việc. Tiếp đó, chúa mời thái phi cải trang và lẻn ra ngoài thành, đến tạm trú tại nhà người chồng bà d́ thứ bảy của chúa ở làng Văn Giáp, huyện Thượng Phúc. Vương tử và các cung tần cũng đều theo cả đến đó. Một mặt, chúa cho mở kho lấy hết vàng bạc châu báu, sai các thị thần thân tín ngầm đem ra, giao phó cho bốn trấn. Một mặt, chúa cho hẹn với quan trấn thủ trấn Sơn Nam, đúng ngày 28 tháng ấy th́ bí mật đến đón ḿnh; lại hẹn với các trấn đúng ngày mồng một tháng sau th́ các đạo sẽ cùng khởi binh cả một loạt.

 

Công việc sắp đặt như thế là xong.

 

Tới ngày hẹn, quận Thạc theo lệnh chúa đem thuyền đến đón.

 

Khi ấy trong kinh hết sức nhốn nháo: người ta kháo nhau rằng quan trấn thủ Sơn Nam sắp đem quân vào thành, để giết hết kiêu binh. Đám quân lính nghe tin ấy đều hoảng hốt, ngầm cho vợ con gói ghém hành lư đem ra ngoài thành và trốn tránh đi các nơi, c̣n ở kinh chỉ để lại những người thuộc "quân tịch" mà thôi. Rồi chúng kéo nhau vào phủ chúa, xin chúa cấp tốc khởi binh đánh dẹp. Chúa bất đắc dĩ phải ra ngự ở Trạch các để uư lạo ba quân.

 

Trong đám kiêu binh có kẻ biết mưu của chúa, liền mắng chúa rằng:

 

- Chúa đừng tưởng chúng tôi không biết mà ḥng đem đầu lưỡi ra khua múa để che đậy. Từ đây theo cửa Tuyên Vũ đi ra, rồi đến bến Tây Long (tục gọi là Tây Luông, ở thẳng phía sau nhà hát thành phố Hà Nội bây giờ); chẳng qua chỉ độ trăm bước đă có thuyền của quận Thạc chờ đón sẵn sàng ở đó; trông trước trông sau, khi nào thấy không có người, th́ bước lên thuyền cho nhanh rồi t́m đường mà đi chứ ǵ!

 

Chúa biến sắc mặt, nín lặng quay vào.

 

Từ hôm ấy, quân lính canh giữ phủ chúa rất ngặt. Những người nào ra vào, hễ hơi có vẻ khang khác là bị họ khám xét tra hỏi liền.

 

V́ vậy, chúa không dám ra khỏi cung. Quận Thạc nghe tin, lại rút quân về trấn của ḿnh.

 

Chúa sai người ra báo lại với các trấn hoăn ngày khởi sự, nhưng chưa đến kịp th́ các đạo theo đúng hẹn cũ đă rầm rộ kéo quân lên đường. Thiên hạ cực kỳ náo động. Hào kiệt các nơi đồng thời nổi dậy, ai ai cũng nói phải tiêu diệt hết kiêu binh.

 

Ngày hôm đó, hết thảy kiêu binh hai xứ Thanh-Nghệ đóng ở các trấn đều phải bỏ trốn, lúc đi qua làng mạc chúng không dám lên tiếng. Hễ kẻ nào buột miệng ḷi ra thổ âm Thanh-Nghệ, tức th́ bị dân chúng bắt giết ngay. Bọn chúng phải luôn luôn giả cách làm người câm, ăn xin ở dọc đường, rồi lần ṃ về kinh, báo cho đám kiêu binh ở đây biết cái tin nay mai quân các trấn sẽ về họp ở dưới thành.

 

Được tin này, bọn kiêu binh ở kinh tức th́ họp nhau bàn cách chống cự. Rồi họ chia nhau thành các đạo kéo đi. Nhưng đạo phía tây mới kéo ra đến Đại-phùng, đạo phía bắc mới kéo đến cầu Vịnh th́ đă bị ngay các tay thổ hào địa phương đánh thua. Họ phải bỏ cả khí giới, cố mang vết thương mà chạy về kinh.

 

Bấy giờ kinh thành chấn động, dân hàng phố kẻ chợ đều dắt díu bồng bế nhau ra ngoài thành chạy trốn.

 

Đám kiêu binh vừa sợ vừa tức, gọi chúa là giặc. Rồi họ kéo vào trong phủ, lấy hết binh khí, chia cho cơ đội các dinh nắm giữ. Phủ chúa lúc ấy không c̣n một tấc sắt nào để tự vệ.

 

Đêm hôm ấy, kiêu binh bắt được bốn tay nghĩa sĩ lẻn vào thành; họ liền bí mật đem đến hội sở của họ để tra hỏi. Mấy tay nghĩa sĩ đau quá, khai liều rằng đêm nay quân ở ngoài sẽ vào đánh úp. Đám kiêu binh cả sợ, bèn bảo nhau pḥng bị nghiêm nhặt. Súng nhồi sẵn mồi lửa, gươm tuốt khỏi vỏ, suốt đêm họ ḥ hét, đi lại rầm rập, kinh thành hầu như sắp vỡ.

 

Sớm hôm sau, họ đem chém cả bốn nghĩa sĩ, rồi xúm quanh phủ chúa mà trách rằng:

 

- Nhờ có chúng tôi pḥ, chúa mới được lên ngôi. Nay chúa lại coi chúng tôi là kẻ thù. Lính Thanh-Nghệ hai trăm năm nay vẫn là nanh vuốt cật ruột của nhà chúa. Bây giờ chúa lại nỡ dấy quân bốn trấn về giết hại lính hai xứ chúng tôi. Tin da dẻ mà ngờ cật ruột, giơ dao cưa để cắt nanh vuốt, kẻ nào bày ra mưu ấy đều là những kẻ bỏ thuốc độc cho chúa. Nếu chúa không mau dụ bốn trấn băi binh, th́ đừng có trách chúng tôi là vô lễ!

 

Chúa một mực chối là không biết, rồi ngầm sai người bảo các trấn băi việc ấy đi.

 

Đám kiêu binh không biết là chúa đă ngầm ra lệnh đ́nh chỉ, nên vẫn c̣n nghi ngờ. Họ bèn tụ họp nhau, bàn làm chuyện đại nghịch. Hẹn đến canh ba đêm ấy, nổ ba tiếng súng Bảo-long làm hiệu, rồi cùng kéo vào phủ chúa để hành sự; sẽ lấy hết của cải đồ vật trong phủ chia nhau; sau đó lấy xe kiệu của chúa chở hết các đồ nghi vệ cùng sổ sách đưa đến nội điện, rồi rước hoàng thượng về Thanh Hoa để mưu toan công việc sau này.

 

Thật là:

 

A'o cá hớ hênh nên chẳng quyết,

Ḷng hồ cố chấp hoá ngờ nhau.

 

Chưa biết việc này ra sao? Xin xem hồi sau phân giải.

 

---------------------------------------------------------------------- ----------

 

áo cá: dịch chữ "ngư phục". Sách Thuyết uyển chép: Bạch long ngư phục, khốn ư Dự Thư, nghĩa là: con rồng trắng cải trang làm con cá, bị người Dự Thư bắn trúng mắt. ở đây ư nói Trịnh Tông định cải trang làm thường dân để ra khỏi thành, nhưng mưu cơ bị lộ...).

 

ḷng hồ: bụng da loài cáo nham hiểm, hay nghi ngờ.

 

Hoàng Lê nhất thống chí

Ngô gia văn phái

 

Hồi thứ tư

 

Nhờ ngoại viện, Hữu Chỉnh rửa thù thầy

Tỏ ḷng trung, Trần Quán chết theo chúa...

 

Lại nói, đám kiêu binh sau khi đă bàn định mưu mô xong, liền kéo nhau đến hỏi Trần Nguyễn Nhưng. Nhưng vốn quen làm giấy tờ cho đám lính; bèn lập ngay một bản điều ước, cắt đặt rơ người nào làm việc nào, rồi đưa cho họ. Sau đó, Nhưng lại tức tốc đem mưu ấy vào báo với chúa. Chúa cả sợ nói:

 

- Hôm qua ta ngồi ở cung Trung Hoà, có con quạ khoang bay xuống trước sân vừa nhảy nhót vừa nh́n vào ta đến hai ba lần, như có ư muốn mổ. Ta phải sai thị thần lấy giáo ra xua mấy cái, nó mới bay đi. Thấy điềm ấy, bụng ta đă biết chắc là có kẻ dưới đang mưu hại ta. Nay quả nhiên đúng như vậy. Bây giờ ngươi hăy nên v́ ta mà giảng giải với họ, cho nó hợp với cái điềm "xua giáo" của ta.

 

Rồi chúa lại hứa cho Nhưng tiền bạc, để Nhưng ngầm phá mưu của quân lính.

 

Nhưng là một người nông nổi, được chúa tỏ ư khen thưởng, tin dùng, liền đi khoe ngay với người khác. Quân lính biết mưu của họ đă bị Nhưng tiết lộ, bèn lùng bắt, Nhưng phải trốn về vùng Thanh Hoa.

 

Chúa thấy Nhưng là kẻ đa tâm lại hay kiếm chuyện, nhân dịp hắn đi trốn, bèn cho làm chức kư lục ở Thuận Hoá.

 

Sau khi Nhưng đi rồi, th́ vừa lúc các trấn cũng băi binh; v́ vậy mưu của quân lính cũng thôi nốt.

 

Bây giờ lại nói về việc Nguyễn Hữu Chỉnh giong buồm ra biển vào Tây Sơn trong năm Nhâm dần (1782).

 

ấp Tây Sơn thuộc địa phận xứ Quảng Nam (Quảng Nam hồi ấy gồm cả ba tỉnh Nam-Ngăi-Định cũ. ấp Tây Sơn ở vào địa phận tỉnh B́nh Định). Xứ này phía bắc giáp ải Vân, phía nam giáp Gia Định, phía tây giáp Ai Lao, phía đông giáp biển; bờ cơi rộng hàng ngàn dặm.

 

ở ấp Tây Sơn có người họ Nguyễn tên là Văn Nhạc, tổ tiên nguyên là người Nghệ An. Khoảng năm Thịnh-đức (Lê Thần Tông 1653-1657), quân nhà Nguyễn ra đánh Nghệ An, chiếm cứ được bảy huyện phía nam sông Cả, rồi dồn bắt tất cả dân cư đưa về Nam cho sống ở vùng Tây Sơn. Tổ bốn đời của Văn Nhạc, chuyến ấy cũng bị bắt ở trong số đó.

 

Văn Nhạc trước kia nhà nghèo, nhưng sau nhờ vào việc gá bạc mà gia tư bỗng trở nên giàu có. Nhạc từng làm biện lại ở Vân Đồn, nên người ta vẫn thường gọi là biện Nhạc. Biện Nhạc v́ tiêu mất tiền công, bèn trốn vào núi, tụ tập tay chân hơn một trăm người, rồi đi ăn cướp ở các châu ấp. Viên trấn tướng vùng ấy không sao trị nổi.

 

Từ đó, biện Nhạc tự xưng là chúa Tây Sơn. Một hôm, biện Nhạc tự ngồi vào trong cũi, cho bọn tay chân khiêng đi và loan báo ở dọc đường rằng đă bắt được chúa Tây Sơn tức biện Nhạc, xin đưa đến dinh trấn để tŕnh nộp. Viên trấn tướng mừng lắm, mở cửa cho vào, rồi đem giam ở trong ngục. Đêm ấy, biện Nhạc phá cũi xông ra, cướp lấy thanh gươm của tên lính canh ngục, chém chết tên ấy, phóng lửa đốt luôn dinh trấn, rồi giết nốt viên tướng trấn và chiếm lấy thành (đây là thành Qui Nhơn, do trấn tướng Nguyễn Khắc Tuyên coi giữ. Theo một số tài liệu khác th́ Nhạc chỉ là người vào làm nội ứng, bên ngoài lúc ấy đă có Nguyễn Thung cầm đầu một toán quân Tây Sơn ập vào, cùng với Nhạc cướp thành).

 

Bấy giờ chúa nhà Nguyễn là Nguyễn Phúc Thuần (tức Định vương) c̣n bé, quan quốc phó của triều đ́nh nhà Nguyễn là Đạt quận công (Trương Phúc Loan) nắm hết quyền chính, làm lắm điều càn bậy, nên ḷng người trong xứ đều ĺa tan.

 

Khi Văn Nhạc nổi loạn, lại mượn một bọn vô lại người phương Bắc (khi Nguyễn Nhạc khởi nghĩa, có hai thương nhân Trung Quốc là Tập Đ́nh và Lư Tài chiêu tập các dân nghèo người Hoa-kiều theo giúp. Lư Tài xưng là Hoà nghĩa quân, Tập Đ́nh xưng là Trung nghĩa quân. Quân của Lư Tài và Tập Đ́nh chiến đấu rất hăng, làm cho bên địch vô cùng sợ hăi. Nhân đó, Nhạc thường chọn nghĩa quân của ḿnh lấy những người cao lớn, cho ăn mặc giống như quân của Lư Tài và Tập Đ́nh, lúc ra trận quân Nguyễn trông thấy bóng đă bỏ chạy. Người phương Bắc nói đây chính là trỏ vào những người Hoa-kiều đó) giả xưng làm quân cứu viện của Tập đ́nh hầu, để chống với quân nhà Nguyễn. Mấy trận đánh nhau, quân nhà Nguyễn đều không thắng nổi, do đó mà thanh thế của Tây Sơn ngày càng to lớn hơn.

 

 

Năm Giáp Ngọ (1774) niên hiệu Cảnh hưng, thánh tổ Thịnh vương nhân cơ hội đó, mới sai quan đại tư đồ Việp quận công làm B́nh Nam thượng tướng, đem quân đóng ở La Hà và phao lên rằng sẽ vào tiếp viện cho chúa Nguyễn. Nhạc thấy vậy liền sai người đem cống một con ngựa hay, một thanh gươm báu, và xin theo về triều đ́nh.

 

Hồi ấy, xứ Thuận Hoá mới dẹp yên, tướng sĩ đều ngại vất vả, muốn để công việc Tây Sơn sẽ tính toán sau. Do đó quận Việp mới làm tờ khải về tŕnh với Thịnh vương, xin nên nhân dịp ấy mà vỗ về Nhạc. Vương cũng nghe lời, bèn cho Nhạc làm trấn thủ Quảng Nam và phong làm Tuyên uư đại sứ, Cung quốc công. Từ đó, hàng năm Nhạc vẫn dâng lễ cống đều đặn.

 

Quận Việp thường hay sai Nguyễn Hữu Chỉnh làm sứ giả qua lại với Tây Sơn. Thấy Chỉnh có tài biện luận, Nhạc rất yêu mến. Được ít lâu, Nhạc thấy có điềm rồng vàng, liền cho đóng ngai rồng, lên ngôi vua, tự xưng là thiên vương, đặt niên hiệu là Thái đức. Triều đ́nh biết vậy, nhưng cũng bỏ đó không hỏi ǵ đến. Bấy giờ Nhạc đang có ư muốn thôn tính Thuận Hoá, mà vẫn chưa có người để bàn định công việc. Nên khi được Chỉnh chạy vào với ḿnh, Nhạc mừng lắm. Nhưng thực ra, trong ḷng vẫn chưa tin. Chỉnh cũng nhận thấy điều đó, liền kể với Nhạc tất cả đầu đuôi câu chuyện của ḿnh, rồi lại t́nh nguyện gửi vợ con làm con tin, để xin được nương tựa vào xứ sở của Nhạc, Nhạc bằng ḷng.

 

Nhạc vốn đă mến tài của Chỉnh, nên đối với Chỉnh càng ngày càng thân mật, tin cậy. Ngược lại, Chỉnh cũng hết ḷng thờ Nhạc, bày kế cho Nhạc đánh chiếm đất đai các nước Chiêm Thành, Xiêm La, Bồn Man. Rồi Chỉnh lại tự ḿnh cầm quân đi tiên phong, xông pha vào những nơi tên đạn, khiến mấy nước lân cận ấy lần lượt đều bị đánh bại. Do đó, ân t́nh giữa Nhạc với Chỉnh lại càng thêm mặn mà.

 

Tuy thế, nhưng trong khi ở với Tây Sơn, Chỉnh vẫn hàng ngày mong về nước cũ.

 

Lại nói, triều đ́nh từ khi mất Chỉnh, rất lấy làm lo, thường vẫn chiêu mộ xem ai dụ được Chỉnh trở về th́ sẽ trọng thưởng. Một người em rể của Chỉnh xin nhận việc đó. Triều đ́nh liền cấp cho một đạo mật chỉ để người ấy lên đường.

 

Lúc gặp Chỉnh, người ấy chưa kịp nói ǵ th́ Chỉnh đă hỏi:

 

- Chú lận đận trèo đèo lội suối tới đây làm chi? Có phải định làm thuyết khách cho chúa Trịnh không? Chú coi mặt ta, xem từ khi đẻ ra đến giờ đă từng nghe ai xui khôn xui dại chưa, mà chú dám cả gan như vậy?

 

Người em rể chỉ c̣n biết cúi đầu nín lặng, không dám nói ǵ nữa.

 

Chỉnh lại hỏi tiếp:

 

- Nhưng thôi được, chú đă ở Bắc vào đây, ắt là biết rơ đầu đuôi sự việc. Vậy chú hăy kể cho ta nghe xem, từ sau khi Huy quận công bị nạn, th́ công chúa (chỉ con gái Trịnh Doanh, vợ Huy quận công) và các cậu công tử lưu lạc đi đâu?

 

Người ấy đáp:

 

- Khi ấy, công chúa bị Dương thái phi giam vào hậu cung. C̣n hai công tử nghe tin có biến th́ bỏ chạy về huyện Yên Dũng, dấy quân trả thù, làm chấn động cả vùng Kinh Bắc. Chúa Trịnh sai viên trấn thủ Kinh Bắc là Măn trung hầu đem quân đi đánh. Quân Măn trung hầu bày trận ở núi Ba Tầng (nay ở địa phận huyện Việt Yên, Hà Bắc). Các công tử sai viên thủ lệnh Hoàng Tú làm tiền bộ đem quân ra đánh. Hoàng Tú bị chết ngay trước trận. Quân sĩ tan ră. Hai công tử đều bị bắt sống, đóng cũi giải về kinh.

 

Chỉnh nghe xong, than rằng:

 

- Tuổi trẻ bồng bột, hèn nào không hỏng việc! Nhưng cũng là một việc làm v́ nghĩa, dầu thất bại mà vẫn vẻ vang...!

 

Rồi Chỉnh lại hỏi:

 

- Thế đưa về kinh rồi sau ra sao?

 

Người ấy trả lời:

 

- Triều đ́nh bàn định hai công tử đều đáng tội chết. Chúa nghĩ t́nh anh em cô cậu, ra ơn cho được tha tội chết. Nhưng lại bị thái phi ngầm sai người đến bắt uống thuốc độc. Có kẻ báo với chúa. Chúa vội sai viên trung sứ đến ngăn lại. Nhưng khi đến nơi th́ cậu cả đă bị trúng độc chết rồi. Chỉ c̣n cậu hai hiện đang bị giam ở ngục cửa Đoài.

 

Chỉnh tỏ vẻ ngậm ngùi mà rằng:

 

- Thương thay! Phá tổ đổ trứng (đời Tam-quốc, Khổng Dung bị Tào Tháo bắt, lúc sắp bị giết chết, có kẻ đến bảo hai con của Dung nên trốn đi; hai người đó trả lời: "Tổ vỡ th́ trứng c̣n toàn vẹn làm sao được"- Câu này dùng theo ư đó)! Người ta có tội t́nh ǵ?

 

Lại hỏi:

 

- C̣n công chúa, từ khi bị giam vào hậu cung th́ việc ăn ở ra sao?

 

Đáp:

 

- Chúa cũng nghĩ t́nh cô ruột, không nỡ hành hạ ǵ cả. Song v́ thái phi vẫn có hiềm cũ, nên đă làm cho khổ cực đủ đường. Công chúa vừa đau buồn vừa uất giận, nên đă thành bệnh mà chết rồi!

 

Chỉnh thở dài hồi lâu, rồi nói:

 

- Công chúa chết cũng là phải, sống mà làm ǵ nữa...!

 

Lại hỏi:

 

- Thế c̣n Đặng Tuyên phi th́ thế nào?

 

Đáp:

 

- Khi chúa nhỏ bị bỏ, thái phi liền sai người bắt Tuyên phi đến trước mặt ḿnh, kể tội, rồi buộc Tuyên phi phải lạy tạ. Tuyên phi không chịu lạy. Thái phi bèn sai hai thị nữ đứng kèm hai bên, níu tóc Tuyên phi rập đầu xuống đất. Nhưng Tuyên phi vẫn nhất định không chịu lạy, mà cũng không nói nửa nhời. Thái phi giận quá, đánh đập một hồi, nhổ nước bọt vào đầu vào mặt, rồi đem giam vào nhà Hộ-tăng ở vườn sau. Tại đây, Tuyên phi bị làm t́nh làm tội cực kỳ khổ sở. Một bữa, Tuyên phi lấy áo che mặt, trốn ra khỏi cửa Tuyên-vũ, chạy đến bến đ̣ phố Khách th́ bị quân lính đuổi kịp. Từ đó, lại càng bị giam giữ chặt chẽ. Năm sau trong nhà tẩm miếu trên lăng Thịnh-phúc, tự dưng bao nhiêu đồ thờ bằng gỗ, bằng vàng hễ động tay vào là nát mủn như bùn. Viên giữ lăng miếu vội vàng gửi thư về kinh tŕnh rơ việc biến. Thái phi cho đ̣i cô đồng vào hỏi. Cô đồng phán rằng: "Chúa thượng đă làm trái ư tiên vương; tội bất hiếu có hai điều: Chúa vừa lên ngôi, đă ngờ Đặng thị làm bùa yểm trong tử cung, rồi tự ư cạy mở tử cung, thay đổi quần áo khâm liệm, khiến cho xương ngọc không yên. Đó là một! Đặng thị là người mà tiên vương yêu dấu, bây giờ bị chúa làm cho tủi nhục đủ đường, khiến vong linh tiên vương phải áy náy. Đó là hai! Nếu không mau hối lỗi tạ tội, tai biến sẽ c̣n nhiều nữa!". Thái phi sợ hăi, lập tức vào nói với chúa. Chúa bèn sai quan tế lễ tạ tội, rồi cho Tuyên phi được trở lại làm cung tần nội thị vào thờ phụng tẩm miếu. Tuyên phi được vào hầu hạ lăng tẩm, đêm ngày chỉ gào khóc xin chết theo tiên vương. Đến ngày giỗ "đại tường" của tiên vương, Tuyên phi bèn uống thuốc độc mà chết. Chúa sai quan trấn thủ Thanh Hoa, theo lễ cung nhân táng Tuyên phi ở cách Vọng-lăng của tiên vương một dặm.

 

Chỉnh nói:

 

- Chết được đấy! Ta tưởng Tuyên phi chỉ có nhan sắc, không ngờ lại có tiết liệt như vậy. Nhưng không hiểu v́ sao ngôi của Tuyên phi lại bị giáng làm cung tần như thế?

 

Đáp:

 

- Bởi v́ khi chúa lên ngôi được một năm, người ta lục tờ cố mệnh của tiên vương, thấy có chữ son của thánh mẫu ngự phê rằng: "Không phải bút rồng của tiên vương, không đủ làm bằng". Chúa liền giao tờ đó cho triều đ́nh bàn định, bấy giờ quan thiêm sai Phạm Nguyễn Du làm tờ luận về "quốc sách", nói rằng: "Ngôi của chúa Điện đô với sách mệnh của Tuyên phi cùng tờ cố mệnh, đều là cái mệnh của tiên vương trong lúc mê lẫn. Nó rất trái lẽ thường, sai đạo lư, không thể cho là phải được. Nay thánh mẫu là mẹ mà đổi lại ư của con th́ thật là một việc hết sức chính đáng. Vậy cần phải truy xét về cái tội của những kẻ phụ hoạ, để làm cho sáng tỏ và nghiêm chỉnh pháp điển của nhà nước!" Do đó mà Tuyên phi bị truất làm người thường. Rồi Tứ xuyên hầu v́ viết tờ thư cố mệnh, Khanh quận công v́ tự tiện viết thay bút rồng, Thiêm sai Nhữ Công Chấn v́ tự tiện thảo tờ sách mệnh phong Tuyên phi, xuất nạp Thuỳ trung hầu v́ sao những tờ sách mệnh ấy đưa ra chính phủ... đều phải băi chức về làm dân thường. Đặng thị sau này lại phải giáng làm cung tần, cũng là v́ cớ đó.

 

Lại hỏi:

 

- Ngoài mấy việc ấy, c̣n chuyện báo ơn báo oán ǵ khác nữa không?

 

Đáp:

 

- Chúa mới lên ngôi hôm trước, hôm sau liền hạ lệnh rằng, tất cả mọi người đều được khoan dung, chỉ riêng những kẻ tố giác việc năm Canh tư th́ không được tha. V́ vậy những kẻ này lần lượt đều bị bắt và bị làm tội hết thảy. Duy Ngô Th́ Nhậm không biết trốn đi đâu. Những kẻ phải chết về vụ án Canh tư gồm có Tuân sinh hầu, Khê trung hầu và chồng d́ Sáu, về sau đều được truy tặng tước vương và lập đàn chay để làm lễ cầu siêu, giải oan cho họ.

 

Chỉnh nói:

 

- Băi bỏ mệnh của cha giữa triều đ́nh, phô bày lỗi của cha với cả nước; đó là việc đại bất hiếu!

 

Lại hỏi:

 

- Tham tụng, bồi tụng bây giờ là những ai?

 

Đáp:

 

- Chúa mới lập nên, Tứ xuyên hầu liền bị băi chức; quan bồi tụng Bùi Huy Bích lên thay chân và được phong làm Kế liệt hầu. Nay Kế liệt hầu vẫn một ḿnh giữ ngôi tham tụng. C̣n bọn Trương Đăng Quỹ, Mai Thế Uông, và Trần Công Thước được thay nhau làm bồi tụng. Đó đều là những bậc tai mắt nắm quyền chính hiện giờ.

 

Hỏi tiếp:

 

- Từ bấy đến nay, c̣n có điềm lành, điềm gở ǵ không?

 

Đáp:

 

- Điềm lành không thấy, chỉ có điềm gở th́ nhiều: ngày rằm tháng một năm Nhâm dần (1782), ở trong cung bỗng dội ra một tiếng rất to, rền vang đến hơn một khắc, làm rung chuyển cả trời đất. Không hiểu là tiếng ǵ?

 

Chỉnh nói:

 

- Đó là tiếng trống trời.

 

Người ấy kể tiếp:

 

- Năm Quí măo (1783), núi vua Hùng tự nhiên sụt xuống hơn hai chục thước. Tháng sáu năm ấy, con sông Thiên-đức (tức sông Đuống) cạn hẳn một ngày một đêm. Năm Giáp th́n (1784), giữa đêm mùng một tháng mười, trong hồ Thuỷ-quân (tức hồ Hoàn Kiếm) th́nh ĺnh có tiếng phát ra như sấm, nước hồ sủi lên sùng sục, sớm mai bao nhiêu tôm cá đều chết sạch. Cũng trong năm ấy, trên các cây cối trong phủ chúa, thường có hàng vạn con quạ ở đâu kéo đến, bay lượn lao xao, ngày đêm kêu gào quang quác. Rồi ở quăng bờ thành phía ngoài cửa các của phủ đường, bỗng dưng cũng sụt xuống hơn mười trượng. Đó là những sự lạ to lớn, ai ai cũng biết. C̣n những chuyện lặt vặt, th́ không sao kể hết được.

 

Chỉnh chắt lưỡi luôn mấy cái, rồi hỏi đến t́nh trạng bọn kiêu binh. Người ấy cứ theo sự thực kể lại hết đầu đuôi. Chỉnh xem chừng câu chuyện đă cạn, bèn sai nhà bếp làm cơm rượu, thết đăi cho người ấy ăn uống thật no say. Sau đó, Chỉnh mới căn vặn người ấy rằng vào đây để làm ǵ?

 

Người ấy thưa:

 

- Đương trung hầu thấy tôi với quan lớn có t́nh bà con, nên mới tâu với chúa, xin giáng chỉ sai tôi đến đây khuyên quan lớn về triều, cho khỏi mất công danh phú quí.

 

Chỉnh cười mà rằng:

 

- Chú là đứa ngu, ta thực không thèm chấp. Song ta chỉ ghét cái đứa sai chú đến đây dám khinh nhờn ta. Vậy ta kết quả tính mạng cho chú; nếu có oan ức th́ cứ xuống âm phủ mà kiện cái đứa đă sai chú ấy!

 

Rồi Chỉnh hạ lệnh cho tay chân lôi luôn người ấy ra chém chết.

 

Nhạc thấy Chỉnh chém thuyết khách, lại càng thân cận tin yêu hơn.

 

Qua năm Bính ngọ (1786), khoảng cuối mùa xuân, đại tướng Thuận Hoá là Tạo quận công (tức Phạm Ngô Cầu) sai viên thuộc hiệu đội Dực-hữu là Dương lĩnh bá Nguyễn Phu Như vào Tây Sơn nói về công việc biên giới của hai xứ.

 

Phu Như với Chỉnh vốn là chỗ quen biết, liền nói với Chỉnh những lẽ có thể lấy được Thuận Hoá. Rồi Như lại cho Chỉnh biết rằng hai xứ Thanh-Nghệ và cả bốn trấn hiện đang bị đói lớn, dân chúng đều ta oán kêu khổ, dân với lính chẳng ưa ǵ nhau, t́nh thế không thể lâu bền; nếu lấy được Thuận Hoá, th́ việc dẹp yên thiên hạ không khó ǵ nữa!

 

Do đó, Chỉnh mới quyết định mưu kế về nước. Luôn bữa ấy, Chỉnh vào hầu Nhạc, bày cách thức lấy đất Thuận Hoá, và xin điều động binh tướng đánh chiếm ngay lấy Phú Xuân.

 

Nhạc theo lời, liền sai người em ruột là thượng công Nguyễn Văn B́nh (tức Nguyễn Huệ), đốc xuất các quân thuỷ bộ; lại sai dũng tướng Vơ Văn Nhậm (Vơ Văn Nhậm vốn là tiết chế của họ Nguyễn, bị Tây Sơn đánh thua ở trận Gia Định, toan tự tử, sau nghe Nguyễn Huệ dụ hàng, Nhậm bèn theo Tây Sơn từ đó, rồi được Nhạc gả con gái cho) làm tả quân đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu quân đô đốc, cùng theo hiệu lệnh của B́nh, đến ngày 28 tháng tư th́ kéo quân lên đường, tiến thẳng về phía thành Phú Xuân.

 

Lại nói, từ năm Giáp-ngọ (1774), Thuận Hoá thuộc về bờ cơi nước ta (đứng về phía Lê-Trịnh ở Đàng ngoài mà nói. Năm 1774 quân Trịnh hạ được thành Phú Xuân), thành Phú Xuân trở nên chỗ đầu cùng của miền biên giới và là một thị trấn rất xung yếu. Bởi thế, triều đ́nh mới để ba ngàn quân đóng đồn và ba vạn quân thay phiên canh pḥng; lại cử một viên đại tướng, một viên phó tướng, cùng với một viên đốc thị, một viên phó đốc thị trông nom công việc đó. Các nơi trọng yếu từ đèo ải Vân trở ra đều có lập đồn đóng quân. Rồi lấy dân địa phương để bổ sung thêm quân lính. Khai khẩn đất hoang để tăng thêm lương thực. Mở mang việc lưu thông trao đổi hàng hoá. Khai thác các nguồn lợi trên rừng dưới biển. Lấy việc thi cử để kén chọn người tài. Dùng danh vị, tước lộc để thu phục ḷng người... Cách khống chế, cai trị thật không c̣n thiếu sót điều ǵ. Chỉ đáng tiếc là viên đại tướng Tạo quận công đứng đầu xứ đó lại là một người nhu nhược, chỉ quen lấy miệng lưỡi chống chế người, c̣n đến khi gặp việc quan trọng xảy ra th́ lại không có tài năng đối phó kịp thời. Trước kia, viên đốc thị Nguyễn Lệnh Tân cứ mỗi lần nhắc đến việc phải gấp rút đánh lấy Tây Sơn, th́ lại bị quận Tạo gạt đi. Lệnh Tân bèn tâu về triều rằng: "Quận Tạo là kẻ nhút nhát, ít mưu cơ, Thuận Hoá chắc chắn sẽ mất ở tay ông ta; xin hăy băi chức ông ta và nhắc phó tướng lên làm đại tướng, hoạ may xứ này mới có thể giữ vững được". Chúa (Trịnh Sâm) nghĩ rằng Thuận Hoá là xứ vừa mới dẹp yên, lại thích tính ôn hoà, thận trọng của quận Tạo, bèn băi chức đốc thị của Lệnh Tân và cho người khác làm thay.

