Việt Sử Tiêu Án
Ngô Thời Sỹ
Thế kỷ 18
( 1775 )
Họ Hồng Bàng
Xét từ hội Dần sinh ra loài người, tất có người xuất chúng để làm
chúa tể. Từ vua Nhân Hoàng đến vua Thần Nông là đời thứ chín trong
số mười chín đời, gọi là Thiền Thông(1). C̣n muôn năm trước đó, há
đều là mờ mịt cả sao? Măi đến đời cháu bốn đời vua Thần Nông, bắt
đầu của mười kỷ Sơ Hất mới có đế vương ra đời sao? Văn hiến khôNg đủ
để xét, truyện kư không truyền lại, biết căn cứ vào đâu mà khảo cứu?
Nay hăy nhân đó mà truyền thuật lại, chép lên đầu ngoại kỷ.
KINH DƯƠNG VƯƠNG
Nước Việt ta thuở trước, tương truyền vua đầu tiên là Kinh Dương
Vương. Cháu ba đời vua Viêm Đế là Đế Minh đi tuần thú miền Nam, gặp
Vụ Tiên nữ lấy làm vợ, sinh con là Lộc Tục. Lộc Tục là người đoan
chính. Vua yêu quư lạ thường, muốn lập làm kế tự. Nhưng Lộc Tục
nhường địa vị đó cho anh là Nghi, vua bèn phong cho Lộc Tục làm vua
tại miền Nam đất Việt, đó là Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương lấy
con gái Động Đ́nh Quân, sinh ra Lạc Long Quân (theo sách sử cũ có
chép, Lạc Long Quân lên ngôi năm Nhâm Tuất, đặt quốc hiệu là Xích
Quỷ, nay bỏ bớt việc đó đi).
Xét nước Việt ta lập quốc, tuy ở sau đời vua Hy và Hiệt nước Tàu,
mà văn tự chưa có, kư tá c̣n thiếu, về phần thế thứ niên kỷ, chính
trị phong tục đáng nghi hay đáng tin đều không có ǵ đủ làm chứng cứ.
Ông Chu Tử nói rằng: "Đọc sách không nên để sử quan dối được ḿnh";
cho nên chữ Quách Công, Hạ Ngũ trong sách Xuân Thu cũng c̣n có sự
nghi ngờ. Ông Mạnh Tử ở Thiên Vũ Thành chỉ trích lấy hai ba đoạn mà
thôi, nếu dẫn dùng lời nói mà không xét đến lẽ phải, tác giả dối ta,
ta lại tin vào đó để dối người sau, có nên không ?.
Sử cũ chép: Vua Lạc Long làm vua từ năm Nhâm Tuất, vậy nhà chép sử
đă căn cứ vào đâu mà tính khởi đầu từ năm Giáp Tư cho đến năm Nhâm
Tuất được? Sử ghi các đời vua Lạc Long, tại sao đến đời Hùng Vương
lại chép sơ lược? Xích Quỷ là ǵ mà lấy làm tên kiến quốc? Một loại
hoang đản như thế nên tước hết đi, là v́ sử cũ sưu t́m truyện cổ,
thêu dệt thành văn, cốt cho đủ số đời vua.
Những
chuyện lấy ở sách Trích quái, U linh, cũng như Bắc sử lấy sách ở Nam
hoa hồng liệt(2). Nếu nhất khái cho là dă sử không đủ tin, th́ theo
đâu để biết đủ việc chế tác lớn lao được? Cho nên điều ǵ gần lẽ
phải th́ để lại, điều ǵ không khảo cứu được th́ bớt đi. Sử chép Đế
Minh lấy con gái Vụ Tiên sinh ra Kinh Dương, cùng với sử nhà Nguyên
Ngụy chép: Tục ngữ nói Cật Phân Hoàng đế không có vợ, hai điều này
cũng giống như nhau. Đại đế các bậc thánh thần là khí thiêng chung
đúc, có khác người thường, hoặc là có lư. Đến như việc Kinh Dương
lấy con gái Động Đ́nh, Lạc Long lấy nàng Âu Cơ, loài ở nước, loài ở
cạn lấy nhau, thần với người ở lẫn, lời đó tựa hồ không hợp lẽ
thường. Tôi trộm nghĩ: giời đất mở mang dần dần, nước ta nhân văn ở
sau Trung Quốc, nước lụt đời vau Nghiêu chưa b́nh, cái vạc xưa vua
Vũ chưa đúc, mênh mang biển Quế Hải vẫn là tổ rồng rắn ma quỷ tụ
họp,những chuyện kỳ quái sao lại không có? Chuyện đời Chu nước dăi
con rồng tụ lại mà sinh ra người con gái c̣n được, huống chi về đời
Kinh Dương Lạc Long? Việc tựa hồ lạ mà không phải lạ và cũng không
nên tự cho là hẹp ḥi như con hạ trùng th́ mới phải.
Lạc Long
Quân
Con vua
Kinh Dương là Sùng Lăm lên làm vua gọi là vua Lạc Long, lấy bà Âu Cơ,
có thai đủ ngày tháng, sinh ra 100 con, Lạc Long thường bảo Âu Cơ
rằng: "Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, nước với lửa khác nhau,
khó ở chung được", bèn chia nhau, 50 người con theo cha về miền biển;
50 người con theo mẹ về miền núi, suy cử người con trưởng nối ngôi
là vua Hùng Vương. Xét trong truyện chép thời bấy giờ vua Lạc Long
về ở trong động nước. Dân có việc ǵ th́ kêu to lên rằng: "Bố ở đâu?
Lại đây với ta" th́ Long Quân lại ngay. Bấy giờ Đế Lai ( là con Đế
Nghi) đi tuần đến chơi, xem phong cảnh núi sông. Nàng Âu Cơ một ḿnh
ở hành cung. Người trong nước khổ về người phương Bắc quấy nhiễu,
lại gọi Long Quân ra, Long Quân trông thấy nàng Cơ đẹp mà bằng ḷng
lấy, đưa về cho ở trong biển. Sử kiêng không nói việc ấy ra, chỉ nói
là lấy con gái Đế Lai, là v́ xấu hổ viêc chim chuột trai gái không
khác ǵ cầm thú, đều là việc không nên nói ra, không bằng bỏ đi th́
hơn. Trong truyện lại chép: Lạc Long cùng với Âu Cơ chia con ra mỗi
bên một nữa, theo cha mẹ lên núi và xuống bể, có việc ǵ cũng cho
nhau biết. Âu Cơ đưa 50 con đến ở Phong Châu, tôn người con trưởng,
đời đời gọi là Hùng Vương. Nhà làm sử muốn lấy người theo cha làm
chính thống, nên đổi lời văn mà nói rằng: 50 con theo cha ở phía
Nam, mà lấy Hùng Vương để đời sau, khiến cho việc mất sự thật, người
đọc sách không thể không nghi được, nếu Long Quân không phải là
giống Động Đ́nh sinh ra th́ không cần biện luận làm ǵ. Long Quân mà
quả là giống Động Đ́nh, th́ loài ở dưới nước tất nhiên không thể ở
trên bộ được. Những người con theo mẹ ai cũng phải lệ thuộc Long
Quân, há có lẽ tất những người theo cha mới có thể được làm vua chúa,
mà những người theo mẹ chỉ có thể làm man mọi ư? Trong sử cũ Ngô Sĩ
Liên nói rằng: Đời Hùng Vương dựng nước chia đất nước làm 15 bộ,
ngoài 15 bộ đều có trưởng tá, lấy các con thứ chia trị từng nơi: lại
bảo rằng 50 con theo mẹ về núi, th́ mẹ làm Quân trưởng, mỗi con đều
làm chủ một phương, mà lấy tên gọi là "nam phụ đạo", "nữ phụ đạo"
của bọn man tù ngày nay làm chứng cớ, không biết thuyết ấy có tổ
thuật đâu không? Hoặc có người hỏi đẻ ra một bọc trăm trứng, việc ấy
có chăng? Xin trả lời rằng: con rồng sinh ra tự nhiên có cái khác
phàm tục, th́ việc đẻ trứng có ǵ là lạ, nhưng cũng là một thuyết
không theo lẽ thường.
HÙNG
VƯƠNG
Hùng
Vương là con vua Lạc Long, dựng nước đặt tên là Văn Lang, đóng kinh
đô ở Phong Châu (Phong Châu theo sử cũ: đông đến bể, tây đến Ba Thục,
bắc đến Động Đ́nh, nam tiếp giáp Hồ Tôn)(3) chia nước làm 15 bộ; chỗ
vua ở gọi là Văn Lang, con trai vua gọi là Quan lang, con gái vua
gọi là Mỵ nương, tướng văn gọi là Lạc hầu, tướng vơ gọi là Lạc tướng.
Quan Hữu tư coi việc gọi là Bồ chính, thế tập truyền đời giữ chức
gọi là Phụ đạo, 18 đời đều hiệu gọi là Hùng Vương (15 bộ là: Giao
Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Toàn,
Lục Hải, Vũ Dinh, Hoài Hoan, Cửu Chân, B́nh Văn, Tân Hưng, Cửu Đức).
Thời bấy
giờ dân miền rừng núi, thấy sông ng̣i khe lạch có tôm cá, rủ nhau đi
bắt để làm đồ ăn, bị giống thuồng luồng làm hại, tâu rơ việc với vua,
vua bảo rằng loài sơn man cùng với loài thủy tộc khác nhau: yêu cái
ǵ giống ḿnh, ghét cái ǵ lạ khác ḿnh, nên có chuyện như thế; bèn
sai lấy mực thích và vẽ các loài thủy quái vào ḿnh, từ đấy thuồng
luồng trông thấy không c̣n làm hại nữa, cái tục vẽ ḿnh của Bách
Việt bắt đầu từ đó.
Nước Việt
ta khi mới vào cống nhà Chu, tự xưng là họ Việt Thường, dâng con
bạch trĩ, chín lần đổi trạm mới đến được, ông Chu Công úy lạo cho về,
cho năm cỗ xe đặt kim chỉ nam để chỉ lối về.
LẬP ĐỀN
THỜ ĐỨC PHÙ ĐỔNG
Xét sử cũ:
Ở bộ Vũ Ninh(4) làng Phù Đổng(5), có người nhà giàu sinh con trai
lên 3 tuổi, ăn uống béo nhớn, nhưng không biết nói cười. Gặp khi
trong nước có hạn, vua sai người đi rao t́m có ai đánh lui được giặc,
tiểu nhi ấy tự nhiên nói được, bảo mẹ đón mời sứ giả, nói rằng: "Xin
một thanh kiếm, một con ngựa, th́ vua sẽ không lo ǵ". Vua cho gươm
và ngựa, tiểu nhi ấy nhảy lên ḿnh ngựa, vung gươm đi trước, quan
quân theo sau, đánh nhau với giặc ở chân núi Vũ Ninh, giặc quay giáo
lại đánh lẫn nhau, c̣n dư đảng suy sụp lạy kêu lên là thiên tướng,
cùng nhau đầu hàng. Tiểu nhi nhảy lên ngựa bay lên trên không đi mất.
Vua sai lập đền thờ. Về sau vua Lư Thái Tổ phong làm Xung thiên Thần
Vương. (Đền thờ ở làng Phù Đổng bên chùa Kiến Sơ). Lại xét trong
khoảng núi huyện Quế Dương (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh), hăy c̣n ngựa
đá bị găy làm hai đoạn, đầu ngựa và hai chân sau nằm ngả ở dưới núi,
ở đỉnh núi, có nền nhà cũ, tục gọi là "Ân vương dài" bị Đổng Thiên
Vương đánh phá vỡ, núi có tre sắc vàng lốm đốm, Thiên Vương cỡi ngựa
sắt, nhổ tre đuổi đánh giặc, quân giặc thua chạy, đến núi Sóc Sơn
huyện Kim Hoa (nay thuộc xă Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội), Thiên
Vương bay lên không đi mất, cho nên có đền thờ ở thôn Thanh Tượng
huyệnh Kim Hoa, nay ở đền cũng có ngựa đá.
VUA NƯỚC
THỤC SAI SỨ GIẢ ĐẾN CẦU HÔN, HÙNG VƯƠNG TỪ CHỐI
Xét sử cũ:
Về đời cuối Hùng Vương, vua có người con gái là Mỵ Nương, Vua nước
Thục(6) nghe tiếng, sai sứ giả đến cầu hôn, Lạc hầu can ngăn nói
rằng: "Họ mưu toan chiếm nước ta, mượn tiếng cầu hôn, không nên cho".
Hốt nhiên thấy có hai người đều đến cầu hôn, Vua lấy làm lạ hỏi, th́
một người xưng là Sơn Tinh, một người xưng là Thủy Tinh, vua bảo
rằng: "Ta có một con gái, không thể gả cho hai người được, nay ta
định ước, hễ ai đến rước trước th́ gả cho". Sáng hôm sau, Sơn Tinh
đến trước đem đủ sính nghi, vàng ngọc và chim rừng đủ thứ. Vua y hẹn
gả cho Sơn Tinh, Sơn Tinh rước vợ về núi Tản Viên, ở trên ngọn núi
cao. Thủy Tinh đến sau buồn bực, đem ḷng thù hận, bèn dâng nước lụt
to, đốc xuất loài thủy tộc đuổi theo. Vua cùng với Sơn Tinh chăng
lưới sắt chặn ngang thượng lưu để giữ, nay ḍng sông Thụy Hương
thuộc huyện Từ Liêm c̣n có lưới sắt ở đấy; người ta thỉnh thoảng
trông thấy Thủy Tinh theo đường sông khác, từ Phủ Lư Nhân(7) vào sơn
cước huyện Quảng Oai(8), theo bờ sông Hát Giang(9) ra sông lớn vào
sông Đà, đánh núi Tản Viên(10), đi đến đâu nước vào thành vực, đầm,
chứa đầy nước, mưu đồ đánh úp; Sơn Tinh khéo thần thông biến hóa,
sai người Mán kết tre làm phên ngăn nước, dùng nỏ bắn ra, các loại
có vảy bị tên nỏ bắn đau chạy tán loạn, Thủy Tinh vẫn khônhg phạm
được đến chỗ Sơn Tinh ở.
Xét hai
việc Thiên Vương phá giặc và Sơn Tinh tranh vợ, đều do sách Trích
quái nhuận sắc thêm vào, nhưng không nói đến quân nhà Ân, không nói
đến đúc ngựa sắt, không nói vươn ḿnh ra thành người cao lớn, th́ đă
nghi việc quái đản rồi, đến như chuyện Sơn, Thủy tranh vợ cũng do kẻ
hiếu sự lấy chuyện dâng nước lụt ngập núi làm chuyện Sơn, Thủy đánh
nhau, tả ra một câu chuyện để chứng thật việc đó, chép làm thực lục.
C̣n việc
thoát móng rùa về đời trước, thoát móng rồng ở đời sau, phù hợp với
nhau, thậm chí thơ mộng, truyện ma, không việc ǵ là không biên chép,
cho đến thuật chữa thai, ca dao về nghề thuốc, cũng đều chép cả. Nói
việc mà không so với lẽ phải, bàn việv kỳ quái mà thành ra nói dối;
có lư nào đem bộ sử tin thật của một nước, mà làm ra một bộ chép
truyện kỳ quái được. Duy có núi Tản Viên là tổ sơn nước ta, Đổng
Thiên Vương là vị danh thần. Vậy hăy cứ theo sử cũ mà chép để truyền
nghi vậy.
Trên đây
đời Hồng Bàng tự vua Kinh Dương (đồng thời với Đế Nghi) đến đời Hùng
Vương thứ 18 cộng hai ngh́n sáu trăm hai mươi hai năm (2.622).
Lời thông
luận: Thường đọc sách ngoại kỷ tự đời Lạc Long đến Hùng Vương, ước
chừng vào thời đại hiên, Hiệu Tân, Dương bên Tàu, những chuyện mất
mát th́ đă có lư, những chuyện mờ mịt th́ t́m hỏi để biết, giống như
thê giới Hữu Sào, Tọai Nhân trở về trước. Trung Quốc tự đời Đường,
Ngu đến đời Chu, nhân văn đă thịnh lắm, nên đời nọ sang đời kia, đă
có thay đổi, đời hậu hay đời bạc, đời thịnh hay đời suy. nước ta
đương thời Lạc Hùng, vua th́ mang cái đức hoà yên lặng vô vi, mà dạy
bảo dân vẽ ḿnh, uống nước bằng mũi, dân không có những sự phiền
nhiễu về việc thôi đốc thuế má, không phải giam giữ. Vua và dân
tương thân nhau trong cuộc đời đến vày ngh́n năm, có thể gọi là đời
chí đức, nưóc cực lạc. Tự nhà Tần đặt ra chức thái thú uư, họ Triệu
mới khởi lên ở đất Nam Hải(11), Nhiên Hậu mới biết cách chép sử biên
niên, có Bắc sử để cùng tham khảo dược. Đến như Kinh Dương tới An
Dương Vương, hơn hai ngh́n sáu trăm năm(2600) mấy triều đại, mấy thế,
mấy niên, năm giáp Tư này th́ lên, đến năm Giáp Tư sau th́ không c̣n.
Họ Hồng Bàng khởi từ năm Nhâm Tuất, đến hết năm Qúy Măo, Hùng Vương
mất nước, An Dương nổi lên, đích xác thuộc thuộc về năm 57 đời vua
Chu noăn. Lại lấy con toán mà kể xem từ khoảng đời Kinh, đời Hùng,
20 đời vua 2622 năm, nhiều ít trừ đi bù lại, mỗi vua được 120 tuổi.
Người ta không phải là vàng đá, sao lại sống lâu được như thế? Điều
ấy lại càng không không thể hiểu được. Sử và truyện khổ về nỗi văn
hiến không đủ, lấy vua khởi đầu là Kinh Dương, tất phải có vị vua
nào là cuối, nhân tiện lấy số năm thừa, kể từ đồng thời với Đế Nghi
đến năm nhà Tần đặt quân mà tính, mang số năm trở về trước cho vào
đời Hùng Vương, trở về sau cho về đời An Duơng, cho đủ số hai kỷ.
1) Thiền
Thông và Sơ Hất cũng là đời Hồng Hoang.
2) Nam
hoa hồng liệt là một tác phẩm của Trang Tử.
3) Phong
Châu: Nay là vùng Thành phố Việt Tŕ (và phụ cận) tỉnh Phú Thọ Duyên
cách nước ta thời Hùng Vương rộng hơn so với sau này, phía bắc rộng
quá biên giới hiện tại thuộc một số huyện các tỉnh Vân Nam, Quảng
Tây, Quảng Đông, (Trung Quốc). Ba Thục, này thuộc tỉnh Tứ Xuyên (Trung
Quốc), Động Đ́nh này là tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc) và Hồ Tôn nay là
vùng cực nam Trung Bộ (Việt Nam).
4) Bộ Vũ
Ninh, vùng các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang và phần Hà Nội ở phía bắc
sông Hồng sông Đuống.
5) Nay là
xă Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
6) Thục:
Về nước Thục, đă có nhiều ư kiến khác nhau, song gần đây nhiều ư
kiến cho rằng nước Thục của Thục Phán nằm trong lănh
thổ nước
Văn Lang, thuộc vùng Yên Bái, Lào Cai hiện nay.
7) Phủ Lư
Nhân, nay là tỉnh Hà Nam.
8) Quảng
Oai, nay là huyện Ba V́, tỉnh Hà Tây.
9) Hát
Giang, là sông Hồng đoạn huyện Phúc Thọ, Hà Tây.
10) Tản
Viên, tức núi Ba V́, huyện Ba V́, Hà Tây.
11) Nam
Hải, nay thuộc tỉnh Quảng Đông (trung quốc).
Việt Sử Tiêu Án ( 1775 )
Nhà Thục
An Dương
Vương
An Dương
Vương tên là Phán, người Ba Thục(1), ở ngôi vua 50 năm, lúc trước
thường đánh nhau với Hùng Vương đều bị thua trận, Hùng Vương nói
rằng ta có thần lực, nước Thục không sợ ta ư? Thế là không sửa sang
vơ bị, suốt ngày chỉ lấy ăn uống làm vui, quân Thục đánh đến gần,
c̣n say rượu không tỉnh, bèn thổ ra máu nhảy xuống giếng. Quan quân
đều đầu hàng. Vua Thục đă thôn tính được đất nước rồi, bèn đổi Quốc
hiệu là Âu Lạc, kinh đô ở Phong Khuê(2).
Theo sử
cũ, lúc trước vua Thục cầu hôn với con gái vua Hùng Vương mà không
được, lấy làm giận lắm, dặn lại con cháu phải diệt cho được nước Văn
Lang; đến bấy giờ Vua có sức mạnh, mới lấy được nước Văn Lang.
CỔ LOA
THÀNH
Theo cựu
sử: Vương đắp thành ở đất Phong Khuê, rộng 1.000 trượng, quanh co
h́nh như ruột ốc, gọi là Loa thành lại có tên là Trung Qui thành,
người nhà Đường gọi là Côn Lôn thành, có ư nói là thành rất cao. Lúc
đầu Vương xây Loa thành, xây đến đâu lở đến đấy, Vương lo lắm, làm
lễ cầu đảo xin đắp lại, có vị thần hiện ra ở cửa thành, Vương mời
vào hỏi, vị thần nói: Phải chờ Thanh Giang sứ đến, nói rồi liền cáo
từ đi; ngày hôm sau dậy sớm, Vương ra thành thấy con rùa vàng nổi
lên mặt sông, từ phía đông đến, tự xưng là Thanh Giang sứ, nói như
người, bàn việc về sau, Vương mừng lắm, lấy cái mâm vàng đựng con
rùa ấy, hỏi duyên cớ tại sao thành đổ, con rùa nói rằng: Thành này
là linh khí của non sông, con vua trước phụ vào đấy, muốn báo thù
cho nước, ẩn trong núi Thất Diệu, trong núi đó có ma, là hồn phách
một người con gái hát đời trước. Bên cạnh núi có cái quán, chủ quán
tên là Ngộ Không, có một người con gái và trong nhà có nuôi con gà
trắng, hồn phách con ma nhập vào con gà đó, thường làm hại người đi
đường; yêu khí ngày một thịnh, nên làm đổ được thành, nếu giết được
con gà ấy để mà trừ yêu khí đi, th́ thành tự nhiên vững bền. Vương
bèn dẫn con Kim Qui đến chỗ quán nằm nghỉ, đến đêm nghe tiếng con
quỷ lại gơ cửa, con Kim Qui mắng, quỷ không dám vào, đến khi gà gáy
sáng th́ bỏ đi, con Kim Qui lại bảo vua đuổi theo, đến núi Thất
Diệu(3), không thấy ǵ. Khi đă về đến quán, chủ quán sợ lắm, hỏi
dùng thuật ǵ mà trừ được quỷ. Vương nói: Giết con gà của nhà này mà
tế, có thể trừ được. Khi con gà bị giết rồi, người con gái ấy cũng
chết, bèn sai đào núi ấy t́m được những đồ cổ nhạc khí và nắm xương
tàn, đem đốt ra gio, loài yêu mới tuyệt được. Nửa tháng th́ xây xong
thành, con Kim Qui cáo từ đi, Vua cảm tạ, và xin cho được cách ǵ để
chống ngoại xâm; con Kim Qui trút cái móng trao cho vua mà nói rằng:
Nước an hay nguy sẵn có thiên số, người cũng phải có pḥng bị, nếu
có giặc đến th́ lấy cái móng này mà làm cái lẫy nỏ, hướng về phía
địch mà bắn, th́ không có sợ ǵ cả. Vua sai bầy tôi là Cao Lỗ chế ra
cái nỏ thần, lấy móng rùa ấy làm lẫy nỏ, gọi là Linh quang kim trảo
Thần nỗ. Khi Cao Biền nhà Đường b́nh xong Nam Chiếu(4), kéo quân về
qua Vũ Ninh, nằm mộng thấy dị nhân xưng là Cao Lỗ, tự nói đời trước
giúp An Dương có công đánh giặc, bị Lạc hầu dèm pha, vua thương là
không có lỗi, thưởng cho một dăy non sông, quản lĩnh việc đánh giặc
cướp và việc mùa màng cày cấy, đều làm chủ cả, nay tôi theo ông đi
phá địch, lại về đến chổ Bộ của tôi, dám xin cáo từ đi về. Ông Biền
thức dậy, đem việc mộng ấy nói với các quan liêu tá và có thơ rằng:
Tốt đẹp
đất Giao Châu,
Muôn đời
truyền đă lâu.
Cổ hiền
c̣n được thấy,
Vẫn không
phụ ḷng đâu.
Núi Thất
Diệu ở làng An Khang, huyện Yên Phong. Loa thành là Cổ Loa, huyện
Đông Ngàn (5).
Sử thần
bàn rằng: Sách ngoại sử truyền lại, sao nhiều chuyện lạ thường như
thế? Con rùa to hai thước hai tấc để nuôi, 60 năm con rùa chết, lấy
xương rùa ấy để bói gọi là khách quy. Con rùa nói: Sắp về đất Giang
Nam không gặp dược, mà chết ở đất Tần. Đó là lời nói của người bói
rùa, cũng c̣n có lư. Việc ma làm đổ thành, có thể tin được không?
Phàm vật ǵ trái thường th́ gọi là yêu, yêu khí thắng th́ tất phải
có nương tựa vào cái ǵ đó, nhưng mà nương tựa vào con gà và người
con gái mà làm đổ được thành, th́ không có lẽ nào, việc đă rơ lắm
rồi.
C̣n việc
con rùa trút móng là thế nào? Trả lời rằng: Con rùa nếu biết nói và
xây xong thành cho vua, th́ c̣n tiếc ǵ một cái móng mà không cho?
Chỉ sợ không có con rùa thật ấy mà thôi.
Dương
Hùng làm Thục Vương bản kỷ có nói: Trương Nghi xây thành theo đúng
lỗ chân rùa đi mà xây, hoặc giả lúc vua An Dương xây thành, ngẫu
nhiên có con rùa to ḅ đến, nhân thế cho là thần dị, người đời sau
theo đó mà truyền lại cho nhau, cho là một việc lạ, nếu không thế,
hoặc giả thuyết theo lốt chân rùa mà xây thành, nhận lầm nước Thục
nọ, bất tất phải có sự thực nữa. lại ở sách Bác vật chí: Vua An
Dương có người thần tên là Cao Thông, chế cho nua một cái nỏ, bắn
một phát trúng 200 người, th́ việc chế ra cái nỏ ấy là thần, chứ
không phải là người, hoặc giả lấy chuyện ấy làm cho ra chuyện lạ,
lấy móng rùa làm thần vật, để dọa đời sau chăng?
Truyện LƯ
ÔNG TRỌNG
Người
nước Tần đă thôn tính được Lục Quốc. Người nước ta là Lư Ông Trọng
vào làm quan với Tần.
Theo sử
cũ: Ông Trọng là người huyện Từ Liêm, thân dài 2 trượng 3 thước,
thưở ít tuổi làm việc bị trưởng quan đánh bằng roi, bèn vào làm quan
với nhà Tần, chức Hiệu uư, đem quân đi giữ quận Lâm Thao(6), tiếng
tăm lừng lẫy, chấn động nước Hung Nô, khi tuổi già trở về làng th́
chết. Vua Thủy Ḥang cho là chuyện lạ, đúc tượng ông bằng đồng để ở
cửa Tư Mă thành Hàm Dương, trong bụng tượng chứa được vài mươi người,
ngầm sai làm chuyển động, nước Hung Nô cho là quan Hiệu uư c̣n sống,
sợ không dám phạm vào đất Tần, đến khi Triệu Xương nhà Đường làm
quan đô hộ, nằm mộng cùng với Ông Trọng giảng sách Xuân Thu, v́ thế
hỏi thăm đến chỗ nhà xưa của Ông Trọng, lập đền thờ mà tế. Đến lúc
sau Cao Biền phá được Nam Chiếu(7), Ông Trọng thường hiển linh giúp,
ông Biền lập miếu thờ, tạc tượng bằng gỗ, gọi là Lư Hiệu Úy, hiện
nay đền thờ ở làng Thụy Hương, huyện Từ Liêm(8). Xét sử cũ chép: Ông
Trọng thân h́nh cao to, cùng việc đầu đuôi làm quan với nhà Tần,
chưa chắc là đúng, xét trong Thập thất sử đời nhà Tần có người dài 5
trượng hiện ra ở Nham Cừ, Hồ Mẫu Kính nói: 500 năm th́ chỗ đất này
tất có người lạ, là người lớn đó; thời bấy giờ nước ta làm quan với
Tần hoặc giả có người thân thể to lớn, nhân thế đặt tên là Ông Trọng.
Đời Tần, Hán trở về sau, ở cung khuyết phần nhiều đặt người hay ngựa
để trấn áp. Nhà Tần đúc 12 người vàng, tuyệt đối không có danh hiệu
ǵ. Vua Ngụy muốn rời người vàng ấy đến đất Nghiệp nhưng nặng không
mang đi được, nhân lấy đồng đúc 3 người gọi là Ông Trọng, bày ra ở
ngoài cửa Tư Mă, lại bàn ở đàn miếu Thiên thu đ́nh (ở bài chú Kinh
Băng, Tiến Thủy) có hai Ông Trọng bằng đá đối nhau, th́ cái tên Ông
Trọng cũng giống như tên v́ sao Phi Liêm, người đời sau đặt ra
chuyện Ông Trọng thiêng liêng, để cho câu chuyện thần kỳ đó thôi.
1) Thực ra, sự chỉ định quê của Thục Phán ở BA Thục (Tứ Xuyên -
Trung quốc) là sai, xem chú thích số 6) chương họ Hồng Bàng.
2) Phong
Khuê nay là thành Cổ Loa cũ
3) Nay
thuộc xă Thụy Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội, cũng gọi là núi Sái.
4) Nam
Chiếu, quốc gia cổ từ thế kỷ VII - X thuộc khu vực Vân Nam Tứ Xuyên
và tây Quư Châu (Trung Quốc).
5) Nay
thuộc xă Cổ Loa huyện Đông Anh, Hà Nội.
6) Lâm
Thao, nay thuộc huyện Mân, tỉnh Cam Túc (Trung Quốc).
7) Nam
Chiếu, xem chú thích số 4) ở trên.
8) Nay
thuộc xă Thụy Hương, huyện Từ Liêm, Hà Nội
Ngoại Thuộc Nhà Triệu
Triệu Đà
Nhà Tần
cho là nước Việt ta nhiều châu báu, muốn chia nước ta ra làm quận
huyện, sai Hiệu úy là Đồ Thư mang quân vào sâu măi Lĩnh Nam(1) lấy
đất Lục Lương(2) đặt ra Quế Lâm(3), Nam Hải(4), Tượng Quận(5). Người
Việt ta đều chạy trốn vào trong rừng rậm, không chịu để cho nhà Tần
dùng, ngầm đặt Kiệt Tuấn làm tướng, đương đêm đánh Đồ Thư, nhà Tần
bèn mang 500 vạn dân phát văng đi đày sang ở đó, cử Nhâm Ngao làm
quan Úy ở Nam Hải, Triệu Đà là quan lệnh Long Xuyên(6). Hai người
bèn nảy ra mưu đồ chiếm cứ nước ta. Ngao và Đà mang quân sang xâm
lăng, đóng quân ở Bắc Giang, núi Tiên Du. Vua đem quân đi đánh,
Triệu Đà thua chạy, bấy giờ Ngao đem thuyền quân đóng ở sông nhỏ, bị
bệnh phải về, cho quân theo Triệu Đà. Đà biết vua có pḥng bị, lui
quân giữ ở núi Vơ Ninh, sai sứ giảng ḥa, vua mừng lắm, chia đất
B́nh Giang(7) thuộc về Triệu Đà, c̣n trở về nam th́ vua cai trị.
Triệu Đà sai con là Trọng Thủy sang làm con tin, nhân tiện cầu hôn,
vua gả Mỵ Châu cho Trọng Thủy. Triện Đà trái lời ước, mang quân đến
xâm lăng. Vua cùng với Triệu Đà đánh nhau, quân nhà vua tan vỡ, chạy
ra biển, nước Thục mất.