 

Bấy giờ bảng nhăn Lê Quí Đôn khảo cứu những sấm kư về đất khởi nghĩa Tây Sơn, nói với chúa rằng: " Tây Sơn có đất thiên tử, đến mười hai năm nữa th́ sức mạnh của họ sẽ không ai chống nổi. Đại tướng Thuận Hoá e không phải là tay đối địch được với họ. Xin chúa hăy lưu ư". Nhưng chúa cũng chỉ cho là lời nói quá đáng, không để ư ǵ mấy.

 

Rồi đó, bờ cơi không có chuyện ǵ, Nam-Bắc đều yên ổn, Thuận Hoá đang là một miền thái b́nh, vui vẻ.

 

Đến tháng tư năm Bính-ngọ (1786), bỗng có chiếc thuyền buôn của người khách phương Bắc đi tới. Người khách vào ra mắt quận Tạo, rồi giở thuật tướng số ra nói rằng: "Hậu vận của ngài rất tốt, phúc lộc không thể kể xiết. Có điều hiện nay ngài đang gặp phải năm xung tháng hạn, cần đề pḥng bệnh tật xảy ra. Mùa hè này ngài nên lập đàn mà cầu cúng th́ tốt!". Quận Tạo tin lời, tức th́ sai lập đàn chay rất lớn, cúng luôn bảy ngày bảy đêm. Quân lính phải phục dịch liên tục hết đêm này sang ngày khác rất là vất vả.

 

Th́nh ĺnh thấy có tin báo bộ binh của địch đă lấy mất đồn ải Vân, tướng giữ ải Vân là Quyền Trung hầu (tức là Hoàng Nghĩa Hồ) bị chết trong khi đánh nhau; hiện nay các đạo thuỷ binh của địch đang theo đường biển kéo ra, chỉ sớm tối sẽ đến đây. Quận Tạo hốt hoảng về thành, không biết nên làm thế nào. Các quân lính v́ suốt mấy hôm hầu hạ đàn chay đang mỏi mệt, thốt nghe tin có địch, ai nấy đều không c̣n hồn vía. Quận Tạo vội cho người đi t́m người khách, th́ đă mất tăm không thấy đâu nữa. Bấy giờ, quận Tạo mới biết hắn là thám tử của địch, đến bày mưu để đánh lừa ḿnh.

 

Nguyễn Hữu Chỉnh khi ở Tây Sơn vốn đă biết quận Tạo là người nhút nhát mà đa nghi, dụ hàng chưa chắc Tạo đă tin. Chỉnh bèn viết một bức thư cho phó tướng Thể quận công (tức Hoàng Đ́nh Thể) đại ư nói rằng: quân Tây Sơn tinh nhuệ lắm, không thể địch nổi. Quận Thể với Chỉnh xưa đều là thuộc hạ của quận Huy, nếu nay Thể chịu đem thành Phú Xuân ra hàng th́ Chỉnh sẽ bảo đảm cho được giàu sang toàn vẹn. Rồi Chỉnh lấy sáp bọc kín (xưa các thư từ bí mật đều bọc sáp ong), và mật sai người cố ư đưa lầm phong thư ấy vào dinh đại tướng Tạo quận công. Quận Tạo nhận được thư đâm ra nghi ngờ, sợ hăi, ngầm có ư muốn hàng Tây Sơn, bèn d́m luôn bức thư đi.

 

Chẳng bao lâu, đại binh Tây Sơn kéo đến. Đại tướng và phó tướng bèn cùng nhau bàn cách chống cự.

 

Nguyên thành Phú Xuân ở ngay bờ sông, từ mặt nước dưới ḍng sông lên chân thành, chiều cao khoảng độ hơn hai trượng. Lúc ấy thuyền Tây Sơn ở dưới sông bắn ngược lên, v́ vậy không tới mặt thành. Trong thành, người ta đóng chặt các cửa, rồi dốc tất cả quân sĩ ở trên bắn xuống. Bộ binh của Tây Sơn phải lui cả vào trong thuyền. Trên thành bắn theo, thuyền của Tây Sơn bị ch́m một chiếc. Nhờ vậy, tinh thần quân lính trong thành đă hăng hái lên được một chút. Chẳng dè, đêm ấy thuỷ triều lên to, nước sông tràn ngập khắp chân thành. Quân Tây Sơn thừa dịp thả thuyền tiến sát vào, bắn thẳng lên thành, rồi cho bộ binh vây chặt cửa thành.

 

Quận Tạo tự ḿnh chỉ huy các toán quân giữ cổng thành; rồi sai phó tướng quận Thể cùng các thuộc tướng là bọn Kiên kim hầu (tức Vũ Tá Kiên) ra ngoài thành đón đánh. Hai người con trai quận Thể đều làm quan vơ, cũng theo cha ra đánh, cả toán dựa lưng vào bờ thành mà bày trận. Đánh nhau được hơn một canh, tên đạn đều hết, quận Thể cử người vào thành xin thêm. Quận Tạo ngồi trên lầu thành, sai người đóng cửa chặn lại mà cự rằng: "Cơ nào đội ấy, ngoài việc cấp lương khẩu phần, đạn dược cũng đều có cả rồi, giờ lại c̣n vào đ̣i hỏi ai?" Quận Thể giận lắm, liền bảo với các tướng:

 

- Quận Tạo phản rồi! Để ta phá cửa thành vào chặt lấy đầu thằng giặc già trước đă, rồi sau sẽ ra đánh.

 

Đoạn ngoảnh lại nói với các con:

 

- Chúng bay hăy đứng phía trước cản địch, ta vào một lát sẽ quay ra.

 

Rồi quận Thể co đầu voi quay vào. Voi vừa lùi lại, thế trận tức th́ rối loạn, quân Tây Sơn thừa cơ sấn đến. Hai con quận Thể phóng ngựa ra trận, múa đao chém chết chừng vài trăm người. Quân địch kéo đến càng đông hơn, họ xông vào chém chân ngựa của hai người. Ngựa quỵ, hai người lại hoa đao đánh bộ, giết thêm vài chục người nữa, rồi bị thương nặng và cùng đuối sức, bèn gọi cha ra cứu.

 

Quận Thể vội quay voi đến cứu, th́ hai người đă bị chém chết ở trước trận. Liền đó, Kiên kim hầu cũng bị giết chết.

 

Quận Thể thu quân, toan bày trận khác, nhưng ngoảnh đầu nom lên thành th́ đă thấy kéo cờ trắng rồi.

 

Tên quản tượng của quận Thể hốt hoảng, bỏ voi nhảy xuống đất chạy trốn. Quân địch đuổi theo voi mà bắn. Quận Thể chết ngay trên bành voi.

 

Đại tướng Tạo quận công truyền mở cổng thành, xe quan tài ra hàng (tỏ ư xin ra chịu chết). B́nh thả quân vào thành, chém giết bừa phứa. Đốc thị Nguyễn Trọng Đương chết trong trận đó. C̣n bao nhiêu lính tráng trong thành chạy trốn ra ngoài, đều bị thổ dân giết sạch.

 

Trong trận đánh này, mấy vạn mạng tướng sĩ đóng ở thành Phú Xuân đều không c̣n sống sót lấy một mống.

 

Chiếm xong Phú Xuân, B́nh nhân đà thắng kéo quân ra lấy luôn đồn Động Hải. Tướng giữ đồn là Vị phái hầu cùng hiệp trấn là Ninh Tốn mới trông thấy bóng quân Tây Sơn đă chạy trốn. Thế là mất hết cả đất Thuận Hoá. Bấy giờ là ngày 14 tháng 5 năm Bính Ngọ niên hiệu Cảnh hưng (1786).

 

Sau khi hoàn toàn lấy được Thuận Hoá rồi, B́nh bèn họp các tướng bàn việc sửa lại địa giới La Hà; đồng thời sai làm tờ "lộ bố" (thư báo tin thắng trận) báo tin thắng trận về cho chúa Tây Sơn.

 

Lúc ấy, Chỉnh nói với B́nh rằng:

 

- Ngài vâng mệnh ra lấy Thuận Hoá, đánh một trận mà xong, oai danh lừng lẫy khắp thiên hạ. Phép dùng binh có ba điều cốt yếu, một là "thời", hai là "thế", ba là "cơ"; ba điều ấy đều có cả th́ đánh đâu cũng thắng. Nay ở Bắc Hà, tướng lười binh kiêu, triều đ́nh không c̣n kỷ cương ǵ cả, ta thừa thế mà đánh lấy, như trong sách đă nói: "Chiếm nước yếu, đánh nước ngu, lấy nước loạn, lấn nước suy vong". Cơ và thời ấy không nên bỏ lỡ!

 

B́nh đáp:

 

- Bắc Hà là một nước lớn, có nhiều người tài. Lời xưa có nói: "Con ong có nọc", há có thể khinh thường được ư?

 

Chỉnh nói:

 

- Người tài ở Bắc Hà chỉ có một Chỉnh này mà thôi. Nay tôi đă đi rồi, ấy là cái nước rỗng không, xin ngài chớ nghi ngại!

 

B́nh vốn khéo dùng ngôn ngữ để bẻ người, liền đùa rằng:

 

- Không nghi ngại người nào khác, chả hoá ra chỉ có ông là đáng nghi ngại thôi ư?

 

Chỉnh tái mặt mà tạ rằng:

 

- Sở dĩ tôi tự nêu lên cái ngu hèn của ḿnh như thế, chẳng qua cũng chỉ để nói quá rằng nước tôi tuyệt nhiên không có người tài đó mà thôi! (ư Chỉnh muốn nói chữa, ngoài Bắc chỉ có Chỉnh là tài mà Chỉnh cũng chỉ xoàng như vậy th́ quả là ngoài Bắc không c̣n có người tài nữa)

 

B́nh lại an ủi mấy câu, rồi tiếp:

 

Một nước đă trải bốn trăm năm, nay bỗng chốc ḿnh đến cướp lấy, người ta sẽ gọi đạo quân ấy là đạo quân ǵ?

 

Chỉnh đáp:

 

- Nước tôi có vua lại có chúa, đó là một việc hết sức trái ngược xưa nay. Chúa Trịnh tiếng rằng pḥ Lê, thực ra chỉ là ăn hiếp thiên tử. Người trong nước vốn không phục. Trước đây các bậc anh hùng mỗi khi nổi dậy, chưa từng có ai không lấy danh nghĩa pḥ Lê. Nhưng số họ Trịnh chưa hết, nên công việc của những người ấy đều không thành. Nay xét ở trong "địa kư" của họ Trịnh có câu: "Chẳng đế chẳng bá, quyền nghiêng thiên hạ, truyền được tám đời, trong nhà dấy vạ". Mà tính từ Thái vương đến Tĩnh vương [địa kư: sách ghi lời dự đoán trước về thế đất để mả. Thái vương là Trịnh Kiểm; Tĩnh vương là Trịnh Sâm. Tương truyền Trịnh Kiểm lúc nhỏ nhà nghèo, thường ăn trộm gà hàng xóm để nuôi mẹ, ai cũng ghét. Họ bèn ném mẹ Kiểm xuống vực sâu ở làng. Qua một đêm, chỗ vực sâu ấy bỗng biến thành một g̣ đất. Sau có một thầy địa lư đi qua g̣ đất, đọc bốn câu rằng: Phi đế phi bá, quyền khuynh thiên hạ, tộ truyền bát đại, tiêu tường khởi hoạ (nghĩa như trên). Câu "tộ truyền bát đại" có bản chép "truyền nhị bách niên" (truyền hai trăm năm)] th́ đă đủ số tám đời rồi. Nếu ngài lấy cớ "diệt Trịnh pḥ Lê" mà kéo quân ra, thiên hạ không ai là không hưởng ứng. Đó chính là cái công không mấy đời có vậy!

 

B́nh nói:

 

- Đó là việc rất hay! Nhưng nay ta vâng mệnh đi đánh Thuận Hoá, không phải vâng mệnh đi đánh nước người. Tự ư thay đổi mệnh lệnh của nhà vua như thế th́ ra làm sao?

 

Chỉnh đáp:

 

- Trong kinh Xuân Thu có nói: "Thay đổi nhỏ mà công lao lớn, ấy là có công!" Như thế th́ thay đổi cũng có ngại ǵ đâu? Huống hồ, ngài há chẳng nghe nói câu "tướng ở ngoài, mệnh vua có khi không cần phải theo" đấy ư?

 

B́nh là một người thông minh, quyết đoán, được lời Chỉnh nói trúng với ư ḿnh, tức th́ nghe theo ngay. B́nh sai Chỉnh đem đội quân tuyển phong, vượt vào cửa biển Đại An, đánh lấy kho lương Vị Hoàng (xă Vị Hoàng, sau là tỉnh lỵ Nam Định) trước; c̣n tự ḿnh th́ dẫn thuỷ binh theo sau, lại hẹn với Chỉnh hễ đến được Vị Hoàng th́ phải đốt lửa lên làm hiệu.

 

Bố trí xong rồi, Chỉnh liền cầm quân đi trước. Lúc ngang qua mấy trấn Nghệ Anh, Thanh Hoa, Chỉnh sai nhiều toán du binh, mỗi toán chừng vài trăm người, chia ngả đi đánh các đồn để phô trương thanh thế.

 

Trấn thủ Nghệ An là Đương trung hầu, trấn thủ Thanh Hoa là Thuỳ trung hầu (tức Bùi Thế Toại và Tạ Danh Thuỳ) đều bỏ thành mà chạy.

 

Ngày mồng sáu tháng sáu năm ấy (1786) Chỉnh tới Vị Hoàng. Quân ở trong đồn mới trông thấy bóng quân Chỉnh đă bỏ trốn. Hơn một trăm vạn hộc lương ở đây đều bị Chỉnh chiếm gọn. Sau đó, Chỉnh bèn đốt lửa báo tin.

 

B́nh thấy hiệu lửa, lập tức dẫn hơn một ngàn chiếc thuyền theo đường biển đi ra. Dân chúng Nghệ An lên núi, trông bóng lâu thuyền (loại chiến thuyền hạng lớn, khoang thuyền có lầu cao) cùng cờ quạt ngoài biển đều ngậm ngùi than: "Cơng rắn cắn gà nhà, hắn ta thật có tội. Song cũng là một việc không mấy đời có!"

 

Chỉnh ở Vị Hoàng hợp với quân của B́nh, thanh thế rất lớn. Bấy giờ trong nước, những kẻ hai ḷng thường hay lui tới dinh quân của Chỉnh, đem hết t́nh h́nh nước nhà mà kể với địch. C̣n như t́nh h́nh quân địch ra sao, th́ triều đ́nh lại không hề hay biết ǵ hết.

 

Khi Phú Xuân bị vỡ, tin từ biên giới báo về kinh, những người dự bàn đều nói: Thuận Hoá vốn không phải là bờ cơi của triều đ́nh, tiên triều hao phí bao nhiêu của cải trong nước mới lấy được xứ ấy, rồi lại phải đem quân đóng giữ, rốt cuộc chẳng có ích ǵ. Ngày nay mất đi cũng là một cái may. Bây giờ chỉ nên bàn tính việc đóng đồn ở trấn Nghệ An và định rơ cương giới cũ mà thôi. Ta lấy sự mất Thuận Hoá làm may, ắt họ phải lấy sự lấn đất của ta làm điều đáng ngại. Như vậy hẳn là ta không phải lo ǵ nữa.

 

Thế là kẻ trên người dưới, ai nấy đều yên ḷng. Chợt nghe tin Nghệ An bị vỡ, quân địch sắp sửa đến nơi; triều đ́nh bấy giờ mới hốt hoảng, bèn sai Thái đ́nh hầu (tức Trịnh Tự Quyền) làm thống lĩnh, đem 27 cơ lính vào Nghệ An chống nhau với quân địch, Thái đ́nh hầu lĩnh mệnh đă hơn mười ngày, mà sửa soạn vẫn chưa xong. Kịp đến khi rời thành được nửa ngày, th́ quân địch đă tới Vị Hoàng. Bấy giờ triều đ́nh lại sai luôn Thái đ́nh hầu xuống giữ ở vùng Sơn Nam; và phái thêm Liễn trung hầu Đinh Tích Nhưỡng đốc lĩnh đường thuỷ, dẫn các đội thuyền Tả-vệ, Hữu-vệ, Ngũ-hầu, Ngũ-thiện, Ngũ-trung cùng với Thái đ́nh hầu thuỷ bộ đều tiến.

 

Hồi ấy Nhưỡng đang đánh nhau với bọn thuỷ khấu (bọn cướp trên sông, biển) ở vùng Hải Dương; đến lúc này, bọn thuỷ khấu đă hợp cả với quân Nam, v́ vậy triều đ́nh liền sai luôn Nhưỡng về đánh giữ mặt Nam.

 

Nhưỡng là danh tướng ở vùng Hàm Giang, vốn là con nhà ḍng dơi, triều đ́nh đem hết công việc thuỷ chiến giao phó cả cho Nhưỡng.

 

Các thuyền quân của Nhưỡng kéo đến đóng ở cửa Luộc [cửa Luộc, chỗ sông Luộc chảy vào sông Hồng Hà giáp liền với huyện Tiên Lữ (Hưng Yên) và huyện Hưng Nhân (Thái B́nh)], cầm cự với quân Tây Sơn. Bấy giờ gió đông nam thổi rất dữ, quân Tây Sơn ở hạ lưu cho năm chiếc thuyền làm tiền bộ tuyển phong, giương buồm ngược ḍng tiến lên, c̣n đại quân th́ từ từ tiến theo sau. Nhưỡng thấy những thuyền tuyển phong của địch xông đến, tức th́ đem chiến thuyền chặn ngang sông, dàn thành thế trận h́nh chữ "nhất"; rồi truyền quân lính nạp súng Bảo-lân, bắn sang thuyền địch. Bắn phát đầu, thuyền địch đứng yên không động. Nhưỡng truyền bắn phát thứ hai, các buồm của thuyền địch đều cuốn lại. Quân bên Nhưỡng mừng rỡ, cho là bên địch có ư sợ. Nhưỡng lại sai bắn luôn ba phát nữa. Lúc ấy bên địch mới bắn trả một phát súng lớn, tiếng nổ như sấm, đạn bay lên cây cổ thụ bên bờ, làm cho thân cây bị găy làm hai đoạn.

 

Bấy giờ Trướng trung hầu (tức Đỗ Thế Dận) và viên đốc đồng Nguyễn Huy B́nh đều một ḿnh bỏ trốn. Quân của Thái đ́nh hầu đóng ở cửa Kim Động [thuộc Hưng Yên (Hải Hưng)] cũng tự vỡ mà chạy.

 

Khi ấy, thư báo tin thua trận tới tấp đưa về kinh, các quan văn vơ trong triều ai nấy chỉ cuống lên lo thu xếp chỗ nương náu cho vợ con, lo cất giấu của cải, không một ai dám ra nhận lấy việc đánh nhau với quân Tây Sơn.

 

Chúa thấy tham tụng Bùi Huy Bích ở ngôi tể tướng lâu ngày mà chẳng làm được việc ǵ, đến lúc này lại không có mưu kế ǵ để chống địch, trong ḷng đă chán ghét. Rồi nhân những người xung quanh lại công kích Bích rất gay gắt, chúa bèn băi chức tể tướng của Bích và cử ra trận đốc chiến.

 

Tể tướng đi rồi, ḷng người càng nôn nao. Chúa bèn đ̣i Công Thước (Trần Công Thước, sau đổi là Công Xán) vào phủ, mật bàn xem nên đánh lui địch hay nên tránh địch. Công Thước thưa:

 

- Giặc kéo quân vào sâu xứ lạ, đó là điều mà trong binh pháp rất kỵ. Nên dử cho chúng tới gần nữa, rồi đánh một trận mà tiêu diệt hết, đó cũng là cái thuật kỳ diệu trong phép dùng binh. Vả lại, kinh sư là cái gốc của thiên hạ, rời bỏ th́ sẽ đi đâu? Chẳng những thế, nếu kiệu chúa lật đật ra ngoài thành, tất ḷng người sẽ phải ĺa tan, ấy là đem nước mà trao cho giặc vậy. Bây giờ chỉ nên xin thái phi và cả sáu cung hăy tạm lánh ra ngoài thành mà thôi.

 

Chúa nghe theo lời Thước. Lại tự nghĩ rằng, trong hàng vơ tướng chỉ có Thạc quận công là tay lăo tướng có thể trông cậy được, bèn sai người ra trấn Sơn Tây tức tốc triệu ông ta về triều.

 

Được lệnh, quận Thạc liền đem ngay năm trăm quân nghĩa dũng về cứu kinh thành. Thấy quận Thạc về, ḷng người cũng hơi vững. Khi quận Thạc vào ra mắt, chúa nói:

 

- Ông bỏ quả nhân hay sao? Bây giờ thế nước như vậy th́ làm thế nào?

 

Quận Thạc khóc mà rằng:

 

- Thần chịu ơn dày của nhà nước, thề không cùng sống với giặc. Cha con thần tất cả c̣n có chín người, nếu phải dựa lưng vào thành mà quyết một trận tử chiến, thần xin cầm roi mà theo dưới chân chúa, chúa không lo ǵ hết!

 

Chúa bèn bỏ ra năm ngàn lạng bạc, giao cho quận Thạc để chi về việc binh. Thạc lập tức ra lo liệu việc quân, một ngày gọi được hơn một ngàn thủ hạ, toàn là những tên quân hết sức tinh nhuệ. Rồi theo lệnh chúa, quận Thạc tiến quân ra đóng ở hồ Vạn Xuân (tức đầm Vạn Phúc ở làng Vạn Phúc, huyện Thanh Tŕ, Hà Đông, nay là ngoại thành Hà Nội).

 

Bấy giờ gió đông nam đang mạnh, đường thuỷ trở nên rất xung yếu. Sau khi các đội thuyền của Liễn trung hầu đă bị đánh bại, quân địch chiếm được cả một dải đất yên ổn chạy dài theo ven sông, rồi thuận đường kéo thẳng lên kinh kỳ. Tông sai cả bốn hiệu lính thuỷ dốc hết quân xuống ngăn địch ở cửa Thuư ái (Cửa Thuư ái nằm ở địa phận băi Thuư ái, Thanh Tŕ, Hà Đông, nay thuộc ngoại thành Hà Nội).

 

Thuyền địch đến bến Nam Dư (cũng thuộc Thanh Tŕ, Hà Đông, nay thuộc ngoại thành Hà Nội), tức th́ bỏ thuyền nhảy lên bộ, đánh úp vào đám lính thuỷ ở cửa Thuư ái. Trước đó, thuỷ binh ở đây nghe tin quân địch c̣n xa, nên không pḥng bị ǵ hết, cứ cột thuyền lại rồi lên bờ đi tản mát, linh tinh ở các băi sông. Khi quân địch th́nh ĺnh kéo đến, thuỷ binh không kịp lên thuyền, bao nhiêu thuyền bè đều bị địch chiếm hết cả. Cả đội duy có viên tiểu tướng họ Ngô (tức Ngô Cảnh Hoàn, theo Cương mục, Hoàn có người thiếp yêu là Phan Thị Thuấn rất trẻ, đẹp. Sau khi Hoàn chết, nàng cứ nhởn nhơ may sắm quần áo và trang điểm như không có chuyện ǵ, mọi người chê cười cũng mặc. Đến hết giỗ 100 ngày, bấy giờ nàng mới trang điểm đẹp đẽ, bơi thuyền đến chỗ chồng chết mà tự tử. Nhân dân địa phương bèn lập đền thờ, khen là người con gái tiết liệt) là dám vác đao đứng ở đầu thuyền, đánh nhau với địch. Được chừng hơn một khắc, quân Tây Sơn dùng súng lớn bắn vào đầu thuyền, viên tiểu tướng ấy trúng đạn chết tại chỗ. Quân địch bèn kéo ùa lên bộ, xông vào trận của quận Thạc. Quân lính của quận Thạc khi ấy đang ăn cơm, chợt thấy địch ập tới, ai nấy bỏ cả khí giới mà chạy (theo Cương mục, lúc ấy có Mai Thế Pháp dám một ḿnh vác dao ra chặn đường quân Tây Sơn, nhưng giết được mươi người th́ bị vây chặt, phải nhảy xuống sông tự tử). Quân Tây Sơn từ hai phía tả hữu cùng đánh dồn lại, chém giết quân của quận Thạc tơi bời, thây chết nằm ngổn ngang khắp băi. Những kẻ nhảy xuống hồ Vạn Xuân mà chết, cũng không biết bao nhiêu mà kể.

 

Quận Thạc chỉ c̣n hơn mười thủ hạ và tám người con. Bọn họ đều xúm quanh chân voi của quận Thạc, tựa vào voi mà chống cự lại quân Tây Sơn. Sáu người con của quận Thạc ra sức chiến đấu, chết ở trước voi. Quận Thạc liền sai quản tượng cho voi quỳ xuống, rồi ông ta nhảy xuống đất cùng hai người con cướp đường mà chạy tháo thân.

 

Thuỷ binh của Tây Sơn tiến thẳng đến bến Tây Long. Chúa thân hành ra ngự trên lầu Ngũ-long bày trận. Chia thành năm đạo quân: hiệu Tả-bộ giữ mặt Đông Long, hiệu Hữu-bộ giữ mặt Tây Hổ, hiệu Tiền-bộ giữ mặt cửa thành Tiền Lâu, hiệu Hậu-bộ giữ mặt Hậu Lâu, cạnh bờ hồ Thuỷ-quân, c̣n hai hiệu Nhưng, Kiệu ở trung quân để hộ giá.

 

Quân Tây Sơn từ băi sông tiến vào, chúa ở trên lầu sai nổi hiệu trống trận, hiệu Tiền-bộ liền nổ súng bắn ra. Bắn được một hồi lâu, quân địch khom ḿnh vừa tránh đạn vừa xông vào. Chúa bèn mặc đồ trận, xuống lầu, trèo lên ḿnh voi, cầm cờ đỏ chỉ ba cái, vẫy ba cái, rồi sai thúc trống làm hiệu cho quân lính tiến về phía trước. Quân lính nghe trống giục, trông theo lá cờ liều mạng tiến lên. Bên địch dùng "hoả hổ" (tên một thứ ống phun lửa của Tây Sơn) phun lửa bừa vào, quân lính nhà chúa đều sợ mất mật, bỏ cả khí giới ở bờ sông mà chạy thục mạng.

 

Chúa thấy quân lính tan tác, ngoảnh nh́n quanh ḿnh, đă không c̣n một người nào; nhưng quân Tây Sơn không biết đó là chúa, hối hả tranh nhau xông vào phủ chúa, không ai lại gần chân voi. Chúa vội cởi bỏ quần áo trận, đội khăn chữ đinh, tụt xuống ngồi núp trong ngăn ḥm da ở mé sau bành voi, rồi co đầu voi quay về phủ. Khi qua cửa Tuyên Vũ, th́ thấy tiền binh của địch chừng vài chục người đă vào lọt trong phủ và đang kéo cờ ở phía ngoài phủ; chúa liền quay voi men theo bờ hồ Minh Đường, nhằm phía cửa ô Yên Hoa (tức là ô Yên Phụ, Hà Nội bây giờ) mà chạy.

 

Bấy giờ B́nh đă vào thành [Nguyễn Huệ vào Thăng Long ngày 26 tháng 6 năm Bính-ngọ (1786)], hạ lệnh nghiêm cấm quân sĩ không được cướp bóc của dân, rồi B́nh vào phủ chúa nghỉ ngơi.

 

Mấy viên cận thần và các thân binh biết chúa chạy về phía tây, bèn lục tục chạy theo. Tới ngoài cửa thành, hăy c̣n có chín thớt voi hơn mười con ngựa và hơn ngàn người. Lúc qua địa phận Từ Liêm, dân quê thấy bóng gươm giáo, ngờ là địch đến, vội dắt nhau chạy. Quan quân trông đằng xa thấy dân chạy tưởng là địch, quá nửa số người vứt bỏ cả khí giới mà trốn. Đến huyện Yên Lăng, th́ có người con trai Nguyễn Thưởng là Nguyễn Noăn, quê ở làng Vân Điềm, huyện Đông Ngàn, vốn là gia thần của chúa, đón chúa ở dọc đường quỳ xuống mép đường bên trái mà thưa rằng:

 

- Ngày trước tôi vâng mệnh chúa đi mộ quân, hiện đă mộ được năm trăm tên, đang chờ ở phía bờ bắc sông này. Xin chúa hăy ngự giá sang phía bắc, tới làng tôi đóng tạm để lo tính công việc về sau.

 

Chúa bèn sai gọi đ̣ để sang sông. Bao nhiêu chân sào ở bến đ̣ mỗi người lẩn đi mỗi ngả. T́m măi mới được ba chiếc thuyền nhỏ, mỗi chiếc chỉ chở được khoảng 13, 14 người. Chúa vội lên thuyền, chỉ có năm sáu viên quan hoạn trẻ tuổi và Noăn đi theo. C̣n bao nhiêu quan quân và voi ngựa đều phải ở lại: khi nh́n thấy chúa đă sang đến bờ bên kia, th́ họ cũng bảo nhau trốn chạy tan tác.

 

Chúa lên bờ, không thấy một tên quân nào, vội hỏi Noăn th́ Noăn đáp:

 

- Lính tráng hiện ở làng tôi, xin chúa hăy quá bộ đi dấn lên phía trước, làng tôi cách đây cũng không xa.

 

Chúa có ư hối bị Noăn làm lỡ việc, lại sợ đi nữa chưa chắc giữa đường có được yên lành hay không. Bấy giờ quanh ḿnh chẳng có ai đáng tin; chúa nghĩ rằng chỉ có những bậc văn thần tiến sĩ là có thể trông cậy được, bèn hỏi Noăn:

 

- Những thôn ấp gần đây có viên tiến sĩ nào không?

 

Noăn thưa:

 

- ở đây th́ chẳng có ai là tiến sĩ. Chỉ có viên thiêm sai tri lại phiên Lư Trần Quán, trước kia phụng mệnh đi chiêu dụ nhân dân, vẫn đóng tạm tại làng Hạ Lôi, nhưng không biết hiện giờ có c̣n ở đó nữa không?

 

Chúa nói:

 

- Người hăy thử đi hỏi xem. Nếu c̣n th́ nên bảo kín t́nh trạng này để cho viên ấy biết mà lo liệu giúp ta.

 

Noăn vâng mệnh, đi tới ra mắt Lư Trần Quán kể rơ đầu đuôi, rồi nói:

 

- Tôi trước vâng mệnh về quê mộ quân, hiện nay đă mộ được một số, đang đợi ở địa giới huyện tôi. Quan lớn hăy liệu cách nào mượn tạm lấy ít binh lính, khí giới hộ vệ cho chúa tới đó, thế là yên ổn.

 

Quán có người quen là viên tuần huyện Trang (tức Nguyễn Trang) ở làng Hạ Lôi. Trang vốn là một tên tướng cướp, thuở trước đă có học với Quán. Bấy giờ Quán trú ở Hạ Lôi cũng là nhờ có Trang che chở. Nghe Noăn nói thế, Quán bèn cho gọi Trang vào bảo:

 

- Hiện có quan tham tụng là Kế liệt hầu tránh loạn đến đây, muốn phiền anh hộ tống ra khỏi địa phận.

 

Trang xin vâng.

 

Quán liền cùng Trang theo Noăn đến yết kiến chúa.

 

Nguyên lúc Quán ở chính phủ chỉ là một viên quan nhỏ, chưa từng được thấy mặt chúa, mà chúa cũng chưa hề biết Quán bao giờ. Khi ấy, chợt thấy Quán đến, chúa bèn ngoảnh lại hỏi mấy viên thị thần:

 

- Đó là người nào?

 

Bọn thị thần đáp:

 

- Đó là Lư Trần Quán!

 

Chúa đang nhún nhường chưa biết nên nói câu ǵ. Quán khi được tiếp kiến cũng tỏ ra hết sức cung kính, điệu bộ rụt rè, khúm núm. Vô t́nh chúa và tôi đều lộ rơ chân tướng. Hồi lâu, chúa mới nói tâm sự với Quán.

 

Quán chỉ vào Trang thưa:

 

- Tôi có tên này, vốn là học tṛ cũ của tôi, việc đó hắn rất có thể đảm đương được.

 

Rồi Quán quay sang bảo Trang:

 

- Anh phải cẩn thận hộ vệ quan lớn ra khỏi địa giới đấy nhé!

 

Trang thưa: "Dạ!".

 

Quán bèn từ biệt chúa, trở về nhà riêng. C̣n Trang th́ đem theo năm mươi thủ hạ đi hộ vệ chúa. Lúc đi qua một ngôi nhà mà Quán đă từng ở, Trang giữ chúa lại trong một căn buồng bỏ không và hỏi:

 

- Ông có phải là Đoan nam vương th́ cứ nói thực với tôi. Nếu không, rồi xảy ra việc ǵ, ông đừng có trách!

 

Chúa mới đầu c̣n định giấu giếm, bèn đáp:

 

- Sao anh lại đoán xằng như vậy? Ta chỉ là quan tham tụng Bùi Huy Bích mà thôi!