Theo sử
cũ: Lúc đầu Triệu Đà đánh nhau với vua Thục. Vua dùng nỏ thiêng bắn
ra. Triệu Đà thua chạy, Đà biết vua có nỏ thần, không thể địch nổi
mới lập mưu thông hiếu, vua gả con gái cho con Triệu Đà là Trọng
Thủy. Trọng Thủy dỗ vợ là Mỵ Châu lấy trộm nỏ thần, làm hỏng máy mà
thay bằng máy khác, rồi Trọng Thủy mượn cớ về thăm cha, lúc từ biệt
Mỵ Châu, nói rằng: "Sau này ta trở lại, vạn nhất lúc ấy hai nước
thất ḥa, th́ có cái ǵ làm tin để lại được gặp nhau?". Mỵ Châu nói:
"Thiếp có cái đệm gấm bằng lông ngỗng rắc ra, chàng nhận được lông
ngỗng đó, sẽ biết được chỗ thiếp ở". Trọng Thủy về nói với Triệu Đà,
Triệu Đà bèn ra quân đánh vua Thục. Vua không biết máy nỏ đă bị mất,
cứ ngồi đánh cờ mà cười rằng: "Đà không biết cái nỏ thần của ta
chăng?". Quân của Đà đến sát gần bên mà lập trận. Vua Thục giương nỏ
lên th́ máy găy, quân tự tan vỡ. Vua để Mỵ Châu ngồi trên ḿnh ngựa,
cùng chạy về phía nam, Trọng Thủy nhân nơi có lông ngỗng mà đuổi
theo, vua Thục đến bên bờ biển, cùng đường, vội gọi: Thanh Giang sứ
ở đâu? Rùa vàng rẽ nước nổi lên nói rằng:
"Người
ngồi sau ngựa là giặc đấy, sao không giết đi". Vua tuốt gươm muốn
chém Mỵ Châu, Mỵ Châu khấn rằng: "Tôi vẫn một ḷng trung tín, nguyện
hóa ra làm ngọc trai, để rửa cái thù này". Vua bèn chém Mỵ Châu, máu
chảy xuống giữa ḍng nước, con ṣ ngậm máu ấy hóa làm ngọc trai. Vua
cầm Ngọc văn tê bảy tấc nhảy xuống biển đi mất. Trọng Thủy thấy Mỵ
Châu chết, ôm lấy thân mà khóc, mang xác về táng ở Loa thành, về đến
chỗ Mỵ Châu trang điểm tắm gội ngày xưa, thương tiếc quá bèn nhảy
xuống giếng tự tử. Người đời sau bắt được hạt minh châu ở biển Đông,
lấy nước giếng ấy mà rửa th́ sắc hạt châu càng sáng bóng.
Xét ở
huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An, có miếu An Dương Vương ở núi Mộ Dạ,
có rất nhiều chim công. Tục truyền rằng khi vua nhảy xuống biển, đêm
hôm ấy bể vọt nước lên thành núi, nhân thế lập đền thờ, đặt tên là
Mộ Dạ sơn(8).
Theo sách
ngoại sử: Mẹ Trọng Thủy là Tŕnh thị người làng Đường Xâm, quận Giao
Chỉ, (nay là Đường Xâm, huyện Chân Định) nới có miếu thờ Triệu Đà,
Tŕnh thị được ṭng tự ở miếu ấy(9).
Trở lên
trên đây (là đời vua An Dương, khởi đầu tự năm Giáp Th́n đến năm Quư
Tị th́ hết), cộng 50 năm.
Ngô Sĩ
Liên bàn rằng: Việc lông ngỗng rắc đường, hoặc cũng có thể được,
nhưng thấy một lần thôi, th́ được. Sao về việc con gái Triệu Việt
Vương lại c̣n nói đến? Người làm sử cho nguyên nhân họ Thục, họ
Triệu mất nước, đều bởi chàng rể. Bèn nhân một việc, mà nói hai lần
chăng? Đến như họ Thục mất nước , cái nỏ thần bị đổi mất, họ Triệu
mất nước, cái đâu mâu bị mất móng; cũng là mượn lời nói để làm cho
vật ấy thành ra thiên liêng đấy thôi. Việc giữ nước chống giặc, đă
có sẵn cách, chứ móng rùa và rồng đủ trông cậy sao được? Trọng Thủy
ăn trộm móng rùa, Mỵ Châu chỉ lông ngỗng làm dấu, và việc nước giếng
rửa hạt châu, đều là chuyện nói vu, chả cần biện biệt cũng đủ rơ.
Nguyễn
Nghiễm bàn rằng: Cứ xét theo lẽ phải, th́ việc có hay không, tuy
cách xa ngh́n năm, cũng có thể biết được. Một bọc con mà mở được cơi
Bách Việt, lên ba tuổi mà địch nổi muôn người, những bậc hơn người
xuất chúng, vẫn có khác với người thường, không lấy ǵ làm quái lạ
cho lắm. Đến như truyện giống rồng, giống tiên, thuộc về truyện
hoang đường, Sơn Tinh, Thủy Tinh sự tích đều là biến ảo, việc ma quỉ
trên núi Thất Diệu, việc hóa Tiên ở trầm Nhất Dạ Trạch đều là quái
gở không thường có, không thể nào tin được, Khổng Tử nói: Đa văn
khuyết nghi (nghĩa là nghe nhiều chỗ ngờ th́ bỏ đó). Mạnh Tử nói:
tận tín thư bất như vô thư, (nghĩa là tin cả vào sách không bằng
không có sách c̣n hơn) người đọc sách nên so sánh bằng lẽ phải, bỏ
việc quái , giữ việc thường th́ hơn.
Lời thông
luận: An Dương khởi từ đất Ba Thục, thừa lúc họ Hùng Lạc đă suy, một
trận cử binh mà lấy được nước cũ hơn hai ngh́n năm, sao mà hùng
cường thế, nhưng xét cái h́nh tích được thua, nỏ c̣n mà quân Bắc xâm
tan vỡ, nỏ găy mà chạy về nam cùng đường, ngoài việc móng rùa ra,
nhân sự không dự ǵ đến. Thời bấy giờ bên cạnh có địch quốc, mà cứ ở
yên ngồi rồi, mời kẻ cừu thù vào nơi lăng miếu, đặt mưu chống giặc
vào trong bàn cờ, đến nỗi lứa đôi mà thành ra cừu thù, để giang sơn
Âu Lạc mất, tựa xóa ván cờ. Than ôi! Con Kim Qui đến lần thứ nhất,
th́ tặng vua An Dương cái mầm họa, Kim Qui đến lần thứ hai, đưa vua
An Dương đến chỗ chết, loài trùng có mai kia thủy chung làm tai họa
cho nhà Thục, nay thành Cổ Loa vẫn c̣n y nguyên ở đó, nên v́ An
Dương Vương thương tiếc, để răn những kẻ thích bàn chuyện quỉ thần
linh ứng.
Xét sử cũ:
An Dương Vương mất nước, để quốc thống về họ Triệu, chép to 4 chữ: "Triệu
Kỷ Vũ Đế". Người đời theo sau đó không biết là việc không phải. Than
ôi! Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm không phải là Đất Việt Giao Chỉ, Cửu
Chân, Nhật Nam. Triệu Đà khởi ở Long Xuyên, lập quốc ở Phiên Ngung,
muốn cắt đứt bờ cơi, gồm cả nước ta vào làm thuộc quận, đặt ra giám
chủ để cơ mi lấy dân, chứ chưa từng đến ở nước ta. Nếu coi là đă làm
vua nước Việt, mà đến ở cai trị nước ta, th́ sau đó có Lâm Sĩ Hoằng
khởi ở đất Bàn Dương, Hưu Nghiễm khởi ở Quảng Châu, đều xưng là Nam
Việt Vương, cũng cho theo Quốc kỷ được ư? Triệu Đà kiêm tính Giao
Châu, cũng như Ngụy kiêm tính nướcThục, nếu sử nước Thục có thể đưa
Ngụy tiếp theo Lưu Thiện, th́ quốc sử ta cũng có thể đưa Triệu tiếp
theo An Dương. Không thế, th́ xin theo lệ ngoại thuộc để phân biệt
với nội thuộc vậy.
TRIỆU ĐÀ
TỰ LẬP LÀM VUA NAM VIỆT
Đà là
người ở Chân Định(10), trước kia quan Úy quận Nam Hải là Nhâm Ngao,
bị đau, bảo Triệu Đà rằng: Nhà Tần làm nhiều việc vô đạo, nghe tin
Trần Thắng nổi loạn, ḷng dân chưa biết tùy phụ vào ai, đất này hẻo
lánh, ta sợ bọn giặc cướp đến quấy nhiễu, muốn khởi quân ngăn đường
để tự pḥng bị, vả lại đất Phiên Ngung cậy có núi sông hiểm trở phía
đông và tây đến vài ngh́n dặm, lại có người Trung Quốc giúp đỡ, có
thể dựng thành một nước được, những bọn quân lại không kẻ nào đáng
mưu sự được nên triệu ông đến mà bảo. Bèn làm thư sai Triệu Đà làm
Quận úy Nam Hải. Nhâm Ngao chết,Triệu Đà liền đưa tờ hịch thông cáo
các cửa quan Hoành Bồ, Dương Sơn, Hoàng Khê, đều ngăn tuyệt đường
sạn đạo vận tải để giữ lấy đất của ḿnh, các châu quận đều hưởng ứng.
Nhân thế giết hết những trưởng lại của Tần đặt ra, và thôn tính cả
Quế Lâm, Tượng Quận đánh diệt vua An Dương, tự lập là Nam Vũ Việt
Vương, sai hai quan sứ trông coi hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Nước
ta từ đấy thuộc về Triệu. Vua Cao Tổ nhà Hán khi đă b́nh định được
thiên hạ, nghe Triệu Đà đă làm vua nước Việt, bèn sai Lục Giả đến
cho Triệu Đà cái ấn, lập làm Nam Việt Vương. Lục Giả đến, Triệu Đà
ngồi xổm cho Lục Giả vào yết kiến, Lục Giả nói rằng: "Vương vốn là
người Hán, thân thích phần mộ đều ở đất Chân Định, nay lại phản tính
giời, bỏ mũ đai, muốn chống với nhà Hán, chả lầm lắm ư? Nhà Tần thất
chính, hào kiệt đều nổi dậy, vua Hán diệt được họ Hạng, đó không
phải là nhân lực, là trời cho đấy. Nghe tin Vương làm vua đất này,
không nỡ mang quân sang miền nam mà đánh, chỉ sai sứ trao ấn thụ cho
nhà vua. Nhà vua phải ra ngoài cơi mà đón rước bái yết, sao lại
khinh thiên sứ như thế? Nếu vua Hán nghe tiếng, đem quân đánh nước
Việt, th́ Vua đối phó thế nào?". Triệu Đà vội vàng đứng dậy mà nói
rằng: "Tôi ở đây lâu ngày, quên mất lễ nghĩa". Nhân tiện hỏi
rằng:"Ta với Tiêu Hà, Tào Tham ai giỏi hơn?". Lục Giả nói rằng: "H́nh
như nhà vua giỏi hơn?". Triệu Đà lại hỏi: "Ta với Hán đế nhà Hán ai
giỏi hơn?". Lục Giả nói: "Hoàng đế nhà Hán nối nghiệp Ngũ Đế, Tam
Vương, thống trị cả Trung Quốc, đất hàng muôn dặm, chính quyền ở tay
một nhà, nhà vua ở góc bể, sao dám ví với nhà Hán?". Triệu Đà nói
rằng: "Ta giận rằng không khởi binh ở Trung Quốc, nên phải làm vua ở
đất này. Sao lại vội bảo ta không bằng nhà Hán?". Triệu Đà lưu Lục
Giả ở lại vài tháng, và nói: "Trong nước Việt không có ai đủ để nói
chuyện được, nay ông lại đây, khiến ta được nghe những điều mà ta
không được nghe", lại ban cho Lục Giả những ḥm đồ trang sức trị giá
đến ngh́n vàng. Đến khi bà Cao Hậu xưng làm vua, cấm Nam Việt mở chợ
bán đồ sắt, Triệu Đà nghe tin ấy nói rằng: "Vua Cao Hậu nghe lời
gièm pha, phân biệt Hán và Việt khác nhau, đó chắc là mưu mẹo của
vua nước Tràng Sa, muốn nhờ vào oai quyền nhà Hán, mưu toan thôn
tính nước ta để tự lập công". Rồi Triệu Đà tự xưng là Vũ Đế, đem
quân đi đánh vào bờ cơi Tràng Sa. Đánh được vài huyện rồi trở về.
Nhà Hán sai Long Lư Hầu là Chu Táo đánh nước Việt, để báo thù việc
đánh Tràng Sa. Triệu Đà nhân đó lấy binh uy chiêu phủ đất Mân, Việt
và đất Tây Âu, dùng lọng vàng, cờ đỏ ngang hàng với nhà Hán.
Vua Hán
Văn Đế lên ngôi, biết mồ mả cha mẹ tổ tiên Triệu Đà ở đất Chân Định
bèn cho đặt quan coi giữ thờ phụng, triệu con em Triệu Đà cho làm
quan, và cho các thứ phẩm vật rất hậu, sai Lục Giả làm sứ thần đưa
thư cho Triệu Đá. Thư rằng:
"Trẫm là
con vợ thứ Cao Hoàng Đế, v́ cớ Vương Hậu bất hoà với nhau, bất đắc
dĩ phải lên nối ngôi vua, được tin Vương đưa thư cho Long Lư Hầu yêu
cầu cho con em sang Nam Việt, và xin băi hai tướng của Tràng Sa.
Trẫm được thư, đă băi rồi. C̣n con em Vương ở đất Chân Định th́ trẫm
đă sai người thăm nom, và cho sửa sang phần mộ tiền nhân của Vương
rồi. Trước kia nghe Vương đem quân đến biên ải cướp bóc măi măi,
nước Tràng Sa khổ về việc ấy, vậy th́ nước của Vương có lợi riêng ǵ
không? Tất phải giết hại nhiều tướng sĩ, được 1 phần mà mất đi 10
phần, trẫm không nở làm, được đất của Vương cũng thêm to nào. Từ đất
Phục Lĩnh trở về nam, Vương vẫn tự trị; Vương lại tự hiệu là Đế, đó
là tranh với Trẫm đấy. Tranh giành không biết nhường nhịn, người
nhân giả không làm thế, mong rằng chúng ta bỏ hết hiềm khích khi
trước, lại sai sứ thần đi lại như xưa. Nay bảo cho Vương biết rơ bản
ư Trẫm, Vương nên nghe Trẫm, đừng gây ra cướp bóc tai họa nữa, nhân
tiện Trẫm cho đưa các thứ áo thượng trữ, trung trữ, hạ trữ mỗi thứ
12 cái cho Vương. Mong Vương tiêu hết mối lo buồn, lại thăm nom lân
quốc như xưa".
Lục Giả
đến, Triệu Đà tạ lỗi rằng: "Xin dâng tờ chiếu vua, làm kẻ phiên thần
nhà vua", bèn hạ lệnh cho trong nước rằng: "Ta nghe hai kẻ anh hùng
không cùng đứng đều nhau được, hai người hiền không cùng ở chung một
đời được. Hán Hoàng Đế là bậc Hiền Thiên tử, từ nay ta bỏ đế chế để
nhường vua Hán. Nhân thế thư từ đi lại với nhà Hán tự xưng là "Man
di đại trưởng lăo phu, thần là Đà, mạo muội liều chết dâng thư".
"Lăo phu
là quan lại nước Việt xưa, Cao Đế cho lĩnh ấn làm Nam Việt Vương, ân
t́nh rất hậu. Đến Cao Hậu phân biệt Hao, Di khác nhau, lại ra lệnh
rằng không cho nước Việt được có các đồ loại kim, sắt, đồ làm ruộng,
đến ngựa, trâu, dê chỉ cho con đực, không cho con cái. Lăo phu ở
riêng một góc trời đă lâu đời, tự nghĩ không được sửa sang tế lễ,
đáng có tội chết, đă sai sứ đến ba lần dâng thư tạ lỗi, đều không
thấy sứ trở lại; lại nghe nói phần mộ tổ tiên đă bị phá hủy, họ hàng
th́ bị tru diệt. V́ thế, bàn với quan lại rằng: Ở trong đối với Hán
không được phấn chấn, ở ngoài lại không có ǵ tự cao cho khác người,
nên mới đổi hiệu xưng là Đế, cũng chỉ làm vua nước ḿnh, chứ không
dám có ư ǵ đến thiên hạ. Cao Hậu tước bỏ quốc tịch Nam Việt, sứ
thần không được đi lại. Lăo phu trộm nghĩ vua cơi nước Tràng Sa đem
lời gièm pha, nên phải ra quân đánh vào bờ cơi nước Tràng Sa. Thấy
rằng miền nam là nơi ẩm thấp man di, nước Đông Mân, Tây Âu đều xưng
là Vương cả, lăo thần có xưng Đế, cốt để tư vui, đâu dám để lọt tai
Thiên Vương. Lăo phu ở nước Nam Việt đă 49 năm, nay đă có cháu rồi,
nhưng mà vẫn dậy sớm thức khuya, nằm không được yên, ăn không biết
ngon, là v́ không được phụng thờ nhà Hán đó. Bệ hạ thương đến mà cho
trở lại hiệu cũ, lăo phu dù có chết xương cũng không nát, vậy sai sứ
kính dâng ngọc bích, lông trả, tê giác, quế đố ( cà cuống), chim
công".
Lục Giả
được thư về báo với vua Hán. Vua Hán bằng ḷng lắm. Tự đấy Nam, Bắc
xếp việc binh đao, dân được yên nghỉ.