 

Trang nói:

 

- Ông chớ nói dối người ta. Cái bộ điệu che đậy của chúa tôi nhà ông lúc năy tôi đă thấy cả rồi, c̣n che mắt ai được nữa? Từ xưa đến nay, hưng phế là việc thường, ông cũng không thể tránh khỏi, đừng có làm ǵ nữa cho thêm nhọc ḿnh!

 

Rồi Trang đưa chúa về nhà. Chúa giận lắm, đổi sắc mặt mà nói:

 

- Vua chúa phải có mệnh trời. Chính thật đại nguyên soái Đoan nam vương là tao đây! Nếu có chết về tay người trong nước th́ cũng là mệnh trời. Tha hồ cho mày làm ǵ th́ làm!

 

Trang bèn sai người đi báo tin cho quân Tây Sơn. Hết thảy những kẻ đi theo chúa đều bị bắt giữ.

 

Quán nghe tin có việc biến, thân hành đến tận chỗ chúa, rập đầu xuống đất mà nói:

 

- Làm lầm chúa đến nông nỗi này, là do tội của tôi cả!

 

Tông đáp:

 

- Người ta ai có bụng nấy, khanh có can dự ǵ?

 

Quán lui trở ra, bảo Trang:

 

- Chúa là chúa chung của thiên hạ. Mà ta lại là thầy anh. Vua tôi là nghĩa lớn, sao anh nỡ làm như thế?

 

Trang đáp:

 

- Quan lớn không bảo tôi trước, khiến tôi trót lầm đến gặp chúa. Nếu chúa trốn thoát ở tay tôi, rồi nữa quân Nam đến hỏi tội tôi, liệu quan lớn có thể biện bạch hộ được không? Sợ thầy chưa bằng sợ giặc, yêu chúa chưa bằng yêu thân ḿnh, tôi không để quan lớn làm cho lầm lỡ đâu!

 

Tiếp đó, Trang bức Quán phải trở về nhà, rồi quát thủ hạ d́u chúa về kinh đô.

 

Quán tới lạy chúa, vừa khóc vừa kêu gào rằng:

 

- ối trời ơi! Tôi giết chúa tôi rồi, trời có hay chăng?

 

Chúa an ủi:

 

- Tấm ḷng trung thành của khanh, "cô" (lối khiêm xưng của vua chúa đời xưa) đă biết rồi đừng nên tự oán ḿnh như thế!

 

Quán muốn nèo chúa ở lại chút nữa, nhưng chưa kịp nói th́ chúa đă bị Trang đẩy đi rồi.

 

Đi đến giữa đường, Trang dẫn chúa vào tạm nghỉ trong một cái quán. Chúa vớ được con dao con của nhà hàng, đưa lên đâm ngay vào cổ ḿnh. Trang trông thấy vội giằng lấy dao. Mũi dao đâm vào hăy c̣n nông, nên vết thương ở cổ cũng nhỏ. Chúa bèn dùng ngón tay chọc vào vết thương xé cho rách thêm ra, nhưng cũng bị Trang ngăn chặn. Một chốc, chúa thấy trong bụng nôn nao, buồn bực, đ̣i uống nước lạnh. Trang sai người lấy nước cho chúa. Chúa bưng nước uống xong th́ chết liền. Trang đưa thi hài chúa đến kinh. Quân Tây Sơn mừng lắm, đem phơi xác chúa ra ngoài cửa Tuyên Vũ để cho thiên hạ cùng biết. Sau đó, sai khâm liệm chúa đúng theo lễ vua chúa, rồi dùng kiệu rồng đưa ra chôn ở lăng Cung quốc công (nơi chôn Trịnh Cán).

 

C̣n Trang, được phong làm Tráng nghĩa hầu thêm chức trấn thủ Sơn Tây. Hôm ấy nhằm ngày 27 tháng 6 quận công năm Bính-ngọ (1786) (theo Trịnh thị thế gia, th́ ngoài Trang c̣n có Nguyễn Noăn tức Ba Đóm cũng tham dự vào việc bắt Tông. Nhưng lúc Noăn đ̣i thưởng công th́ Nguyễn Huệ cho là kẻ bất nghĩa và sai đem chém ngay).

 

ở Hạ Lôi, Lư Trần Quán sau lúc từ biệt chúa, liền quay về nhà trọ, nói với chủ nhà rằng:

 

- Bề tôi mà làm lầm vua, tội thật đáng chết! Nếu ta không chết, không lấy ǵ tỏ được ḷng này với trời đất. Vậy hăy sắm cho ta một cỗ quan tài, mười vuông vải trắng, để ta làm theo cái chí của ta.

 

Chủ nhà hết sức khuyên giải, Quán vẫn không nghe, nói rằng:

 

- Ta đă muốn chết, tự khắc c̣n có những cách khác, nhà ngươi không thể ngăn nổi đâu. Nếu quả là yêu mến ta, th́ cứ để mặc ta làm ǵ th́ làm.

 

Qua hai ngày sau, Quán càng phẫn uất, bồn chồn. Chủ nhà ngăn Quán chẳng được, biết ḷng trung của Quán không thể lay chuyển, đành phải sắm sửa đầy đủ các thứ theo như lời Quán đă bảo.

 

Quán sai đào huyệt ở ngay vườn sau nơi nhà ḿnh ở đặt sẵn chiếc quan tài xuống đó. Lại lấy vải trắng xé ra làm một chiếc khăn đội đầu và một chiếc dây lưng. Sau đó, đội mũ mặc áo chỉnh tề, hướng về phía nam lạy hai lạy. Lạy xong, lại bỏ mũ, lấy khăn trắng chít lên đầu, lấy dải lưng trắng thắt ngang lưng; rồi nằm vào trong quan tài, bảo chủ nhà đậy nắp lại.

 

Tấm ván vừa đặt lên, bỗng Quán ở trong áo quan nói vọng ra:

 

- Hăy c̣n thiếu một câu nữa, phải nói hết cái đă. Chủ nhà lại mở nắp ra, Quán liền đọc hai câu rằng:

 

Tam niên chi hiếu dĩ hoàn,

 

Thập phần chi trung vị tận (nghĩa là: Đạo hiếu ba năm đă trọn, Chữ trung mười phần chưa xong).

 

Rồi Quán bảo với chủ nhà:

 

- Phiền ông đem câu ấy dặn lại con ta, bảo nó sau này dán ở nhà thờ mà thờ ta.

 

Nói xong câu ấy, lại tiếp luôn:

 

- Đa tạ ông chủ, ta vĩnh biệt ông từ đây nhé!

 

Chủ nhà và năm sáu tên đày tớ cùng sụp xuống lạy chào ở trước quan tài, rồi đậy nắp và lấp đất lên. Hôm ấy là ngày 29 tháng 6, năm Bính ngọ (1786) sau khi chúa chết hai ngày.

 

Quán người làng Vân Canh, huyện Từ Liêm, đỗ tiến sĩ khoa Bính Tuất (1766); tính nết giản dị, chất phác và rất hiếu thảo. Trong khi chịu tang mẹ, Quán ở nhà mồ luôn ba năm liền; miệng không ăn thịt cá, thân thể gầy rạc, chỉ c̣n da bọc xương. Quán thường tự nói: "Ta nay đă bốn chục tuổi đầu, nhưng những việc đă làm trong quăng đời vừa qua của ta, chỉ có ba năm chịu tang này là gần với đạo làm người". Bởi Quán cư xử không có điều ǵ đáng phàn nàn như vậy, nên khi sắp chết, Quán mới có lời tự hứa (nghĩa là tự cho rằng ḿnh có điều đáng khen. ở đây chỉ vào câu "Tam niên chi hiếu dĩ hoàn", ư nói ḿnh đă tận hiếu với cha mẹ) như thế

 

Sau khi Quán mất, thiên hạ ai cũng thương chúa và kính trọng Quán là bậc nghĩa khí. Rồi nhân đó truy nguyên đến kẻ gây ra tai hoạ, không ai là không oán Chỉnh. Chỉnh cũng cảm thấy điều ấy.

 

Chỉnh có một người quen là Đỗ Thế Long, quê ở làng Hoằng Liệt, huyện Thanh Tŕ, vốn là một kẻ giảo hoạt. Hồi Chỉnh nợ tiền công bị bỏ ngục, Long v́ cớ khác phải tội, cũng cùng ở tù với Chỉnh. Long làm các bài từ khúc bằng chữ nôm rất giỏi, so với Chỉnh cũng không kém ǵ. Kịp đến khi Chỉnh ở Tây Sơn ra, Long vẫn c̣n bị giam. Chỉnh tới kinh, tức th́ sai người thả Long ra, và đăi Long làm bậc khách quư. Mỗi lần có việc nước, Chỉnh đều hỏi han Long. Long biết điều ǵ, không bao giờ không nói. Đă nói, không bao giờ Chỉnh không theo.

 

Đến lúc này thấy chúa chết, Chỉnh bèn nói với Long rằng:

 

- Chúa không tin bụng ta, nên mới đến nỗi tự huỷ hoại đời ḿnh. Nếu chúa c̣n sống, hẳn ta cũng đặt vào một địa vị thanh nhàn không để đến nỗi phải mất danh lộc.

 

Long nghe lời lẽ của Chỉnh, thấy Chỉnh đối với chúa cũng có t́nh, bỗng nhiên Long nảy ra cái ư muốn lập lại họ Trịnh. Rồi nhân ư của Chỉnh, Long bèn xoay chuyển thêm để cho đúng với cơ mưu của ḿnh.

 

Thật là:

 

A'c độc than người tàn phá trứng,

Ngây thơ cười kẻ giữ ǵn con

 

Chưa biết việc này ra sao? Xin xem hồi sau phân giải.

 

---------------------------------------------------------------------- ----------

 

phá trứng: dịch ở chữ huỷ noăn, nghĩa bóng ư nói Nguyễn Hữu Chỉnh diệt họ Trịnh cũng giống như phá tổ chim đập vỡ trứng chim.

 

giữ ǵn con: tạm dịch ở chữ "Tồn sô" nghĩa đen là bảo tồn con chim con. Nghĩa bóng ư nói Đỗ Thế Long muốn lập lại họ Trịnh cũng giống như tổ chim đă bị phá mà c̣n muốn bảo tồn con chim con.

 

                 

Hoàng Lê nhất thống chí

Ngô gia văn phái

 

Hồi thứ năm

 

Pḥ chính thống, thượng công vào điện

Kết duyên lành, công chúa ra xe..

 

Lại nói, Đỗ Thế Long nghe lời lẽ Chỉnh có ư hậu với chúa, bèn nhân đó nói với Chỉnh rằng:

 

- Việc ông đă làm, tiếng làm nhân nghĩa, nhưng xét rơ ra th́ lại là tàn hại! Ngày nay ông có cái thế nghiêng non lật biển, quả thật là nhờ vào sự giúp đỡ của quư quốc (chỉ Tây Sơn). Nhưng khi ông mới xuất thân, nào cầm quân, nào phong hầu, thử hỏi có cái ǵ không phải là ơn của nhà chúa? Chuyến này ông lấy tiếng "phù Lê, diệt Trịnh" để kéo quân ra, thật là quá lắm! Nếu bảo nhà chúa hiếp chế nhà vua là việc có lỗi, th́ sao lại không nghĩ đến cái công tôn pḥ hai trăm năm trời? Theo người mới mà phản người cũ là bất nghĩa; bới lỗi lầm để lấp công lao là bất nhân. Đă bất nghĩa, bất nhân tức là tàn hại. Kẻ đại trượng phu lập thân, có thể tự ḿnh đứng vào địa vị tàn hại được ư?

 

Chỉnh nghe nói, sắc mặt tái mét, lặng đi hồi lâu mới đáp:

 

- Gây dựng là ơn riêng của một người, cương thường là nghĩa lớn của thiên hạ. Tôi làm cái việc tôn pḥ ấy, là cốt để chống đỡ cho nền cương thường. Đó là một việc nhân nghĩa vô cùng lớn lao, vậy mà ông lại cho là tàn hại, chẳng phải là ông nói nhau quá tệ ư? Nếu tôi không nghĩ sai, th́ chắc là ông nói quá lời đấy!

 

Long nói:

 

- Nhà vua vốn đă tôn quư sẵn rồi, cần ǵ đợi ông tôn pḥ nữa? Chẳng qua ông cũng chỉ mượn cớ ấy để làm cho trôi cái mưu cướp bóc đó thôi. Nhưng mà, nhà nước đang như chiếc âu vàng lành lặn, bỗng dưng vô cớ ông đưa người ngoài đến đây, làm hại chủ suư, làm hại nhân dân; người trong thiên hạ nhất định sẽ c̣n cho ông là beo, sói, diều quạ. Bảo là tàn hại cũng chưa phải là quá đáng. Nay ông dựa vào thế lực nước ngoài, cũng giống như cáo mượn oai hùm. E rằng ḷng người c̣n nhớ họ Trịnh, chắc sẽ có ngày sinh biến. Vả lại, mai đây người ta bỏ ông mà về; bấy giờ ông lấy cái thân cỏn con để cơng cái tội tầy trời, làm sao mà đứng vững được với thiên hạ?

 

Chỉnh giận nghiến răng lại, nhưng vẫn c̣n làm ra vẻ mặt tươi cười mà rằng:

 

- Vậy th́ ông bạn của giống beo, sói, diều, quạ nên làm thế nào bây giờ?

 

Long đáp:

 

- Ông ra chuyến này, chẳng qua muốn v́ ngài trấn thủ trước (chỉ quận Huy) mà trả thù bọn kiêu binh. Nay kiêu binh đă diệt, ấy là chí ông đă thoả. Nếu ông có thể nhanh chóng xoay lại đường lối đă định, khéo điều đ́nh với quư quốc, khiến cho họ măn nguyện mà rút quân về rồi ông ở lại, chọn trong tôn thất họ Trịnh lấy một người khá, lập nên làm chúa, c̣n ông th́ sẽ làm phụ chính. Đó thực là cái công không mấy đời có vậy!

 

Chỉnh nói:

 

- Đúng! Nhưng để tôi nghĩ xem đă. Bây giờ ông hăy về nhà, đi t́m người nào đáng nói, rồi liệu mà sửa lời nói cho khéo, đợi lúc người ta thích nghe, th́ ông có thể dùng lời nói mà làm cho ḿnh được vẻ vang đấy!

 

Long ra khỏi, Chỉnh bảo với mọi người chung quanh:

 

- Rồng [nghĩa của chữ "long" (tên Đỗ Thế Long)] th́ phải đưa xuống nước, không nên cho ở trên cạn để nó làm mê hoặc thiên hạ.

 

Rồi Chỉnh sai người chặn bắt Long ở ngoài cửa, trói lại, đem ra d́m xuống giữa ḍng sông Nhĩ-hà.

 

Lại nói, nguyên soái Tây Sơn ngay từ lúc mới đến Vị hoàng, đă làm tờ tâu nói rơ về ư tôn pḥ và đă sai người bí mật dâng lên nhà vua. Người ngoài cũng nghe phong thanh chuyện đó. Nhưng phần đông đều cho rằng ḷng giặc khó lường, lời nói suông chưa thể tin được. Bởi vậy, khi ấy quan, quân, lại, sĩ ở kinh thành ai cũng tranh nhau mà chạy trốn. Người nào c̣n bận việc quan hoặc c̣n đang mắc cớ ǵ khác, chưa kịp ra ngoài thành th́ đến ngày 26, cũng hốt hoảng đeo bọc mang ḥm chuồn ra nốt.

 

Nhân lúc rối ren, dân chúng ở xung quanh kinh thành tha hồ rủ nhau đón đường cướp bóc. Ngựa xe, của nả của các họ hàng nhà chúa và của các đại thần, đại phu đều bị họ lấy sạch, không biết bao nhiêu người chỉ c̣n trơ chiếc ḿnh không mà chạy.

 

C̣n bọn kiêu binh, sau khi tan vỡ đều phải chạy trốn đi các nơi. Nhưng chúng đến đâu cũng bị dân quê kể tội kiêu ngạo lộng quyền ngày trước và làm cho nhục nhă đủ đường, không có ai chứa chấp.

 

Bữa ấy, có một người cởi trần trùng trục cũng ở trong thành chạy ra, khi qua cửa ô bị dân chúng trông thấy, họ liền chỉ mặt mà nói:

 

- Thằng bụng phệ kia chẳng phải lính Nhưng, Kiệu (Nhưng và Kiệu là tên của hai cơ lính trong hàng ngũ kiêu binh hồi bấy giờ) là ǵ, lôi cổ nó lại mà đánh chết đi!

 

Người ấy vội đáp:

 

- Không phải, ta là huyện uư huyện Thọ Xương đây!

 

Mọi người cùng cười mà rằng:

 

- Người ta thường nói "bụng to như bụng ông huyện", thật không sai!

 

Người ấy cũng cười rồi đi.

 

Ngày hôm đó lính Thanh-Nghệ dắt díu nhau về quê, bị đói khát ở dọc đường, lại chết thêm đến hàng trăm tên.

 

Riêng có chi phái nhà vua, các gia thần nội điện, các lính tráng nội điện, cùng dân chúng ở phố phường quanh điện, th́ vẫn yên ổn như cũ.

 

Đến ngày kinh đô bị mất, B́nh vào thành, việc trước tiên là sai tỳ tướng đem một đội quân vây giữ cung điện. Lúc ấy hoàng thượng đang ốm, các hoàng tử đều hầu hạ ở trong điện. Thấy sân điện có quân lính đứng vây kín như bức tường, ngờ là địch đến bức bách nhà vua, ai nấy vội vàng nâng hoàng thượng dậy, định d́u ra vườn Tam Sơn ở mé sau điện mà trốn. Chợt thấy có viên tỳ tướng qú giữa sân, hai tay nâng tờ tâu lên trán để tiến dâng; gia thần nội điện vội chạy ra đón lấy và đem dâng vua xem. Trong tờ tâu, đại ư trước nói những lời thăm hỏi sức khoẻ nhà vua, sau xin ngày khác sẽ vào ra mắt. Hoàng thượng xem xong tờ tâu, bấy giờ trong ḷng mới yên.

 

Tinh mơ sớm hôm sau, B́nh và Chỉnh cùng vào điện Vạn Thọ để ra mắt nhà vua. Quan hầu vào tâu, hoàng thượng đang ở trong điện, sai người vén màn lên, đưa B́nh vào hầu ở sập ngự. B́nh sụp xuống đất lạy năm lạy và rập đầu vái ba vái. Hoàng thượng sai hoàng tử nâng B́nh dậy, và mời đến ngồi vào một chiếc sập khác ở bên trái sập ngự. B́nh nhún nhường không dám ngồi. Hoàng thượng phải hai ba lần dụ, B́nh mới ngồi ghé vào một góc chiếu cuối sập, một chân bỏ thơng xuống đất.

 

Hoàng thượng uư lạo hết sức ôn tồn. B́nh nói:

 

- Thần vốn là một kẻ hèn mọn ở đất Tây Sơn, gặp thời nổi dậy, chưa từng được mặc áo của bệ hạ, ăn lộc của bệ hạ. Nhưng v́ thánh đức của bệ hạ tràn đi xa rộng, nên thần tuy ở chốn mọi rợ mà cũng vẫn một ḷng kính mến. Ngày nay được thấy mặt rồng, cũng là bởi tấm ḷng chí thành như hoa qú (B́nh muốn nói: ḷng luôn luôn hướng về nhà vua như hoa qú luôn luôn hướng về mặt trời) của thần xui khiến ra vậy. Vả lại, cũng v́ họ Trịnh vô lễ, lấn ép nhà vua đă lâu, cho nên hoàng thiên mới mượn tay thần diệt trừ họ Trịnh, để tỏ oai quyền của bệ hạ. May được thành công như thế này, thực cũng là nhờ phúc lớn của bệ hạ đưa đến. Nay thần chỉ cầu mong thánh thể khoẻ mạnh, coi trị thiên hạ, cho thần được hưởng nhờ chút phúc thừa.

 

Hoàng thượng đáp:

 

- Đa tạ ông có ḷng quá hậu đối với quả nhân, trèo đèo vượt suối từ xa đến đây, thật là vất vả cho tôi tớ ngựa xe. Hiềm nỗi quả nhân ở ngôi thanh bạch giản dị, không có ǵ để biếu tặng.

 

B́nh nói:

 

- Thần v́ nghĩa tôn pḥ mà đến đây, đâu dám kể công lao. Vả chăng, chuyến này thần ra cũng là bởi ư trời, không phải sức người làm được. Nếu bảo là thần có hậu t́nh riêng với bệ hạ mà kéo quân ra, th́ đành rằng quân lính, thuyền bè, thần có thể điều khiển được, nhưng đến chuyện nước lụt rút xuống, gió nồm mạnh lên, há phải sức thần làm nổi? Đó thực là mệnh trời muốn bệ hạ thống nhất bờ cơi, để lưu lại nền móng cho ức vạn năm sau. Từ nay thần xin bệ hạ sắp đặt giường mối, yên kẻ trong, nuôi kẻ ngoài, để đưa cơi đời này lên cảnh thái b́nh. ấy là thần được ban tặng nhiều lắm vậy!

 

Rồi B́nh ngoảnh về phía Chỉnh nói:

 

- Kia là bề tôi cũ của bệ hạ đấy!

 

Chỉnh liền ra trước sập ngự lạy chào.

 

Hoàng thượng phán cho Chỉnh ngồi.

 

B́nh lại nói:

 

- Ông này đội ơn tước lộc của bệ hạ tưởng chưa nhiều lắm. Vậy mà tấm ḷng trung thành của ông ấy đối với bệ hạ, thật là có một không hai trong nước Nam. Thần được đến đây cũng chính là nhờ vào công sức giúp đỡ của ông ấy một phần lớn.

 

Hoàng thượng nói:

 

- Chỉnh biết trung nghĩa như vậy cũng là do ông gây dựng cho.

 

Chỉnh rập đầu rằng:

 

- Thật đúng như lời dạy của thánh thượng.

 

Hoàng thượng vỗ về, an ủi hồi lâu nữa, rồi B́nh cáo từ mà rằng:

 

- Hiện giờ thánh thể không được khoẻ lắm, ứng tiếp măi e rằng sẽ mỏi mệt. Thần xin tạm lui về nơi đóng quân. Từ nay về sau, thỉnh thoảng thần lại xin vào chầu. Nếu bệ hạ c̣n muốn hỏi han điều ǵ, thần xin cung kính đợi chờ thánh chỉ.

 

Hoàng thượng nói:

 

- Quả nhân có nước mà không được tham dự, khoanh tay rủ áo đă hơn bốn mươi năm. Nay lại già lẫn, việc nước việc quân đều không quen thạo. Ông đă có ḷng tôn pḥ, th́ hăy nên ở lại tệ quốc để giúp quả nhân, xin đừng ruồng bỏ!

 

B́nh đáp:

 

- Thần chỉ vâng mệnh vua anh đi lấy Thuận Hoá; nay đă trót ra đây cũng là việc nhân tiện mà làm, thần không dám ở lâu. Tuy nhiên, v́ bốn phương c̣n rối loạn, nên thần cũng phải đánh dẹp một phen cho yên đă rồi mới xin về.

 

Hoàng thượng sai trà đồng pha chè thết B́nh. B́nh ung dung uống chè, rồi lui ra. Chỉnh cũng ra theo.

 

Trong lúc ngồi chầu, Chỉnh nhận thấy các quan tản mát chẳng ra sao: Gia thần của hoàng thượng th́ không có người nào ứng đối nên lời. C̣n về hoàng thân, chỉ có Thanh nguyên hầu Lê Duy Thiều, áng sơn hầu Lê Duy Phục, mà cũng đều là những kẻ tầm thường. Xem chừng không c̣n ra triều đ́nh nữa. Về hàng quan văn, chỉ c̣n hai người là Lê Duy Tân và Lê Duy Chiểu th́ lại đều là những kẻ lêu lổng ở Trường An, v́ cùng khốn quá không cần phải trốn, mới vào nương nhờ trong nội điện, rồi nhân có Thanh nguyên hầu tiến dẫn, nên được hoàng thượng dùng để coi về việc giấy má. Đối với hai người này, bụng Chỉnh cũng đều không ưa. Chỉnh tự nghĩ: "Gần đây, những triều thần có tham dự chính sự và hàng ngày ḿnh cũng đă biết, th́ chỉ có Tứ xuyên hầu Phan Lê Phiên, Kiến xuyên hầu Trương Đăng Quĩ, Thao đường hầu Uông Sĩ Lăng (c̣n có tên là Uông Sĩ Điển), Luyện đường hầu Trần Công Thước, Thiêm sai Nhữ Công Điền, Hoàn quận công Nguyễn Hoàn, cả thảy sáu người". Chỉnh bèn tâu xin hoàng thượng ban sắc gọi đến. Hoàng thượng lập tức cho đi vời ngay mấy người ấy vào triều.

 

Phan Lê Phiên và Nhữ Công Điền bị cách chức, ở nhà đă lâu. Nguyễn Hoàn, Trương Đăng Quĩ, Uông Sĩ Lăng và Trần Công Thước đều ra lánh nạn binh đao ở ngoài thành. Khi có chỉ nhà vua đ̣i, các viên ấy đều vâng mệnh tới kinh, riêng Nhữ Công Điền lấy cớ mắc bệnh điên để từ chối.

 

Uông Sĩ Lăng thấy chiếu vua đ̣i, ngỡ có sự quở trách ǵ, trước khi vào chầu, vội đem chiếc ấn bộ Binh mà Lăng vẫn giữ, nộp cho Chỉnh để xin hàng. Nhưng Chỉnh trả lại ấn và bảo cứ ra. Thế là từ đó, các viên ấy ngày ngày lui tới triều đ́nh để bàn việc nước. Những viên quan khác nghe tin, cũng đều lục tục đến kinh. Hoàng thượng liền truyền cho tất cả các viên quan trong triều đều phải tuỳ công việc mà giao thiệp với B́nh.

 

B́nh tự nghĩ rằng ḿnh ở nước ngoài xa xôi mới đến, chưa am hiểu phong tục tập quán của xứ này; cho nên công việc giao thiệp với các quan trong triều, B́nh đều nhất nhất nghe theo Chỉnh.

 

Một hôm Chỉnh nói với B́nh rằng:

 

- Ngài lấy danh nghĩa tôn pḥ nhất thống mà ra đây thiên hạ ai cũng mong ngóng. Nhưng danh phải đi đôi với thực. Muốn cho nhất thống, th́ những việc quân việc nước đều phải do hoàng thượng quyết định, đó mới là cái thực của sự pḥ tôn. Ngài nên làm cái ǵ cho rơ sự thực ấy đi. Hôm nọ, ngài vào ra mắt hoàng thượng ở điện Vạn Thọ, mới chỉ là việc gặp gỡ riêng, chưa được tỏ rơ với thiên hạ. Nay ngài nên chọn ngày lành, cử hành lễ chầu yết cho thiên hạ đều biết. Như thế mới là việc quang minh chính đại.

 

B́nh lấy làm phải, bèn chọn ngày mùng 7 tháng bảy.

 

Đến ngày, B́nh xin hoàng thượng mở cuộc đại triều ở điện Kính Thiên, các quan đều theo thứ tự đứng hầu. B́nh tự dẫn các tướng sĩ theo cửa Đoan-môn đi vào. Sau khi đă lạy năm lạy và rập đầu vái ba vái, B́nh dâng lên tờ tâu nói về công diệt họ Trịnh, cùng các sổ sách quân, dân để hoàng thượng sai quan coi giữ.

 

Hoàng thượng nhận lễ triều yết xong, truyền đưa tiễn B́nh ra khỏi cửa điện, rồi băi triều.

 

Hôm sau, hoàng thượng sai quan đem tờ chiếu đến tận chỗ đóng quân của B́nh, phong cho B́nh làm nguyên soái phù chính dực vũ, Uy quốc công.

 

B́nh làm lễ bái mạng nhận phong xong, liền sai sứ vào triều tạ ơn, rất là chu đáo.

 

Nhưng sau đó, B́nh bảo riêng với Chỉnh rằng:

 

- Ta đem mấy vạn quân ra đây, chỉ đánh một trận mà dẹp yên được cả thiên hạ. Một thước đất, một người dân của nước Nam, không có cái ǵ không thuộc quyền sở hữu của ta. Ví phỏng ta muốn xưng đế, xưng vương, ǵ mà chẳng được. Sở dĩ ta nhường nhịn không ở những ngôi ấy, là hậu đăi nhà Lê đó thôi! Cái chức nguyên soái, quốc công, với ta có thêm được ǵ đâu? Phải chăng là nước Nam dùng cái danh hăo ấy để lung lạc ta? Nếu ta không nhận th́ e hoàng thượng bảo ta là kiêu căng. Song nhận mà không nói ǵ, th́ người trong nước lại bảo ta là mọi rợ. Nên nhân tiện nói chuyện, th́ ta cũng nói cho rơ mà thôi!

 

Chỉnh biết ư B́nh không bằng ḷng, bèn bịa ra lời riêng của hoàng thượng rồi vờ tiết lộ với B́nh rằng:

 

- Hoàng thượng đă có ư bảo riêng với tôi rằng: nhà vua đơn bạc, không có vật ǵ đáng tặng. Vẫn biết những cái danh tước nhỏ mọn, không đủ làm cho ngài sang thêm. Song v́ tục lệ trong nước vốn chuộng lễ nghĩa, nên cũng gọi là tỏ chút ḷng thành của hoàng thượng kính ngài mà thôi. Bản ư của hoàng thượng vẫn cho rằng ḿnh đă cao tuổi, sợ sau khi ngài về, không thể nương tựa vào ai, nên người muốn nối liền t́nh thân hai họ, để cho hai nước đời đời kết t́nh thông gia giao hảo với nhau. Nhưng v́ chưa hiểu ư ngài thế nào, nên hoàng thượng vẫn c̣n trù trừ chưa dám nói rơ.

 

B́nh đáp:

 

- Xưa nay những kẻ chinh phu xa nhà, t́nh khuê pḥng rất là cần thiết. Hoàng thượng cũng xét đến chỗ ấy kia à? ừ! Em vua nước Tây, làm rể hoàng đế nước Nam, "môn đương hộ đối" như thế, tưởng cũng không mấy người đă có được.

 

Mọi người ngồi quanh B́nh đều cười.

 

B́nh lại tiếp:

 

- Nhưng nói đùa đó thôi! ư nghĩ ấy của hoàng thượng thật là mưu kế già giặn. Người muốn cho hai nước hoà hiếu với nhau đấy mà.

 

Chỉnh biết là B́nh bằng ḷng, bèn vào tâu với hoàng thượng, kể hết đầu đuôi như vậy, rồi lại hỏi xem con cái hoàng thượng hiện c̣n mấy công chúa chưa gả chồng.

 

Nguyên trong số những người con gái đẻ sau của hoàng thượng, c̣n có đến năm, sáu nàng công chúa chưa chồng. Nhưng chỉ riêng có một nàng tên chữ gọi Ngọc Hân, là người có sắc đẹp và nết na hơn cả. Hoàng thượng rất yêu quí Ngọc Hân, thường ngày vẫn nói: "Con bé này ngày sau nên gả làm vương phi, không nên gả cho hạng pḥ mă tầm thường!"

 

Lúc ấy nghe lời Chỉnh nói, hoàng thượng trong bụng cũng ưng, bèn bảo Chỉnh:

 

- Con gái chưa chồng của trẫm c̣n nhiều, nhưng chỉ có ḿnh Ngọc Hân là có chút nhan sắc. Tuy vậy, thói thường yêu con vẫn hay thiên lệch, chưa biết ở mắt người ngoài th́ ra sao. Ngươi hăy ở đây, để trẫm đ̣i cả ra cho mà coi qua, rồi tuỳ người lựa xem người nào xứng đáng th́ giúp cho thành việc đi!

 

Rồi hoàng thượng sai viên quan đứng hầu đi gọi các công chúa. Một lát, tất cả các cô con gái chưa chồng của hoàng thượng đều ra hầu ở trước ngự toạ. Chỉnh liếc nh́n một lượt, rồi nói:

 

- Được rồi! Mối nhân duyên tốt lành này, thần xin làm mối, mười phần chắc xong cả mười.

 

Rồi Chỉnh về nói với B́nh:

 

- Câu chuyện riêng hôm qua tôi nói với ngài, nay tôi đă vào tâu với hoàng thượng, Người vui mừng mà bảo tôi rằng: Nếu đă được ngài bằng ḷng cho như thế, âu cũng là duyên trời run rủi. Hiện hoàng thượng có nàng công chúa thứ chín, tuổi vừa đôi tám, xin cho nương bóng nhà sau, hầu hạ khăn lược, để cho hai nước thành thông gia, đời đời hoà hiếu với nhau.

 

B́nh nói đùa rằng:

 

- V́ dẹp loạn mà ra, để rồi lấy vợ mà về; bọn trẻ nó cười cho th́ sao. Tuy nhiên, ta mới chỉ quen gái Nam Hà, chưa biết con gái Bắc Hà, nay cũng nên thử một chuyến xem có tốt không?

 

Những người cùng ngồi với B́nh đều cười ầm.

 

Chỉnh ra về, B́nh lại nói thêm:

 

- Tôi xin kính lạy dưới bệ hoàng thượng vạn tuế! ở nơi khe núi hẻo lánh xa xôi tới đây, há dám đường đột như vậy? Bây giờ may sao được bám vào cành vàng lá ngọc, thật là một mối duyên kỳ ngộ ngàn năm mới có. Kẻ ở khe núi này xiết bao mừng rỡ.

 

Chỉnh vào điện tâu lại với hoàng thượng. Hoàng thượng bèn gả công chúa Ngọc Hân cho B́nh.

 

B́nh chọn ngày mồng mười tháng ấy, sắp sẵn hai trăm lạng vàng, hai ngàn lạng bạc, hai chục tấm đoạn màu, bày biện gươm giáo cờ quạt; rồi sai viên thị lang bộ H́nh đem các thứ lễ vật đó cùng một tờ tâu vào điện Vạn Thọ.

 

Hoàng thượng cho hoàng tử là Sùng nhượng công ra đó nhận lễ vật, làm lễ cáo ở nhà Thái Miếu, định ngày hôm sau th́ đưa dâu. Rồi hoàng thượng lại truyền cho các hoàng thân, hoàng phi, công chúa và các quan văn vơ, ai nấy đều phải sửa soạn ngựa xe, sớm hôm đó đợi ở cửa điện, để đưa công chúa về phủ của B́nh.

 

Sáng sớm hôm sau, B́nh lại sai quan đem một tờ tâu vào triều, xin cho làm lễ nghênh hôn. Một mặt, B́nh khiến quân lính đứng sắp hàng ở hai bên đường, từ cửa điện đến cửa phủ. Trai gái trong kinh nghe tin, rủ nhau đi xem đông như ngày hội. Ai cũng cho là việc hiếm có xưa nay. Khi xe của công chúa tới cửa phủ, B́nh ngồi kiệu rồng vàng ra đón, hết thảy mọi thứ lễ nghi đều theo đúng như lệ thường ở các nhà. Sau khi công chúa vào cung, B́nh sai đặt tiệc ở bên ngoài để thết các vị hoàng thân, hoàng phi, công chúa và các quan văn vơ đi đưa dâu. Trong tiệc, mọi người đều theo thứ bậc mà ngồi. Tiệc tan, B́nh sắp riêng hai trăm lạng bạc, sai quan ngỏ lời kính tặng các vị nhà gái, và đưa tiễn ra tận cửa phủ. Các quan ra về, lại họp ở nhà công đường bộ Lễ, ai nấy đều khen nhà vua kén được rể tốt, và bảo nhau: "Thế là từ nay nước An-nam ta đă có một nước dâu gia".

 

Công chúa lúc mới về c̣n có vẻ bẽn lẽn e thẹn, nhưng sau rồi cũng quen. Hôm vào làm lễ yết các vị tiên hoàng đế ở nhà Thái Miếu, B́nh và công chúa gióng kiệu cùng đi, lúc lễ xong lại gióng kiệu cùng về.

 

B́nh vốn có tính kiêu căng, chợt hỏi công chúa:

 

- Con trai con gái nhà vua, đă có mấy người được vẻ vang như nàng?

 

Công chúa đáp:

 

- Nhà vua ít lộc, các con trai con gái ai cũng thanh bạch nghèo khó. Chỉ riêng thiếp có duyên, lấy được lệnh công (tiếng gọi tôn trọng, chỉ Nguyễn B́nh), ví như hạt mưa, bụi ngọc bay ở giữa trời được sa vào chốn lâu đài như thế này, là sự may mắn của thiếp mà thôi!

 

B́nh nghe câu ấy, thích thú lắm.

 

Đến ngày 14, bệnh của hoàng thượng đă nguy kịch. B́nh muốn nhân lúc nhà vua đang c̣n sống, xin nhà vua nhận lễ chúc mừng về cuộc nhất thống để trong ngoài đều biết, cho trọn vẹn cái công tôn pḥ của ḿnh. B́nh bèn chọn ngày rằm để đặt lễ đại triều rồi dâng tờ tâu lên xin với hoàng thượng. Đúng ngày, triều đ́nh bày cuộc đại nhạc ở mé đông và mé tây đan tŕ (thềm sơn đỏ nơi cung điện nhà vua) Các lễ quan sắp đặt đồ nghi vệ cực kỳ trang trọng, rồi xin hoàng thượng ra ngự chầu. Sau khi các hoàng tử đă d́u hoàng thượng lên ngự toạ, ngoài điện nổ ba phát súng làm hiệu lệnh, trăm quan đều lần lượt làm lễ mừng. Lễ xong, hoàng thượng ban tờ chiếu nói về việc nhất thống sai đem dán ở ngoài cửa Đại hưng. Thần dân thiên hạ thấy vậy đều khen "phúc, lộc, thọ khảo" (Phúc là điều tốt lành, lộc là của cải, thọ khảo là sống lâu) của hoàng thượng thế là hoàn toàn tốt đẹp.

 

Sau ngày lễ ấy, bệnh của hoàng thượng càng nguy hơn, đă gần hấp hối. Công chúa mời B́nh vào thăm, B́nh nói:

 

- Nay tôi với hoàng thượng, nghĩa như cha con. Tôi thành thật muốn kịp thời vào thăm khi hoàng thượng c̣n sống, để chiêm ngưỡng mặt rồng, cho tỏ tấm ḷng lưu luyến. Song, tôi mới từ xa tới đây, người trong nước chưa chắc đă tin hết cả. Hôm qua hoàng thượng ra ngự chầu, ai biết thánh thể mang bệnh? Nếu như tôi vào thăm lại chẳng may đúng lúc Người về chầu giời, há chẳng khiến cho tôi mang tiếng muôn đời với thiên hạ ư? Chi bằng, nàng cứ về thăm hoàng thượng và nói rơ với các anh em như thế, để ai nấy đều hiểu ḷng tôi.

 

Công chúa Ngọc Hân bèn từ biệt B́nh về cung thăm vua cha.

 

Đêm đó, hoàng thượng tinh thần tỉnh táo, bèn cho đ̣i hoàng tự tôn vào, dặn ḍ các công việc lớn lao của nhà nước, lại cho đ̣i công chúa Ngọc Hân vào để dạy bảo về đạo làm vợ. Trối trăng với con gái xong đâu vào đấy, đúng giờ măo ngày 17, hoàng thượng băng ở điện chính tẩm. Bấy giờ hoàng thượng thọ 70 tuổi, ở ngôi vua được 47 năm.

 

Nhà vua râu rồng, mũi cao, tóc hạc, mắt phượng, đi nhẹ như nước, ngồi vững như non; tính nết hiền từ, giản dị. Khi c̣n làm hoàng tử, v́ việc ông hoàng Lê Duy Mật chống lại họ Trịnh, nên nhà vua bị chúa Trịnh nghi ngờ, đem giam vào nhà viên nội thị Hồng quận công. Đến năm Canh thân (1740) Nghị tổ (tức Trịnh Doanh) lên làm chúa, quận Hồng ra trấn Sơn Nam, chúa liền chuyển nhà vua đến giam ở nhà cậu ḿnh là Bính quận công (Vũ Tất Thận, cậu ruột Trịnh Doanh, em thái phi Vũ thị). Khi chưa có lệnh ấy của chúa, một đêm quận Bính bỗng mơ thấy thiên tử tới nhà, cờ quạt phấp phới, nhă nhạc vang lừng, rơ ra cảnh tượng của đời thái b́nh. Sớm hôm sau liền thấy quận Hồng cho giải hoàng tử đến giam ở nhà ḿnh, quận Bính hết sức ngạc nhiên, nghĩ rằng giấc mộng lúc ban đêm không phải là chuyện t́nh cờ, bèn vào kể lại với chúa. Bấy giờ bốn phương đang loạn lạc, thế nước ngả nghiêng, chúa thấy điềm lành ấy, muốn nhờ vào phúc đức của nhà vua để dẹp cho yên thiên hạ, liền cho đón về, lập nên ngôi và đặt niên hiệu là Cảnh-hưng.

 

Sau khi nhà vua lên ngôi, bốn phương dần dần dẹp xong, thiên hạ lại b́nh yên. Chúa biết phúc của nhà vua rất lớn, nên càng hết sức tôn kính. Nhà vua cũng nhă nhặn, khiêm tốn, tin cậy vào chúa. Thỉnh thoảng chúa lại dâng tiến thức nọ thức kia, v́ thế sự chi dùng của nhà vua cũng được thừa thăi.

 

Lúc nhà vua ở ngôi, chẳng qua chỉ rủ áo khoanh tay, t́m tṛ mua vui chứ không có việc ǵ phải lo. Nhà vua lại giỏi về các kỹ nghệ lặt vặt. Bao nhiêu cung điệu Nhạc phủ, nhà vua đều chế ra bài mới, âm thanh cực kỳ du dương, trong sáng. Thường khi nhà vua lại c̣n theo tranh Tam quốc, sai các cung nữ mặc áo trận, cầm giáo mác, chia thế trận ba nước Nguỵ, Ngô, Thục, rồi dạy họ các cách ngồi, đứng, đâm, đỡ, để mua vui trong lúc thư nhàn.

 

Những năm tuổi già, nhà vua bị Thánh tổ Trịnh Sâm đè nén đủ đường, người khác hẳn phải tức giận không thể chịu nổi, nhưng nhà vua vẫn vui đùa như thường. Những người gần gũi nhà vua thấy vậy đều can ngăn. Nhà vua liền đáp rằng:

 

- Các ngươi mới chỉ biết một mà chưa biết hai. Nhà vua đối với nhà chúa, hiện nay đang ở vào cái thế bị ngờ vực; nếu trẫm lấy việc mất quyền làm tức giận, th́ nhà chúa ắt phải ngấm ngầm tính việc chẳng hay. V́ vậy, trẫm phải mượn hứng vui chơi như thường để tránh tai vạ đó thôi!

 

Có lần, nhà vua lại nói với các cung nữ rằng:

 

- Trong đời ta, thế nào cũng có phen được trông thấy cuộc nhất thống, nhưng đó chẳng phải là điều mà ta vui mừng.

 

Các cung nữ hỏi lại:

 

- Nhà chúa chèn ép như vậy, nếu chúa bại là may cho nhà vua, cớ sao bệ hạ lại không vui mừng?

 

Nhà vua đáp:

 

- Trời sai nhà chúa pḥ ta. Chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui. Mất chúa, tức là cái lo lại về ta, ta c̣n vui ǵ?

 

Khi Đoan nam vương Trịnh Tông mới lên làm chúa, bọn kiêu binh có lần đă nghĩ đến cái mưu tôn pḥ nhất thống và lén đến xin ư kiến nhà vua. Những người xung quanh cũng đă khuyên nhà vua nên nghe theo mưu ấy. Nhưng nhà vua nói:

 

- Ta v́ thành thật nghe theo trời nên mới được như thế này. Những chuyện do ở mưu người xếp đặt, ta quyết không làm. Nếu kẻ nào c̣n dám nói đến chuyện đó, trẫm sẽ lôi sang cho chúa, để theo phép mà làm tội.

 

V́ thế, mưu ấy mới thôi.

 

Đến hồi này, thấy B́nh làm việc tôn pḥ, nhà vua bề ngoài tuy mừng nhưng bề trong th́ lại lo. Những việc giao thiệp, tiếp đăi đều là bất đắc dĩ.

 

Kịp đến khi bệnh nặng, nhà vua bảo với hoàng tự tôn rằng:

 

- Ta chỉ sớm tối là được trút hết gánh nặng, cái lo sẽ dồn cả vào thân mày, mày phải nghĩ tới điều đó!

 

Lúc sắp băng, nhà vua lại trối thêm:

 

- Sau khi ta nhắm mắt, việc nối ngôi là việc trọng đại, chuyện ǵ cũng phải bẩm qua với ông ấy, không được khinh suất.

 

Nói xong, nhà vua băng. Hoàng tự tôn bèn lên nối ngôi vua.

 

Trước đó, lúc công chúa Ngọc Hân mới về với B́nh, B́nh đă hỏi công chúa về đức tính của các vị hoàng tử. Người nào thế nào, công chúa cũng đều kể thật với B́nh. Khi B́nh hỏi đến nhân phẩm của hoàng tự tôn như thế nào, công chúa chưa thoát khỏi thói thường của người đàn bà, nghĩ bụng anh thân hơn cháu, lại sợ hoàng tự tôn sẽ cướp mất ngôi của Sùng nhượng công, bèn đáp:

 

- Nhân phẩm của hoàng tự tôn cũng tầm thường thôi!

 

Do đó, B́nh có ư không thích hoàng tự tôn.

 

Đến khi bệnh của hoàng thượng đă tới lúc hấp hối, triều đ́nh bàn nhau lập hoàng tự tôn, và sai người ra nói với B́nh. B́nh không nghe. Sứ giả quay về nói lại ư B́nh, cả triều bàn bạc phân vân, chưa biết quyết định ra sao. Th́nh ĺnh trong bọn có một người lớn tiếng nói rằng:

 

- Tự tôn không được làm vua, thiên hạ ắt loạn. Họ Lê sẽ mất, ấy là lỗi tại công chúa Ngọc Hân. Công chúa thực đă làm hại đến việc lớn của xă tắc, hăy xoá tên trong sổ họ đi, để cho công chúa về nước Tây Sơn mà yên hưởng giàu sang, họ ta chẳng thiếu ǵ một con người ấy!

 

Triều đ́nh nh́n xem ai, th́ té ra là hoàng thân Vượng quận công.

 

Công chúa sợ hăi, bèn về phủ xin với B́nh. Bấy giờ B́nh mới bằng ḷng. Sau khi hoàng thượng băng, trăm quan bèn pḥ tự tôn lên ngôi.

 

Hôm ấy, B́nh ở trong phủ, nghe tin hoàng thượng băng, liền sai lính thị vệ sắp sửa đồ nghi vệ, xe kiệu, để chờ khi hoàng tự tôn được lập rồi, nếu có ai bên họ nhà vua lại tŕnh và mời sang lo việc tang, th́ B́nh sẽ sàng đi ngay. Nhưng hoàng tự tôn không hiểu ư đó, nên sợ phiền chẳng dám mời, măi đến lúc khâm liệm xong xuôi và cho vào quan tài rồi, mới bẩm với B́nh.

 

B́nh giận v́ không được mời trước, cho là hoàng tự tôn coi ḿnh như người ngoài, bèn sai ngay người vào triều bắt phải hoăn lễ đăng cực (lễ lên ngôi vua), có ư muốn lập người khác. Sứ giả đến nơi th́ lễ đăng cực đă xong, triều đ́nh đem cái việc đă rồi ấy báo lại với B́nh. B́nh càng tức liền đ̣i công chúa về phủ, rồi mắng rằng:

 

- Tiên đế là vua chung của thiên hạ, không phải là vua riêng của hoàng tộc. Ta thương mến tiên đế, hôm qua v́ tránh sự hiềm nghi không dám vào thăm; hôm nay muốn kịp lúc chưa khâm liệm, tới nơi để được thấy mặt ngọc, cho trọn cái t́nh bố vợ con rể; song tự dưng ta đến, e rằng không phải phép. Sao hoàng tộc lại gạt ta ra ngoài, không thèm mời? Nếu không có ta, thử hỏi: Triều đ́nh sẽ thành cái ǵ? Chính sự sẽ ra cái ǵ? Cớ sao lại dám sơ suất như vậy? Ta thử bỏ đây mà đi, xem hoàng tộc làm ăn ra sao?

 

Rồi B́nh lập tức truyền lệnh cho các quân thuỷ, bộ sửa soạn hành trang, để sớm hôm sau rút quân về nước.

 

Công chúa khóc lóc xin B́nh ở lại, một mặt ngầm sai người tỏ bày ư kiến với tự hoàng. Tự hoàng vội cho người ra phủ tạ lỗi và xin B́nh ở lại. Bấy giờ, B́nh mới thôi việc rút quân.

 

Đến ngày làm lễ thành phục, tự hoàng sai quan mời B́nh vào tế.

 

B́nh mặc đồ tang, đứng ở trên điện tế, coi xét lễ nghi hết sức chu đáo. Lúc đang tế, có viên tả phiên lại hơi có vẻ cười, B́nh sai lôi ngay ra chém. Đại khái đối với việc tang lễ, B́nh hết sức kính cẩn như vậy.

 

Bấy giờ, B́nh đă ngấm ngầm có ư định muốn về, bèn nói với các quan trong triều rằng:

 

- Tôi vâng mệnh vua anh đem quân ra ngoài cơi, đi hay ở không có kỳ hạn nhất định. Tôi v́ nghĩa tôn phù mà tới đây, may mắn đă làm xong việc. Nay tôi là chàng rể, muốn ở cho hết đạo hiếu với bố vợ. Làm cho xong sớm việc tang tế kịp khi tôi chưa rút về, để cho trung hiếu vẹn cả hai bề, đó là ước muốn của tôi vậy.

 

Các quan đều nói:

 

- Chúng tôi xin vâng mệnh!

 

Rồi họ liền chọn ngày để đưa tử cung xuống thuyền.

 

C̣n B́nh th́ suốt ngày đêm sắm sửa cho lễ táng, các đồ tế lễ tuy đơn sơ, giản dị, nhưng lễ nghi th́ đều đầy đủ không thiếu sót ǵ.

 

Đến ngày đưa đám, B́nh tự cưỡi voi, đem ba ngàn quân, hộ tống tử cung đến bến đ̣, rồi chờ cho lễ rước tử cung xuống thuyền xong xuôi đâu đấy, mới quay trở lại.

 

Lúc công chúa Ngọc Hân về phủ, B́nh nhơn nhơn ra vẻ tự đắc mà rằng:

 

- Tiên đế có hơn ba mươi người con trai, ngày nay báo hiếu lại chỉ ở một người con gái, nào có ai giúp đỡ cho được mảy may? Người xưa thường bảo "Con gái làm rạng rỡ cho nhà cửa", quả cũng đúng thật!

 

Công chúa cảm tạ và nói:

 

- Nhờ công đức của thượng công, thiếp được báo hiếu với hoàng khảo, mở mặt với anh chị em. Tục ngữ vẫn nói: "Trai không ăn mày vợ, gái phải ăn mày chồng", chính là như thế đó!

 

B́nh nghe nói, thích lắm. Chợt có tin báo vua Tây Sơn sắp ra. B́nh vội sai Chỉnh cho dán yết thị khắp kinh thành, nói là: "Thiên vương tuần du ra Bắc để xem xét phong tục, khoảng mười ngày nữa sẽ tới. Vậy bố cáo cho cả trong ngoài đều biết". Một mặt, B́nh sai người tâu với tự hoàng, xin cho văn vơ trăm quan ra ngoài cửa ô đón tiếp.

 

Ngày mồng năm tháng Tám, vua Tây Sơn đến kinh thành (ở một bản khác, thấy có thêm một đoạn như sau: "Hoàng thượng thân hành ra đón ở cửa Nam-giao và sai quan khâm mạng đứng ở bên đường, sau đó ngỏ lời chào mừng, rồi đi về. Chúa Tây Sơn sai người đáp lại, rồi truyền đánh xe vào thành").

 

Vua Tây Sơn chẳng quản muôn dặm đường xa tới đây, mà coi bộ lại hết sức hối hả, vội vă; mọi người đều không hiểu duyên cớ làm sao?

 

Thật là:

Cá ḱnh vượt biển giương vây nhảy,

Cọp dữ ĺa rừng mượn cánh bay.

 

Chưa biết vua Tây Sơn đến về việc ǵ? Xin xem hồi sau phân giải.

 

        

Hoàng Lê nhất thống chí

Ngô gia văn phái

 

Hồi thứ sáu (phần 1)

 

Chúa Tây Sơn lẻn rút quân về nước

Quân Đông Giang mưu khởi nghĩa pḥ vương.

 

Lại nói, khi Thuận Hoá mới vỡ, vua Tây Sơn nhận được thư báo tin thắng trận của B́nh. Đại ư bức thư viết như sau: "Lũ thần vâng theo mưu mô của miếu đường, lại kính nhờ về oai trời thiêng liêng, Thuận Hoá, đă dẹp yên, thiên hạ đều rung động. Nay ở Bắc Hà quân kiêu tướng lười, thế có thể lấy được. Thần cúi xin mạn phép tuỳ tiện, đă uỷ cho hữu quân Nguyễn Chỉnh đem tiền bộ thuỷ binh đi trước, thẳng tới Sơn Nam. Riêng thần hiện đang chiêu mộ nhân dân các vùng ven biển, chọn lấy đinh tráng để tăng thêm thế lực cho quân ta. Hẹn trong ít ngày sẽ dẹp yên xứ Bắc Hà. C̣n quan ải, thành quách xứ Thuận Hoá, hiện đă giao cho Đông định công (tức Nguyễn Lữ, em thứ ba của Nguyễn Nhạc) coi giữ. Vậy xin bề trên ban cho chiếu chỉ để thần tuân theo".

 

Vua Tây Sơn xem thư, mừng rằng việc đă thành công, nhưng lại ghét cái chỗ tự chuyện của B́nh. Vả lại, vua Tây Sơn vốn đă biết B́nh là người khôn ngoan, giảo quyệt, sợ B́nh lấy được Bắc Hà, lúc trở về ắt sinh ra kiêu căng, khó kiềm chế. Vua Tây Sơn lại c̣n nghĩ rằng: "Nhà ḿnh đời đời vẫn ở Nam Hà, được xứ Thuận Hoá là nơi bờ cơi cũ, đủ rồi; không cần lấy thêm một nước lớn nữa làm ǵ. Ví dụ có lấy được, chưa chắc đă giữ được, vạn nhất vấp ngă một cái, th́ sự tai hại không phải là nhỏ". Do đó, vua Tây Sơn liền sai người hoả tốc mang thư ra ngăn B́nh. Nhưng khi người đưa thư tới nơi, th́ B́nh đă thân hành đem đại quân, thuận theo gió nồm trẩy ra Bắc rồi. Tiếp được tin này, vua Tây Sơn càng không hài ḷng.

 

Qua ngày hai mươi sáu tháng sáu khi kinh sư bị vỡ, B́nh lại gửi thư báo tin thắng trận về Tây Sơn. Trong thư đại khái nói rằng: "Trước đây thần vâng mệnh cho phép tuỳ tiện đem quân ra dẹp Bắc Hà, trông nhờ vào oai danh của vương huynh, chỉ đánh một trận mà thắng. Nay nhà Trịnh đă diệt, thiên hạ thu về một mối, thần thể theo ḷng ước muốn của người trong nước, pḥ lập nhà Lê, cho họ yên ḷng. Bây giờ trong nước mới tạm yên, thần xin để cho quân lính được nghỉ ngơi, tạm đóng tại kinh đô nước họ, để vỗ yên dân chúng và cắt đặt mọi việc cho đâu vào đấy. Chờ đến dịp thu đông thuận gió, thần lại xin kính cẩn đem quân về nước".

 

Bức thư đến Tây Sơn vào ngày mười bốn tháng bảy. Vua Tây Sơn tiếp được thư, hết sức lo ngại, nghĩ bụng: "B́nh luôn luôn lập được chiến công, đă làm cho hắn thêm kiêu ngạo. Huống hồ trong tay hắn lại nắm giữ đạo quân lớn, chuyên chế ở ngoài muôn dặm. Rồi Vơ Văn Nhậm, Nguyễn Hữu Chỉnh, những viên tướng dũng mănh, mưu trí lại đều thuộc quyền sai khiến của hắn. Nếu cứ buông lỏng cho hắn bay nhảy ở ngoài, lâu dần ắt phải sinh ra những việc không hay. Nhưng khí thế của hắn như thế, không thể dùng một lá thư mà gọi về được. Nếu ḿnh không thân hành ra Bắc, bắt hắn phải về, ấy là thả hùm ra khỏi cũi, không bao giờ c̣n có thể nuôi dạy được nữa vậy. Thế rồi, luôn trong bữa đó, vua Tây Sơn tự đem năm trăm tên lính thị vệ ra thẳng Phú Xuân. Tới nơi, lại lấy thêm hơn hai ngàn quân Phú Xuân đi gấp ra kinh sư. Đoàn quân tất tưởi kéo đi, dáng dấp tiều tuỵ, người ta không c̣n nhận ra đó là đám quan quân nào nữa.

 

Lúc vua Tây Sơn tới cửa biển Hội Thống ở trấn Nghệ An, có người dân quê đem ít đồ biển xin ra mắt, nói rằng:

 

- Chúng tôi thấy quan lớn đi qua, nhân có chút quà mọn, gọi là tỏ tấc ḷng thành kính.

 

Vua Tây Sơn tính vốn thật thà, không quen ăn nói văn hoa, thấy vậy, liền đáp:

 

- Tôi không phải là quan lớn, tôi là họ ngoại của chúa Nam Hà (Chúa Nam Hà chỉ vào họ Nguyễn, v́ Nhạc gả con gái cho thế tử Dương của chúa Nguyễn, nên tự xưng là họ ngoại), vẫn quen gọi là biện Nhạc ấy mà! Các người hậu t́nh, thấy tôi đi xa, lương khô, ăn nhạt, mà đem cho những món ngon lành thế này, cám ơn lắm, cám ơn lắm!

 

Rồi lại hối hả đi luôn.

 

Th́nh ĺnh thấy một bọn chừng vài chục người, kẻ nào cũng lưng đóng khố, tay cầm đ̣n ống, ḿnh trần trùng trục đứng ở ven đường. Chờ cho vua Tây Sơn đi qua, bọn đó liền kêu lớn lên rằng:

 

- Chúng tôi về Nam, bị Chưởng Tiến (một lục lâm hảo hán ở Nghệ An hồi ấy) đ̣i tiền măi lộ, lấy hết của cải rồi.

 

Vua Tây Sơn hỏi:

 

- Nó đâu?

 

Bọn đó đáp:

 

- Nó lấy được của xong, vội vàng chạy vào trong dăy núi kia!

 

Vua Tây Sơn liền sai một tốp lính đuổi bắt. Vừa đến một chỗ núi hiểm, mấy chục người đó đều rút dao kiếm trong đ̣n ống ra và reo lên:

 

- Chúng bay đă biết bọn tao hay chưa; bọn tao đều là các bậc đàn anh trong đám thủ hạ của Chưởng Tiến. Hôm nay đến để chặt cái đầu của lũ "lông đỏ" (không hiểu sao lại gọi Tây Sơn là "lông đỏ" (hồng mao), chưa tra cứu ra. Trong Đại nam quốc sử diễn ca thấy có câu tả cách ăn mặc của quân Tây Sơn như sau: "Quân dung đâu mới lạ nhường; Măo mao áo đỏ chật đường kéo ra". Có lẽ tác giả đă căn cứ vào cách ăn mặc đó (mũ lông áo đỏ) mà gọi Tây Sơn là "hồng mao" chăng?) chúng bay đây.

 

Vừa reo họ vừa xông vào đâm chém, dao kiếm vung lên tua tủa, quân Nam bị đánh bất ngờ, thua chạy liểng xiểng.

 

Vua Tây Sơn cả sợ, từ đó, trên đường hành quân không dám vào ngủ trong nhà dân nữa; tối đâu giăng màn ra giữa đồng ruộng ở đó mà ngủ, c̣n các quân sĩ th́ đều ngủ ngoài trời.

 

Bởi lẽ đó, khi tới kinh sư, cả đoàn quân chỉ c̣n là một lũ nửa người nửa ngợm, mặt mũi hốc hác, coi không ra bộ quân của vua chúa nữa.

 

Thấy vậy, thiên hạ đều đồn đại lung tung. Kẻ th́ bảo thành Tây Sơn đă bị nhà Nguyễn phá vỡ, vua Tây Sơn v́ không giữ được nữa nên phải chuồn ra đây. Người th́ nói B́nh dùng mưu chước gian dối, mượn một kẻ khác giả làm vua anh để thêm thanh thế cho ḿnh. Hào kiệt thiên hạ và những kẻ coi giữ châu quận ngầm nuôi binh mă, đều muốn ḍ xem thực hư thế nào, để t́m cách bắt lấy; nhưng rốt cuộc cũng không ai biết rơ t́nh h́nh.

 

Lúc vua Tây Sơn mới đến kinh, B́nh ra tận ngoài ô đón tiếp và tạ cái tội tự chuyên của ḿnh. Vua Tây Sơn nói:

 

- Tướng ở bên ngoài, nếu gặp việc có ích lợi cho nước nhà th́ cứ tự ư mà làm cũng được. Bắc Hà có thể lấy, mà ông lấy ngay được, đó là chỗ thần diệu trong phép dùng binh. Vả lại, ông trèo đèo lội suối đi hàng muôn dặm để mở mang bờ cơi cho đất nước rộng thêm; thủ đoạn anh hùng như vậy, anh thực không thể nào sánh kịp. Nhưng mà, ḿnh đi đánh nước khác, kéo quân vào sâu trong xứ sở của người ta, một chốc làm thay đổi hết nền nếp cũ của họ như thế; tránh sao khỏi sự thù oán của muôn họ. Anh luôn luôn lo ngại đến những việc bất ngờ có thể xảy ra, v́ vậy phải lật đật ra ngay đây để nghĩ kế đỡ ông.

 

Rồi hai anh em cùng gióng ngựa đi vào thành.

 

Tới phủ, B́nh dắt công chúa Ngọc Hân ra chào và nói hết cả sự thật với anh. Vua Tây Sơn khen:

 

- Chà, em vua Tây Sơn làm rể vua nước Nam, "môn đương hộ đối" mối nhân duyên đẹp thật!

 

Rồi lại bảo công chúa rằng:

 

- Người quí giá như thế này, thực không hổ là cô em dâu của nhà ta.

 

Hai người ôn tồn tṛ chuyện thân mật như anh em nhà thường dân vậy.

 

Hồi lâu, công chúa cáo từ lui ra. B́nh sai quây màn ở cung chính tẩm, mời anh vào nghỉ; c̣n tự ḿnh th́ chuyển ra ngủ ở gác Kỳ-lân.

 

Quân lính của B́nh đem đi trước đây, các đội ngũ đều đă thay đổi một lượt. Đến lúc này, B́nh đem binh phù nộp cả cho anh. Vua Tây Sơn nắm được binh quyền trong tay rồi, bèn bố trí lại đội ngũ y như cũ, c̣n sự thay đổi mới đây của B́nh th́ vờ như không hay biết ǵ cả. Thế là từ đó, bao nhiêu tướng sĩ lại đều chỉ nghe theo mệnh lệnh của "ông vua lớn".

 

Được ít bữa, vua Tây Sơn liền bí mật cùng với B́nh bàn chuyện rút về. B́nh đành phải vâng theo. Các tướng tá chỉ riêng có Vơ Văn Nhậm được biết việc kín này, c̣n Chỉnh th́ không được dự nghe.

 

Lại nói, lúc mới tới kinh, Chỉnh và Nhậm đều đóng ở lầu Ngũ-long. Nhậm đóng trước lầu, Chỉnh đóng sau lầu.

 

Chỉnh vốn là người bản quốc, nhiều kẻ quen thuộc, nên người trong nước chỉ biết có Chỉnh. Quan lại, dân chúng, ai đến ra mắt đều vào cửa Chỉnh. Sau lầu thường đông như chợ; mà trước lầu nơi Nhậm ở th́ chẳng có lấy một ma nào lui tới. Việc ấy làm cho Nhậm có vẻ không thích. Thấy vậy, Chỉnh phải sai một tên thư lại mới vào làm việc, ngày ngày ngồi chực ở cửa Nhậm để mời khách đến chỗ Nhậm, nhưng khách vẫn không đến, Chỉnh bất đắc dĩ lại phải xoay cách khác. Hễ khách nào tới thăm Chỉnh, sau khi đă thù tiếp xong. Chỉnh lại sai đưa người khách kèm theo đồ lễ đến cửa Nhậm. Nhưng rốt cuộc Nhậm vẫn không bằng ḷng. Chỉnh bèn dời chỗ ở sang chùa Tiên Tích (ở xóm Nam Ngư, huyện Thọ Xương. Nay là đường Nam Bộ, Hà Nội).

 

Sau chuyện này, Nhậm bèn đem những lời gièm pha Chỉnh mà nói với B́nh rằng:

 

- Hắn là một kẻ bầy tôi đi trốn, chạy về với ḿnh, muốn mượn sức của ḿnh trả thù cho thầy, để hả cái ḷng căm tức với nước cũ. Nay ḿnh rong ruổi hàng muôn dặm, đưa hắn về nước, vẽ mày vẽ mặt cho hắn. Thế mà khi hắn đă đạt được chí nguyện, những người trong nước vào hùa với hắn, có kẻ lại đem hai câu đối: "Hổ tự Tây Sơn xuất, Long ṭng Đông-hải lai" (hổ từ non Tây ra; rồng ở biển Đông lại) ở tháp chùa Thiên Mụ của nhà Nguyễn, để bảo ông là hổ, hắn là rồng. ư nói: "Hổ ĺa khỏi núi th́ thất thế, rồng ra khỏi biển vẫn vẫy vùng". Thế là chẳng những hắn không chịu để ḿnh dùng, mà lại c̣n có chí ngang tàng nữa. Bây giờ ḿnh giam mấy vạn người ngồi ăn không ở đây, để giúp cho hắn gây nên thế lực, nghĩ cũng khờ dại quá! Tôi nghe người trong nước này oán hắn rất sâu sắc, sở dĩ họ chưa nổi dậy là v́ c̣n sợ ḿnh đó thôi. Nếu ḿnh bỏ hắn mà về, người nước này hẳn sẽ tranh nhau nhai thịt hắn. Và hắn thường nói: "Nhân tài Bắc Hà chỉ có ḿnh hắn". Để cho hắn chết, ḿnh lấy Bắc Hà sẽ càng yên ổn.