TRIỆU VĂN
VƯƠNG
Triệu Vũ
Đế là Đà mất, cháu là Hồ tự lập lên làm vua (con cả Trọng Thủy) gọi
là Văn Vương. Thời bấy giờ vua Mân Việt là Sính xâm phạm bờ cơi nước
Việt. Hồ giữ lời ước với nhà Hán, không dám thiện tiện dấy quân, sai
người mang thư kể rơ việc này với nhà Hán. Nhà Hán khen Hồ biết giữ
chức vị, hứa sẽ v́ Hồ dấy quân bèn sai Vương Khôi, Hàn An Quốc đánh
Mân Việt. Quân Hán chưa qua Ngũ Lĩnh, em vua Mân Việt là Dư Thiện đă
giết anh là Sính để đầu hàng. Bọn Vương Khôi bèn băi quân về. Vua
nhà Hán sai Trang Trợ đến dụ cho biết việc đó, Hồ cúi đầu nói: "Vua
Hán v́ ta mà hưng binh diệt Mân Việt, ta có chết cũng không đền được
ân", sai Thái tử Anh Tề vào Hán làm con tin, và bảo Trợ rằng: "Nước
ta mới bị giặc cướp, sứ giả hăy về, ta đang sửa soạn hành trang vào
triều kiến Thiên tử". Trợ về rồi, các đại thần can Hồ rằng: "Quân
Hán giết Sính, muốn làm kinh động nước ta. Vả lại tiên vương có nói
thờ nhà Hán, là để khỏi thất lễ, không nên nghe lời ngon ngọt của họ
mà vào triều kiến, nếu mà vào triều, th́ sẽ không được về, là mất
nước đấy". Hồ mới kêu đau không đi.
TRIỆU MINH VƯƠNG
Vua Văn
Vương Hồ mất, Thái tử là Anh Tề từ Hán trở về, lên làm vua, gọi là
Minh Vương, Lữ Gia làm quan Thái phó. Khi trước Anh Tề c̣n là Thế tử,
vào làm con tin ở Hán, lấy con gái họ Cù, quê ở Hàm Đan, sinh con
tên là Hưng, đến khi lên ngôi vua, dâng thư nói với Hán xin lập Cù
Thị làm Hoàng hậu, Hưng làm Thế tử. Nhà Hán sai sứ dỗ Anh Tề vào
chầu. Anh Tề sợ vào yết kiến phải dùng lễ phép nhà Hán, cũng như các
chư hầu ở nội địa, nên mới cáo là đau, không theo lời, sai con thứ
tên là Xuyết vào làm con tin.
TRIỆU AI
VƯƠNG
Vua Minh
Vương là Anh Tề mất, con là Hưng lên làm vua, gọi là Ai Vương, tôn
mẹ là Cù Thị làm Thái hậu. Khi trước Cù Thị chưa lấy Anh Tề, đă
thông gian với người ở Bá Lăng tên là Thiếu Quư. Nay nhà Hán sai
Thiếu Quư sang dụ Hưng và Cù Thị vào chầu, lại sai biện sĩ là Ngụy
Thần giúp Chung Quân cho nên việc. Quan Vệ úy là Lộc Quảng Đức mang
quân đóng đồn ở Quế Dương, để đợi sứ giả. Bấy giờ Vương c̣n nhỏ tuổi,
Cù Hậu thấy Thiếu Quư sang, lại tư thông với nhau. Người trong nước
biết chuyện, nhiều người không phục, Cù Thị sợ trong nước khởi loạn,
muốn cậy oai quyền nhà Hán khuyên Vương và quần thần cầu xin nội
thuộc cũng như chư hầu trong nội địa, bỏ cả biên thùy. Vua nhà Hán
bằng ḷng và ban cho Vương và Thừa tướng Lữ Gia mỗi người một cái ấn
bằng bạc, và được dùng phép độ nhà Hán, sứ giả lưu lại trấn phủ nhân
dân, Vương Hưng và Cù Thị sửa sang hành trang và lễ vật, để làm các
đồ vào triều kiến. Bấy giờ Lữ Gia tuổi đă già, làm tướng ba triều,
người trong nước tin cậy, nhiều người làm tai mắt cho ông. Ông vẫn
can Hưng đừng xin nội phụ vào Hán. Nhưng Hưng không nghe, nhân thế
nảy ra ḷng làm phản, xưng là đau, không ra tiếp kiến sứ giả nhà Hán.
Sứ nhà Hán chú ư đến Lữ Gia, nhưng chưa thể giết được. Cù Thị cũng
sợ Lữ Gia hành động trước, bèn đặt tiệc rượu ăn uống để giết Lữ Gia.
Trong tiệc, các đại thần đều ngồi chầu, khi mượn rượu, Cù Thị bảo Lữ
Gia rằng: "Nội thuộc vào nhà Hán là lợi của nước, sao tướng quân lại
không thuận?". Nói thế để khích giận sứ nhà Hán, nhưng nhà Hán hồ
nghi không dám khởi sự. Lữ Gia tức thời đi ra ngoài. Cù Thị giận lắm,
muốn cầm giáo đâm theo, Hưng gạt đi. Lữ Gia về đến nhà ngầm cùng với
các đại thần mưu khởi loạn. Vua Hán nghe biết Lữ Gia không chịu theo,
nhưng nghĩ rằng mẹ con Việt Vương đă có ḷng nội phụ rồi, một Lữ Gia
không làm ǵ được, bèn sai Trang Thám khởi binh, mang 2.000 người đi
sang Nam Việt. Thám nói rằng: "Nếu lấy việc ḥa hiếu mà đi, th́
2.000 người không làm ǵ được". Hán Thiên Thu đứng dậy tâu rằng: "Một
nước Việt nhỏ mọn, lại có Hưng và Cù Thị làm nội ứng, xin cho 300 vơ
sĩ, tất nhiên chém được đầu Lữ Gia mang tin về báo cho nhà Vua". Sứ
Hán cùng với Cù Lạc đi vào cơi đất Việt. Lữ Gia hạ lệnh cho người
trong nước rằng: "Vua c̣n bé, Cù Thị vốn người Hán, lại cùng với sứ
Hán loạn dâm, chỉ muốn nội phụ vào Hán, không nghĩ ǵ đến xă tắc họ
Triệu", Lữ Gia bèn giết Hưng, Cù Thị, và tất cả bọn sứ giả nhà Hán
rồi cáo bá cho các quận ấp, lập con trưởng Anh Tề là Kiến Đức là Vệ
Dương Vương. Bấy giờ tướng nhà Hán là Thiên Thu mang quân vào cơi
nước Việt, c̣n cách Phiên Ngung 40 dặm, Lữ Gia ra quân đánh diệt
được, rồi sai người niêm phong cờ tiết của sứ Hán để ở cửa Ải. Cho
quân đi giữ các nơi xung yếu.
Vua Hán
nghe tin, sai bọn Lộ Bác Đức và Dương Bộc mang năm đạo quân ở Dạ
Lang xuống Tường Kha, hội cả ở Phiên Ngung, để đánh nước Việt.
Kiến Đức
và Lữ Gia giữ thành chống cự lại. Dương Bộc đến trước đánh quân Việt,
phóng lửa đốt thành. Bác Đức đến theo, chiêu phủ bọn quân đă đầu
hàng, cấp cho cái ấn, lại sai sứ đi các nơi chiêu quân về. Trong
thành vốn nghe tên Bác Đức, đều xin hàng. Kiến Đức và Lữ Gia đương
đêm chạy xuống biển, dùng thuyền trốn đi. Bác Đức hỏi những quân đă
hàng, biết chỗ Lữ Gia ở, sai đuổi theo bắt được. Bấy giờ quân Dạ
Lang của Hán chưa xuống, mà nước Việt đă bị Bác Đức, Dương Bộc b́nh
định rồi, bèn chia đất Việt làm quận Nam Hải, Xương Ngô, Uất Lâm,
Hợp Phố cùng với Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Châu Nhai, Lam Nhĩ
cộng 9 quận đều đặt quan Thứ sử, Thái thú cai trị.
Trên đây
ngoại thuộc Triều khởi từ Vũ Đế đến Vệ Dương Vương cộng 97 năm.
Lời bàn.
- Xét: Trong năm Kiến Nguyên nhà Hán, Đường Mông đến nước Nam Việt,
vua nước Việt lấy củ Cẩu và tương của nước Thục cho Đường Mông ăn,
Đường Mông hỏi vật ấy từ đâu đưa lại, vua Việt nói: từ sông Tường
Kha. Đường Mông lại hỏi, người đi buôn nói, một đất Thục sao nhiều
củ Cẩu và tương đem bán ở đất Dạ Lang? Đất Dạ Lang ở liền sông Tường
Kha, có thể đi đến dưới thành Phiên Ngung. Đường Mông bèn dâng thư
nói với vua Hán rằng: Đất nước Việt phía đông và tây nam rộng hơn
muôn dặm, gọi là ngoại thần, thực ra chỉ là một châu. Thần trộm nghe
đất Dạ Lang có quân tinh nhuệ, có sông Tường Kha đó là một kỳ mưu để
chế ngự nước Việt. Vua Hán theo lời của Đường Mông, thế là nguyên
nhân gây binh hỏa ở nước Việt, khởi lên tự củ Cẩu và tương, mà nhà
Hán đánh nước Việt có lệnh ra quân tự đất Dạ Lang đi xuống sông
Tường Kha, là theo lời của Đường Mông.
Xét:
Triệu Đà làm một chức Lệnh ở cuối đời nhà Tần, thừa lúc loạn chiếm
cứ Lưỡng Quảng; Ở Trung Nguyên có Lưu và Hạng tranh nhau, không rỗi
thời giờ nh́n đến Lĩnh Nam. Rồi sau Cao Đế cũng đă chán việc binh,
Văn Đế càng sợ dùng vũ lực. Triệu Đà nhân cơ hội thôn tính đất Mân,
đất Ân, nghênh ngang lọng vàng xưng đế, để tự cao. Nhưng rồi biết
thế lực không thể chống với nhà Hán được, phải chịu nói nhún bỏ đế
hiệu, để vui ḷng vua Hán, càng thấy rơ quỉ quyệt của Triệu Đà. Thế
mới biết Triệu Đà có trí đủ đè được Tần, có mưu lược đủ khuất phục
được Hán, cho nên mở nước rộng muôn dặm, hóa bọn dân kết tóc ra dân
biết dùng mũ áo, xếp gươm giáo mà chỉ dùng ngọc lụa, lễ nghĩa, ôm
cháu mà vui, già vẫn không kém, cũng là một tay hùng kiệt thời bấy
giờ. Duy đối với nước ta th́ Triệu Đà không có công ǵ, mà c̣n là
mối họa đầu tiên đấy. Sao lại nói thế? Là v́: nước Nam từ đời Hoàng
đế đến đời nhà Chu, chỉ có sai sứ sang cống, tự thành riêng một nước.
Tuy hùng cường như Tần Thủy Hoàng, có đạo quân Vương Tiễn hùng mạnh
đánh đâu được đấy, mở mang Bách Việt, mà chưa từng nói đến Giao Chỉ.
Tự khi Triệu Đà chiếm giữ Ngũ Lĩnh, lại thôn tính cả nước An Dương,
được vài đời th́ mất, khiến cho đồ bản, sổ sách nước Nam phải nhập
vào nhà Hán, để làm lợi cho Trung Quốc, nào là châu báu chất đầy phủ,
quả quít và quả vải xếp thành nhà. Nếu không có Triệu Đà gây nên mối
binh đao, th́ tuy rằng Hán Vũ Đế có muốn mở rộng nước,thích lập công,
bất quá cũng chỉ diệt họ Triệu để lấy lại quận, huyện của nhà Tần
xưa mà thôi, chứ cũng không nuốt đến Giao Chỉ. Nước ta bị ngoại
thuộc vào nước Tàu từ đời Hán đến đời Đường, truy nguyên thủ họa cho
Triệu Đà th́ c̣n ai nữa? Huống chi Triệu Đà chia nước ta làm quận
huyện, duy chỉ biết biên số thổ địa, thu thuế má, cung cấp ngọc bích
cho nhà Hán, lấy túi tham của Lục Giả thôi. C̣n về phần giáo hóa,
phong tục không để ư đến một chút nào. Việc cày cấy là cỗi gốc lớn
để nuôi dân, việt hôn thú là luân thường lớn của dân sinh, lại phải
đợi đến giáo hóa của Tích Quang, Nhân Diên, bảo là có công đức mà
như thế à? Đến việc xướng ra cơ nghiệp Đế vương trước tiên, tán tụng
Triệu Đà có công to, Lê Văn Hưu sáng lập ra sử chép như thế, Ngô Sĩ
Liên theo cách chép hẹp ḥi ấy, không biết thay đổi, đến như bài
tổng luận sử của Lê Trung, thơ vịnh sử của Đặng Minh Khiêm thay nhau
mà tán tụng, cho Triệu Đà là bậc thịnh đế của nước ta. Qua hàng ngàn
năm mà không ai cải chính lại, v́ thế mà tôi phải biện bạch kỹ càng.
Sử thần
bàn rằng: Người trước có câu: " Nước đến lúc loạn mới mong có vị
tướng giỏi, nhà lúc bị suy là khởi sự tại đàn bà". Cù Thị là một gái
trăng hoa ở Hàm Đan, may gặp được con tin của nước Nam mà nhảy lên
ngôi Hoàng hậu một nước. Đạo làm vợ, cách làm mẹ, ơn của chồng, mưu
cho con, khởi hữu thị lại mờ mịt không biết ǵ sao? Lại c̣n thèm
muốn trai đẹp, cam tâm làm tỳ thiếp cho Hán, con đàn bà dâm ô điên
cuồng như thế, chả trách làm ǵ. Chỉ có vị sứ thần của Trung Quốc há
lại không có một người nào có thể sai được, mà tất phải dùng đến gă
thiếu niên t́nh nhân của Cù Thị, có phải rơ ra cái ư đưa mỡ đến
miệng mèo, c̣n có cái ǵ quá quắt hơn thế nữa không? Lữ Gia cầm quốc
chính, giữ binh quyền, nếu thấy có một chút trái mắt, phải ngăn cấm
ngay, những lời ở sứ quán không cho lọt vào cung cấm, bọn con sen,
con nụ không được vào cung vua, lấy lễ mà tiếp sứ thần, lấy lời nhũn
nhặn nói lại cùng vua, bề ngoài th́ hết ḷng thành kính nước lớn,
bên trong th́ pḥng bị ngăn ngừa việc chinh chiến, họ biết nước ḿnh
có người giỏi, tự nhiên phải bỏ ḷng tham thôn tính, mà ngăn được
nạn binh đao. Nhưng lại mặc cho Cù Thị tư t́nh với Thiếu Quư, để
chúng bàn nhau thành âm mưu đi sang Hán, đến lúc đă sắp sửa hành
trang rồi, mới dâng thư can gián, bất hoà trong bữa tiệc, xảy ra cái
mưu khởi loạn, đến khi quân Hán đă vào đất nước rồi, không có kế ǵ
đối phó, chỉ làm cho chóng mất nước. Xem thế th́ biết sự dâm ô của
Cù Thị và sự ngu muội của Lữ Gia, và nguyên nhân họ Triệu mất nước
đă có ngay từ lúc mới lấy Cù Thị làm cung phi và khi đặt Lữ Gia lên
ngôi Thừa tướng đó vậy.
1) Lĩnh
Nam, vùng đất từ Quảng Tây- Quảng Đông (Trung Quốc) trở về phía nam
gọi là Lĩnh Nam.
2) Lục
Lương. Thời Tần gọi là đất hai tỉnh Quảng Đông - Quảng Tây (Trung
Quốc) là Lục Lương.
3) Quốc
Lâm. Nay là tỉnh Quế Lâm (TQ).
4) Nam
Hải. Nay là tỉnh Quảng Đông (TQ).
5) Tượng
Quận. Quận do nhà Tần đặt, song chỉ có tên, chưa có đất và chưa có
bộ máy hành chính cấp quận. Xưa nay nhiều người
lầm Tượng
Quận bao gồm cả đất Việt Nam ngày nay.
6) Long
Xuyên: Một huyện của quận Nam Hải.
7) B́nh
Giang, nay là sông Đuống.
8) Nay là
đền Cuông, thuộc xă Diễn An, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
9) Nay là
làng Đồng Xâm, xă Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái B́nh.
10) Nay
thuộc tỉnh Hà Bắc(TQ)
Ngoại Thuộc Tây Hán
Hán đă
diệt Triệu rồi, th́ nước Nam ta thuộc về nhà Hán.
Khi vua
Vơ Đế, Thạch Đới làm Thứ sử Giao Chỉ, đời vua Chiêu Đế, Chúc Lương
làm Thái
thú Giao
Chỉ, đóng ở Long Biên, về đời Đông Hán, đóng ở Mi Linh (1).
Khi Vương
Măng cướp ngôi, quan mục Giao Chỉ là đặng nhượng cùng với các quận
ai nấy đều đóng giữ bờ cơi của ḿnh giữ cho Giao Chỉ và các quận đều
yên ổn.Đến khi Quang Vũ khởi binh, tướng Sầm Bành(vốn quen thân với
Đặng Nhượng) nói rơ cho Đặng Nhượng biết oai đức của Hán, bấy giờ
Đặng Nhượng mới dẫn cả lũ Thái thú Giao Chỉ là Tích Quang vào cống
hiến nhà Hán, Hán phong cho tất cả làm Liệt hầu. Tích Quang là người
Hán Trung, khi ở Châu dạy cho dân biết lễ nghĩa. Lại có Nhâm Diên,
là người Uyển, làm Thái thú Cửu Chân, dân quận Cửu có nghề đánh cá
và đi săn, không biết việc cày cấy, Nhâm Diên sai đúc ra cái cày,
cái bừa làm điền khí, dạy dân khai khẩn ruộng đất, dân sự no đủ.
Nhâm Diên lại thấy dân không biết lễ phép giá thú, bèn dạy cho biết
trai gái tuổi ngang nhau th́ kết làm vợ chồng, người nào nghèo không
có tiền làm lễ cưới, ông lấy tiền lương bổng giúp cho, thời bấy giờ
một lúc có đến 2000 người lấy nhau, khi sinh đẻ con, mới biết họ và
ṇi giống, bảo nhau rằng: "Ta có đứa con này là nhờ ở Nhâm quân đây".
Nhiều người c̣n lấy tên ông đặt tên cho con ḿnh. Nhâm Diên làm quan
4 năm, được triệu về nước, người quận Cửu Chân lập sinh từ thờ cúng
ông.
Lĩnh Nam
ta có phong tục văn minh là tự hai quan Thái Thú kể trên đây. Đến Tô
Định th́ tham bạo, bà Trưng Trắc ở Phong Châu khởi binh đánh đuổi Tô
Định.
Trên này
nước ta thuôc về Tây Hán, từ năm Tân Mùi niên hiệu Nguyên Phong thứ
nhất, đến năm Kỷ Hợi niên hiệu Kiến Vũ thứ 15 cộng 149 năm.
Sử thần
bàn rằng: Nước ta ở xa xôi giáp biển Nam, văn hoá của Chu, Hán thấm
nhuần hơi chậm, được có Tích Quang dạy cho biết lễ nghĩa, Nhâm Diên
dạy cho biết luân lư vợ chồng, giáo hoá đời bấy giờ thành ra văn hoá
muôn đời, làm cho nước ta thành một nước văn hiến, được Bắc triều
trọng và các nước kính nể, xét cùng nguyên nhân th́ công hai ông to
lắm vậy.
TRƯNG NỮ
VƯƠNG
Họ Trưng,
tên là Trắc, là con Lạc tướng ở huyện Mê Linh(2), Phong Châu(3), là
vợ Thi Sách người huyện Chu Diên(4), khởi binh hai năm, đóng ở Mê
Linh.
Vương là
người con gái, hô một tiếng mà đuổi được Thái thú nước Tàu, như đuổi
đứa nô bộc, lấy lại được đất Ngũ Linh, kiến quốc tự xưng làm Vua,
cũng là bậc hào kiệt trong hàng nữ lưu. Nhưng mà tài đàn bà yếu ớt
đang lúc vận nước c̣n bĩ, không làm trọn được công nghiệp.
Trưng Trắc khởi binh đánh Thái thú Tô Định đuổi về Tàu. Xưa kia
chồng bà Trắc bị Tô Định giết chết. Bà Trắc căm thù Tô Định, lại khổ
v́ nỗi Tô Định lấy pháp luật ràng buộc dân, bà bèn cùng em gái là bà
Nhị khởi binh đánh, vây hăm châu lỵ, Tô Định phải chạy về Hán. Bà
Trắc rất hùng dũng, đi đến đâu như gió lướt đến đấy, dân quận Nam
Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, những mán mường đều hưởng ứng theo
bà, b́nh định được hơn 50 thành ở Lĩnh Nam, tự lập làm Vua.
Khi bà
Trắc ra quân, chưa hết tang chồng, Bà ăn mặc quần áo đẹp, các tướng
hỏi Bà, Bà trả lời rằng: "Việc binh phải ṭng quyền, nếu giữ lễ làm
dong nhan xấu xí, th́ tự làm giảm nhuệ khí, nên ta mặc đẹp để làm
cho thế quân hùng tráng; vả lại lũ kia thấy thế, tâm động, nhụt bớt
chí khí tranh đấu, th́ ta có dễ phần thắng". Mọi người tạ rằng không
nghĩ kịp. Nhà Hán thấy bà Trưng công hăm được thành ấp, bèn sai quận
Tràng Sa, Hợp Phố sắp đủ xe thuyền, sửa chữa cầu, đường, khơi đầm
khe, chứa sẵn lương thực, cho Mă Viện làm Phục Ba Tướng quân, Lưu
Long làm Phó tướng, đưa quân sang đánh. Mă Viện theo bờ biển mà tiến
quân, trèo núi, chặt cây, đi hơn ngh́n dặm đến hồ Lăng Bạc(5), đánh
nhau với Trưng Vương. Trưng Vương thấy quân nhà Hán thế mạnh, tự
nghĩ quân ḿnh ô hợp sợ không chống nổi bèn lui về giữ ở Cấm Khê(6).
Quân lính cũng nghĩ Vương là người con gái, không thể địch với tướng
Hán được, đều tự vỡ chạy. Mă Viện đuổi theo đến huyện Nghinh Phong,
quân Bà Trưng phải tan ră. Đất Lĩnh Nam b́nh định xong, bèn lập cột
đồng ở Lĩnh Nam để làm cương giới nhà Hán. Mă Viện đặt lại chế độ cũ
để ràng buộc dân chúng. Sau đó Việt Lạc chỉ phụng hành việc cũ của
Mă Tướng quân, nước Việt ta lại thuộc về nhà Hán. Người đời sau
thương mến Trưng Vương lập đền thờ hai Bà, ở bờ sông Hát Giang,
huyện Phúc Lộc(7).
Xét quân
Hai Bà Trưng bị thua chạy đến núi Hy Sơn, rồi không biết đi đâu.
Trong đền thờ hai Bà Trưng, phàm những đồ thờ tự đều sơn đen, tuyệt
không có sơn đỏ, dân địa phương ấy không dám mặc áo đỏ, những khi
đến yết cáo, ai có mặc áo đỏ đều cởi bỏ đi, không ai dám xúc phạm
đến cấm lệ. Tục truyền rằng Trưng Vương chết v́ việc binh đao, nên
kiêng sắc đỏ, v́ giống như máu.
Trên đây
Trưng Vương khởi tự năm Canh Tư năm thứ 16 niên hiệu Kiến Vũ, cộng
ba năm.
Sử thần
bàn rằng: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam là đất nước Thục, không giữ
được mà bị mất về họ Triệu, Nam Hải, Xương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố là
đất của họ Triệu, không giữ được mà bị nhà Hán thôn tính. Bà Trưng
là một người đàn bà góa ở Giao Chỉ, không có một thước đất, một
người dân, chỉ vị báo thù chồng mà khởi binh đánh một trận, cả 6
quận đều theo, định được 56 thành dễ như lấy đồ vật trong túi, làm
cho bọn quan lại, Thú, Úy cai trị trong thời gian 150 năm, phải bó
tay không dám làm ǵ Than ôi! Cái khí anh linh của trời đất, không
chung đúc vào người con trai, mà lại dung đúc vào người con gái, nếu
có phải ḷng trời tựa Lạc Việt, th́ có thể lấy cả được Kinh, Dương,
đâu lại chỉ có đất Ngũ Lĩnh mà thôi.
Nguyễn
Nghiễm bàn rằng: Từ khi Cù Thị gây ra tai nạn, quân Hán kéo sang,
bảy quận Lĩnh Nam đều về tay người Hán. Sau đó những người có trách
nhiệm chăn dắt dân, ngoài hai ông Nhâm Diên, Tích Quang ra, c̣n lũ
Thạch Đới và Chúc Lương tuyệt không có chính sự ǵ, mà c̣n tham lam,
hà khắc, dân không chịu nổi. Như lũ Tô Định có thể nào dung cho
chúng làm càn một ngày nào được nữa. Bà Trưng Vương nổi giận, khích
lệ đồng bào, nghĩa binh đi đến đâu, gần xa đều hưởng ứng, 50 thành
Ngũ Linh đều khôi phục được hết, dân sự đang khổ sở đắng cay, lại
được trông thấy mặt trời. Bà quả là bậc anh hùng hơn người nhiều lắm,
tuy rằng một đám quân mới tập hợp, mới nhóm lên đă tan vỡ, nhưng
cũng hả được ḷng phẫn uất của thần, nhân. Lại c̣n điều đáng cảm
động là: cơ nghiệp phú cường của họ Triệu, bị cướp đoạt v́ tay một
con đàn bà ở Hàm Đan, thời đại luân một của đất nước gần thu phục
được, do một vị nữ chúa ở Mê Linh; mà bọn tu mi đời bấy giờ cam chịu
cúi đầu bó tay làm tôi tớ cho người, chả đáng hổ thẹn lắm sao?.
Sách
thông luận bàn rằng: Không ǵ khó thu phục được là nhân tâm, không
ǵ khó nắm giữ được là quốc thế: lại càng khó nữa là một người đàn
bà mà tập hợp được cả nhân dân trai tráng làm đồng chí. Nước ta bị
ngoại thuộc đă lâu, phục ṭng pháp chế cho là quen, bị bọn tướng lại
thống trị cho là việc thường ngày, huống chi đương lúc nhà Hán trung
hưng, thu thập được nhiều tay trí dũng, ai dám chống cùng oai hổ.
Trưng Vương là đàn bà góa, búi tóc đứng lên, những con trai trong
nước đều cúi đầu chịu Bà chỉ huy, các quan to ở năm mươi thành cũng
đều nín hơi, không dám kháng cự. Lưu Văn Thúc là người diệt được
quân hùng, chống nổi lại địch, mà khi tập binh khiển tướng, c̣n phải
ăn trưa ngủ muộn lo nghĩ cơ mưu. Mă Phục Ba làm cỏ nước Tiên Linh,
phá tan đất Tham Lang, mà khi đóng quân ở Lăng Bạc, cũng phải lo xa
nghĩ kỹ, náu h́nh ở bên hồ sâu. Tiếng tăm hùng dũng của Bà chấn động
cả Trung Hoa, cơ nghiệp mở mang của Bà dọc ngang trong trời đất,
thật là anh hùng.
Trong
sách Bắc sử về đời Hán, Đường, cũng có vua đàn bà, như họ Lă, họ Vũ,
nhưng đều là nhờ thế đă làm mẫu hậu rồi, mà nắm lấy quyền nhân chủ,
th́ dễ dàng lung lạc được trong nước, múa may với đàn trẻ. Đến như
Bà Trưng là một đàn bà b́nh thường mà khởi lên được th́ khó lắm. Xem
trong Nam sử khi ngoại thuộc Lương và Trần, có ông Lư Nam Đế, Triệu
Việt Vương, sẵn là cường hào, hay là gia thế, ḷng người đă sẵn qui
phục, thế nước đă có hơi xu hướng mà khởi lên c̣n có phần dễ; đến
như Bà Trưng là con gái th́ lại khó lắm. Tuy thế cũng chưa lấy ǵ
làm kỳ cho lắm. Vợ trả thù cho chồng, em giúp việc cho chị, một là
tiết phụ, một là nghĩa nữ, vào cả một nhà, thế mới là kỳ. Ông vua bị
mất nước, hoặc là bị bắt, hoặc là đầu hàng; con gái ở cảnh nhà tan,
hoặc phải bỏ đi, hoặc bị tủi nhục. Bà chị mất nước, bà em cũng tuẫn
tiết theo chị, không chịu đầu hàng cũng không chịu để bắt, người
chồng ở dưới đất được nhắm mắt, kẻ gian tà trông thấy thế phải cúi
đầu. Vua tôi Văn Thúc (tướng Hán) không làm ǵ nổi. Chết rồi mà
tiếng thơm vẫn c̣n. Thế mới càng kỳ nữa. Than ôi! Hồng nhan trẻ đẹp
xưa nay chôn vùi biết đă bao người. Nhưng từ Nữ Oa có việc động trời
đến giờ, chỉ có hai chị em Bà Trưng nữa đấy thôi. C̣n Bà Triệu th́
chưa đáng kể.
1) Nay thuộc Mê Linh, Vĩnh Phúc.
2) Mê
Linh. Nay thuộc đất các huyện Ba V́, Thạch Thất, Quốc Oai, tỉnh Hà
Tây.
3) Châu
Phong. Vùng Bạch Hạc, Việt Tŕ, tỉnh Phú Thọ.
4) Chu
Diên. Nay thuộc đất các huyện Mê Linh, Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
5) Lăng
Bạc. Nay thuộc vùng 2 bên sông Cầu đoạn ngang và quá thị xă Bắc Ninh.
6) Cấm
Khê. Nay thuộc Suối Vàng, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây.
7) Nay có
đền thờ Hai Bà Trưng ở Hát Môn, xă Hát Môn, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà
Tây.
Ngoại Thuộc Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương
Ngô Tôn
Quyền cho Bộ Chất làm Thứ sử giao Châu, Bộ Chất từ đất Phiên Ngung
tiện đường đi đến thẳng chỗ làm quan. Thời bấy giờ Thái thú quận
Xương Ngô là Ngô Cự âm mưu sing nhị tâm. Bộ Chất dụ đến bắt chém,
bởi thế anh em Sỉ Nhiếp cùng kéo nhau đến xin vâng lệnh, Tôn Quyền
gia cho Sĩ Nhiếp chức Tả tướng quân. Sĩ Nhiếp dụ hào trưởng ở Ích
Châu là Ứng Khải quy phụ, Ngô Tôn Quyền càng khen Sĩ Nhiếp, phong
cho tước Long Biên hàu. Không được bao lâu Sĩ Nhiếp chết. Trước kia
Nhiếp đă bị bệnh, chết đi một ngày rồi có người tiên là Đổng phụng
cho một viên thuốc, lấy nước ngậm uống, ôm lấy đầu mà lay, chốc lát
mắt mở ra tay cử động được, độ nữa ngày th́ ngồi dậy như thường, đến
năm ây mới chết, đă 90 tuổi, làm quan ở châu 40 năm.
Ngô Tôn
Quyền cho là Giao Châu xa xôi, sai Lă Đại, Đới Lương đi đến trước.
Đới Lương đi đến
Hợp Phố,
con Sĩ Nhiếp là Sĩ Huy đă tự lên làm Thái thú, cho quân ta chống cự,
người lại cũ của Nhiếp Sĩ là Hoàng Lân can Sĩ Huy, bảo nên ra đón
Đới Lương, Huy giận, dùng roi đánh chết Hoàng Lân. Lă Đại phụng
chiếu của Ngô Tôn Quyền đi giết Sĩ Huy, từ Quảng Châu đem quân cùng
với quân Đới Lương đi trước, trước hết đưa thư dụ bảo nghĩa hoạ phúc,
anh em Chỉ Huy 6 người bỏ tay áo hở thịt, đi nghênh tiếp Lă Đại. Lă
Đại kể tội của anh em Sĩ Huy, rồi sai chém hết. Vua Ngô cho là đất
nam đă thanh định rồi, triệu Lă Đại về. Tiết Tổng sợ rằng người thay
Lă Đại không được giỏi, dâng sớ nói rằng: "Giao Châu đất rộng dân
nhiều, non sông hiểm trở dân dễ khởi loạn, việc kén chọn trưởng lại,
hông xét kỹ càng, để đến nỗi xâm ngược nhân dân, cưỡng áp thu thuế,
một con cá vàng, đánh thuế một đấu thóc, Chu Phù kết oán với dân,
nên sinh ra trộm cướp, châu quận bị phá. Lă Đại b́nh được loạn Sĩ
Huy, oai ra muôn dặm, nhớn nhỏ đều vâng theo. Cứ xem thế, sự làm cho
nước yên dân mến, cốt tại dùng được người giỏi, ở ngoài đất hoang
vắng, việc hoạ hay phúc có ảnh hưởng nhiều lắm, vậy th́ kén nhọn
quan cai trị không thể không xét kỹ càng được". Vua Ngô bèn cho Lă
Đại làn Trấn Nam tướng quân, phong tước Phiên Ngung Hầu.