 

B́nh tin lời Nhậm, nên từ đó đối với Chỉnh tuy ngoài mặt vẫn như thường, nhưng trong ḷng th́ rất ngờ vực.

 

Quân Nam v́ đi xa cũng rất oán Chỉnh, ngày đêm mong cho B́nh giết Chỉnh. Rồi họ biết thế nào B́nh cũng đưa Chỉnh đến chỗ chết, nên họ khinh Chỉnh ra miệng. Một hôm, bọn người trong nước vào hùa với Chỉnh, có kẻ mang binh phù của Chỉnh cấp băng qua khu đất cấm; khi bị quân Nam gạn hỏi, người ấy đáp:

 

- Tôi có binh phù của quan hữu quân cấp cho đây!

 

Quân Nam bèn nói:

 

- Hữu quân là ai? Có phải Hữu Chỉnh không? Được, cứ đợi đấy nửa tháng nữa mà xem hữu quân của các anh!

 

Chỉnh nghe được chuyện đó, bèn sinh ra hai ḷng với B́nh. Vả Chỉnh cũng đă tính toán, biết rằng sớm muộn thế nào rồi B́nh cũng phải đi, ḿnh sẽ không thể ở lại kinh sư một ḿnh được. V́ vậy, Chỉnh ngầm có ư muốn chiếm cứ Nghệ An, bèn mật tâu với hoàng thượng rằng:

 

Thần đem hắn ra, chỉ v́ việc tôn phù. Bây giờ việc đă xong, thần quyết không theo hắn nữa. Chắc thế nào hắn cũng rút về, mà khi hắn đă về rồi, th́ trấn Nghệ An tức là một bức phên giậu ở bên cạnh giống sài lang. Vậy xin bệ hạ cho thần vào đấy trấn thủ, một mặt Nam Hà thần xin đương cả!

 

Kịp đến khi nghe tin vua Tây Sơn ra. Chỉnh lại đoán là vua Tây Sơn sẽ cướp ngôi của hoàng thượng và chiếm cứ đất nước. Rồi muốn dựa vào vua Tây Sơn để tránh tai vạ, Chỉnh bèn khuyên hoàng thượng nên sắp sẵn ngọc tỷ mà ra hàng, lại giục các quan trong triều thảo gấp một tờ biểu xin hàng. Triều đ́nh bàn bạc mấy ngày liền chưa quyết không ai dám hạ bút trước. Lúc vua Tây Sơn tới nơi hoàng thượng thân hành ra đón ở cửa ô phía Nam. Ngài đứng ở trong cửa ô, sai hoàng thân là Thanh nguyên hầu quỳ ở mé bên trái đường đi, để chào và nói thay hoàng thượng. Vua Tây Sơn khi qua cửa ô không đáp lễ, cứ giục ngựa đi thẳng và cho một người quay lại nói rằng:

 

- Quả quân thấy nhà vua lễ độ quá, sợ rằng nếu xa giá ở lại chậm trễ, hoặc giả làm phiền cho quư thể phải quỳ lạy mệt nhọc, rồi quả quân lại mang tiếng là thất lễ. Bởi thế, quả quân phải vội vă đi ngay. Xin ngự giá hăy cứ về cung, ngày khác thong thả sẽ cùng gặp nhau.

 

Hoàng thượng thấy vậy, biết vua Tây Sơn c̣n ưu đăi ḿnh, nên khi về cung không bàn đến việc đầu hàng nữa.

 

Hôm sau vua Tây Sơn sai bày ở phủ đường ba chỗ ngồi. Chiếc sập của vau Tây Sơn kê ở chính giữa, bên trái là ghế của hoàng thượng, bên phải là ghế của B́nh. Hai bên có hai hàng giáp sĩ đứng hầu cực kỳ nghiêm chỉnh.

 

Cuộc hội kiến này dùng lễ "hai vua gặp nhau", không ai phải lạy ai. Khi hoàng thượng ngự giá đến cửa phủ, vua Tây Sơn sai viên quan hầu ra đón. Hoàng thượng đi bộ vào trước thềm; vua Tây Sơn đang ngồi vội bước xuống đất và đứng sang bên cạnh sập để tỏ ư kính lễ; rồi sai B́nh xuống dưới thềm đón tiếp và mời hoàng thượng vào ghế. Mọi người đă ngồi yên chỗ, vua Tây Sơn liền hỏi:

 

- Hoàng thượng năm nay xuân thu độ bao nhiêu?

 

Viên quan đi theo đáp thay hoàng thượng, rồi nhân đó nói tiếp rằng:

 

- Quốc quân họ Lê chúng tôi gặp phải họ Trịnh lấn quyền lộng thế, mũ dép đảo lộn đă lâu. May nhờ thánh thượng là bậc chí nhân đại nghĩa, sai tướng ra quân, v́ quốc quân chúng tôi mà chỉnh đốn lại cơ đồ. Hiện nay đất đai cùng dân chúng nước Nam đều là do thánh thượng gây dựng lại. Nếu như thánh thượng muốn thu nhận một vài quận ấp của nước tôi để làm quà khao thưởng quân sĩ, th́ quốc quân chúng tôi xin nhất nhất vâng mệnh.

 

Vua Tây Sơn đáp:

 

- Tôi nghe ngày xưa đức Thái tổ mở mang ra nước Nam Việt, công đức như trời. Tôi tuy ở xa khuất tại miền biển phương Nam, song cũng là đất của đức Thái tổ khai thác. Tôi v́ giận kẻ cường thần hiếp chế nhà vua, nên phải làm việc tôn pḥ. Nếu là đất của họ Trịnh, một tấc tôi cũng không để; c̣n đất của nhà Lê, th́ một tấc tôi cũng không dám lấy. Tôi nghĩ rằng nước ta đây mới dẹp yên, c̣n có nhiều việc cần phải sửa sang, v́ vậy tôi phải ra để giúp đỡ nhà vua. Sau khi bốn phương đă phẳng lặng, anh em tôi lại xin rút về nước. Bây giờ chỉ mong nhà vua chấn chỉnh giường mối triều đ́nh, giữ yên bờ cơi, cùng nước tôi đời đời kết nghĩa láng giềng, như thế là phúc cho cả hai nước vậy.

 

Viên quan theo hầu hoàng thượng lại thay lời mà rằng:

 

- Thánh thượng nghĩ đến công đức của tiên hoàng đế, ra ơn nối lại ḍng dơi, khiến cho cơ đồ của tiên hoàng đế không đến nỗi tuyệt diệt; ơn ấy của thánh thượng thật là vô cùng. Quốc quân chúng tôi và các bề tôi xin đời đời giữ t́nh láng giềng hoà hiếu, không dám sai trái.

 

Vua Tây Sơn sai trà đồng pha trà đệ lên các ghế. Hoàng thượng uống trà xong, ung dung cáo từ ra về.

 

Vua Tây Sơn đứng dậy từ biệt. B́nh tiễn hoàng thượng xuống thềm, vua Tây Sơn đi theo một quăng, rồi né ḿnh bước giật lùi về chỗ, sai viên quan hầu đi hộ vệ hoàng thượng ra khỏi cửa phủ.

 

Hoàng thượng lên kiệu về cung, rồi sai các quan trong triều tới ra mắt vua Tây Sơn. Vua Tây Sơn lần lượt hỏi hết quan chức, họ tên từng người. Các quan trả lời xong, vua Tây Sơn liền nói rằng:

 

- Tôi nghe nói ở nước An Nam, tiến sĩ là quí nhất. Thế các ông có phải là tiến sĩ không? Tôi sẽ nói với nhà vua cho xin may ông đem về để dạy dỗ người trong nước. Vậy các ông có chịu đi theo tôi không?

 

Các viên quan trong triều đều thưa:

 

- Quốc quân chúng tôi bảo sao chúng tôi phải nghe làm vậy. Dẫu rằng sang đông, sang tây, sang nam, sang bắc, đi đâu chúng tôi cũng không dám chối.

 

Vua Tây Sơn lại hỏi:

 

- Các ông lúc mới thấy tôi đột ngột ra đây như thế, có ngờ tôi không?

 

Các viên quan đáp:

 

- Thánh thượng đă sai thượng công ra pḥ lập nhà Lê, việc ấy rơ ràng lắm rồi, lũ chúng tôi đâu c̣n dám ngờ.

 

Vua Tây Sơn nói:

 

- Ai ngờ tôi, kẻ ấy là người ngu! Chúa Trịnh bắt quân đi hàng muôn dặm, cố chiếm lấy đất Thuận Hoá, lấy nước lớn làm hại nước nhỏ, nên mới dẫn đến cái vạ ngày nay. Gương ấy há có xa đâu? Tôi nếu tham đất nước Nam, như vậy là lấy nước nhỏ mà hại nước lớn, c̣n mong lâu bền sao được? Giả sử đời tôi giữ được đi nữa, th́ đến đời con cháu tôi cũng không thể nào giữ nổi. Tôi có ngu ǵ mà lại nuôi cái mầm vạ ấy? Chẳng bao lâu nữa anh em tôi sẽ về, các ông nên giúp rập nhà vua cho yên thiên hạ. Hai nước chúng ta sẽ kết nghĩa láng giềng, giữ vững t́nh hoà hiếu, để cùng hưởng phúc thái b́nh!

 

Các quan đều ca ngợi:

 

- Sách có nói rằng: "Bậc thánh nhân không chăm lo đến việc lập công ở phương xa". Thánh thượng nghĩ tới chỗ đó, thật là vượt quá người thường đến muôn vạn lần. Nhưng quốc quân chúng tôi hiện c̣n trẻ tuổi, nhiều việc chưa quen thạo, lũ chúng tôi lại đều là những kẻ tài hèn; thánh thượng nếu đă giúp cho nước tôi được c̣n, xin hăy tạm lưu lại đây, để vua tôi nước chúng tôi nhờ cậy vào oai linh của thánh thượng. Bao giờ bốn phương đều yên, giường mối đă dựng lại, bấy giờ ngự giá hăy về cũng chưa muộn.

 

Vua Tây Sơn nói:

 

- Có về cũng c̣n hàng năm hàng tháng, há phải đâu là chuyện ngày một ngày hai? Các ông chớ vội lo!

 

Các quan lạy tạ lui ra, rồi cùng bàn riêng với nhau: kẻ th́ cho lời vua Tây Sơn nói là thật, người th́ bảo lời vua Tây Sơn nói là giả; đại để cũng chỉ đoán có hai việc là ông ta đi hay ở lại, mà cứ hư hư thực thực, chẳng ai biết đích xác như thế nào cả.

 

Nhưng người trong nước biết rơ hay không biết rơ, vua Tây Sơn cũng chẳng cần. Chỉ riêng có Nguyễn Hữu Chỉnh là người trong bọn, lại là tay quỷ quyệt, nên vua Tây Sơn mới phải t́m đủ mọi cách để kiềm chế mà thôi.

 

Lúc này, trong bụng vua Tây Sơn rất nôn nóng muốn về, nhưng bề ngoài vẫn tỏ ra vẻ ung dung, thư thái. Sau lễ tiếp kiến, vua Tây Sơn sai Chỉnh chọn ngày tốt, để vào làm lễ ra mắt ở nhà Thái-miếu. Chỉnh xin chờ đến sau tết Trung thu, vua Tây Sơn cũng bằng ḷng. Rồi nhân nói đến chuyện hôn nhân của B́nh, vua Tây Sơn bảo Chỉnh:

 

- Chú hai ra đây, được ngươi làm mối cho cô vợ đẹp; riêng ta lại không ư?

 

Chỉnh thưa:

 

- Chỉ sợ thánh thượng chê gái Bắc Hà quê mùa mà thôi. Nếu như thánh thượng rộng lượng bao dong, th́ sự đó cũng chẳng phải là khó!

 

Vua Tây Sơn cười mà rằng:

 

- Thế th́ ngươi c̣n nợ ta đấy, phải trả mau đi nhé!

 

Chỉnh thấy lời lẽ của vua Tây Sơn có vẻ ung dung thong thả, do đó cũng yên ḷng, bèn xin lui về.

 

Ngày 17 tháng ấy, vua Tây Sơn bí mật hạ lệnh cho tất cả các quân thuỷ, bộ đều phải sửa soạn hành trang nai nịt gọn gàng. Rồi sợ Chỉnh ở ngoài thấy rơ t́nh h́nh sinh nghi, vua Tây Sơn bèn cho đ̣i Chỉnh vào hầu, giữ chân Chỉnh từ sáng đến tối, người ngoài không được vào, tin ngoài không cho tới. V́ thế nên mọi việc xảy ra ở bên ngoài, Chỉnh đều không biết ǵ hết. Đến khuya, vua Tây Sơn mới thả cho Chỉnh ra. Kịp đến khi Chỉnh về nhà, người nhà có kẻ báo cho Chỉnh biết việc vua Tây Sơn sắp về, th́ Chỉnh c̣n nửa tin nửa ngờ nói:

 

- Ta suốt ngày ngồi hầu, chuyện tṛ rất thư thái, làm sao lại có sự lật đật như vậy được?

 

Đến canh hai đêm ấy, vua Tây Sơn cho người vào gơ cửa điện, ngỏ lời từ biệt hoàng thượng, nói là sớm mai rút quân về Nam. Vậy mà Chỉnh cũng vẫn không biết ǵ cả.

 

Trước đó hơn mười ngày, đêm nào ở trại quân Nam cũng nổi chiêng trống vang trời, nhưng sang đến đầu canh hai th́ chỉ c̣n thưa thớt vài tiếng, rồi từ canh ba trở đi th́ lặng như tờ, không c̣n tiếng nào nữa. V́ thế, mỗi hôm cứ vào quăng nửa đêm, người trong kinh lại tưởng là quân Tây Sơn ngầm rút đi rồi; nhưng đến sáng ngày mai th́ lại thấy doanh trại vẫn y nguyên. Từ đó về sau ai cũng cho là thường, không hề để ư. Mà tiếng trống canh cũng không c̣n lấy ǵ làm chuẩn xác nữa.

 

Phép quân Tây Sơn, lệnh cấm ban đêm rất ngặt. Thám tử của Chỉnh mọi đêm đều không được ra ngoài. Đêm ấy, khoảng đầu canh năm, bọn thám tử của Chỉnh liều mạng xông ra đường không kể ǵ lệnh cấm; khi vượt qua mấy điếm canh, vừa đi vừa nghe ngóng th́ thấy tất cả đều vắng lặng không có tiếng người. Chúng đi ṿng đến cửa phủ, ngó khắp bốn phía cũng không thấy có người nào, mà chỉ thấy gáo mẻ nồi vỡ vứt bừa băi trên đường. Chúng vội vàng đi ra bến sông, th́ ở đó chỉ có trời nước mênh mông, hàng trăm vạn lâu thuyền trước đấy, không biết đi đâu hết cả. Lập tức chúng chạy về báo với Chỉnh.

 

Chỉnh được tin ấy, trong bụng cực kỳ hoang mang, tự biết ḿnh đă thất thế, ở lại th́ không dám, mà bỏ đi th́ cũng dở: đường thuỷ không có thuyền, đường bộ không có quân, muốn trốn không có chỗ trốn, không biết nên đi đường nào.

 

Người nhà Chỉnh khi ấy cũng rất sợ hăi. Nhưng Chỉnh trong lúc sống chết nguy cấp như vậy, vẫn c̣n dở giọng bông đùa mà rằng:

 

- Ta đă đi khắp bốn biển chín châu, chẳng lẽ khi trở về xó bếp, lại bị chuột chù gặm chân ư? Không sợ! Không sợ! Ta cứ ở đây xem sao?

 

Bấy giờ bọn người nhà mới hơi vững dạ. Chỉnh bèn bí mật sai người chạy gấp ra bến Cơ Xá t́m thuyền. Tảng sáng, kiếm được một chiếc thuyền buôn. Chỉnh cùng bọn tay chân độ vài chục người đi đến cửa ô Tây Long th́ bị dân chúng ở kinh kỳ từ tứ phía kéo ra đuổi bắt. Chỉnh một ḿnh một đao quay lại đón đánh, mọi người phải chạy tán loạn. Thừa cơ, Chỉnh liền cướp đường chạy xuống bến sông, nhổ neo buông thuyền, thuận ḍng xuôi thẳng ra cửa biển để theo quân Nam. C̣n ngựa xe, khí giới, đồ đạc, của cải của Chỉnh đều bỏ lại ở chùa Tiên-tích, không biết bao nhiêu mà kể.

 

Khi trời sáng rơ, có người đem chuyện đó tâu vơí hoàng thượng, hoàng thượng vẫn không tin. Sau cho người đi tra xét, mới biết là thật, hoàng thượng hết sức kinh ngạc, vội cho đ̣i các quan vào triều hỏi rằng:

 

- Anh em hắn cướp hết của nước ta mà đi, để cái nước rỗng không lại đây cho ta, nếu như có việc nguy cấp th́ lấy ǵ mà chống chế?

 

Các quan ngơ ngác nh́n nhau, chưa biết nên nói thế nào. Chợt viên quan hầu cận tâu rằng:

 

- Hôm qua vâng chỉ truyền sớm nay thiết triều. Bây giờ ngự giá đă cột ngựa rồi, dám xin tâu lại.

 

Hoàng thượng bèn hỏi các quan:

 

- Phiên chầu này hăy thôi chăng?

 

Các quan đều nói:

 

Hoàng thượng ra triều để ban chiếu chỉ đổi niên hiệu, đó là việc lớn, sao lại thôi?

 

Hoàng thượng bèn ra ngự triều, rồi ban tờ sắc công bố việc đổi niên hiệu, lấy năm sau tức năm Đinh mùi (1787) làm năm đầu niên hiệu Chiêu-thống. Trong tờ sắc đó, chỗ nào cũng một rằng nhờ đức vua của quư quốc, hai rằng nhờ thượng công của quư quốc, giọng văn đại để đều là những câu viết trong lúc vua Tây Sơn c̣n ở kinh sư; vả lại, những chỗ kể tội của họ Trịnh cũng hơi nhiều. V́ thế có người bàn rằng: Nay họ đă về rồi, nên đổi lại hết cả đi! Song trong khi vội vàng không làm kịp, nên lại cứ để như cũ không sửa đổi ǵ.

 

Tan chầu, hoàng thượng bảo các quan ở lại triều đường họp thêm để bàn việc.

 

Nguyên hoàng thượng là người anh minh, quả quyết, từ lâu vẫn căm tức về việc bị nhà Trịnh chèn ép. Vả hoàng thượng với Thịnh vương lại có mối thù không đội trời chung (đây chỉ vào việc Trịnh Sâm giết Lê Duy Vỹ, tức là cha Lê Duy Kỳ), nên khi được Tây Sơn ra diệt Trịnh, hoàng thượng rất mừng. Lúc Đoan nam vương chết, hoàng thượng đang c̣n là hoàng tự tôn; tiên đế sai hoàng thượng đem các hoàng tử đến chỗ B́nh ở tỏ lời chúc mừng, hoàng thượng đă nói với B́nh rằng:

 

- Tôi có thù cha chưa trả, nay ông trả thù thay cho tôi, đời tôi không c̣n mong ǵ hơn thế. Nếu thân này có phải chết ở quư quốc, tôi cũng không hề phàn nàn. Huống chi ông c̣n pḥ dựng họ Lê, khiến cho được thờ phụng tôn xă lâu dài, công đức ấy thật không nói sao cho xiết.

 

B́nh đáp:

 

- Đạo trời vẫn hay đền bù. Đấng thái tử xưa bị hại, th́ nay hoàng tự tôn cố nhiên là phải được hưởng phúc thái b́nh, thống nhất.

 

Kịp đến khi tiên đế băng, hoàng thượng lên nối ngôi, liền hăng hái tự gánh lấy việc nhất thống. Lại muốn nhân dịp quân Nam tôn pḥ, tự ḿnh gây lấy uy thế, cho nên trong khi quân Nam chưa về, hoàng thượng đă nuôi ngầm vây cánh. Ngoài việc sai các hoàng thân ai về quê ngoại của nấy, để chiêu tập binh mă pḥng khi dùng đến, hoàng thượng c̣n cho người t́m kiếm các nho sĩ, mời vào giúp việc cho ḿnh. Về mặt quan văn, lúc ấy đă thu dùng được bọn Ngô Vi Quư, Vũ Trinh, Nguyễn Nễ. Hoàng thượng ngày đêm cùng họ trù tính mọi công việc, ngay cả những mưu kế phải dùng đến trong lúc bối rối bất ngờ, cũng được lo toan chu đáo.

 

Bấy giờ, danh tướng trong thiên hạ th́ có Thạc quận công Hoàng Phùng Cơ, Liễn quận công Đinh Tích Nhưỡng. C̣n văn thần mà có binh lực mạnh mẽ th́ có Dương Trọng Tế (c̣n có tên là Trọng Khiêm, người xă Lạc Đạo, huyện Gia Lâm, đỗ tiến sĩ).

 

Hoàng Phùng Cơ từ khi thua trận ở Thuư ái, phải chạy về Sơn Tây, vẫn c̣n nấp náu chưa dám ra.

 

Nhưỡng từ khi bị tan đạo quân ở Sơn Nam, liền về Cẩm Giàng, đem hết cả họ hàng ra chiếm luôn lấy trấn Hải Dương. Trấn này lúc trước chưa bị binh đao, trong thành c̣n có năm vựa thóc công, Nhưỡng bèn đem số thóc ấy ra nuôi quân. Nhờ đó Nhưỡng chiêu mộ được hơn một ngàn dũng sĩ, thanh thế lẫy lừng. Lúc ấy lại có một tên cướp biển là Thiêm Liên, nghe tiếng Nhưỡng cũng đem đồ đảng xin theo, thành ra Nhưỡng có trong tay cả thảy tới vài vạn quân.

 

Hồi Chỉnh mới về kinh sư, đă có viết thư gọi Nhưỡng. Nguyên Nhưỡng với Chỉnh đều là môn hạ của quận Việp, hai người vốn ăn ư với nhau. Nhưng khi viết thư trả lời Chỉnh, th́ Nhưỡng lại kiếm cớ từ chối không đến, Chỉnh cũng chưa có th́ giờ hỏi đến việc ấy. Do đó, Nhưỡng được chuyên giữ một lộ, ngày đêm ra sức luyện tập quân lính.

 

C̣n viên văn thần Dương Trọng Tế th́ vốn không biết việc binh. Nhưng Tế có Dương Vân là con trai người anh ruột, tính rất hung tợn, vẫn thường tụ tập những phường vô loại, hoành hành ở các làng xóm, ai cũng phải khiếp sợ. Lúc quân Nam ra, Vân ngầm cho gọi thợ rèn đến rèn đúc khí giới. B́nh sai người t́m thợ rèn, nhân biết việc đó, bèn cho tróc nă bọn Vân. Vân đóng cổng làng, bắt hết những người của B́nh đem giết đi. Trọng Tế cả sợ, bất đắc dĩ mới phải khởi binh, kéo cờ, chiếm cứ huyện Gia Lâm. Chỉ trong mười ngày, quân của Tế đă lên trên một vạn. Quân tuần tiễn của Tây Sơn sang đánh không hạ nổi.

 

Lúc quân Tây Sơn c̣n ở kinh thành, người trong kinh đồn rằng: hai đạo đông tây đă hợp quân làm một chẳng bao lâu sẽ tới dưới thành. Đến lúc quân Nam lén rút đi, trong thành trống rỗng, các quan bàn nên gọi các hào kiệt vào giữ hoàng thành. Bấy giờ ai có người nào quen biết, đều xin nhà vua ban chỉ đi vời. Trong một ngày, chỉ dụ đưa đi đến hơn mười đạo. Nhưỡng và Tế cũng đều ở trong số những người bị gọi.

 

Hoàng thượng cho rằng Tế là quan văn, nghe mệnh nhà vua tất phải đến ngay; c̣n Nhưỡng là quan vơ, lại có chút tiếng tăm, nếu mời mọc không trịnh trọng, chưa chắc Nhưỡng đă chịu đến. Bởi vậy, hoàng thượng mới sai thảo một tờ sắc, lời lẽ cực kỳ ôn tồn, và trong sắc lại có các lời hứa như "nguyên huân" "đồng hưu", v.v... ("Nguyên huân" là người có công lao cao cả trên hết, "Đồng hưu" là hưởng chung mọi sự tốt lành) Rồi sai người đem sắc đưa cho Nhưỡng.

 

Nhưỡng đọc tờ sắc vừa khóc vừa nói:

 

- Nhà tôi mười tám đời quận công, ơn nước thật cao dày, đội trời đạp đất há dám quên ơn? Nay tôi c̣n có dăm ba người theo, cũng là nhờ về oai đức của nhà vua. Bây giờ đă có chiếu mệnh ra đ̣i, đáng lư tôi phải lập tức đến ngay trước cửa khuyết. Nhưng v́ tôi c̣n đang bận kiểm điểm binh mă, sắm sửa hành trang chưa thể đi được; vậy xin hăy hoăn cho tôi chừng năm ba ngày nữa, tôi sẽ vào triều sau.

 

Đoạn Nhưỡng thảo tờ tâu và sai người theo sứ giả về kinh dâng vua.

 

Lúc Nhưỡng chưa đến kinh, người ở đây đồn rầm lên rằng Nhưỡng đem thuỷ binh đánh úp quân Nam, bắt được không biết bao nhiêu mà kể. Lại có tin nói rằng Nhưỡng đă tóm được Chỉnh, chặt hết chân tay làm h́nh "lợn người", chỉ trong sớm tối sẽ đưa tới kinh. Chợt lại có tin rằng con "lợn người" ấy đă được đưa đến kinh rồi. Thế là người ta tranh nhau đi xem. Một ngày có đến bốn năm lần háo hức, ồn ào lên, và cứ như vậy luôn trong mấy ngày liền.

 

Bởi lẽ đó, hễ ai nghe tên Nhưỡng cũng đều khiếp phục và trông ngóng.

 

Hoàng thượng nhận được tờ tâu của Nhưỡng, thấy lời lẽ chan chứa ḷng trung vua yêu nước, th́ rất mừng, cho rằng Nhưỡng tất là người có thể tin cậy được, nên trong bụng cũng đỡ lo.

 

Lại nói, sau khi họ Trịnh bị diệt, quân Tây Sơn giết chết Đoan nam vương rồi kéo về Nam, những gia đ́nh quan lại cũ và những bầy tôi c̣n sống sót ai nấy đều tiếc cho vương không khéo lẩn núp để đến nỗi bị nạn. Ḷng họ vẫn c̣n chưa tuyệt vọng đối với họ Trịnh.

 

Bấy giờ con đầu ḷng của Đoan nam vương hăy c̣n nhỏ, vương thân Khanh quận công Trịnh Kiều th́ đă già nua; chỉ c̣n có Côn quận công Trịnh Bồng và Thuỵ quận công Trịnh Lệ khi ấy đều khoảng bốn mươi tuổi, là có thể đảm đương được công việc.

 

Côn quận công là con trai Dụ tổ (tức Trịnh Giang), tính nết hiền từ khoan hậu, được nhiều người yêu mến. Cuối đời Thịnh vương, v́ việc con thứ lôi thôi chúa đă muốn cho Thị Huệ nuôi Côn quận công Trịnh Bồng làm con, để nếu bệnh của vương tử Cán không khỏi, th́ sẽ lập Côn quận công làm chúa. Nhưng rốt cuộc ư định ấy vẫn chưa thực hiện được. Đến lúc thế tử Tông lên ngôi, kiêu binh mấy lần muốn pḥ dựng Côn quận công, họ vào tận nhà để thúc ép và đón rước ông ta, khiến ông ta phải lẩn vào phủ chúa kể rơ đầu đuôi với Đoan nam vương, rồi mới dám về nhà.

 

C̣n Thuỵ quận công là con trai Nghị tổ (Trịnh Doanh) là em ruột Thánh tổ (Trịnh Sâm), vốn là người khôn ngoan và thông minh. Lúc Nghị tổ c̣n sống, quận Thuỵ thường vẫn có ư muốn cướp quyền con cả. Đến khi Nghị tổ mất, Thánh tổ lên làm chúa, quận Thuỵ bèn cùng với một người gia thần là Phạm Huy Cơ, tiến sĩ khoa Đinh sửu (1757) mưu toan việc cướp ngôi. Chẳng may bị Dương Trọng Tế phát giác, Thánh tổ lấy t́nh anh em ruột thịt tha tội chết cho quận Thuỵ, và bắt giam vào một nơi. Kịp khi Đoan nam vương lên ngôi, vương nghĩ nể mẹ quận Thuỵ là bà d́ mẫu của ḿnh, liền thả quận Thuỵ ra khỏi ngục. ít lâu sau, gặp lúc bọn kiêu binh oán giận vương, quận Thuỵ lại thừa cơ cùng với bọn này mưu cướp ngôi

của vương. Nhưng việc cũng bị lộ. Mẹ Đoan nam vương v́ lẽ quận Thuỵ là con trai của chị ruột ḿnh, nên phải đứng ra cố xin với vương, vương nể lời mẹ, lại tha cho quận Thuỵ.

 

 

 

Lúc quân Tây Sơn kéo ra, quận Côn chỉ đem theo một con đ̣i, một tên đày tớ, lánh vào huyện Chương Đức, lẩn lút trong đám dân gian làm kế ở ẩn lâu dài. C̣n quận Thuỵ th́ trốn về huyện Văn Giang, cùng với Thần trung hầu (tức Trương Tuân, người xă Như Quỳnh, huyện Văn Giang) ngầm chiêu tập binh mă, ḥng có dịp là sẽ nổi lên.

 

Thần trung hầu là con trai của công chúa Quỳnh Anh, đối với quận Thuỵ và chỗ con cô con cậu. Thần trung hầu đỗ tạo sĩ, đă từng coi cấm quân, lại từng làm trấn thủ trấn Kinh Bắc. Khi nghe tin quân Tây Sơn đă rút, Thần trung hầu bèn dựng cờ viết hai chữ "cần vương", rước quận Thuỵ qua sông, rồi theo bến Thanh Tŕ đi thẳng lên cung Tây-long. Lúc này, quân của Dương Trọng Tế vâng chỉ hoàng thượng từ Gia Lâm vượt sông sang, t́nh cờ chạm trán với quân của quận Thuỵ.

 

Hoàng Lê nhất thống chí

Ngô gia văn phái

 

Hồi thứ sáu (phần 2)

 

Chúa Tây Sơn lẻn rút quân về nước

Quân Đông Giang mưu khởi nghĩa pḥ vương.

 

Nguyên trước kia, Tế mới đỗ tiến sĩ và ra làm quan được ít lâu, th́ đă phải băi chức quan hơn mười năm v́ tội ăn của đút; măi sau nhờ công phát giác việc quận Thuỵ mưu phản, mới được phục chức. Bấy giờ gặp quận Thuỵ, Tế vô cùng sợ hăi, bèn đem quân xin hàng để chuộc lỗi xưa. Quận Thuỵ tức th́ sai luôn Tế và Thần trung hầu đóng quân ở ngoài thành, khua chiêng đánh trống, thanh thế rất là lừng lẫy.

 

Khi ấy, hoàng thượng nghe tin Thần trung hầu đang lảng vảng ở bên ngoài, bèn sai người ra gọi vào. Thần trung hầu vào yết kiến, hoàng thượng liền bảo rằng:

 

- Ngươi là danh tướng con nhà ḍng, nay dấy quân ǵn giữ kinh thành, tấm ḷng trung nghĩa ấy trẫm rất ngợi khen. Vậy ngươi cứ mang quân vào, trẫm sẽ tuỳ việc mà dùng.

 

Thần trung hầu quỳ tâu:

 

- ở trong bốn biển, ai chẳng là tôi nhà vua. Bệ hạ khoanh tay rủ áo không làm việc ǵ, th́ c̣n cần chi binh lính bảo vệ? Duy có nhà chúa chẳng may bị lũ lính mọi làm hại, th́ mới cần kíp phải dùng đến binh lính mà thôi!

 

Nói đoạn, Thần trung hầu lạy tạ đi ra.

 

Hoàng thượng giận, sai quan trấn điện đem quân đuổi chém. Mọi người phải cố sức can ngăn, hoàng thượng mới thôi.

 

Thần trung hầu về nói với Trọng Tế rằng:

 

- Xưa nay nhà chúa truyền ngôi, nối ngôi, có bao giờ phải xin mệnh lệnh nhà vua đâu? Thường thường khi công việc đă làm xong rồi, bấy giờ mới đệ tờ tâu vào triều. Ngay cả những tờ sắc dụ, sách phong, cũng đều do nhà chúa thảo sẵn trước, sau đó đệ lên hoàng thượng ngự lăm qua, rồi đưa trả về phủ chúa để tuyên bố thi hành, thế là thành mệnh (mệnh lệnh của vua làm thành từ trước), cần ǵ phải xin phép nhà vua cho thêm rắc rối?

 

Rồi hai người bèn tức tốc chỉnh đốn hàng ngũ binh lính, rước quận Thuỵ vào thành. Bấy giờ trời đă xẩm tối, chừng đến canh hai mới vào tới phủ. Họ bèn thắp đèn sáng trưng khắp cả phủ, đánh ba hồi chín tiếng trống, rồi pḥ quận Thuỵ lên ngôi. Thần trung hầu và Trọng Tế tự chia làm hai ban đứng ra lạy mừng. Lạy xong, họ lại bảo các quân sĩ cùng ḥ reo cho thêm rầm rộ.

 

Sau đó, hai người chia quân đi đóng giữ các cửa thành cùng các điếm canh trong kinh đúng như lệ cũ. Đến sớm mai, họ mới cho người đi gọi các quan văn vơ.

 

Các quan văn là Hoàng quận công, Tứ xuyên hầu, Thao đường hầu, Kiến xuyên hầu, Luyện đường hầu, cùng vài ba viên tiến sĩ, khi ấy đang ở trong triều, thấy có giấy đ̣i, liền bảo nhau rằng:

 

"Quận Thuỵ từ trước đến giờ, đă từng ba lần gây việc mà đều không thành. Con người mà tâm địa như vậy, hẳn không phải là "của quư". Thần trung hầu là hạng công tử ăn chơi, b́nh sinh chỉ biết ban đêm uống rượu say mềm, rồi lăn ra ngủ đến khi mặt trời sắp xuống núi mới dậy. Như thế, trong một ngày c̣n được mấy giờ để lo việc nước mà c̣n muốn làm đại thần? Trọng Tế hồi trước phản quận Thuỵ, nay lại theo quận Thuỵ, há cũng là "đồ vật ở chốn miếu đường" được ư? (câu này ư nói Trọng Tế không phải là người xứng đáng làm một vị đại thần ở triều đ́nh) Huống chi, một việc lớn lao như vậy, mà trên không xin mệnh lệnh của nhà vua, dưới không thu góp ư kiến của mọi người, chỉ cắm đầu nhắm mắt để tự làm với nhau, lẽ nào lại thành việc được? Hoàng thượng vốn anh minh, quả quyết, chắc chắn bọn ấy không thể lấn ép được. Chúng ta chớ nên hấp tấp, nhẹ dạ mà đến với họ, kẻo sau này có hối lại cũng không kịp!".

 

Thế rồi, mấy người sai viên thư lại trả lời cho bọn Thần trung hầu và Trọng Tế, đại để như sau: "Các quan trong triều v́ chưa vâng mệnh của hoàng thượng, cho nên không dám tự tiện tới phủ chúa. Xin hai quan lớn tŕnh chúa hăy thảo giấy tâu xin mệnh lệnh của hoàng thượng, th́ các quan sẽ xin vâng mệnh hoàng thượng sang phủ lạy mừng".

 

Trọng Tế bèn tự ư làm một tờ tâu rằng: "Thần là Trịnh Lệ kính tâu: Nhà thần đời đời nối nghiệp chúa, tôn pḥ nhà vua. Vừa rồi nhân v́ quân mọi vào cướp, tôn miếu nghiêng đổ. Mây nhờ trung thần nghĩa sĩ một ḷng giúp rập, giặc mọi nghe tin, đang đêm phải hốt hoảng chạy trốn. Hôm mồng mười tháng này, thần đă vào ở trong phủ. Vậy cúi xin ban cho sắc dụ, khiến thần được nối ngôi chúa, đời đời tôn pḥ, để giữ vững lấy cái cơ nghiệp vua, chúa trong ngàn vạn năm".

 

Hoàng thượng coi tờ tâu, cả giận nói:

 

- Nhà Trịnh là kẻ dưới mà dám lấn người trên, nên mới chuốc lấy cái nạn bại vong. Thế mà nay nó lại vẫn đi theo cái vết xe đổ ấy. Nó định khinh trẫm ít tuổi hay sao?

 

Khi ấy, quân của hoàng thượng chiêu mộ, đă có tới vài ngàn người, hiện đă đến ở trước cửa khuyết. Các quan tả hữu bèn khuyên hoàng thượng rằng:

 

- Chẳng qua hắn cũng giương to thanh thế đấy thôi! Ta cứ doạ cho hắn sợ, ắt là có thể nhân đó mà đè bẹp được hắn. Hắn có một vạn thủ hạ, quân ta cũng hàng mấy ngàn; nếu như hai bên đánh nhau, hắn muốn nuốt ta cũng chưa dễ đă nuốt trôi. Vả chăng nhân dân trong nước tuy nơi nào theo sự kêu gọi của hào kiệt nơi ấy mà nổi lên, và cố nhiên lại có chia ra đám nọ đám kia khác nhau, nhưng cái ḷng tôn vua th́ đều như nhau cả. Nếu lấy việc chống lại nhà vua để nổi dậy, th́ quyết không một người nào dám theo. Nay quận Thuỵ không chịu vào triều để bái yết, lại nghênh ngang ngồi trong phủ, chưa được mệnh vua mà đă xin sắc dụ, nếu ta dễ dăi cho hắn ngay, sau này khí thế của hắn mạnh thêm, sẽ có nhiều điều khiến ta không thể chịu nổi. Vậy xin cứ bắt hắn phải vào lạy trước đă rồi mới được lập, chắc chắn là hắn sẽ không dám tới. Hắn không tới, th́ việc sách lập sẽ chậm, mà thế lực của hắn tất nhiên sẽ tan vỡ. Thần trung hầu, Dương Trọng Tế hai người ngồi suông trong phủ mà đóng vai quan vơ, quan văn phường chèo, th́ rốt cuộc cũng chẳng được mấy lúc.

 

Hoàng thượng theo lời, sai thảo một tờ chỉ, truyền dụ cho Trọng Tế, nói rơ lệ cũ mỗi khi lập ngôi chúa, th́ chúa mới phải thân hành vào triều vâng mệnh nhà vua; rồi nhà vua mới hậu đăi bằng cái lệ "vào triều không lạy, tờ tâu không xưng tên". Thảo xong, hoàng thượng sai viên nội hàn là Lê Hữu Cáo đem tới phủ đường.

 

Trọng Tế xem rồi, tức th́ xé tan tờ chỉ dụ ngay trước mặt sứ giả mà nói:

 

- Lạ thay, ta chưa từng thấy triều nào, đời nào lập ngôi chúa mà vua lại dám ngăn trở như vậy! Chắc là mấy thằng rồ dại đă lạy quân mọi hôm nọ, sợ rằng sau khi lập chúa, chúa sẽ hỏi tội chúng nó, cho nên chúng nó mới xúi bẩy nhà vua đấy thôi. Ta cần ǵ phải xin xỏ, cứ việc đem quân đến bắt hết mấy thằng xúi bẩy ấy đi, cho trơ cái ngai gỗ ra. Xem vua có cho lập hay không cho lập?

 

Đoạn, Trọng Tế lại bảo sứ giả:

 

- Ông về tâu với hoàng thượng, chúa vẫn làm chúa, nhà vua có thiệt hại ǵ đâu? Xin hăy cứ lập đă, rồi sẽ vào lạy sau:

 

Sứ giả về triều tâu hết đầu đuôi, hoàng thượng càng tức giận mà rằng:

 

- Nó khinh ta quá lắm! Như thế nó c̣n phải xin mệnh của ta làm ǵ? Thôi mặc cho nó tự làm lấy, ta cũng không khiến nó lạy nữa!

 

Các quan trong triều thấy vậy, thảy đều run sợ. Giữa lúc ấy, bỗng có tờ tâu của quận Côn đệ vào, đại ư nói rằng: "Tổ tiên nhà thần giúp đức tiên đế gây nghiệp trung hưng, đội ơn thiên tử xét công ban thưởng rất hậu, phong cho ngôi chúa. Đến đời gần đây, v́ chuyên quyền lâu ngày, đâm ra kiêu lộng, làm những việc trái với lẽ thường, đến nỗi sụp đổ mất cơ nghiệp của tổ tông. Nay thánh thiên tử thống nhất thiên hạ, đùm bọc che chở, tấm ḷng rộng mở bao la như trời đất, chẳng nỡ làm tuyệt diệt tôn miếu nhà thần. Thần may được là ḍng trưởng họ Trịnh, lánh nạn nấp ở dân gian, cái bụng mến nhớ tông miếu, bâng khuâng suốt cả đêm ngày, chỉ v́ chưa được chiếu chỉ, cho nên thần vẫn chưa dám tự tiện vào thành. Vậy dám đánh bạo tâu lên hoàng thượng xem xét".

 

Hoàng thượng coi hết tờ biểu, rất hài ḷng, khen:

 

- Trẫm nghe nói quận Côn là người hết sức lễ độ, khiên tốn, quả nhiên không sai!

 

Rồi ngài sai giao tờ biểu đó xuống cho triều đ́nh bàn bạc. Các viên quan triều nghe tin quận Côn ở vùng Chương Đức, hiện có cái thế nổi lên được, ai nấy đều ngầm có bụng ngả theo, nên đều khuyên hoàng thượng xuống chỉ vời vào.

 

Quận Côn tiếp được chiếu chỉ, lập tức phân chia hàng ngũ người ngựa, luôn trong bữa ấy lên đường về kinh. Quan quân lại sĩ nghe tin, tranh nhau đi đón.

 

Thần trung hầu và Trọng Tế thấy vậy đều sợ hết hồn hết vía, đám người đi theo cũng hơi ngă ḷng. Cả hai bấy giờ mới chịu lép vế cúi ḿnh, sai người vào triều tâu xin cho quận Thuỵ tới lạy. Hoàng thượng ưng lời.

 

Khi sứ giả ra khỏi, hoàng thượng bèn sai lính phục sẵn ở bên cầu Cận-thiềm, chờ quận Thuỵ và bọn Thần trung hầu, Trọng Tế tới nơi sẽ bắt lại để hỏi tội.

 

Nhưng quận Thuỵ rốt cuộc cũng không dám vào. Trọng Tế biết việc không xong, bèn nói với quận Thuỵ, xin để ḿnh và Thần trung hầu chia quân chống chọi với quận Côn. Quân của Trọng Tế ra đóng ở cửa ô Trường-bắn (ở vào khoảng Giảng Vơ, Voi phục trên đường Đại La, Hà Nội bây giờ), c̣n quân của Thần trung hầu th́ đóng ở cửa ô Xă Đàn [nay ở vào khoảng làng Xă Đàn và Nam Đồng (Hà Nội)].

 

Rồi thừa cơ, Trọng Tế bèn bí mật sai Nguyễn Mậu Nễ đem một cánh quân lẻn đi xin hàng.

 

Nễ tới làng Nhân Mục, vừa gặp tiền quân của quận Côn. Nễ liền sai quân lính cắm ngược gươm giáo xuống đất, hai tay chắp lên trán, đứng ở bên trái đường. Khi kiệu của quận Côn đến nơi, Nễ quỳ xuống, thuật rơ ư của Trọng Tế. Quận Côn bằng ḷng, sai ngay Nễ làm tiền bộ tuyển phong. Đi đến dưới lầu Trường Thi, gặp quân của Thần trung hầu chĩa súng bắn thẳng vào, quân của Nễ liền ngồi thụp cả xuống đất để tránh đạn. Quân của Thần trung hầu kéo ùa tới. Quân của Nễ bấy giờ mới nhất tề đứng dậy, xông bừa vào đám quân của Thần trung hầu. Quân Thần trung hầu thấy quân Trọng Tế đă đầu hàng như thế, liền vất bỏ cả gươm giáo mà chạy. Quân Nễ và quân của quận Côn thừa thế đuổi thẳng đến trại Nam Đồng, chém được chừng vài trăm người, quân của Thần trung hầu thua to phải chạy vào thành. Thế là tất cả đều tan vỡ. Quận Thuỵ, Thần trung hầu, Trọng Tế không c̣n dịp nh́n nhau, nhắm thẳng phía cửa ô Ông Mạc, mạnh ai nấy chạy lấy thân ḿnh.

 

Quận Côn kéo quân vào thành. Khi ấy đám tàn quân của Trọng Tế ở cửa ô Trường Bắn, phía ngoài bị quân của quận Côn chẹn ngang, phía trong bị lính thị vệ của nội điện chặn giữ, thành ra chúng không c̣n đường nào mà chạy, phải liều chết cố đánh.

 

Chúng đâm một hoàng thân ngă ngựa chết. Hoàng thượng cả giận, liền sai quân bổ vây, bắt hết cả bọn đem chém, máu chảy lênh láng, ngập đến mắt cá chân. Hôm ấy là ngày 14 tháng chín.

 

Lại nói, bấy giờ thanh thế của quận Côn rất là ghê gớm. Nhưng v́ thấy y có vẻ cung kính, hoà thuận, nên hoàng thượng định hăy cứ vỗ về y, rồi sẽ ngấm ngầm uốn nắn dần.

 

Đến lúc quận Côn đă vào trong thành, hoàng thượng liền sai dẫn y tới ra mắt ở điện Vạn Thọ. Quận Côn lạy năm lạy và rập đầu vái ba vái. Lễ xong hoàng thượng cho ngồi và bảo:

 

Nhà chúa trải hai trăm năm tôn pḥ, công lao đối với nhà vua không phải là nhỏ. Trẫm muốn đền ơn thật hậu. Xét trong họ hàng nhà chúa, không ai được hiền như ông, vả ông lại là ngành trưởng, nên việc nối ḍng tế tự trẫm vẫn để dành cho ông.

 

Quận Côn tâu rằng:

 

- Thần vốn là kẻ hèn mọn, tính lại ưa sự điềm tĩnh. Gặp lúc vận nhà suy bĩ, thần đành cam phận bỏ đi, những toan khoác áo cà sa mà sống cho trọn quăng đời thừa. May sao, nhờ hoàng thượng sẵn có mưu mô thần thánh, xoay lại vận hội trời đất, nên nạn nước lại yên, thần lại được trông thấy mặt trời. Bây giờ, hoàng thượng lại nghĩ đến tiên tổ nhà thần, mà không nỡ dứt bỏ thần, thần kính xin được về triều để đợi mệnh. Gây dựng cho thần kiếp này, đều là ơn của hoàng thượng vậy!

 

Hoàng thượng khen phải, rồi hỏi luôn:

 

- Thế đă chọn nơi nào để đóng quân hay chưa?

 

Quận Côn đáp:

 

- Toà lượng phủ (phủ cũ của thế tử họ Trịnh) c̣n có thể che mưa che gió, thần xin ở đấy.

 

ư hoàng thượng không muốn cho quận Côn ở trong phủ, bèn nói:

 

- Nhà cũ của ông không việc ǵ chứ?

 

Quận Côn thưa:

 

- Nhà thần ở chỗ hẻo lánh, lửa binh không lan tới, nhưng cũng bị người kẻ chợ cướp bóc, tàn phá, không c̣n chỗ nào nguyên lành.

 

Hoàng thượng lại hỏi:

 

- Thái phi và các vương tử của Đoan nam vương bây giờ ở đâu?

 

Quận Côn đáp:

 

- Trong lúc hoảng hốt vội vàng, mỗi người chạy đi mỗi ngả, đến khi tạm yên mới kịp ḍ hỏi. Nay vừa được biết, họ đều ở nhà Ngạn lĩnh hầu trên trấn Sơn Tây. Nghe đâu ba vị vương tử đă chết mất hai, giờ chỉ c̣n vị con cả mà thôi!

 

Hoàng thượng nói:

 

- Đoan nam vương xưa cũng có hậu t́nh với trẫm, trẫm rất thương xót, thường vẫn cho người thăm viếng phần mộ, sửa lễ cúng vái, để an uỷ hương hồn. Trẫm cũng thường hay hỏi thăm tin tức thái phi và các vương tử, đến nay mới biết đích xác. Vậy hăy cho người đón về đây, trẫm sẽ hậu đăi!

 

Quận Côn đáp:

 

- Dạ!

 

Hồi lâu, quận Côn lạy tạ xin lui. Khi qua cửa phủ, vào thăm cung miếu, quận Côn gào khóc một chặp, rồi lại sai xe đưa về lượng phủ. Nhưng bọn tay chân nói:

 

- Thần dân thiên hạ rước ngài đến đây, chỉ muốn ngài ở phủ làm chúa, để họ lập chút công danh. Nay ngài lại nhường phủ không ở, chắc họ sẽ bảo ngài là "vương tử lại hoàn vương tử". Rồi đó ḷng người chán nản, đại binh sẽ tan, khó mà thu thập lại được. Nếu về ở lượng phủ, thà rằng cứ ở Chương Đức làm một người thanh nhàn, c̣n phải lôi kéo bao nhiêu người tới đây làm ǵ cho nhọc?

 

Quận Côn nghe lời, bèn lưu lại trong phủ, vào ở tại Trạch Các, rồi làm tờ tâu lên hoàng thượng, đại ư nói rằng: "Thần vào thăm gia miếu, trông thấy lửa hương nguội lạnh, quang cảnh tiêu điều, ḷng bồi hồi không nỡ bỏ mà đi. Vậy xin tạm chọn một ngôi nhà cạnh miếu để ở, cho tiện sớm hôm quét dọn thăm nom, để cho linh hồn tiên tổ được yên". Hoàng thượng xem tờ tâu, hiểu ư ngay, nhưng thế chưa ngăn cấm được, liền bảo với các quan tả hữu rằng:

 

- Nếu muốn ở phủ, tức là lại muốn được làm chúa rồi. Như thế th́ cái nạn quận Thuỵ cũng vẫn chưa trừ được vậy. Cái ổ đă vỡ đó, hết kẻ kia đi, lại đến kẻ này lại, ồn ào bụi bậm làm dơ bẩn con người. Trẫm giận ḿnh, lúc Tây Sơn mới đi, đă không kịp cho ngay nó một mồi lửa cho rảnh!

 

Hôm sau, hoàng thượng sai các quan trong triều bàn việc sách phong cho quận Côn. ư hoàng thượng chỉ muốn phong làm quốc công rồi cho hưởng lộc hậu hơn mà thôi. Nhưng các quan triều thấy quận Côn giữ binh ở phủ, chắc y không chịu ngồi suông; vả lại, coi cái thế thiên hạ hùa theo y bây giờ, th́ có đè nén cho y khỏi to lớn cũng chẳng được nào. Bởi vậy, không có người nào dám bàn trước. Chợt có kẻ xin với vua rằng:

 

- Nhà chúa từ khi Văn tổ (tức Trịnh Tráng) bắt đầu được phong là chức tiết chế thuỷ bộ chư doanh, b́nh chương quân quốc trọng sự và tước quốc công. Bây giờ, xin theo như lệ cũ ấy mới là có căn cứ.

 

Hoàng thượng bèn sai lấy quốc sử xuống để tra xét cho rơ, rồi bắt bớt đi hai chữ "tiết chế". Các quan triều đều phân vân chưa dám quyết định.

 

Giữa lúc ấy, chợt có tin báo Liễn trung hầu Đinh Tích Nhưỡng vâng sắc hoàng thượng đă tới. Nhưỡng có ba ngàn bộ binh đóng ở Bát Tràng, nói thặng lên là ba vạn, và ba trăm chiến thuyền đóng ở bến Thuư ái, nói thặng lên là ba ngàn; lại lấy hiệu quân là Đông-giang. Người trong nước bấy giờ, nghe thanh thế của Nhưỡng, đua nhau đi theo rất đông.

 

Nhưỡng đem vài trăm khinh kỵ vào thành, dương dương tự đắc có vẻ coi khinh cả thiên hạ.

 

Hoàng thượng thấy Nhưỡng đến vừa lúc quận Côn cũng đến, e cuộc gặp gỡ ấy làm cho Nhưỡng bất b́nh, mới sai người dẫn Nhưỡng vào ra mắt, vỗ về an ủi cực kỳ ôn tồn. Nhưỡng cũng giăi tỏ hết tấm ḷng trung ái của ḿnh. Hoàng thượng bảo Nhưỡng:

 

- Nhà ngươi nay đă đến đây, nên đem hết quân vào thành để bảo vệ kinh sư.

 

Nhưỡng lạy tạ rồi lui ra.

 

Hoàng thượng lại bảo Nhưỡng ra triều đ́nh để cùng các quan bàn việc.

 

Các quan đem lệ cũ ở quốc sử ra nói với Nhưỡng. Nhưỡng nói:

 

- Tôi là kẻ vơ biền không biết văn học; chẳng hay hoàng thượng đăi nhà chúa như thế là hậu hay bạc?

 

Các quan ngập ngừng chưa dám trả lời ngay. Chợt có Nguyễn Hàn đáp rằng:

 

- Nhà chúa không thể giữ nổi tôn miếu, hoàng thượng bảo tồn cho, như thế kể cũng đă là hậu.

 

Nhưỡng nh́n Hàn cḥng chọc và hỏi:

 

- Ông là tiến sĩ phải không?

 

Hàn thưa:

 

- Phải!

 

Nhưỡng lại hỏi:

 

- Đỗ khoa nào?

 

Hàn trả lời:

 

- Khoa Kỷ hợi (1779).

 

Nhưỡng nín lặng đi ra.

 

Các quan cũng đều lui về.

 

Hôm ấy, thủ bạ của quận Côn v́ muốn dựa vào uy thế của Nhưỡng cho chóng thành việc, mới khuyên quận Côn mời Nhưỡng đến để phó thác công việc.

 

Nhưỡng từ chối mà rằng:

 

- Tôi là bề tôi nhà Lê nhà Trịnh, chỉ biết có nhà Lê nhà Trịnh, há lại có bụng dạ kia khác nào? Nay ông đến đây, việc phong tước c̣n chưa xong, tôi lại vừa mới đem quân tới, nếu tôi vào ra mắt ông, e khi ông được làm chúa, rồi nay mai hội bàn ở triều đ́nh, tôi có điều ǵ không đồng ư kiến với họ, người ta sẽ ngờ cho tôi là tư túi với ông. Vậy xin hăy cứ chờ đến khi nào có mệnh lệnh nhất định của hoàng thượng, bấy giờ tôi sẽ đến lạy chào cũng chưa muộn ǵ.

 

Hôm sau, hoàng thượng xuống chỉ phong Nhưỡng tước quận công, rồi sai nội hàn Lê Hữu Cáo khuyên Nhưỡng một ḷng giúp rập nhà vua cho thành công cuộc nhất thống.

 

Nhưỡng nói:

 

- Tôi vâng chiếu đến đây, chỉ mong thánh thiên tử ở trên cầm quyền, nhất thống bốn biển, ấy là phúc của thiên hạ. Tôi đâu dám chẳng ra sức để làm cho tỏ hết ḷng ngu của ḿnh? Nhưng trước kia tôi trót phạm quân luật, làm tan vỡ cả một đạo quân, để cho việc nước đến nông nỗi này; mà nay hoàng thượng lại tha tội cho, như thế cũng đă là may mắn lắm rồi. C̣n bây giờ, trong lúc ngôi chúa vẫn chưa định, mà tôi lại đi nhận phong tước trước, th́ dư luận của mọi người sẽ bảo tôi ra sao? Tôi thờ bệ hạ c̣n về lâu về dài, vậy nay hăy xin trả lại mệnh phong tước.

 

Tiện thể, Cáo đem việc hoàng thượng muốn phong cho quận Côn tước quốc công để ḍ ư Nhưỡng. Nhưỡng bèn đáp rằng:

 

- Thánh thiên thử chẳng thiếu ǵ trí tuệ, cứ đăi ngộ thế nào cho xứng với công đức của nhà chúa là được.

 

Cáo về triều, thuật lại ư Nhưỡng, và xin theo đúng như lệ phong Văn tổ khi trước. Hoàng thượng lại sai các quan triều bàn bạc rồi phong quận Côn làm tiết chế thuỷ bộ chư doanh, b́nh chương quân quốc trọng sự, tước Côn quốc công, cấp ba ngàn tên lính, năm ngàn mẫu ruộng, hai trăm xă dân để cung phụng về việc tế tự nhà chúa. Sau đó, các quan lại đem ư của hoàng thượng nói với Nhưỡng. Nhưỡng chẳng có ư kiến ǵ khác. Các quan bèn đem lời bàn của triều đ́nh tâu lên hoàng thượng. Hoàng thượng nghĩ rằng: Văn tổ ngày xưa lúc mới phong th́ thế, mà rồi về sau, lại tiến lên đến ngôi chúa. Bây giờ nếu không nói trước rơ ràng, e rằng lâu dần sẽ lại sinh ra những chuyện khác. Bởi vậy, khi đă quyết định việc phong tước quốc công cho quận Côn, hoàng thượng bèn bắt các quan triều làm tờ sắc dụ, nói rơ từ nay về sau cứ đời đời nối tiếp tước công mà thôi. Các quan triều vâng mệnh hoàng thượng làm đúng như vậy. Mấy chữ ấy ghi trong sắc dụ. Nhưỡng không được biết ǵ hết.

 

Hôm sau, hoàng thượng, sai quan đem sắc đến phủ ban cho quận Côn, rồi lại sai đem dán bản sao ra ngoài cửa Đại hưng cho thiên hạ đều biết.

 

Nhưỡng xem tờ yết thị, thấy có chữ "đời đời nối tiếp tước công" liền hằm hằm mà rằng:

 

- Lấy tước công làm cái mệnh lúc đầu, c̣n có lư. Nay lại nhất quyết hạn định ở tước công, bắt con cháu nhà chúa đời đời kiếp kiếp cứ phải noi theo như thế măi th́ c̣n có lư nào nữa? Vừa rồi giặc đến, nhà vua được tôn pḥ, các quan văn vơ không một người nào phải mất tước vị; riêng nhà chúa th́ có tội t́nh ǵ mà lại bị thụt chức? Thử coi những kẻ tai mắt ngồi ở trong triều, ai không chịu ơn sâu của nhà chúa? Thế mà bây giờ người ta lại dùng những câu văn khéo léo để chiều ư nhà vua như vậy, thật là khinh bạc quá lắm! Được! Họ đă nổi tiếng v́ câu văn khéo léo, th́ ta cũng lại lấy câu văn khéo léo mà chọi lại, thử xem ai thắng ai?

 

Rồi Nhưỡng làm luôn một tờ yết thị như sau:

 

"Hàm-giang, Đinh mỗ kính đạt các quan văn vơ quư đài:

 

Nay vâng sắc chỉ lập quốc công để nối ḍng dơi nhà chúa. Nếu như ḷng người đều đă thoả thuận, th́ nên đến phủ lạy mừng. Nhược bằng ai c̣n nghĩ đến công đức nhà chúa, riêng có ư tâu xin thế nào, th́ hăy đến cùng họp ở cung Tây-long, bàn với mỗ về việc thảo biểu dâng lên hoàng thượng, để cúi chờ thánh thượng xét định, cho thoả ḷng mong mỏi của thiên hạ".

 

Khi mệnh ban tước quốc công mới ban xuống, ai nấy đều nghĩ rằng việc đó hẳn chưa hết miệng tiếng. Đến lúc này Nhưỡng đă đi trước mọi người, lập ra cuộc họp để tranh công đầu. Tuy nhiên, để pḥng ngừa v́ lỗ măng thô bạo mà hỏng việc như bọn Thần trung hầu, Dương Trọng Tế, nên Nhưỡng cũng không dám dùng uy thế mà ăn hiếp các viên triều thần hiện đang theo nhà vua. Ngược lại, các viên triều thần khi mới gặp Nhưỡng, cũng chỉ ngồi im để xem Nhưỡng ngả về bên nào mà cân nhắc nặng nhẹ. Lúc thấy Nhưỡng kêu gọi hội họp, mọi người tuy không dám theo Nhưỡng, nhưng trong bụng lại sợ Nhưỡng, v́ thế việc theo pḥ nhà vua cũng có phần chểnh mảng. C̣n nhà vua, tuy vẫn quyết tâm giữ mệnh cũ, không chịu thêm bớt nửa chữ, xong cũng chỉ xoay xở một ḿnh, không ai là người giúp đỡ.

 

Bấy giờ, trong hàng quan văn đến họp với Nhưỡng có Ngô Trọng Khuê, Nguyễn Gia Lịch (có bản chép Nguyễn Văn Lịch), Nguyễn Tông Điển, Nguyễn Huy Chiểu, Nguyễn Đ́nh Thiều, Phan Huy ích... cả thảy sáu, bảy người.

 

Các quan đến dự cuộc họp, được Nhưỡng đặt tiệc rất to để thết đăi. Tiệc xong, Nhưỡng hỏi mọi người rằng:

 

- Cái mệnh "quốc công" các ông cho là thế nào?

 

Ngô Trọng Khuê đáp:

 

- Hai trăm năm nay có vua có chúa, công đức nhà chúa không thể v́ một lần thất bại mà hết sạch. Nhà vua c̣n ít tuổi, nghĩ ngợi chưa chu đáo. Phụ hoạ với ư nhà vua để làm việc vô lư này, đó là lỗi của bọn chúng tôi. Phen này chỉnh đốn lại, phi ông th́ không xong.

 

Nhưỡng nói:

 

- Tôi họp các ông cũng chính v́ việc đó. Bây giờ tôi muốn làm tờ tâu để xin với nhà vua, vậy các ông có hiệp ư không?

 

Mọi người đều đáp:

 

- Không hiệp ư th́ đă chẳng đến đây; đă đến đây tức là không ai không hiệp ư.

 

Nhưỡng nói:

 

- Nếu các ông đă hiệp ư, th́ nên thảo ngay tờ tâu để tôi đem dâng hoàng thượng. Hoàng thượng dẫu muốn chẳng cho, tôi cũng cứ cố xin, đến bao giờ được mệnh lệnh nhất định th́ mới thôi.

 

Một viên quan vơ là Nguyễn Gia Quán nói rằng:

 

- Thần trung hầu, Dương Trọng Tế cũng có tờ tâu hẳn hoi, vậy mà chỉ đợi xin mệnh, cho nên rốt cuộc mới hỏng việc. Nay có đủ cả quan văn, quan vơ cùng hội họp như thế này, cứ kéo tuột vào trong phủ là tự khắc thành triều đ́nh. Triều đ́nh đă thành, thế lớn ắt phải trở về với nhà chúa. Ḱa hăy thử nh́n hai điếm tả hữu (trước kia Trịnh Cương đặt tả điếm và hữu điếm ở ngoài cửa phủ đường, để làm chỗ trăm quan tra xét kiện tụng), không lại vẫn hoàn không. Đă đến nước ấy, cần ǵ c̣n phải đợi xin mệnh nữa?

 

Nhưỡng đáp:

 

- Tôi muốn làm thế, kể cũng không khó. Nhưng thiết nghĩ chúa không chịu mệnh của nhà vua, bảo là thuận th́ chưa lấy ǵ làm thuận. Vả lại tục ngữ đă nói: "Chẳng ai mặc áo qua đầu". V́ vậy, tôi muốn cứ theo con đường ngay thẳng cho phải lẽ. Tôi không phải là quân ô hợp như bọn Thần trung hầu và Trọng Tế, để đến nỗi bị người ta bỏ rơi. Nếu tôi đă tâu xin, hẳn là mấy ông thầy già ngồi trong triều có muốn làm rầy tôi cũng không thể được.

 

Sau đó, mọi người bèn thảo tờ tâu, đại ư nói rằng:

 

"Nay kính vâng hoàng đế bệ hạ đoái nghĩ đến nhà chúa, muốn cho được bảo tồn ḍng dơi, phong làm tước công, đời đời giữ việc cúng tế. Thần dân thấy vậy, chẳng ai không cảm kích. Nhưng nhà chúa từ đức Thái vương về sau vẫn được thiên tử ban cho tước vương. Mới rồi gặp cơn quốc biến, tiên chúa Đoan nam vương đă phải đem thân chết theo nước. Bây giờ nạn nước đă qua, vâng được thánh thượng bao dong, các bề tôi đều không ai bị mất quan tước, riêng có nhà chúa lại phải giáng phong. Như thế, thần dân nghĩ không đành ḷng. Vậy dám cúi xin cho Côn quốc công được phong lên tước vương, cho thoả ḷng mong mỏi của thần dân".

 

Hoàng thượng xem xong tờ tâu liền nói:

 

- Cứ nằng nặc đ̣i phong vương để ăn hiếp ta mới sướng hay sao? Nếu yên phận làm tôi, th́ công với vương phỏng có khác ǵ? Vả lại, mệnh vừa mới ban xuống mà đă muốn đổi, mệnh thiên tử đâu phải là tṛ trẻ con?