Sách Giao
Chỉ chí chép: Trong núi quận Cửu Chân có người con gái là
Triệu Ẩu,
cao 1 trượng 2, vú dài ba thước, không lấy chồng, kết đảng cướp bóc
quận huyện, thường mặc áo lụa vàng mỏng, đi dép sừng, cưỡi voi ra
trận chiến đấu, bị Thứ sử là Lục Dẫn đánh thua, sau chết làm thần,
việc này xuất xứ ở sách Thiên Trung Kư.
Sử thần
bàn rằng: Từ khi nước ta ngoại thuộc các quan Thú, Mục thay đổi luôn,
chưa có ai ở châu được lâu như Sĩ Phủ Quân. Theo sử chép, th́ ông ở
với Hán không bỏ chức cống, ở với Ngô cũng cống hiến như thường, tuy
có tiếng là đổng đốc cả bảy quận, nhưng thực ra thu thuế má, chi
dùng ăn mặc trông vào có Giao châu thôi. Trong thời gian 40 năm cung
ứng cũng nhiều, tài lực một châu lấy ǵ chịu nổi, sở dĩ quốc dân
không chán ông, là v́ ông tự xử khiêm tốn, khéo vỗ về dân, người
châu lậu ngày càng thêm tín nhiệm, đă không có ḷng phản bội, lại
không ai kêu ca về nỗi tham khắc. Nhân sĩ Hán đến nương nhờ, th́ vui
được chơ ở yên, sứ thần nước Ngô mỗi lần đến, th́ khéo thù phụng,
cho nên bên trong th́ được ḷng người Việt, bên ngoài th́ được vua
Ngô tin yêu, có thể gọi là người khôn đấy. Đến con là Huy, không
biết lượng sức ḿnh, để đến nỗi chóng mất nước, đáng thương lắm.
Nước ta thông hiểu sách vở, học tập lễ nghĩa, thành ra nước van hiến
bắt đầu từ Sĩ Vương. Công đức ấy truyền măi đến đời sau, há chả
thịnh lắm ru? Sau khi đă mai tán ông rồi, đến đời Tấn là 160 năm sau
người Lâm Ấp vào cướp, đào mả ông lên, h́nh thể và dung nhan vẫn như
người c̣n sống, chúng sợ lắm, lại phải đắp mả lại như cũ, người ta
cho là thần, lập miếu thờ phụng, gọi là Sĩ Vương Tiên, là v́ khí
linh thiên không tiêu tán đó.
Tư Mă
Viêm nhà Tấn mới nhân Vua Ngụy truyền ngôi cho, cử Dương Tắc làm
Thái thú Giao Chỉ. Thái thú của nước Ngô là Đào Hoàng chống với
Dương Tắc, đánh nhau ở Phần Thủy, chết mất hai tướng, Giám quân là
Tiết Hủ giận lắm, bảo Hoàng rằng: "Tự dâng biểu xin đánh giặc mà để
mất 2 tướng, th́ trách nhiệm ở ai?". Đạ Hoàng trả lời: "Hạ quan
không được làm theo ư ḿnh, chư quân lại không ḥa thuận, nên đến
nỗi thua trận". Đến đêm đem vài trăm quân tập kích, lấy được các bảo
vật, Hủ bèn tạ lỗi với Hoàng. Đào Hoàng lại theo đường biển đi tắt
đến Giao Châu, các tướng đều muốn đánh ngay, Đào Hoàng nghi rằng
trong thành có phục binh, bèn để toán quân cầm giáo dài ở đằng sau,
hai bên vừa tiếp chiến th́ quả nhiên phục binh kéo ra, dùng quân cầm
giáo dài đón đánh, bắt được Dương Tắc đưa về nộp nước Ngô.
Hoắc Giặc
nhà Tấn sai Dương Tắc đi đóng giữ Giao Châu, có lời thề rằng: "Nếu
giặc vây thành chưa được một trăm ngày mà thành mất, th́ Thứ sử phải
chịu tội". Đến khi Hoàng vây thành chưa đầy một trăm ngày mà lương
đă hết, Tắc xin đầu hàng, Hoàng không cho, cấp lương cho mà bắt cứ
phải giữ thành, người Ngô đều can, Hoàng nói rằng: "Hoắc Giặc đă
chết, c̣n ai lại cứu, đợi đủ nhật kỳ sẽ cho, để cho nó đến đây mà
không bị tội, ta lấy thành cũng có nghĩa, chả hay hơn ư?". Về phần
Tắc th́ lương thực hết, quân cứu viện không đến, bèn nhận cho hàng.
Tắc đă hàng rồi, quan Công Tào là Lư Tộ c̣n giữ quân không chịu hàng,
cậu Lư Tộ là Tê Nhiếp đầu hàng, đi theo khuyên Tộ nên hàng, Lư Tộ
trả lời rằng: "Cậu là tướng nước Ngô, tôi là tướng nhà Tấn, chỉ
trông vào lực lượng đó thôi" và vẫn giữ thành không chịu hàng, qua
một thời kỳ thành mới bị hạ.
Hoàng là
người có mưu lược, ai cũng vui ḷng để cho Hoàng sai khiến, nên đi
đến đâu là thành công.
Vũ B́nh,
Cửu Đức, Tân Xương là nơi hiểm trở, quân Mán Mọi hung tợn, đă mấy
đời không chịu thần phục, Hoàng đánh b́nh được hết. Gặp lúc ấy vua
Ngô là Tôn Hạo đầu hàng nhà Tấn, xuống chiếu bảo Hoàng quy thuận,
Hoàng nhỏ nước mắt mà sai sứ giả đưa ấn tín đến Lạc Dương, vua Tấn
xuống chiếu phục chức cho Hoàng. Thời bấy giờ nước Ngô đă b́nh được
rồi, nhà Tấn xuống chiếu giảm bớt quân các châu quận, Hoàng dâng sớ
nói rằng: "Giao Châu là nơi hoang vắng ở cách xa hẳn một khu, phía
ngoài phải chống với Lâm Ấp và liền với Phù Nam, nước này cậy nước
hiểm trở không chịu thần phục, đời đời làm mối lo cho biên cương
Thần trước làm người của nước Ngô, đóng giữ ngoài biên giới đến 10
năm, tuy đă giết được kẻ cừ khôi của chúng, nhưng mà đất ấy có núi
hang sâu xa hẻo lánh, vẫn c̣n những kẻ ẩn núp trốn tránh ở đó, vậy
chưa rút bớt số quân, tỏ ra ḿnh lẻ loi trống rỗng. Sự biến cố xảy
ra bất thường, thần là người của nước đă mất, lời nói chả đáng nghe,
nhưng đă ở chỗ đó, sở kiến thế nào giám xin mạo muội bày tỏ". Vua
Tấn nghe theo. Hoàng ở châu 30 năm, có oai và ân huệ với dân, khi
mất cả châu kêu khóc như mất người mẹ hiền vậy.
Hoàng đă
chết rồi, quân đồn thú quận Cửu Châu khởi loạn, Thứ sử là Ngô Ngạn
đánh b́nh được, ở lại 25 năm, dân trong châu yên ổn, tự dâng biểu
xin người khác thay, vua Tấn cho Cố Bí đến thay, chưa được bao lâu
th́ chết. Dân châu ấy bức ép con Cố Bí là Tham nhận lĩnh việc châu.
Tham chết, em là Thọ cố xin thay chân Tham, nhưng người trong châu
không nghe. Đốc Quân ở bộ hạ là Lương Thạc đánh giết Thọ. Thọ bèn
giữ châu, chuyên chế công việc, sợ dân t́nh không thuận, bèn rước
con Hoàng là Uy đến lĩnh chức Thứ sử, khi tại chức rất được ḷng dân,
đến khi chết, em là Thục, con là Tuy nối nhau làm Thứ sử. (Họ Đào từ
Đào Cơ đến Đào Tuy được 4 đời, đều làm Thứ sử Giao Châu).
Sử thần
bàn rằng: Giao Châu ta từ khi ngoại thuộc Tây Hán triều đ́nh chú
trọng việc kén chọn Thứ sử, chưa bị phải người xấu lạm chức, cũng
chưa từng cho Thứ sử được chuyên quyền. Từ anh em Cố Tham, Lương
Thạc, Đào Huy đều ở ngoài tự nhận làm Thứ sử, có lẽ v́ nhà Tấn đương
lúc nhiều việc, cho nên chưa kịp hỏi đến việc ấy chăng?.
Lương
Thạc giữ Giao Châu, hung bạo làm mất ḷng dân chúng. Nhà Tấn cho
Vương Lượng làm Thứ sử, sai đánh Thạc. Thạc vây Lượng ở trong thành
Long Biên, cướp cờ tiết và ấn của Lượng. Nhà Tấn cho Đào Khản làm đô
đốc mọi việc quân ở Giao Châu, Khản sai Tham quân là Cao Bảo đánh
chém được Thạc, Giao Châu mới b́nh định được. NgườI nước Lâm Ấp,
Phạm Hồ vào cướp quận Cửu Chân, Thứ sử là Đỗ Tuệ Độ đánh bại quân
Lâm Ấp. Nước Lâm Ấp xin hàng. Tuệ Độ làm quan châu ấy, cấm việc cúng
bái nhảm, sửa sang nhà học, năm đói th́ chẩn cấp cho dân, làm việc
công kỹ lưỡng cũng như việc nhà, nên dân yêu mến lắm, cửa thành bỏ
ngơ cả đêm, ngoài đường không ai thèm nhặt của rơi. Đến khi ông chết,
con là Hoằng Văn nói chức, được tập tước Long Biên hầu. Hoằng Văn ba
đời làm Thứ sử ở quận (tổ là Đỗ Viện, cha là Tuệ Độ) đến năm ấy bị
triệu về nước, đi đến Quảng Châu th́ mất.
Vua nước
Lâm Ấp là Phạm Dương Mại lại quấy nhiễu biên thùy, mang quân cả nước
vào cướp. Tự đấy hai bên biên giới mới nhiều việc.
Nước Lâm
Ấp vốn là đất Tượng Quận của Tần, phía đông là biển, phía tây giáp
nước Qua Oa, phía nam thông với nước Chân Lạp, phía Bắc tiếp giáp
Hoàng Châu nước ta. Khi xưa Dương Mại mới đẻ ra, mẹ y nằm mộng thấy
người mang cho vàng, người man di gọi vàng là dương mại. Năm ấy đưa
quân vào cướp là Dương Mại con, chứ không phải Dương Mại cha vậy.
Lê Văn
Hưu bàn rằng: Khỏe như Bôn và Dục mà c̣n bé, cũng không thể chống
nổi người nhớn tuổi đi khập khễnh và yếu đuối, nước Lâm Ấp quấy
nhiễu Cửu Chân, lại sai sứ cống nhà Tống, xin lĩnh cả đất Giao Châu,
không biết tự lượng là ḿnh khập khễnh và gày c̣m đó. Rồi sau vua Lư
Thái Tôn chém vua Lâm Ấp là Chế Củ mới biết rằng không có thời vận
nào bĩ măi, khi khuất tất có khi thân.
Thời bấy
giờ nước Lâm Ấp tuy tiến cống nhà Tống, mà vẫn cướp biên giới, vua
Tống giận Lâm Ấp là trái phép và ngạo mạn, sai Đàn Ḥa Chi đi đánh.
Người Nam Dương là Tông Xác đời đời giữ nghiệp nho, duy có Xác thích
nghề vơ, thường nói: "Chí muốn cưỡi gió giời, phá sóng biển". Đến
bấy giờ đi ṭng quan, làm tiền phương mang quân ẩn nấp đón đánh. Hạ
được thành đạt Khu Lật, thừa thắng thế đi vào Tượng Phố, Dương Mại
mang quân cả đến đánh, trang bị bằng voi, trước sau nhiều vô kể,
Tông Xác nói: "Ta nghe biết loài sư tử oai phục được các loài thú".
Bèn chế ra h́nh sư tử để chống với voi, quả nhiên voi sợ chạy. Dương
Mại chỉ chạy thoát được thân, bắt được các quí lạ, đều là vật không
biết gọi là ǵ, Xác không hề lấy một tư ǵ, chỉ có đồ dùng sơ sài
như quần áo, khăn lược, v́ có công ấy được phong là Vân Xă Hầu.
Nước Tề
dùng Pḥng Pháp Thừa làm Thứ sử Giao Châu. Pháp Thừa chỉ thích đọc
sách, không làm việc. Trưởng lại là Phục Đăng Chi nhân thế mới được
chuyên quyền, thay đổi tướng lại, Pháp Thừa giận giam Đăng Chi vào
ngục. Đăng Chi đút lót cho Thôi Cảnh Thục là chồng của em gái Pháp
Thừa, được tha ra. Bèn mang quân bộ hạ của ḿnh đánh úp châu thành,
bắt Pháp thừa giam ở nhà riêng, Pháp Thừa lại xin chỉ đọc sách. Đăng
Chi không cho, bảo rằng: "Sứ quân tĩnh dưỡng c̣n sợ nổi bệnh, không
nên đọc sách". Đăng Chi tâu về triều đ́nh rằng: "Pháp Thừa có bệnh ở
tâm, không làm việc được". Vua Tề cho Đăng Chi làm Thứ sử (đọc sách
là việc hay, duy đọc sách mà bỏ việc, đến nỗi để người khác chuyên
quyền, cho đến mất quan, là cái lỗi nghiện sách đó, phàm việc ǵ làm
quá mức trung b́nh, th́ cũng là không hay). Chưa được mấy lâu, nước
Tề cho Lư Khải làmThứ sử; gặp lúc nước Lương nhận sự nhường ngôi của
Tề, Lư Khải nhân thế giữ Giao Châu làm phản; Trưởng sử là Lư Tắc
đánh b́nh được. Vua Lương cho Lư Tắc làm Thứ sử.
Nước
Lương chia Giao Châu, đặt ra Ái Châu.
Nguyễn
Nghiễm bàn rằng: Đời Nhị đế, tam vương đạo đức, giáo hóa lan khắp
mọi nơi, nước nào muốn được dự, th́ thanh giáo đến nơi, nước nào
không muốn dự, th́ cũng không cưỡng bách. Xuống đến mạt thế, ở trong
nước th́ trống rỗng, đối với nước ngoài th́ tham lam, ḿnh đă không
ra ǵ mà mưu toan thôn tính người khác, chia ra quận huyện, đặt ra
thú mục, kể những đồ lấy được như là minh châu, tê giác, ngà voi đều
là vật vô ích, chỉ đầy túi cho bọn hoạt lại đấy thôi, nhất đán có
việc ǵ khẩn cấp, vẫn phải sai đến tướng sĩ, dấn thân chạy hàng muôn
dặm để cứu đỡ, quân sĩ mỏi mệt, vận lương hao tổn Ngạn ngữ có câu
rằng: muốn được rộng đất, th́ đất tất phải bỏ hoang. Vậy người làm
việc nước chớ nên thích làm việc to lớn mà lầm.
Trên đây nói về nước ta ngoại thuộc nước Ngô, nước Tấn, nước Tống,
nước Tề, nước Lương, khởi từ năm Canh Dần, năm thứ 15 niên hiệu Kiến
An nhà Hán, cuối là năm Canh Thân, năm thứ 6 niên hiệu Đại Đồng nước
Lương cộng 323 năm.
Sách
Thông sử bàn rằng: Giao Châu ta đất rộng, ruộng tốt, tục dân nhu
thuận và chậm chạp, người Bắc lợi kỳ nước ta giàu, mà may được dân
ta yếu, cho nên tự đời Triệu Vũ thôn tính nước ta, các đời sau nhân
đó chia ra làm quận huyện. Nếu gầy nghèo như Ngụy, cứng rắn như Tần
họ cũng chẳng ḍm ngó làm ǵ. Lại xem sau Sĩ Nhiếp th́ Mục, Thú thay
đổi luôn luôn, tha hồ vơ vét, bên trong nước th́ Ngô, Ngụy tranh
nhau, bên ngoài th́ Đạt và Mại quen thói bóc lột, giặc cướp của Thục,
Tù trưởng đất Quảng không ngày nào không ḍm ngó. Quận Nhật Nam,
quận Cửu Đức không năm nào không bị binh đao. Dân ta khổ v́ tham tàn,
sợ việc đánh nhau, không lúc nào quá lắm hơn lúc này. Trong kinh
Dịch có cái lư thuyết bĩ và thái tất nhiên. Đất nước Nam ta vua nước
Nam ta ở, câu thần ngữ không dối mà đạo giời không sai, người Minh
có câu: Trong dải đất non xanh nước biếc, tất có người mặc áo vàng
xưng là Trẫm. Trời sinh ra muôn nước, cái ǵ không phải là trời đặt
ra, sao lại giận việc trước làm ǵ mà không cố gắng để tự cường ?.