 

Các viên quan triều thấy vậy, tự nghĩ pḥ chúa đă không dự, giúp vua lại không xong, ai nấy đều muốn tháo thân mà đi. Tứ xuyên hầu vào tâu với vua:

 

- Lấy chúa hiếp vua, đó là cái gốc sinh loạn. Loạn đă đến thế, họ vẫn c̣n noi theo vết cũ mà làm, chẳng qua cũng là ḷng trời xui khiến ra như vậy. Nhưỡng là kẻ vũ phu, không thể lấy nghĩa lư mà nói cho hiểu. Thần xin vâng chỉ đến nói thẳng với quận Côn, khuyên y hăy từ bỏ chuyện xin phong vương, may ra việc nước c̣n có thể làm được. Nếu không, phen này mà loạn th́ lũ thần không sao xoay chuyển nổi. Dám xin hoàng thượng hăy tha tội cho thần!

 

Hoàng thượng bằng ḷng, Tứ xuyên hầu bèn đến phủ nói với Côn quốc công rằng:

 

- Tôi chịu ơn sâu của nhà chúa, không phải là không muốn hậu với ông. Nhưng mà biến cố của nước nhà lần này, chính là một cơ khép mở rất lớn của trời đất; do đó, mọi việc đều không câu nệ vào nếp cũ. Nay nếu theo lệ nối ngôi ngày trước mà lập, để ép thiên tử phải làm cái việc không muốn làm, th́ thật là quá ư vô đạo. Lũ chúng tôi, nghĩa không thể nín, cho nên phải nói với ông. Ông nếu bỏ qua lời nói của tôi, th́ loạn lạc sau này, sẽ không thể cứu được nữa. Trong sách đă nói: "Nước có đạo th́ làm quan, nước vô đạo th́ ở ẩn." Lũ chúng tôi đành xin đi từ nay.

 

Côn quốc công đáp:

 

- Tôi vẫn tự biết là kẻ hèn mọn, đâu dám mong những điều quá đáng? Việc này là do Liễn trung hầu gây ra, tôi thật không dự, xử trí thế nào tuỳ lượng bề trên. Xin ông hăy v́ tôi tâu lên hoàng thượng, soi xét cho tấm ḷng ấy của tôi.

 

Tứ xuyên hầu thấy lời lẽ Côn quốc công có ư thoái thác, bèn về tâu với vua rằng:

 

- Việc này thần không thể nào xoay chuyển được nữa. Hoàng thượng dùng thần cũng là vô ích!

 

Rồi Tứ xuyên hầu từ biệt mà đi.

 

Nhưỡng nghe tin ấy, nói với mọi người:

 

- Lăo rậm râu sâu mắt bỏ đi rồi, thế là bớt được một tên cáo già!

 

Lúc ấy, hai điếm tả hữu đều bỏ không. Những kẻ hội họp trước kia nay về ngồi trong triều, đều là bè đảng của Nhưỡng. Hoàng thượng thấy vậy, than thở với bọn gia thần rằng:

 

- Ta nay không c̣n ai giúp rập nữa rồi! Tuy vậy, nó cũng không thể cậy đông người mà ăn hiếp ta được. Ta cứ không nghe, thử xem nó làm thế nào?

 

Thế rồi, sau khi Tứ xuyên hầu đă đi khỏi, hoàng thượng vẫn cứ giữ nguyên mệnh cũ, ngay cả số quân dân, cũng đều không cấp thêm cho Côn quốc công một người nào cả.

 

Các quan văn trong toà nội hàn ở luôn bên cạnh vua sợ bị Nhưỡng quở trách, nhiều người khuyên vua nên ưng cho lời xin của hắn. Nhưng vua đều không nghe.

 

Nhưỡng thấy nhà vua cương quyết, cũng có ư chờn, bèn làm một tờ tâu kín, xin vua cứ cho Côn quốc công mang danh hiệu tước vương, c̣n các quyền bính th́ vẫn thuộc về nhà vua. Trong tờ tâu ấy, lời lẽ của Nhưỡng cực kỳ mềm mỏng. Rồi Nhưỡng lại thân vào chầu để xin với vua. V́ thế, nhà vua mới nguôi ḷng mà nghe theo, phong cho Côn quốc công làm nguyên soái phụ quốc chính, tước án đô vương. Rồi vua sai viên quan trong triều là Nguyễn Du (Nguyễn Du quê ở xă Văn Xá, huyện Thanh Oai, Hà Đông, đỗ tiến sĩ khoa ất tỵ (1785) năm Cảnh hưng) đem sắc chỉ đến ban cho Côn quốc công.

 

Côn quốc công vâng mệnh, thân hành vào triều lạy tạ; đoạn về phủ sai người đánh ba hồi chín tiếng trống, làm lễ lên ngôi chúa. Hôm ấy là ngày mười chín tháng chín.

 

Sau khi án đô vương được lập, các quan tả hữu khuyên vương nên theo lệ cũ, đặt ra các viên tham tụng, bồi tụng, chưởng phủ, thự phủ, để dựng riêng một triều đ́nh. Rồi họ lại trông mặt mấy viên đến họp ở cung Tây-long hôm nọ mà chỉ định người này làm chức này, người kia làm chức kia, sắp đặt rơ đâu vào đấy. Nhưng Nhưỡng tự nghĩ hôm trước ḿnh tâu với hoàng thượng như thế, mà nay đă vội tự ư tráo trở, lật lọng, e rằng như vậy là lừa gạt bề trên quá chừng. V́ vậy, Nhưỡng vẫn c̣n trù trừ, chưa dám xin vương ra mệnh.

 

C̣n hoàng thượng, th́ cứ giữ theo mệnh cũ, đổi chức tham tụng làm b́nh chương, bồi tụng làm tham tri, thiêm sai làm thiêm thư, hai điếm tả hữu làm hai nhà nghị sự. Rồi bắt Nhưỡng phải kíp chọn lựa các quan, xin chỉ hoàng thượng, rồi định ngày họp ở nhà nghị sự để chia đặt mọi việc. Nhưng ư Nhưỡng chưa quả quyết, thành ra công việc cứ dùng dằng, lẩn quẩn luôn trong mấy hôm.

 

Đang khi ấy, chợt có tin báo Thạc quận công ở trấn Sơn Tây đă thu thập hết binh lính các huyện, đông đến vài vạn người, lại đem cả thổ binh của bọn phiên mục đất Phù Sùng ở vùng Hưng Hoá là Đinh Công Hồ và Đinh Công Trinh đi theo, nay mai sẽ tới kinh sư.

Thật là:

Đă mạnh lại c̣n tay mạnh nữa,

Bất ngờ pḥng chuyện bất ngờ hơn.

Chưa biết quận Thạc đến kinh sư làm ǵ? Hăy xem hồi sau phân giải.

Hoàng Lê nhất thống chí

Ngô gia văn phái

Hồi thứ bảy

Pḥ Lê đế, đạo Vũ thành lại ra quân

Đốt Trịnh cung, chúa án đô phải bỏ nước.

Lại nói, Thạc quận công (Hoàng Phùng Cơ) sau khi thua trận ở cửa Thuư ái, liền chạy về vùng Hưng Hoá, nương nhờ ở nhà một phiên mục là Đinh Công Hồ. Kịp khi nghe tin quân Tây Sơn đă rút về Nam, quận Thạc bèn tới trấn Sơn Tây, thu nhặt binh lính để về bảo vệ kinh thành. Khi ấy hoàng thượng vẫn thường cho người qua lại chỗ quận Thạc, vua tôi rất là ăn ư với nhau.

Đến lúc này được tin quận Thạc đă tới, nhà vua liền sai ông ta đem quân vào đóng ở cửa ô Trường Bắn để bảo vệ hoàng thành. Lúc vào thành, quận Thạc đến lạy chào nhà vua, rồi sau mới ra chào án đô vương.

 

Bấy giờ, người trong kinh nhao nhao đồn rằng: "Thạc vào bè với vua; Nhưỡng vào bè với chúa. Hai người sẽ có ngày dàn quân đánh nhau. Cả hai đều là tướng mạnh chưa biết ai thua ai được?". Hoặc có người lại nói rằng: "Vua với chúa thế lực cũng ngang nhau, nhưng vua có phần mạnh hơn một chút".

 

án đô vương thường sai người đến uư lạo quận Thạc, khuyên Thạc nên giúp đỡ nhà chúa. Nhưỡng cũng hay cho người đi lại biếu xén để liên kết với quận Thạc.

 

Thủ hạ của quận Thạc có người tên là Nguyễn Liên, thấy thế lớn trong thiên hạ đang có chiều ngả về phía chúa, nên cho rằng việc Nhưỡng pḥ chúa khó mà có thể xoay chuyển được. Rồi nhân đó, muốn cho quận Thạc hợp vào với Nhưỡng, Liên bèn cố khuyên quận Thạc bỏ vua mà theo chúa. Quận Thạc trả lời:

 

- Người ta khó nhọc mới làm được mâm cỗ ngon, ḿnh bỗng xông đến, chọc ngay đũavào mà ăn, c̣n ra cái mặt mũi ǵ nữa?

 

Liên nói:

 

- Hiện nay ngôi chúa tuy đă lập, nhưng quyền chúa chưa định xong. Ông Nhưỡng v́ đă trót hứa với hoàng thượng là quyền bính thuộc về nhà vua, nên bây giờ không dám hé răng nói lại. Chúa ngồi chồm chỗm ở trong phủ, mà hoá ra chính phủ chẳng có người nào, dân không biết theo ai. Việc ấy không có ông th́ không xong. Người xưa có câu: "Làm việc th́ dễ; làm cho nên việc mới khó". Bây giờ nếu ông gánh lấy cái khó ấy, th́ công nghiệp chẳng kém ǵ ông Nhưỡng đâu!

 

Quận Thạc hỏi:

 

- Thế th́ nên làm ra sao?

 

Liên đáp:

 

- Người ta có thể họp được các quan, sao ông lại không chịu họp? Nay ông hăy định ngày hội họp các quan để bàn về việc đặt tên các quan chức rồi sau đem những lời bàn ấy mà tâu xin với nhà vua, hẳn là nhà vua phải nghe theo.

 

Quận Thạc khen phải, rồi sai thảo tờ hiểu thị các quan văn vơ, đại ư nói rằng:

 

"Khi Nguyễn Hữu Chỉnh đưa giặc vào cướp nước, mỗ vâng mệnh dẹp giặc, chẳng may đă sai phạm quân luật và làm tan vỡ quân đội, đến nỗi kinh thành không giữ được, thật là đáng chịu tội muôn lần. May nhờ ḷng trời hối hoạ (một quan niệm cũ cho rằng, mọi tai hoạ ở trên đời đều là do trời gieo rắc, khi tai hoạ hết, ấy là lúc trời đă hối lại), quân giặc phải lẻn trốn về. Nay non sông lại y nguyên, vua chúa vẫn như cũ. Nhưng giường mối đă đổ, triều chính lại càng rối bời. Tướng vơ, quan văn, há nên một mực im lặng? Vậy xin định đến ngày này tháng này, hội họp ở bộ Lễ, cùng nhau bàn định, rồi sẽ tâu lên hoàng thượng và tŕnh lên vương thượng biết; sau đó xin giao xuống cho thi hành, để chỉnh đốn lại thể thống của triều đ́nh".

 

Mọi người thấy tờ hiểu thị đó, đều cho rằng quận Thạc v́ nhà vua mà mở ra cuộc họp ấy, để báo thù lại cuộc họp của Nhưỡng ở Tây-long trước đây. Đến ngày đă định, quận Thạc kéo quân từ hoàng thành ra, Nhưỡng dẫn quân từ phủ chúa lại, người ta chắc là hai tướng sắp sửa đánh nhau, có kẻ sợ vạ lây đă phải lánh đi nơi khác. Nhưng đến khi thấy hai tướng đă gặp nhau mà không xảy ra chuyện ǵ, th́ người ta lại đồ rằng quận Thạc lừa cho Nhưỡng ngồi vào họp rồi mới bắt, tướng trẻ tất phải mắc mưu tướng già. Rút lại, chẳng ai hiểu được ư định của quận Thạc như thế nào?

 

Kịp đến lúc các quan văn vơ đến họp, chào hỏi nhau xong, quận Thạc nói:

 

- Chúa lên ngôi đă hơn một tuần, mà chính sự vẫn chưa ra đầu ra mối ǵ cả, các ông có ư kiến ǵ xin cứ bày tỏ, rồi cùng lựa chọn những điều đáng làm để đem tâu xin với bề trên.

 

Mọi người c̣n chưa biết nói thế nào. Trong đám có Ninh Tốn là tay lắm mưu mẹo giảo quyệt, định dùng lối nói lập lờ nước đôi để ḍ ư quận Thạc, bèn lên tiếng mà rằng:

 

- Từ khi sáng nghiệp về sau, quyền ở nhà vua. Từ ngày trung hưng lại đây, quyền ở phủ chúa...

 

Tốn vừa mở miệng đến đấy, đă bị Nhưỡng hỏi vặn ngay:

 

- Bây giờ là sau đời sáng ngiệp hay là sau đời trung hưng? Làm sao lại c̣n nói đèo thêm đời sáng nghiệp vào nữa? Xem viên ấy là quan chức ǵ mà nói dốt đến vậy?

 

Tốn vốn có tài đối đáp nhanh nhẹn, liền nói luôn:

 

- ấy là tôi cũng chỉ viện dẫn ra để tỏ rằng, từ sau đời trung hưng th́ như thế đó mà thôi!

 

Nhưỡng nói:

 

- Nếu vậy th́ mời ông ra thảo bản nghị sự.

 

Tốn bèn thảo một bản nháp, đại ư như sau:

 

"Nhà vua, nhà chúa, vẫn là một thể. Nay tên gọi các chức quan ở phủ chúa phải theo như chỉ ư của nhà vua vừa mới định, nhưng cũng nên giữ cả tên gọi cũ. Vậy xin để chức b́nh chương kiêm chức tham tụng, tham tri kiêm bồi tụng, thiêm thư kiêm thiêm sai, đô cấp sự kiêm lục phiên tri phiên. Về hàng quan vơ th́ những chức chưởng phủ, thự phủ, sẽ thêm vào những chữ ngũ quân đô đốc phủ, tả hữu đô đốc. C̣n nhà nghị sự ở ngoài cửa phủ đă quen tai mắt thiên hạ, xin cứ để nguyên như tên cũ. Các việc chính sự sau khi bàn xong, trước hết phải tŕnh cho chúa biết, rồi sau mới tâu vua để xin nhà vua quyết định".

 

Nhưỡng coi bản nháp của tờ nghị sự, thấy lời văn chứa đựng những ư từ khôn khéo, tiếng rằng theo vua mà kỳ thực là xem trọng ở chúa, bèn đổi ra giọng vui mừng mà rằng:

 

- Người ta khen ông là tay lăo luyện về nghề từ hàn, quả thật là không sai! Vừa năy tôi nói lỡ lời, xin ông đừng giận.

 

Rồi Nhưỡng bảo Tốn chép thành bản tâu để dâng lên nhà vua. Lúc bản tâu đă chép xong, Nhưỡng tự thấy rằng việc làm ấy và lời hứa của ḿnh với nhà vua trước đây là trái ngược nhau, nên không dám giáp mặt vua, bèn cáo từ các quan mà về dinh. Các viên quan vơ cùng đều theo Nhưỡng ra về hết. Chỉ c̣n lại quận Thạc và mấy viên quan văn vào điện để xin mệnh của nhà vua.

 

Hoàng thượng lúc đầu tưởng quận Thạc hẳn phải thuận theo ư ḿnh, nên rất mừng, cho người dẫn ông ta vào ra mắt. Đến khi coi hết tờ tâu, hoàng thượng nổi giận mà rằng:

 

- Tham tụng, bồi tụng cứ việc tham tụng, bồi tụng, hà tất phải đèo thêm b́nh chương, tham tri? Chưởng thự cứ việc chưởng thự, can ǵ phải đèo thêm ngũ quân đô đốc? Bọn các ngươi lấy hư văn mà đánh lừa ta; bịp bợm, xảo trá như vậy, há phải là lễ thờ vua?

 

Quận Thạc nghĩ xưa nay ḿnh với nhà vua vốn có ân t́nh sâu xa, bỗng dưng vô cớ thay đổi th́ thật là xấu hổ, v́ vậy, không dám hé răng, chỉ cúi rập đầu tạ tội mà thôi.

 

Ninh Tốn quỳ tâu:

 

- Nay ở ngoài thành đều là băi chiến trường, thiên hạ đang loạn lớn, mà chính sự trong triều đ́nh th́ vẫn c̣n rối bời. Lũ thần trót phạm oai trời, thật là sợ hăi khôn xiết. Dám xin hoàng thượng soi xét.

 

Hoàng thượng nói:

 

- Ngoài thành đều là băi chiến trường, vạ ấy hỏi tại nhà ai gây ra? Đâu phải là lỗi ở trẫm? Thôi đừng nói lắm, lũ ngươi tưởng rằng bè đảng đông, có thể ăn hiếp được trẫm, th́ cứ việc làm đi! Cần ǵ mà phải xin măi?

 

Bọn quận Thạc đều sợ hăi, bồ hôi toát ra khắp lưng, không dám nài xin ǵ nữa; bèn cùng nhau phủ phục ở sân rồng, măi đến đầu canh một chưa dậy.

 

Hoàng thượng thấy họ cứ nằm lỳ ở sân, nghĩ rằng người ta đă có bụng khác với ḿnh, không thể trông cậy được nữa, dầu có cố giữ ư ḿnh cũng là vô ích, bèn ưng cho lời tâu của họ.

 

Bọn quận Thạc xin được mệnh lệnh rồi, liền lạy tạ mà ra.

 

Hôm sau, họ cùng vào phủ để lựa chọn các quan. Mọi người bàn bạc cho rằng, chúa mới được lên ngôi, những người mà hoàng thượng tin dùng như loại Tứ xuyên hầu, chưa nên gạt bỏ vội. Rồi họ bèn lấy Tứ xuyên hầu (tức Phan Lê Phiên) làm chức b́nh chương kiêm tham tụng; Kế liệt hầu (tức Bùi Huy Bích) và Khuê phong hầu (tức Phan Cận) cùng làm chức đồng b́nh chương sự kiêm hành tham tụng; quận Thạc làm trung quân đô đốc phủ, tả đô đốc chưởng phủ sự, tước Thạc vũ công; Nhưỡng làm đông quân đô đốc phủ, hữu đô đốc thự phủ sự, tước Liễn quận công; Ngô Trọng Khuê, Ninh Tốn đều làm tham tri chính sự kiêm bồi tụng; Nguyễn Huy Chiểu, Phan Huy ích, cả bọn gồm sáu người đều làm chức đô cấp sự trung, kiêm thiêm sai tri phiên trong sáu khoa.

 

Mệnh đó được ban xuống. Tứ xuyên hầu từ chối không nhận. Kế liệt hầu th́ tự thẹn ḿnh không làm được công trạng ǵ, nói:

 

- Ta làm tể tướng không được tốt lành (trỏ việc Bùi Huy Bích trước kia làm tham tụng (tướng quốc) nhưng bất lực, để Tây Sơn lấy được Bắc Hà). Việc trước hăy c̣n tấm gương sờ sờ ra đấy. Một đời lại định mấy lần làm hại nước người ta nữa? (người ta đây chỉ vào nhà vua; quan niệm phong kiến cho nước là của vua).

 

Rồi Kế liệt hầu cũng không chịu nhận chức. Chỉ có Khuê phong hầu một ḿnh gánh vác công việc. Nhưng bấy giờ quyền bính trong nước đều ở tay Nhưỡng. C̣n quận Thạc th́ già nua dốt nát, chẳng biết ǵ đến chính sự, chỉ giữ một chức quan cho đủ số mà thôi:

 

Quan liêu trong chính phủ đă đầy đủ, họ bèn ngày ngày bàn mưu t́m kế để đè nén nhà vua, muốn cho tất cả quyền hành về việc binh, việc dân đều thuộc về phủ chúa. Riêng có bổng lộc của nhà vua, th́ họ bàn nhau đăi hậu hơn các triều trước một chút. Nhưng hoàng thượng cũng không chịu lép vế, cứ mỗi việc mỗi giằng giữ co kéo, thành ra các việc binh, dân, chính đều rối tung chẳng đâu vào đâu. Rồi đó hoàng thượng lại ra sức mộ thêm binh mă để tự vệ, và ngấm ngầm lập mưu chế ngự nhà chúa.

 

Lệ cũ, nội điện nhà vua có một viên quan phụ tá. án đô vương bèn sai một hoàng thân tin cẩn của ḿnh đến sung vào chức đó. Hoàng thượng bảo với vị hoàng thân ấy rằng:

 

- Ta vừa cho lên làm chúa, sập ngồi c̣n rung rinh, thế mà đă vội sai người đến ḍm dỏ, làm như nền nếp lúc thái b́nh ấy. Ông về bảo chúa án đô rằng, chúa đă sai ông đến làm phụ tá cho trẫm, th́ trẫm cũng khiến ông trở lại làm phụ tá cho chúa.

 

Vị hoàng thân ấy lui ra, hoàng thượng bèn dặn mấy người tả hữu:

 

- Các ngươi hăy nhớ lấy, hễ mà người này c̣n lại đây nữa, th́ cứ chặt chân hắn đi cho ta!

 

Thế là từ đó, vua chúa đâm ra thù nhau.

 

Hồi án đô vương mới vào kinh thành, Trọng Tế trốn về huyện Gia Lâm. Vương vốn mến tư cách của Trọng Tế, lúc này bèn cho sứ giả đi mời. Khi Tế đến nơi, vương nói:

 

Trong lúc giặc mọi vào cướp kinh kỳ, các quan văn vơ hoặc chạy trốn hoặc đầu hàng, riêng ngươi là nho thần lại dám lập đồn bên cạnh kinh thành để chống nhau với giặc; cái tiếng nghĩa khí của ngươi đă làm rung động cả nước, bọn giặc càn rỡ sở dĩ phải trốn đi, cũng chính là sợ về oai phong của ngươi. Điều đó, quận Thạc quận Liễn không thể sánh kịp. Vả lại, ngươi mới thoạt vào thành đă lấy ngay việc lập chúa làm điều trước nhất. Tuy việc quận Thuỵ không thành, nhưng thanh thế nhà chúa lại nhen nhúm lên được cũng là từ đấy. Nay ta mới được lên ngôi, nhà vua với ta lại chưa hoà thuận, mà thiên hạ th́ đang c̣n rối ren, vậy ngươi hăy cố ở lại giúp ta.

 

Sau đó án đô vương bèn cho Tế trông nom về việc tài phú. Nguyễn Mậu Nễ, học tṛ của Tế, cũng được cất nhắc lên làm chức tiến triều.

 

Tế vốn có bụng oán giận nhà vua, liền nói với án đô vương:

 

- Cái thuyết nhất thống (tập trung quyền bính vào tay nhà vua) do ở giặc Chỉnh xướng ra, thật không nghĩa lư ǵ hết. Xưa nay nhà vua vẫn uỷ quyền cho nhà chúa, mà nhà chúa th́ pḥ giúp mối giường của nhà vua; có hề "nhị thống" (quyền lực thuộc vào cả vua và chúa) bao giờ? Nhà vua đă chẳng chịu chung tai nạn với nhà chúa, trái lại c̣n lấy sự thất bại của nhà chúa để làm lợi cho ḿnh. Bọn Tứ xuyên hầu đă cúi ḿnh theo giặc, giờ lại hùa theo nhà vua mà không biết chi đến chúa. Đó đều là những việc mà lẽ trời, t́nh người đều không thể dung tha. Dạo nọ v́ chúa đến chậm, thần bất đắc dĩ mà phải pḥ Thuỵ quận công. Nếu chúa đến sớm, th́ thần há lại để cho bọn đầu hàng giặc tới nay vẫn c̣n trốn khỏi h́nh pháp? Tôn thất nhà vua hăy c̣n nhiều, t́m một vị khác làm người khoanh tay rủ áo, tưởng cũng không thiếu ǵ. Chúa mà đến sớm hơn nữa, ông vua "lông đỏ" hẳn đă phải đi theo bọn giặc "lông đỏ" từ lâu rồi!

 

Đoạn, Tế xui án đô vương cho quân vây điện vua ở, bắt hết bọn gia thần của vua giết đi, rồi bỏ vua này mà lập vua khác.

 

Mưu mô đă định xong, Tế bèn sai Nguyễn Mậu Nễ đem quân chẹn ở phía trước điện, đồng thời ngầm cho Nhuận trạch hầu (Bùi Nhuận) lẻn vào cửa Đông Hoa để đánh úp mé sau.

 

Hoàng thượng nghe tin có biến, liền sai các hoàng thân đem hết binh lính đă mộ ra chống giữ. Nễ cưỡi voi đến ngoài cửa Đại Hưng, khí thế rất mạnh, khiến cho trong điện ai nấy đều run sợ, cơ hồ muốn tan vỡ. Th́nh ĺnh thấy quận Thạc ngồi trên đầu voi từ phía sau điện xông tới cửa Đông Hoa, ngăn Nễ không được vào nữa và quát:

 

- Mày muốn sống th́ mau mau thu quân về, bằng không, tao sẽ chặt đầu mày trước để bêu ra cho thiên hạ coi, rồi sau sẽ bắt nốt những tên trong đảng nghịch.

 

Nguyên quận Thạc vốn ghen với danh vọng của Tế, vả lại trong bụng cũng không ưng cái việc đại nghịch ấy; mặt khác, lúc bấy giờ, quận Thạc đang làm chức đề lănh chính hiệu, phải ǵn giữ hoàng thành, e rằng trong điện có biến th́ ḿnh cũng mang tội, v́ vậy quận Thạc phải kíp ngăn cản.

 

Nghe Thạc quát, Nễ sợ hăi lùi ngay, Nhuận trạch hầu cũng không dám vào nữa. Thế là trong điện được vô sự.

 

Hoàng thượng giận lắm, bảo các quan tả hữu rằng:

 

- Đảng ác đă đông, gốc hoạ khó mà nhổ nổi. Nếu không có hữu quân (chỉ vào Nguyễn Hữu Chỉnh) trở lại, th́ việc tất không xong.

 

Rồi đó, hoàng thượng bèn bàn tính việc vời Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân ra bảo vệ kinh sư.

 

Lại nói, sau khi quân Nam lén lút về, Chỉnh cướp được chiếc thuyền hối hả đuổi theo, ra đến biển lại bị gió cản lại luôn mấy ngày, chừng hơn một tuần mới vào đến cửa biển Hội Thống. Lúc thuyền của Chỉnh đậu ở dưới bến Động Hải (tức xă Đông Hải, quê Chỉnh. Nay thuộc Nghi Lộc, Nghệ Tĩnh), th́ cũng vừa gặp lúc anh em Tây Sơn đi đường bộ đă vào tới Vĩnh Doanh (tức vùng thị xă Vinh-Bến Thuỷ bây giờ) B́nh nghe tin Chỉnh đă trốn thoát và theo về đến đó th́ cả kinh mà rằng:

 

- Thằng chết tiệt này khéo t́m đường sống, thật chẳng khác ǵ mười lăm giống quỉ dạ xoa luân hồi làm hại, cắt cũng không đứt đi cho.

 

Tuy vậy, lúc Chỉnh vào ra mắt, B́nh vẫn vỗ về yên ủi. Chỉnh xin theo B́nh cùng về, B́nh nói:

 

- Nay quận Thạc quận Liễn chưa trừ xong, nước An Nam phi ông không ai trị nổi; ông hăy tạm ở đây đă!

 

Rồi B́nh sai người san sẻ các thứ súng đồng, súng sắt, cùng những khí giới, đồ lề thu được ở Bắc Hà, đem đến Đông Hải cho Chỉnh.

 

Chỉnh từ chối không nhận.

 

B́nh lại cho Chỉnh hai mươi lạng vàng, hai trăm lạng bạc, và để lại một trăm tên lính để hộ vệ cho Chỉnh, Chỉnh nghĩ để số lính ấy cũng chẳng dùng được bèn nhận vàng bạc, trả lại lính và nói:

 

- Tôi xin được tự mộ lấy quân địa phương mà dùng. Nếu như sức tôi không đủ, phải đưa thư cáo cấp, th́ bấy giờ mong ông hăy chú ư sai tướng sĩ giúp đỡ tôi.

 

B́nh ưng lời, rồi về Phú Xuân, lưu Chiêu viễn hầu đóng lại ở Kỳ Hoa để hưởng ứng với Chỉnh. Nhưng B́nh về rồi th́ Chiêu viễn hầu cứ đóng lỳ ở Kỳ Hoa không hề liên lạc ǵ với Chỉnh.

 

Chỉnh ở dưới thuyền, thủ hạ chỉ có hơn ba chục người, thành thử không dám bỏ thuyền lên cạn.

 

Người xứ Nghệ biết Chỉnh đang lúc thân cô thế cùng liền bàn nhau định ngày khởi binh bắt Chỉnh.

 

Chỉnh được tin, vội gọi người anh rể là Nguyễn Kim Khuê xuống thuyền để bàn cách đối phó. Chỉnh bảo Khuê:

 

- Nay trong nước rối loạn, tôi muốn chiếm cứ lấy trấn này để tính việc lấy thiên hạ. ư anh thấy thế nào? Mưu mẹo của anh sắp đặt ra sao?

 

Kim Khuê người làng Đặng Điền, huyện Chân Phúc, từng làm chức tri huyện, là bậc túc học và có mưu trí. Thấy Chỉnh hỏi vậy, Khuê liền bày mưu rằng:

 

- Tên tuổi ông, thiên hạ không ai là không sợ! Sức ông lấy Nghệ An, chẳng qua chỉ như trở bàn tay. Nay người trong trấn này tuy biết ông thân cô thế cùng, song họ vẫn chưa biết rơ hư thực thế nào. Tờ hịch của họ mới truyền đi, chỉ là những lời đưa đẩy lẫn nhau, chưa kẻ nào dám tḥ đầu ra trước. Nếu ông làm trước để chặn họ, hẳn họ sẽ trở tay không kịp. Hiện nay ông mà có được một ngàn thủ hạ, th́ ông có thể dọc ngang khắp thiên hạ vậy!

 

Chỉnh nói:

 

- Anh nói rất hợp ư tôi.

 

Rồi đó, Chỉnh bèn làm tờ hịch lông gà (dịch chữ "vũ hịch". Thời xưa, trên tờ Hịch văn mộ quân người ta thường cắm chiếc lông gà, để tỏ ư phải thi hành thật mau, phải làm gấp như bay) để điều động quân lính. Hịch phát bắt đầu từ làng Chỉnh ở. Ra lệnh hễ chậm một khắc sẽ chém liền.

 

ở làng bên cạnh có hai tên lính già, nguyên là lính ở các đội Nhưng, Kiệu măn về, thường vẫn hống hách với dân làng, thấy hịch của Chỉnh đến, chúng liền ra ngăn dân làng và bảo họ đừng nhận.

 

Chỉnh được tin, tức th́ đêm sai bọn thủ hạ sang cướp phá làng đó, đâm chết hai tên lính già, chém lấy đầu, rồi truyền hai cái đầu ấy đi khắp các thôn ấp, rao cho nhân dân biết.

 

Thế là cả huyện Chân Phúc, không ai dám trái mệnh của Chỉnh. Chỉ trong mười ngày, Chỉnh đă mộ được hơn một ngàn quân.

 

Các hào mục ở huyện bên cạnh, thấy Chỉnh dấy binh vội vàng tính việc đánh Chỉnh. Họ tôn viên trấn thủ cũ là Đương trung hầu (Bùi Thế Toại) lên làm thủ lĩnh, rồi ai nấy đều kéo quân đi theo.

 

Chỉnh lúc đó bị vây hăm tứ phía, t́nh thế hết sức nguy ngập.

 

Bấy giờ, ở kinh đô có Khuê phong hầu là người Nghệ An, thường được người làng cho biết Chỉnh hiện đang ở vào t́nh thế rất dễ bắt. Khuê phong hầu liền đem việc đó tâu tŕnh với án đô vương; rồi xin cho Đương trung hầu ra làm trấn thủ như cũ, lại xin cử con là Phan Huy ích làm chức đốc thị, và viên trấn thủ Thanh Hoa là Măn trung hầu (tức Lê Trung Nghĩa, người xă An Hoạch, huyện Đông Sơn, Thanh Hoá) sung chức tham lĩnh, thu nhặt các tàn binh ở Thanh Hoa đem vào Nghệ An, rồi lại triệu tập binh xứ Nghệ và các hào mục, thổ dân sở tại để đánh Chỉnh. án đô vương bằng ḷng.

 

Lúc lĩnh mệnh lên đường, ích hung hăn nói với mọi người rằng:

 

- Các ông hăy chờ đó, để tôi vào xứ Nghệ lấy đầu Hữu Chỉnh về cướp ấn quận công cho mà coi!

 

ích lại c̣n sai bọn thủ hạ làm chiếc trống trận và dặn:

 

- Phải làm cho rơ lớn, có thể chứa được người vào trong, để khi ta thúc đội tiền quân xông vào bắt được Chỉnh rồi, th́ sẽ chọc thủng mặt trống, nhét hắn vào đó mà khiêng về dưới cửa khuyết.

 

Ngày ích xuất quân, ai cũng cho rằng sự thành công có thể đứng mà chờ đợi.

 

Hồi Chỉnh ở Nghệ An, lúc nghe tin án đô vương mới lên ngôi, bèn đặt câu nói lái mà đùa rằng: "yến đô là đố yên" (âm Hán đọc án đô hay yến đô đều được). ư Chỉnh muốn bảo: nhà chúa có muốn yên cũng không thể yên được.

 

Kịp đến lúc nghe tin ở kinh thành các tàn quân đă họp thành cơ ngũ như cũ, lại nghe tin án đô vương đă sai người vào đánh ḿnh; Chỉnh bèn viết thư báo gấp vào Phú Xuân, nói là Thạc, Nhưỡng lại lập họ Trịnh, định chiếm cứ đất nước để báo thù xưa, xin cho quân cứu viện ra để chống nhau với chúng.

 

B́nh được thư ấy, tức th́ sai viên tả quân đem binh ra ngay.

 

Cùng lúc ấy, Chỉnh lại viết thư cho Đinh Tích Nhưỡng. Trước hết Chỉnh nhắc lại t́nh xưa nghĩa cũ; rồi nói rằng ḿnh hiện đă đoạn tuyệt với Tây Sơn, xứ Nghệ An tiếp giáp xứ Thuận Hoá, chưa biết quân Nam sẽ ra đánh lúc nào. Tiếp theo, Chỉnh xin hăy cho ở đó để đương lấy một mặt: sau khi b́nh yên rồi, nếu Nhưỡng có thể bảo toàn cho Chỉnh, th́ chẳng bao lâu, Chỉnh cũng sẽ về triều.

 

Nhưỡng coi thư xong, liền gọi con rể của Chỉnh là Siêu Vũ vào dinh mà bảo rằng:

 

- Ông anh với chú trước đây cùng ở trong cửa cụ Huy, cụ lớn đều coi như con đẻ. Chẳng may cụ lớn bị nạn, ông anh đă trả thù được cho ngài; riêng chú chẳng có công trạng ǵ, chú thẹn với ông anh nhiều lắm. Song ông anh ta, nói về nghĩa thời đă đủ rồi, mà nói về trung thời hăy c̣n chưa trọn. Nay chú pḥ nhà chúa, dựng lại cơ đồ; ông anh đă ngỏ ư muốn đóng giữ trấn Nghệ An lẽ đâu chú dám chẳng chiều ư? Nhưng ông anh chớ có lừa ta, rồi mà bất th́nh ĺnh nổi dậy kéo quân về... Tuy nhiên, chú cũng nói thế thôi, chứ chú c̣n ở đây, th́ dù ông anh có muốn về chú cũng chẳng nghe đâu. Anh về phải thưa lại ư chú như thế nhé!

 

Từ đó, Nhưỡng không để ư ǵ đến việc Chỉnh nữa.

 

Bấy giờ án đô vương đang ngày ngày mưu sự chuyên quyền, không nghĩ ǵ đến các việc khác.

 

Có người thấy vậy, nói với Nhưỡng rằng:

 

- Hiện nay giặc dữ mới đi, bờ cơi c̣n chưa yên ổn, mà giặc Chỉnh ở Nghệ An thế lực càng ngày càng lớn mạnh. Nhân trong lúc này ḷng người đang phấn chấn, hăy xin chúa ngự giá thân chinh để diệt hữu quân, đuổi Chiêu Viễn, lấy lại bờ cơi cũ của đất Nghệ An; th́ như vậy cũng chẳng kém ǵ cái công dựng nghiệp trung hưng của các bậc tiên vương. Khi đă lập công mà về, quyền lớn tự nhiên sẽ vào tay. Cần ǵ chúa cứ phải quẩn quanh tranh giành những chuyện cũ rích, mà bỏ quân giặc không lo nghĩ đến? Vạn nhất Chỉnh lại đem binh ra, th́ lúc ấy lấy ǵ mà chống chọi?

 

Nhưng Nhưỡng chỉ làm thinh.

 

Giữa khi ấy Chỉnh lại sai anh ruột là giám sinh Nguyễn Ban lẻn ra kinh đô yết kiến hoàng thượng, để xin mệnh làm trấn thủ Nghệ An. Hoàng thượng liền hỏi kín Ban về t́nh h́nh quân lính của Chỉnh. Ban được thể, nói thêm lên để phô trương thanh thế cho Chỉnh. Hoàng thượng mừng lắm, bèn nói rằng:

 

Việc ấy, trước mặt trẫm hữu quân đă từng tâu xin, mà trẫm cũng đă hứa cho rồi. Nay lại xin nữa th́ sẽ làm cho tờ sắc ban xuống. Vậy ngươi hăy ở đó mà đợi mệnh!

 

Các quan tả hữu thấy thế, khuyên nhà vua rằng:

 

- Hữu quân ở xa mà chúa th́ gần. Chưa biết sau này hai bên thua được ra sao? Nếu như mệnh này ban ra, mà việc của hữu quân không thành, th́ chúa sẽ có cớ mà nói.

 

Hoàng thượng nghe theo, bèn thôi không dám hạ mệnh cho Chỉnh.

 

Ban lật đật ra về, nói dối là đă có sắc của vua cho Chỉnh làm trấn thủ Nghệ An, được mở dinh quân Trung-hùng, thăng tước Bằng lĩnh hầu, đồng thời khiến Chỉnh phải đem quân về bảo vệ kinh sư.

 

Chỉnh cũng vờ làm lễ bái mệnh, rồi truyền hịch đi kêu gọi các hào mục và thu thập các quân lính tản mát trong vùng.

 

Do đó, các tay hào mục đều bảo nhau:

 

- Hắn dẫu đáng ghét thật, nhưng nay đă chịu mệnh vua, nếu chống lại hắn tức là chống mệnh triều đ́nh, hắn sẽ vin vào cớ đó mà nói, th́ ḿnh khó tránh khỏi tội.

 

Rồi họ bỏ Đương trung hầu mà theo Chỉnh chỉ trong khoảng mươi ngày, Chỉnh đă thu nhặt được hàng vạn quân. Chỉnh bèn cho người bà con là Nguyễn Kim Khuê làm chức thị sư, đặt ra những hiệu quân Tứ đột, Tứ thành, lấy danh nghĩa là vâng sắc tôn pḥ nhà vua mà hẹn ngày xuất quân. Quân của Chỉnh tuy mới mộ, song đội ngũ chỉnh tề, hiệu lệnh nghiêm túc.

 

Bấy giờ ở kinh sư hoàng thượng đang tức v́ bị bọn Nhưỡng ăn hiếp, nên ngày đêm chỉ mong Chỉnh kéo quân ra. Hoàng thượng bèn ngầm ban xuống một tờ chiếu giục Chỉnh tức khắc lên đường.

 

Chỉnh nhận được mệnh, vội hội họp đông đủ quân sĩ, rồi tuyên cáo với mọi người rằng:

 

- Bọn Đinh Tích Nhưỡng và Dương Trọng Tế cầm quân ở kinh sư, ngầm mưu làm việc phản nghịch. Ta nay vâng mật chỉ đem quân về triều, để quét cho sạch lũ giặc bên cạnh nhà vua. Vậy các ngươi phải nên chung ḷng gắng sức để cùng giúp nhà vua trong lúc khó khăn.

 

Khi quân Chỉnh qua bến Hoàng Mai ở huyện Quỳnh Lưu, th́ gặp tham lĩnh Măn trung hầu và đốc thị Phan Huy ích, hai người vâng mệnh chúa án đô vào mộ lính Thanh Hoa đánh Chỉnh. Chỉnh lập tức sai đội thiết kỵ bất th́nh ĺnh đón đánh. Hai bên giao chiến ở địa phận Ngọc Sơn (một huyện giáp liền với Quỳnh Lưu. Nay là huyện Tĩnh Gia, Thanh Hoá). Kết quả, Măn trung hầu bị thua, chết tại trận, c̣n Phan Huy ích th́ bị bắt sống.

 

Chỉnh mắng ích về những tội vào bè với Nhưỡng làm phản nhà vua, rồi hỏi:

 

- Nghe nói nhà ngươi làm cái trống lớn lắm, chọc thủng mặt trống có thể chứa được người phải không?

 

ích run sợ mà xin lỗi.

 

Nguyễn Kim Khuê v́ chỗ quen biết nên hết sức cứu gỡ cho ích. Chỉnh cười khẩy mà rằng:

 

- Hừ! Cái bộ thầy đồ nói khoác, giết cũng vô ích.

 

Đoạn Chỉnh tha cho ích và bắt phải đi theo ḿnh.

 

Sau khi Chỉnh thắng được trận ấy, thanh thế càng lừng lẫy. Tin báo đến tai án đô vương, vương liền cho đ̣i Nhưỡng vào phủ để bàn cách chống cự.

 

Lúc này, hoàng thượng đă hạ mật chỉ sai các hào kiệt vùng Hải Dương đánh phá đất Hàm Giang để diệt trừ họ Đinh. Nhưỡng bất đắc dĩ phải cố xin được lĩnh chức trấn thủ hai trấn Hải Dương và Yên Quảng. Rồi Nhưỡng tự đem bộ hạ kéo về miền đông.

 

Dân chúng các hạt Thượng Hồng, Hạ Hồng, Kinh Môn, Nam Sách vốn ghét Nhưỡng là kẻ tàn bạo, nên khi được mật chỉ của nhà vua, họ rất mừng. Lập tức họ họp nhau thành từng đoàn, đưa hịch kể tội ác của Nhưỡng, rồi bốn mặt ào ào kéo đến, vây kín thành trấn.

 

Nhưỡng liệu sức ḿnh không ngăn nổi, bèn lừa lúc ban đêm, phá vỡ ṿng vây, chạy về giữ Hàm Giang.

 

Khi ấy, ở kinh kỳ người ta đồn rằng Nhưỡng đă bị dân xứ đông giết chết, chỉ trong sớm tối hữu quân Nguyễn Hữu Chỉnh sẽ đến nơi, kinh sư ắt thành băi chiến trường. Trong một ngày, người ta nhốn nháo bỏ chạy đến ba bốn lần. Ḷng người nơm nớp lo sợ. Dân chúng trong thành khuân chuyển đồ đạc, dắt già bế trẻ, tranh nhau chạy trốn về các vùng thôn quê; quan quân ngăn cấm cũng không được.

 

Quận Thạc biết sự thế không thể làm ǵ được nữa, liền bàn riêng với bộ hạ rằng:

 

- Vua chúa thù ghét nhau, việc nước không có chủ. Quận Liễn đă đi mất rồi mà giặc Chỉnh lại sắp đến, ta đóng măi ở đây, thật là thất sách. Chi bằng rút về Sơn Tây, chiếm cứ miền thượng du, giữ vững thế căn bản, bảo tồn lấy lực lượng, ung dung xem việc thiên hạ, chờ cơ hội mà nổi dậy, sau này ắt phải kư công. Các ngươi đều ở dưới cờ của ta, roi cung giong ruổi, phải nên gắng sức. Trong lúc trẩy quân, cần phải đánh dẹp trộm cướp, làm cho dân chúng ăn ở yên ổn, chứ đừng có bắt chước quận Liễn, đi đâu làm việc tàn bạo ở đó, khiến cho dân chúng xứ đông đều phản lại ḿnh.

 

Bọn thủ hạ đều nói:

 

Chúng tôi đâu dám chẳng nghe theo tướng lệnh?

 

Quận Thạc liền thu quân trở về xứ Đoài (tức Sơn Tây).

 

Thế là quận Liễn đi, quận Thạc lại đi nốt, kinh sư khi ấy thành ra một nơi trống rỗng. Hoàng thượng truyền cho các hoàng thân đốc thúc những lính đă mộ được đêm ngày tuần pḥng, canh giữ cung điện. C̣n ở bên phủ chúa th́ chỉ có viên quyền phủ sự Bùi Nhuận, viên hành tham tụng Mai Thế Uông và viên bồi tụng Dương Trọng Tế, hàng ngày ngồi trong phủ đường thảo giấy bắt lính, thu lương. Nhưng các phủ huyện không một ai chịu làm theo. Người của phủ chúa sai đi, qua các thôn ấp đều bị dân quê đánh đập, lột quần áo, chỉ c̣n cái ḿnh trần chạy về.

 

Chúa án đô thấy vậy rất lo, nói với Trọng Tế:

 

- Việc lớn hỏng mất rồi! Nếu không phải người có tài như Thiếu Khang, Thần My (Thiếu Khang là chắt vua Hạ Vũ; Thần My là bề tôi của Thiếu Khang. Lúc nhà Hạ bị bọn Hậu Nghệ, Hàn Sác cướp mất nước, Thiếu Khang và Thần My đă khôi phục được) th́ không thể cứu văn được t́nh thế. Ta không tự lượng sức ḿnh, trót đă làm chúa. Nhà ngươi quá đỗi trung thành, trót đă giúp ta. Nay giặc Chỉnh sắp kéo ra, thế lực cực kỳ mạnh mẽ.

 

Tục ngữ có nói: "ở vào thế cưỡi hổ không thể xuống được". Muốn cho xong việc này, phi nhà ngươi không c̣n ai.

 

Rồi chúa bèn sai Tế làm chức trấn thủ Thanh Hoa, đem quân chống nhau với Chỉnh. Tế bất đắc dĩ phải xin vâng mệnh. Nhưng khi nghe người ta nói đến tên Chỉnh th́ Tế đă mất cả hồn vía. Kéo quân ra đến ô Cầu Dền, Tế c̣n trùng tŕnh đóng ở đó hai ngày, chưa chịu lên đường. Sau chúa phải cho người đến giục, Tế mới chịu đi. Quân Tế vừa mới đến làng B́nh Vọng (tức làng Bằng, Thường Tín, Hà Đông (Hà Sơn B́nh)), th́ có tin báo Chỉnh đă vượt sông Thanh Quyết, Tế giật ḿnh mà rằng:

 

Trừ phi có Phù Đổng thiên vương sống lại, c̣n ai có thể địch nổi với hắn? Quận Liễn, quận Thạc thật là biết thời cơ. Tiếc thay ta là kẻ đọc sách biết chữ mà lại không bằng mưu trí của bọn vơ biền! Bây giờ nghĩ lại th́ đă muộn mất rồi!

 

Liền đó, Tế thu quân qua bến Thanh Tŕ, không kịp vào gặp án đô vương nữa. Chạy một mạch thẳng sang vùng Kinh Bắc, rồi Tế mới sai người về dâng tờ khải, xin án đô vương cho lĩnh chức trấn thủ Kinh Bắc, để chiêu mộ hào mục ở đó mà mưu đồ cuộc nổi dậy khác.

 

Chúa án đô thấy tờ khải của Tế, sợ hăi luống cuống như mất cả hai cánh tay, lập tức cho gọi Bùi Nhuận. Nhưng Bùi Nhuận đă đem cả gia quyến trốn đi từ ban đêm rồi. Chúa lại cho đ̣i Sỹ Uông. Uông cũng thác bệnh xin về nhà riêng. Chúa khóc mếu nói:

 

- Ta chẳng may đẻ ra ở nhà chúa, lại bị một lũ tiểu nhân làm cho lầm lỡ. Nếu sớm biết thế này, thà cứ ở Chương Đức làm ông sư già, chống cây thiền trượng (gậy của nhà sư) ở dưới cửa chiền mà lại hoá hay!

 

Rồi chúa ngoảnh lại hỏi bọn tả hữu:

 

- Bây giờ nên đi đâu?

 

Có người trong họ quê ở huyện Quế Dương tâu rằng:

 

- Xin chúa cứ trấn tĩnh, hăy vào nhà Thái-miếu làm lễ cáo biến, thu xếp thân chủ của tiền vương, để tôi ra sông t́m thuyền, chờ đến đêm khuya, tôi xin pḥ chúa qua sông sang bắc, đi về làng tôi. Nhà tôi đă trải mấy đời làm tướng cầm quân, hào mục vùng Từ Sơn đều ở trong cửa mà ra, nếu tôi lấy điều trung nghĩa mà kêu gọi, chắc hẳn không ai là không theo. Đinh Tích Nhưỡng ở Cẩm Giàng làm cánh tay trái; Dương Trọng Tế ở Gia Lâm làm cánh tay phải; Hoàng Phùng Cơ ở Sơn Tây làm ngoại ứng; c̣n chúa cứ việc đóng tại huyện Quế Dương mà hiệu triệu quân cần vương, đồng thời dựa vào thế hiểm của sông Nhị Hà để cố thủ. Chỉnh tuy hung tợn, há dám sang sông đánh nhau cùng ta? Xin chúa đừng lo!

 

Chúa mừng rỡ mà rằng:

 

- Có lẽ trời chưa nỡ làm mất họ Trịnh, nên mới đem ngươi mà ban cho ta. Nếu quả như lời ngươi nói, thật là phúc lớn cho xă tắc vậy!

 

Đồng hồ (đây là đồng hồ ngày xưa: người ta dùng một cái b́nh đựng nước có khắc từng độ, và có lỗ cho nước nhỏ giọt dần dần, rồi cứ xem mực nước mà biết giờ giấc) nhỏ giọt xuống đến trống canh ba. án đô vương bèn lẻn sang bắc, quan quân theo hầu chỉ chừng vài chục người. Tàn binh Thanh-Nghệ ở trong bốn đội quân thị vệ không một tên nào đi theo.

 

Sớm hôm sau, hoàng thượng mới biết là án đô vương đă trốn đi lúc ban đêm tức th́ ngầm sai người phóng hoả đốt hết phủ chúa. Khi phủ cháy, khói lửa bốc lên ngút trời, hơn mười ngày chưa tắt.

 

Thế là hai trăm năm lâu đài cung khuyết huy hoàng bỗng chốc đă thành ra băi đất cháy đen! Xa gần nghe thấy tin đó, ai cũng thương chúa và trách vua làm quá đáng. Hôm ấy nhằm ngày mồng 8 tháng chạp năm Bính-ngọ (1786).

 

Lại nói, khi qua khỏi sông Thanh Quyết, Chỉnh trước hết cho ngay bộ hạ là Lê Giốc đem biểu tới dâng nhà vua.

 

Trong biểu đại ư nói rằng: "Thần vâng chỉ kéo quân vào bảo vệ kinh sư, đă kính cẩn xuất quân từ tháng trước. Khi tới huyện Ngọc Sơn, Lê Trung Nghĩa (tức Măn trung hầu) và Phan Huy ích dám ra chống cự, thần vẫy toán thiết kỵ tiến đánh, chém chết Trung Nghĩa, bắt sống Huy ích. Nhờ về oai trời, ḷng hăng hái của quân sĩ tăng lên gấp trăm lần. Từ Thanh Hoá trở ra Bắc, thần đi tới đâu dân chúng vui mừng đón rước tới đó. Đến chỗ nào thần cùng đều kính cẩn tuyên bố oai đức của nhà vua, khiến cho đâu đấy đều yên nghiệp làm ăn. Thần nay thân mang giáp trụ, hồn mơ tưởng quân thiều (khúc nhạc của vua Thuấn. ở đây mượn để chỉ vào nhà vua), tấc ḷng khôn xiết nhớ mong cửa khuyết.

 

Hoàng thượng xem xong tờ biểu, mừng lắm, liền hỏi thăm về t́nh trạng khi ở trấn Nghệ An, Giốc cứ thực mà tâu. Hoàng thượng khen Chỉnh đă khéo quyền biến; rồi phong cho Giốc làm chức nội hàn viện cung phụng sứ thiêm thư khu mật viện sự, trông coi cơ Tả oai.

 

Khi Chỉnh tới làng Thịnh Liệt, hoàng thượng sai các quan triều ra ngoài cửa ô đón tiếp. Lúc Chỉnh vào triều hoàng thượng cho ra mắt ở điện Trung Hoà và ân cần an uỷ. Chỉnh tâu rằng:

 

- Gần đây, kiêu binh làm loạn, đại thần (chỉ quận Huy) gặp nạn, thần bấy giờ đang cầm quân ở ngoài, v́ chúa Trịnh không dong, nên phải bỏ nước trốn đi. Thần đă nghĩ kỹ, nguồn gốc của sự rối loạn ấy, là do cương thường sai trái, mũ dép đảo lộn mà ra. Khoảng năm Canh thân (1740), Tân-dậu (1741), những kẻ trung nghĩa trong nước đều căm tức về chuyện ấy, người th́ pḥ hoàng thân mà nổi dậy, người th́ giữ quận ấp mà mộ binh. Công việc của họ tuy không thành, nhưng cái tiếng nghĩa khí cũng đă lan rộng. Coi đó đủ biết, người ta ai cũng chung một bụng ấy, không phải thần v́ mưu riêng của thân ḿnh mà gây ra hiềm khích. Vả chăng thần lấy điều nghĩa mà cảm động ḷng người, là cốt để chỉnh đốn lại cơ đồ nhà vua, làm sáng tỏ đạo quân thần cho hợp với lẽ trời đất. Chớ c̣n đối với chúa Trịnh, thần có thù oán ǵ đâu? Nay nếu ḷng trời đă hối việc gieo hoạ, mọi người đều biết sửa lỗi lầm; đó há chẳng phải là phúc lớn của nước nhà sao? Tiên đế thương tấm ḷng ấy của thần, đă dùng những lời lẽ ôn tồn để dụ thần, thần thật cảm kích khôn xiết. Vậy mà người trong nước, những kẻ không hiểu thần, lại cho thần là có tội. Họ muốn mưu đồ bước theo vết xe đă đổ, rắp tâm giết chết thần để quấy rối chính sự buổi đầu của bệ hạ. Cúi xin bệ hạ xét kỹ lo xa, không có điều ǵ là không soi đến. Thần chẳng dám đổ vạ cho người để che lỗi của ḿnh. Người xưa đă nói: "Biết tôi là vua". Mong ở lượng trên soi xét.

 

Hoàng thượng nói:

 

- Trẫm đă biết rồi! Ngày nay giúp trẫm dẹp yên loạn lạc, làm cho nước được thái b́nh, chỉ nhờ nhà người mà thôi!

 

Rồi đó, hoàng thượng thăng cho Chỉnh làm chức b́nh chương quân quốc trọng sự, tước Bằng trung công. Một người thân cận với Chỉnh là Nguyễn Kim Khuê và con trai Chỉnh là Nguyễn Hữu Du đều được phong tước hầu, được cầm quân và cùng thuộc vào trong tướng phủ. Ngoài ra, bao nhiêu bộ hạ, tướng sĩ của Chỉnh, cũng đều được theo thứ bậc mà thăng chức tất cả.

 

Khi Chỉnh mới chạy về Nghệ An, trong triều có viên quan văn là Nguyễn Đ́nh Giản, thường vẫn nói măi về tội Chỉnh dắt quân nước ngoài về phá nước nhà; lại xin gánh vác việc đánh Chỉnh để giết tên giặc của nước, và thề không cùng sống với Chỉnh. Bấy giờ triều đ́nh cũng cho là người hăng hái, nhưng không dám chuẩn y lời xin của Giản.

 

Viên quan Nguyễn Đ́nh Giản ấy, người làng Vĩnh Trị, huyện Hoằng Hoá, đỗ tiến sĩ khoa Kỷ-sửu (1769), là người chất phác, cương trực, hay công kích lỗi lầm của người khác. Kẻ có lỗi dẫu là bậc quyền quư, là bạn bè gần gũi hay là bà con thân thuộc, Giản cũng đều vạch lỗi ngay trước mặt, không hề kiêng nể. Bởi vậy mọi người đều khen Giản là thẳng thắn.

 

Đến lúc Chỉnh vào kinh, th́ Giản đang vâng mệnh đi chiêu dụ ở trấn Sơn Tây chưa về. Các quan bàn riêng với nhau: Giản chắc không về, mà có về chắc cũng không chịu khuất phục, nhất định Giản sẽ lập mưu với Hoàng Phùng Cơ để diệt Chỉnh. Nếu Giản về triều, chắc Chỉnh sẽ không dung, thế nào Chỉnh cũng ngầm kiếm cớ để giết Giản. Hai sự việc ấy không biết rồi sẽ ra sao?

 

Kim Khuê nghe được những lời bàn ấy, bèn hỏi Chỉnh:

 

- Ông cho Nguyễn Đ́nh Giản là hạng người như thế nào?

 

Chỉnh đáp:

 

- Cuồng trực! (thẳng thắn đến mức cuồng dại)

 

Khuê lại hỏi:

 

- Có thể dùng được không?

Chỉnh trả lời:

 - Chẳng những dùng được mà thôi, con người ấy c̣n đáng trọng nữa là khác!

Khuê lại hỏi tiếp:

- Ông không giận Giản, có phải là thật t́nh chăng?

Chỉnh nói:

- Ông chẳng thấy quận Hoàn là bố vợ hắn, vậy mà hắn c̣n ngồi tại giữa triều kể tội ông ta rằng quỳ gối theo giặc, huống chi là người khác? Nếu ḿnh có lỗi, hắn nói đúng. C̣n như ḿnh không có lỗi mà hắn nói, th́ cũng không hại ǵ cho ḿnh. Con người như hắn thực không nên giận. Mà có giận cũng không làm ǵ hắn tốt. Chẳng qua chỉ tổ để cho người ta nḥm thấy chỗ nông sâu của ḿnh thôi!

 

Khuê nhân đó bèn khuyên Chỉnh nên vời Giản về dùng, để thu phục ḷng người trong nước. Chỉnh nghe theo, liền sai người đưa thư cho Giản, trong thư lời lẽ hết sức ôn tồn, mềm mỏng.

 

Giản trở về, vừa gặp lúc triều đ́nh đang bàn việc sắp đặt quan chức. Phan Lê Phiên được cử làm b́nh chương sự; Trương Đăng Quỹ, Trần Công Xán làm đồng b́nh chương sự; Nguyễn Huy Trạc, Phạm Đ́nh Dư làm tham tri chính sự; Nguyễn Đ́nh Giản làm phó đô ngự sử.

Khi mọi việc đă tạm yên, Chỉnh liền sửa sang dinh thự ở toà Lượng phủ để ở.

Năm ngày Chỉnh mới vào chầu một lần, tan buổi chầu, lại ra ngồi ở chính sự đường để bàn bạc công việc. C̣n những ngày khác, bất kỳ việc quan, việc dân, các quan đều phải tới dinh thự riêng của Chỉnh, để xin Chỉnh quyết định.

Từ đó, quyền Chỉnh thật ngang với nhà vua, thế của Chỉnh có thể lật nghiêng cả nước.

Bấy giờ, tiền tệ trong nước phần nhiều bị các nhà giàu giấu cất, nhân dân đều khốn khổ về nạn khan tiền, hàng hoá không lưu thông, vật giá cao vọt. Chỉnh bèn xin với triều đ́nh, ra lệnh thu vét hết tượng đồng, chuông đồng ở các chùa, miếu, đem về kinh sư, mở ḷ đúc tiền. Rồi Chỉnh thả cho thủ hạ đi về khắp nơi, cướp bóc chuông tượng của các thôn ấp. Người nào mà dám giấu giếm, tức th́ bị chúng tra khảo, trừng trị. Chỉ riêng có pho tượng thần bằng đồng đen ở quán Trấn Vũ phía bắc kinh thành, là chúng không dám lấy mà thôi.

 

Thấy Chỉnh làm như vậy, trăm họ ai cũng ta thán. Một đêm, có người dán ở ngoài cửa Đại Hưng hai câu đối như sau:

Thiên hạ thất tự chung, chung thất nhi đỉnh an tại?

Hoàng thượng phần vương phủ, phủ phần tức điện diệc không! (thiên hạ mất chuông chùa, chuông mất, vạc c̣n đâu nữa? Hoàng thượng thiêu phủ chúa, phủ thiêu, điện cũng trơ thôi! Chữ "đỉnh" (vạc) ở vế trên, là tượng trưng cho cơ nghiệp của nhà vua)

Chỉnh nghe hai câu đó, lấy làm căm ghét lắm. Vả chăng, Chỉnh cũng tự đoán biết rằng, những việc ḿnh làm đều không được dư luận đồng t́nh. Bởi vậy, Chỉnh càng mượn thế ra oai, để ḥng khoá miệng mọi người.

Hồi Chỉnh trốn theo quân Nam, có viên quan vơ là Hoàng Đ́nh Xước vâng chỉ đốc lính coi giữ kinh thành. Khi đó, Xước gặp người nhà Chỉnh đeo gươm chạy ở trên đường, liền bắt lại hỏi. Người ấy xin nộp thanh gươm, Xước thu lấy rồi thả cho đi. Đến khi Chỉnh tới kinh sư, Xước đang đóng quân ở trấn Kinh Bắc, liền về ra mắt Chỉnh để trả lại thanh gươm. Chỉnh lập tức sai bắt Xước bỏ ngục. Nghe nói nhà Xước có nhiều đồ quư lạ, Chỉnh bèn đ̣i lấy kỳ hết, rồi mới tha.

Những việc làm của Chỉnh đại loại đều như thế thực là tàn bạo và không c̣n kiêng sợ ǵ cả.

Muốn thêm oai thế, Chỉnh lại tự đặt tên quân đội của ḿnh là đạo Vũ Thành. Trong đạo chia ra năm doanh; nội quân gồm có hai vệ gọi là Thiết kỵ, Thiết đột; mỗi vệ chia làm năm đội; khí giới, màu sắc quần áo đều trang bị theo h́nh thức của triều nhà Thanh, để cho phân biệt với các toán quân khác. Tại Lượng-phủ, nơi ở của Chỉnh, nhà cửa, lâu đài, kiệu xe, quần áo hết thảy đều chế theo kiểu mới, có ư muốn sánh ngang với nhà vua. Trong th́ nắm giữ quân cơ, ngoài th́ chiếm quyền trấn thủ các trấn, phàm những chỗ cơ mật, trọng yếu, đều do vây cánh của Chỉnh chia nhau lĩnh chức. Tất cả mọi việc, Chỉnh đều chuyên quyền, làm trước rồi sau mới tâu vua. Thậm chí có việc đă bàn định tại triều mà vua cũng không được biết.

Uy quyền của Chỉnh ngày càng to lớn như vậy, nên h́nh tích của hắn cũng lộ ra hết. Người ta bàn tán sôi nổi, ai cũng bảo rằng Chỉnh sẽ làm chúa, và rồi đây Chỉnh hiếp chế nhà vua sẽ c̣n tệ hơn chúa Trịnh ngày xưa.

Hoàng thượng thấy thế cũng hơi ngờ Chỉnh. Một hôm, hoàng thượng đuổi hết tả hữu, rồi nói kín với hai viên nội hàn là Ngô Vi Quư và Lê Xuân Hợp rằng:

- Chỉnh tuy có công bảo vệ, nhưng dần dà đă thấy hắn có vẻ muốn lấn bức. Giá có thể chặn ngay lúc đầu, khiến hắn không thể càn rỡ được nữa, th́ mới đúng với thuật nuôi chim ưng (đời Tam quốc, Trần Đăng nói với Lă Bố rằng: "Tào công nói nuôi Lă Bố như nuôi chim ưng, cáo thỏ chưa hết th́ không dám cho ăn no, nếu ăn no ưng sẽ bay đi mấtv.v...". ở đây dùng ư ấy). Nếu để khi thế lực của hắn đă thành, th́ hắn sẽ khó trị, e cũng giống như nuôi cọp để lo về sau. Vậy các ngươi hăy nên tính hộ trẫm!

Bọn Quư, Hợp tâu:

- Như lũ thần đă xem xét, th́ Chỉnh là hạng người ư nghĩ cực kỳ hiểm độc, bụng dạ quá ư tàn nhẫn, mưu mô hết sức sâu sắc, giả trá rất đỗi khôn ngoan, mà ứng biến th́ mau lẹ tuyệt vời. Con người ấy thực là một kẻ gian hùng ở đời loạn, chưa chắc là một kẻ bầy tôi hiền tài ở đời trị. Cũng ví như loài chồn sói, không phải là vật có thể dạy dỗ; giống yêu ma, không phải là vật có thể kiềm chế. Chỉ c̣n có một cách là giết đi mà thôi. Nhưng giết hắn cũng phải có mẹo. Bệ hạ hăy nên coi hắn như người tâm phúc, đăi hắn với vẻ lễ mạo, cho hắn ra vào nơi cung cấm, không tỏ vẻ ǵ nghi kỵ này khác. Rồi đó, thỉnh thoảng lại mời hắn vào điện bàn việc, luôn thể đặt tiệc cho hắn uống rượu thật say. Vài lần như thế để hắn quen đi mà coi là thường, bấy giờ mới dùng thuốc độc mà giết. Như vậy, việc làm mới khỏi lộ, biến loạn cũng không thể do đâu mà xảy ra được. Theo ư ngu của lũ thần, chỉ có mẹo ấy là hay hơn cả!

Hoàng thượng nói:

- Chuyện này ra ở miệng các ngươi, vào trong tai trẫm, đừng để cho người nào biết. Kinh Dịch có câu rằng: "Làm vua không kín chuyện thời mất bề tôi, làm bề tôi không kín chuyện thời mất thân ḿnh". Các ngươi phải lấy đó làm răn. Bao giờ gặp cơ hội có thể làm được, trẫm sẽ bảo với các ngươi.

Thực là:

Âu quen trên biển chừng không lạ

Thỏ mắc trong ṿng hẳn khó ra.

 Đọc tiếp trang 2

 

Trang Nhà  :

 

Tiếp nhận thư tín :