Tiền Lư
TIỀN NAM
ĐẾ
Tiền Nam
Đế, họ Lư, tên là Bí, người làng Thái B́nh huyện Long Hưng(1). Tiên
tổ Ông là người Tàu, di cư sang nước Nam vào cuối đời Hán, và bảy
đời sau thành người nước Nam, đuổi Thái thú nước Tàu, b́nh nước Lâm
Ấp, tự xưng là Nam Đế, ở ngôi vua 8 năm, mất ở Động Khuất Liêu. Vua
Nam Đế chán cảnh nội thuộc, khởi nghĩa binh đuổi Tiêu Tư, dựng thành
một nước, đổi niên hiệu, cũng là vị hào kiệt thời bấy giờ, bị Trần
Bá Tiên đè nén, ôm chí khí đưa xuống thuyền đài, thật đáng thương.
Nam Đế là
con nhà hào hữu thế gia có tài văn vơ, làm quan với Lương, bất đắc
chí bỏ về Thái B́nh; bấy giờ Thứ sử là Tiêu Tư, hà khắc tàn bạo, làm
mất ḷng dân chúng, Vua khởi binh đánh đuổi Tiêu Tư. Lúc bấy giờ có
Tinh Thiều là người giầu, giỏi văn chương, đến chỗ tuyển người cầu
xin làm quan, Lại bộ là Thái Tốn cho Thiều không phải là họ có danh
tiếng, chỉ cho làm quan Lang ở Quảng Dương môn. Thiều lấy làm xấu hổ
bỏ về làng, theo Vua Nam Đế khởi nghĩa. Tù trưởng quận Châu Diên là
Triệu Túc, là người đầu tiên đem quân đi theo Vua, bởi thế các hào
kiệt đều hưởng ứng. Tư biết tin, chạy về Quảng Châu, vua Nam Đế bèn
ra giữ châu thành. Gặp lúc vua nước Lâm Ấp đánh cướp. quận Nhật Nam,
vua Nam Đế sai tướng là Phạm Tu đánh phá quân Lâm Ấp; oai thế lừng
lẫy, nhân thế tự xưng là Nam Việt Đế, đổi niên hiệu là Thiên Đức,
quốc hiệu là Vạn Xuân, là ư mong xă tắc lâu dài đến muôn đời vậy.
Vua xây
dựng điện Vạn Xuân, làm nơi triều hội, cho Triệu Túc làm Thái phó,
Tinh Thiều và Phạm Tu đều làm tướng vơ và tướng văn.
Nước
Lương do Thương Phiếu làm Thứ sử Giao Châu và Trần Bá Tiên làm Tư mă
mang quân xâm lăng Giao Châu. Bá Tiên biết quân của ḿnh sợ đi đánh
xa, mới bảo Dương Phiếu rằng: "Chúng ta phụng mệnh Vua đi đánh kẻ có
tội dù sống dù chết cũng không quản, không nên lần chần không tiến
quân, làm cho thế giặc thêm to, nản chí quân ḿnh", tức thời giục
quân đi trước làm tiên phong. Trận thứ nhất đánh ở Chu Diên, trận
thứ hai đánh ở Gia Ninh, hai lần đều thắng trận. Vua Nam Đế lui về
trong chỗ dân Lẹ Tân Xương, đóng nhiều chiến thuyền, và ra đóng đồn
ở Điển Triệt. Quân Lương sợ lắm, đóng ở cửa hồ không dám tiến. Bá
Tiên nói:
"Quân ta
già yếu không có viện binh, vào chỗ đất tâm phúc người ta, nếu một
trận đánh mà không thắng, toàn tính mệnh sao được. Nay nhờ lúc bên
địch bị chạy luôn, ḷng người chưa vững chắc, chính là lúc ta nên
quyết đánh cho kỳ được". Đêm hôm ấy nước sông lên mạnh cao đến 7
thước, chảy vào trong hồ, Bá Tiên mang quân bản bộ theo ḍng nước
tiến lên trước, quân Lương đánh trống reo ḥ tiến theo, vua Nam Đế
phải lui giữ trong động Khuất Liêu, sai Triệu Quang Phục điều khiển
quân đánh Bá Tiên, quân Bá Tiên rất mạnh, Quang Phục tự liệu thế
không chống nổi, lui về giữ Dạ Trạch. Dạ Trạch ở quận Chu Diên,
quanh co không biết bao nhiêu dặm, cỏ cây rậm rạp, ở giữa có đất băi
nổi lên có thể ở được, bốn mặt bùn lầy, người và ngựa khó đến được,
chỉ có thuyền độc mộc đẩy bằng sào đi trên nước, cỏ mới có thể đến
được. Nếu không phải người thuộc đơờng th́ hoang mang không biết
đường nào, lỡ sa xuống nước, chỉ làm mồi cho rắn rết. Quang Phục đem
2 vạn quân đóng ở trong Dạ Trạch(2), ban ngày th́ tắt hết khói lửa
và dấu vết chân người đi, ban đêm th́ đem quân ra đánh úp trại quân
Lương, lấy những lương thực cướp được của địch, làm lương ăn để
chống giữ lâu dài. Bá Tiên cho quân theo gót mà tiến đánh, không thể
đánh được. Người trong gọi Triệu Quang Phục là Dạ Trạch Vương đốt
hương khấn cầu trời, được cái giáo dài bằng móng rồng, cùng để đánh
goặc; tự đó thế quân lừng lẫy, đi đến đâu cũng không ai địch nổi.
Tục
truyền: Đời Hùng Vương, con gái Vua là Tiên Dung Mỵ Nương ra chơi
cửa bể, khi thuyền trở về, đến băi lang Chử Gia, đi bộ gặp Chử Đồng
Tử trần truồng nấp trong bụi cỏ rậm. Nàng Tiên Dung cho là có duyên
trước với nhau, bèn cùng nhau kết làm vợ chồng. Vua nghe biết chuyện
ấy, nàng Tiên Dung sợ, trốn ở trên bờ sông, ở đâu th́ chỗ đó thành
đô hội.
Vua giận
cho quân đi đánh, Đồng Tử và Tiên Dung chờ chịu tội, bỗng nhiên nửa
đêm có mưa to gió lớn, tất cả nhà cửa người và gà, chó đều cùng bay
lên trên không chỉ c̣n lại nền nhà trơ trọi, nhân thế gọi băi ấy là
Tự Nhiên Châu, cái chằm ấy gọi là Nhất Dạ Trạch, Đồng Tử cưỡi rồng
vàng trên trời bay xuống, trút cái móng rồng trao cho Vua, bảo Vua
để trên cái đầu mâu mà đánh giặc. Truyện xuất xứ ở sách Lĩnh Nam
Trích Quái.
Sử thần
bàn rằng: Nam Đế tuy gọi là kiến quốc nhưng Lương vẫn c̣n sai Thứ sử
cai trị châu ấy; Viên Đàm Hoăn mật gửi về nước giả nợ và cho con gái
4, 5 trăm lạng vàng. Âu Dương Thịnh mang về nhiều trống bằng đồng và
nhiều đồ châu báu, những quan lại tham tàn đi lại liền liền, dân th́
hoặc phục dịch cho Lương, hoặc làm tôi nhà Lư, khổ sở nhiều bề,
không biết kêu ai được, sao mà nước ta không may đến thế?.
Vua Nam
Đế mất ở động Khuất Liêu. Anh Vua là Lư Thiên Bảo cùng tướng người
trong họ là Lư Phật Tử thu họp những quân linh tinh được 3 vạn người
vào quận Cửu Chân vây Ái Châu, bị Bá Tiên đánh phá Thiên Bảo chạy
sang nước Ai Lao, thấy chỗ đầu nguồn sông Đào Giang có cái động Dă
Năng, đất rộng màu tốt, bèn xây thành ở đó, dựng quốc hiệu là nước
Dă Năng, dân chúng suy tôn lên làm vua.
Xét trong
binh pháp: "Có ba vạn quân đều sức nhau, thiên hạ khó ai địch được".
Nay Lư Bảo, Lư Bí có quân đến năm vạn người mà không giữ được nước,
có phải kém tướng tài đâu, không may gặp phải Bá Tiên là người khéo
dụng binh. Tóm lại giời không có ḷng giúp, cơ biến xẩy ra bất
thường, xem lúc trước có câu sấm "nhật phụ mộc lai" nếu 5 vạnj người
ấy ngầm thay đổi cái móng rồng, rồi lấy cớ xin về thăm cha, cáo từ
về Ô Diên, mưu tính cùng c đều có sức mạnh như hổ, beo, không có
nước dâng mạnh, sâu đến năm thước, cũng đến bại vong mà thôi. (Dă sử
chép: thời bấy giờ có con trâu đen đẻ ra trâu con trắng, có chữ rằng:
"nhật phục mộc lai", là chữ Trần, sau Trần Bá Tiên xâm lăng nước Nam
quả nhiên đúng câu sấm ấy).
ĐÀO LANG
VƯƠNG
(Tên là
Thiên Bảo, là anh vua Nam Đế, dựng nước ở trong động Dă Năng, chúng
suy tôn là Đào Lang Vương).
PHỤ THÊM:
TRIỆU
VIỆT VƯƠNG
(Tên là
Quang Phục, là con Triệu Túc, theo Nam Đế đánh dẹp có công, Nam Đế
mất, bèn xưng là Vua, đóng đô ở Long Biên giữ nước được 24 năm).
Xét cựu
sử lấy Triệu Việt Vương tiếp theo chính thống Tiền Nam Đế, mà phụ
thêm Đào Lang Vương; nhưng mà Quang Phục ở đất Đào Giang, chưa thấy
được Long Biên, nhưng đối với danh nghĩa th́ là thuận, v́ nước của
anh ḿnh nên vẫn cứ theo cách chép sử của Tử Dương(3) th́ thống kỷ
mới không rối loạn, mà phép làm sử có chuẩn đích. Trần Bá Tiên cho
là Triệu Việt Vương ở chỗ hiểm trở chưa thể phá ngay được, gặp lúc
Lương có việc loạn Hầu Cảnh, Bá Tiên phải mang quân về, chỉ lưu Tỳ
tướng là Dương Xàn ở lại, giữ nhau với Triệu Việt Vương. Việt Vương
tung quân ra đánh giết được Xàn, quân Lương tan vỡ chạy về Bắc. Việt
Vương tiến về ở trong thành Long Biên.
Đào Lang
Vương mất ở nước Dă Năng, không có con, dân chúng suy tôn Lư Phật Tử
làm thừa tự, thống trị dân chúng.
HẬU NAM
ĐẾ
Hậu Nam
Đế tên là Phật Tử, là tướng có họ với Tiền Nam Đế, đánh Việt Vương
mà phục quốc, làm vua 32 năm.
Vua biết
dưỡng sức để đợi thời, mà lấy lại được cơ đồ cũ; nhưng lấy nước bằng
cách man trá là người bất nghĩa và trông thấy địch là đầu hàng, là
người vô dũng, thật đáng khinh bỉ. Vua tự nước Dă Năng xuốgn miền
đông, đánh nhau với Triệu Việt Vương ở Thái B́nh, năm lần tiếp chiến,
quân hơi lùi, ngờ rằng Triệu Việt Vương có thuật lạ, bèn giảng ḥa
và đính ước với nhau; Việt Vương thấy Vua họ là Tiền Nam Đế, không
nỡ cự tuyệt, bèn chia địa giới ở châu Quân Thần, (nay là đất Thượng
Hạ Cát, huyện Từ Liêm) cho ở phía tây nam trong nước. Vua bèn dời
kinh đô sang thành Ô Diên. Nam Đế có con là Nhă Lang có dị chí, bảo
vợ rằng: "Xưa kia hai cha chúng ta là thù địch với nhau, nay kết làm
hôn nhân, chả hay lắm sao, nhưng mà ông bố vợ ta ngày trước đánh lui
được quân địch, cũng phải có mẹo ǵ chứ?". Vợ mật đem cái đâu mâu
rồng cho xem, Nhă Lang ha đánh úp Triệu Việt Vương. Quân Nam Đế đến,
Triệu Vương không ngờ, thảng thốt đốc quân ra, mở cái đâu mâu để đợi
quân địch. Quân Nam Đế tiến lên, Triệu Vương không chống được, bèn
dắt con gái chạy về phương Nam, muốn chọn chỗ đất hiểm để ẩn ḿnh,
nhưng đến đâu quân Nam Đế cũng đuổi theo sau, chạy đến cửa biển Đại
Nha(4), bị nước ngăn trở, than rằng: "Ta cùng đường rồi", than rồi,
tự nhảy xuống biển. Triệu Việt Vương mất, người đời sau cho là linh
dị, lập đền thờ, nay đền thờ ở huyện Đại An, cửa biển Đại Nha.
Lư Phật
Tử đă diệt được Triệu Việt Vương, tự xưng là Nam Đế, đóng đô ở Ô
Diên(5).
Nhà Tùy
muốn mang quân sang xâm lăng Giao Châu, hỏi Lư Nghiệp xem ai làm
tướng được. Lư Nghiệp tiến cử Lưu Phương là người có tài làm tướng,
Vua cho Lư Nghiệp làm Tổng quản. Lư Nghiệp có quân lệnh nghiêm chỉnh,
mà đối với dân chúng th́ nhân từ, sĩ tốt sợ và mến phục, tiến quân
vào thành nào th́ hiểu dụ cho biết họa phúc. Nam Đế sợ và thấy quân
Lưu Phương mạnh nên xin đầu hàng, người nhà Tùy mang Nam Đề về Bắc,
họ Lư mất nước.
Trên này
là Tiền và Hậu Lư, 3 vua, khởi từ năm Tân Dậu, năm thứ bảy niên hiệu
Đại Đồng nhà Lương, đến hết năm Nhâm Tuất năm thứ hai niên hiệu Nhân
Thọ nhà Tùy, cộng 62 năm.
Sách
Thông luận bàn rằng: Vua Tiền Nam Đế là nhà hào hữu khởi binh, có
Long Thiều giúp mưu mô, Triệu Túc giữ việc quân, đuổi được Tiêu Tư,
phá nước Lâm Ấp, xưng làm vua nước Nam Việt, quốc hiệu là Vạn Xuân,
chống cự với nhà Ngô, giữ được quốc thống, ở vào t́nh thế rất khó,
mà lập nên công nghiệp ấy, nước Lâm Ấp không dám ḍm ngó, công của
vua Tiền Nam Đế thực là rơ ràng. Tiếc cho một lần thứ nhất bị thua ở
Ô Diên, lần thứ hai bị tan vỡ ở hồ Điển Triệt phải lánh ẩn ở Động
Khuất Liêu, rồi đến mất nước, đó không phải là tại Vua bất tài,
tướng súy bất vơ, cái cơ sự thắng hay bại và thời vận dài hay ngắn
ăn khớp với nhau, đều là tại trời cả.
Vua Đào
Lang là người đồng bào với Vua, giữ nghĩa cứu giúp khi hoạn nạn, kết
hợp các đồng chí, theo đuổi trong buổi gian nan, đương khi gấp rút
suy yếu mà khởi lên được, tuy chưa địch được với Bá Tiên, nhưng má
chiếm cứ nơi hiểm trở, dựng thành một nước, lấy lại được nước trong
khi đă mất, không thể bảo là vô chí được. Gặp phải Triệu Quang Phục
là tay cường hào, có ḷng tự lợi, không có chí lập nền chính thống,
rồi nuốt giận đến chết, cũng đáng thương lắm. Hậu Đế nhờ cơ nghiệp
cũ của Đào Lang, thu thập nắm lửa tàn của nước Dă Năng. Năm trận
đánh ở Thái B́nh, chia cương giới với Triệu, liền đánh úp Triệu, nối
được chính thống nhà Lư, c̣n có điều đáng khen. Tiếc rằng dàn xếp
với Triệu, b́nh hết Dán Lèo, đă có cái thế nổi dậy được, túng xử
chưa dứt khoát được với Triệu, th́ nên nghĩ dần mưu chước đánh hay
là giữ, chứ không nên chia đất và thông hôn; đă cùng nhau ḥa, lại
c̣n bội ước, cái giáo thần đâu mâu chả đáng là ǵ, mà nghe gian mưu
của trẻ con, theo lối cũ của Triệu Đà, bất trí quá lắm! Đến khi quân
Tùy kéo đến, chưa bắn một mũi tên nào, đă chịu nhục dâng ngọc dắt dê
xin đầu hàng, sao trước th́ trí mà sau lại ngu, trước th́ hùng mà
sao hèn nhát thế? Thật là làm lạ!.
1) Thái
B́nh. Vấn đề quê hương Lư Bí hiện có nhiều cách giải thích khác nhau.
Có ư kiến chỉ định Thái B́nh nay thuộc tỉnh Thái B́nh; có ư kiến chỉ
định Thái B́nh là huyện Thái B́nh nay thuộc vùng thị xă Sơn Tây,
tỉnh Hà Tây. Riêng chúng tôi (Đinh Văn Nhật - Bùi Thiết) cho rằng
đất Thái B́nh nay thuộc xă Tiền Phong, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái
Nguyên, ở đây c̣n nhiều dấu vết liên quan đến Lư Bí.
2) Nay
thuộc vùng huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
3) Tên
hiệu Chu Tử đời Tống.
4) Đại
An. Cửa biển cũ, nay là vùng các xă Độ Bộ Quần Liêu cũ, nay thuộc
huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
5) Ô Diên.
Nay thuộc phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội.
Ngoại Thuộc Tùy và Đường
Sau khi
Lưu Phương đă b́nh được Giao Châu vua Tùy lại nghe người nói nước
Lâm Ấp nhiều của báu lạ, bèn lại sai Lưu Phương đi kinh lược nước
Lâm Ấp. Lưu Phương đem quân bộ kỵ ra lối Việt Thường, quân chiến
thuyền ra lối Tỷ Cảnh. Vua nước Lâm Ấp là Phạm Chí chống cự lại,
dùng quân cỡi voi to, quân Lưu Phương đánh không lại, bèn đào nhiều
hố nhỏ, phủ cỏ lên trên, ra khiêu chiến giả thua chạy. Quân Lâm Ấp
đuổi dấn, voi sa xuống hố, đổ ngă chạy rối loạn, quân tinh nhuệ theo
đó tiến lên, mấy trận đều thắng, đi quá về phía đồng trụ của Mă Viện,
8 ngày đến kinh đô Lâm Ấp. Phạm Chí bỏ thành chạy ra biển. Lưu
Phương vào trong thành lấy được 18 cái thần chủ thờ trong miếu, các
thần chủ đó đều bằng vàng; rồi khắc bia đá ghi chiến công và mang
quân về. Trận đánh này, quân sĩ bị phù thũng chết mất đến 4,5 phần
10, Lưu Phương cũng bị bệnh chết ở dọc đường.
Nhà Tùy
cho Khâu Ḥa làm Thái thú Giao Châu. Khi nhà Tùy nội loạn, Tiêu Xằn
sai người chiêu dụ Khâu Ḥa. Ḥa không theo. Xằn nghe tin Ḥa có
nhiều châu báu, giàu ngang nhà Vua, bèn sai Ninh Trường Chân đánh
Ḥa. Ḥa muốn ra nghinh tiếp, Cao Sĩ Liêm can rằng: "Quân của họ đi
xa đến đây, thế không ở được lâu, trong thành ta có quân mạnh, c̣n
có thể đánh được, làm sao mới trông thấy mà đă chịu ngay?". Ḥa nghe
lời, cho Sĩ Liêm làm Tư mă, mang quân ra đón đánh, phá được quân
Ninh Trường Chân. Sau nhà Tùy mất nước, Ḥa theo về nhà Đường, nhà
Đường cho làm chức Đại Tổng quản Giao Châu. Nhà Đường đặt ra An Nam
hộ phủ, đóng ở Giao Châu. Tại nước An Nam, có việc khởi loạn của Lư
Tự Tiên. Nguyên theo lệ trước các lái hộ Lĩnh Nam chỉ phải nộp một
nửa thuế, Đô hộ là Lưu Duyên Hựu bắt phải nộp cả toàn số. Các lái hộ
mới oán, mưu với nhau làm loạn. Tự Tiên làm mưu chủ, Duyên Hựu giết
Tự Tiên, đảng của Tự Tiên là Đinh Kiến tụ họp dân chúng vây phủ
thành, giết Duyên Hựu. Quan Tư mă Quế Châu là Tào Huyền Tĩnh đánh
giết được Kiến.
Ngươi Châu Hoan là Mai Thúc Loan giữ châu tự xưng là Hắc Đế, bên
ngoài giao kết với nước Lâm Ấp và Chân Lạp, có đế 30 vạn quân, nhà
Đường sai tướng quân là Dương Tư Húc đánh b́nh được.
Thúc Loan
người làng Hương Lăm, huyện Nam Đường(1), nay có đền thờ ở thôn chợ
Sa Nam(2), tức là nơi nhà ở của Thúc Loan.
Thời nhà
Đường có Tống Chi Đễ bị tội đầy ra quận Chu Diên, gặp lúc Loan vây
hăm châu Hoan, vua Đường bèn trao cho Đễ chức Tổng quản để đánh ông
Loan. Đễ mộ được 8 người tráng sĩ mặc áo giáp dày, kéo đến tận chân
thành mà hô to rằng: "Hễ bọn người Lèo hành động tức th́ giết chết";
700 quân đều phục xuống không dám đứng dậy, mới b́nh được. Đương
thời nội thuộc, Mai Hắc Đế không chịu bọn ngược lại kiềm thức, cũng
là người xuất chúng trong đám thổ hào. Việc thành th́ làm nên Lư Bí
hay Triệu Quang Phục, không thành th́ làm Phùng Hưng, Mai Thúc Loan.
Cho nên nêu rơ ra, viết hai chữ to "châu dân" là khen việc làm ấy đó.
Một người
dân Giao Châu là Đào Tề Lượng họp đảng, đánh cướp thành ấp. Mẹ Tề
Lượng là Kim Thị thường lấy trung nghĩa dạy Lượng, Lượng ngoan cố
không nghe. Bà mẹ tuyệt t́nh với Lượng, tự làm ruộng mà ăn, tự dệt
vải mà mặc. Vua Đường nghe tiếng, xuống chiếu cho hai người đinh
tráng hầu hạ, nuôi nấng, sứ giả ở bản đạo phải quanh năm đi lại hỏi
thăm bà suốt đời.
Nước ta
có người quận Cửu Chân là Khương Công Phụ có tài cao, đỗ Tiến sĩ,
làm quan với nhà Đường, dần dần thăng đến chức Hàn Lâm Học sĩ. Công
phụ tâu bày việc ǵ đều tường tận xác đáng, vua nhà Đường trọng lắm,
tiến lên chức Trung Thư môn hạ B́nh chương sự. V́ việc nói thẳng
trái ư Vua (can việc hậu táng Đường An công chúa) mà bị băi. Công
Phụ người làng Sơn Ôi đất An Định, cha là Đĩnh, em là Công Phụ cũng
đỗ Tiến sĩ. Công Phụ thường theo việc trong lúc hiểm nghèo, tâu bày
việc ǵ đều có ích cho nhà Vua, việc ǵ xảy đến đều đúng như ông đă
dự liệu từ trước. Công Phụ khéo làm văn, làm bài phú "Bạch vân chiến
xuân hải", người Đường khen bài ấy là kiệt tác.
Tại làng
Đường Lâm(3) thuộc Phong Châu có Phùng Hưng một nhà hào phú có sức
mạnh kéo trâu, đánh hổ. Thời bấy giờ Kinh lược sứ là Cao Chính B́nh
thu thuế nặng. Ông Hưng cùng với em là Hải, xuất phục được các làng
ấp ở chung quanh, tự hiệu là Đô quân, Hải là Đô bảo, dùng kế của
người làng là Đỗ Anh Hàn, đem quân vây phủ, Chính B́nh lo phẫn mà
chết, ông Hưng vào ở trong phủ, cho Hải làm Thái úy, rồi ông mất.
Dân chúng lập con Hưng là An làm Đô Phủ Quân.
Ông Hưng
đồng ḷng với dân chúng, lập em là Hải. Bồ Phá Lặc có sức khỏe đẩy
được núi, không chịu theo Hải, lánh ở động Chu Nham. Bồ Phá Lặc lập
An là con ông Hưng. An tôn cha là Hưng làm Bố Cái Đại Vương (tục gọi
cha mẹ là Bố Cái), dân Thổ cho là linh dị, lập đền thờ ở phía tây đô
phủ để thờ Hưng.
Nhà Đường
cho Lư Phục làm Tiết độ sứ Lĩnh Nam, khi Lư Phục đă đến nơi, dân Nam
đều yên lặng; Phục dạy dân làm nghề nung ngói. Nước Nam biết làm nhà
ngói là do Lư Phục dạy cho.
Nhà Đường
cho Triệu Xương làm Đô hộ. Xương đến nơi, sai sứ dụ Phùng An. An đem
quân đầu hàng. Xương đắp thêm La thành cho lại được vững chắc, ở
châu 10 năm, dân theo giáo hóa tốt, không dám có ḷng chống đối, sau
v́ có bệnh đau chân, phải xin về nước. Nhà Đường cho Bùi Thái thay
làm Kinh lược sứ. Thái san phẳng ao chuôm ở trong thành, họp làm một
thành. Nha tướng của Thái là Vương Lư Nguyên đánh đuổi Thái. Thái
chạy về quận Chu Diên. Vua Đường triệu Triệu Xương về, hỏi t́nh h́nh,
bấy giờ Xương đă 70 tuổi, tâu các việc tinh tế rơ ràng. Vua Đường
lấy làm lạ, lại cho làm Đô hộ. Khi Xương đến, người châu vui mừng,
mới định xong việc biến loạn.
Sử thần
bàn rằng: V́ Duyên Hựu ngược đăi các lái buôn, mà gây ra loạn Đinh
Kiến, v́ Chính B́nh thu thuế nặng nề, mà Anh Hàn phải động binh.
Triệu Xương mới đến mà dân chúng đă yên, đến lần thứ hai th́ b́nh
được loạn; quan lại kén chọn được các người giỏi hay xấu là hệ trọng
thế đó, vậy th́ sự kén Mục, Thú không thận trọng được chăng?.
Nhà Đường
cho Trương Chu sang làm Đô hộ, đắp thêm thành Đại La, sắm 300 thuyền
chiến (mỗi thuyền chở được 25 người, phu chèo thuyền 33 người)
thuyền đi lại nhanh như bay. Thời bấy giờ Hoàn Vương không chịu
triều cống nhà Đường. Trương Chu sai quân đánh phá, bắt được voi và
gậy, giáo rất nhiều, 2 châu thành Hoan và Ái bị Hoàn Vương đốt phá,
Chu sai dân sửa sang lại hoàn toàn.
Liễu Tôn
Nguyên làm bài mộ chí Trương Chu, nói rằng: "Trương Công tự khi làm
lại đă tập quen việc bang giao, đến khi được mệnh chuyên chinh, mới
có chỗ thực hành sở học của ḿnh. Đắp thành lũy, hiểm trở hơn g̣ núi,
muôn đời không phải lo ǵ, sự lợi do Trương Công làm ra lớn hơn sự
đào cảng của Cao Biền, công của Trương Công lớn hơn việc dựng đồng
trụ của Mă Viện".
Đông hộ
là Lư Nguyên Bỉnh (có tên là Gia) lấy cớ cửa thành có ḍng nước chảy
nghịch, sợ người trong châu sinh ra ḷng phản trắc, rời phủ lỵ ra
sông Tô Lịch ngoài cửa Đông. Quân đương xây thành nhỏ, có người xem
tướng nói: "Ông không đủ sức đắp nổi thành lớn, 50 năm sau nữa sẽ có
người họ Cao đóng đô ở đó". Đến niên hiệu Hàm Thông, Cao Biền xây La
thành, quả đúng như lời người xem tướng.
Thứ sử
Phong Châu Vương Thăng Triều làm phản, nhà Đường cho Hàn Ước lĩnh
chức Đô hộ An Nam, đánh b́nh được. Sau Phủ Quân khởi loạn, Hàn Ước
chạy về Quảng Châu.
Kinh lược
sứ là Vũ Hồn sai tướng sĩ sửa thành, Quân làm loạn đốt lầu thành,
cướp kho phủ. Vũ Hồn chạy về Quảng Châu. Giám quân là Đoàn Sĩ Tắc vỗ
về dẹp yên được bọn khởi loạn, châu mới được yên.
Nhà Đường
cho Vương Thức một người có tài lược làm Đô hộ. Khi đến phủ lỵ Thức
cho trồng cây gai làm giậu chung quanh thành. Ngoài hào sâu trồng
tre gai, bọn giặc cướp không thể xấn vào được. Thời bấy giờ có bọn
người Mán ở Vân Nam vào cướp, đường đi c̣n cách châu nửa ngày, Vương
Thức vẫn an nhàn, sai người thông ngôn dụ cho họ biết rơ điều lợi và
hại, một đêm họp kéo nhau đi hết, lại sai người tạ lỗi nói rằng: "Chúng
tôi đi bắt bọn dân Lèo làm phản đấy thôi, chứ không phải vào ăn cướp
đâu".
Quan Kinh
lược sứ trước là Lư Trác, hà khắc, có lần bắt ép mua một con trâu
của người Mán chỉ giả một đấu muối thôi. Người Mán oán giận lắm, xui
người Nam Chiếu vào cướp phá biên thùy (Vua Nam Chiếu là Phong Hựu
sai tướng vây hăm phủ lỵ, gọi là bạch y một mệnh quân, lại đưa ra 30
người kêu là "chu nỗ khư thư" giữ núp) Phong Châu trước đó có quân
đồn thú, gọi là quân Pḥng thu, Trác bỏ đi hết, chỉ chuyên giao cho
Thủ phiên lĩnh là Lư Do Độc một ḿnh pḥng giữ; khi quân Mán đến, Do
Độc cô thế phải hàng. Tự đấy nước An Nam mới có cái lo về người Mán.
Lại có bọn ác dân muốn làm loạn, nói là nghe tin Kinh lược sứ là Chu
Nhai sai bộ hạ là Hoàng Đầu Quân đi đường biển đến tập kích ta. Ngay
đêm hôm ấy vây thành đánh trống reo ḥ, Vương Thức đương ăn cơm, có
người khuyên Thức nên lánh đi. Thức nói: "Ta mà bước đi th́ thành vỡ
ngay" bèn mặc áo giáp, lên trên thành trách móc, bọn làm loạn chạy
hết.
Nước
Chiêm Thành, Chân Lạp lại sai sứ đi lại như cũ, nhà Đường triệu
Vương Thức về, đổi đi làm Quán sát sứ đất Triết Đông.
Nước Nam
Chiếu vây hăm phủ thành, Đô hộ là Lư Hu bỏ châu chạy trốn, nhà Đường
cho Vương Khoan thay làm Đô hộ, nước Nam Chiếu lại vào cướp. Thừa cơ
đánh phủ thành, Khoan sai sứ cáo cấp với nhà Đường, nhà Đường ra 3
vạn quân châu Kinh, châu Tương, sai Thái Tập chống cự, thế quân
thịnh quá, nước Nam Chiếu sợ không dám kéo quân ra, bấy giờ có chiếu
sai Thái Kinh đ kinh chế Lĩnh Nam, Kinh lo Tập sẽ thành công, mới
tâu về Đường rằng: "Nước An Nam không đáng lo, bọn vũ phu muốn lập
công, tụ tập nhiều quân, hao tổn lương thực, xin rút quân pḥng thú
về". Thái Tập cố nói rằng: "Không nên, quân Nam Chiếu tất nhiên trở
lại, xin lưu lại 5.000 quân, nếu không thế th́ quân và lương thực
đều thiếu, mười phần tất chết". Tờ tâu về ṭa Trung thư, Tể tướng
thời bấy giờ tin lời Thái Kinh, không xét đến; quả nhiên vua Nam
Chiếu là Mông Thế Long lại kéo đến đánh rất gấp, quân tả hữu Thái
Tập đều có sức đánh khi kiệt sức, nhảy xuống nước chết cả. Tướng Mán
là Dương Tự Tấn vào chiếm giữ phủ thành, những Di, Lèo ở các khê
động, không cứ xa gần, đều về hàng với Mán tướng. Trong trận đánh
này, tướng và quan lại nhà Đường nhiều người ẩn núp tại khê động.
Nhà Đường xuống chiếu dụ các quan sở tại chiêu dụ họ về và cứu giúp,
chẩn tuất cho họ, lại thêm cho 2 vạn quân sai Trương Nhân đi kinh
lược nước An Nam, mưu đồ lấy lại phủ thành. Trương Nhân lần chần
không dám tiến quân. Lúc bấy giờ viện binh nhà Đường đóng ở Lĩnh
Nam, chuyển vận lương thực không được kế tiếp. Trần Phàn Thạch xin
đóng thuyền to chở được 1.000 hộc, chở gạo đi đường biển đến Quảng
Châu, quân mới đủ lương ăn; nhưng các nhà cầm quyền mượn tiếng cố
khoán, rồi cướp thuyền của dân buôn, bỏ hàng hóa của họ lên bờ, cho
thuyền vào biển, có khi bị sóng gió, th́ lại bắt ức người ta phải
đền, dân rất khổ sở.
Nhà Đường
cho là Trương Nhân nhu nhược không làm được việc, mới cho Cao Biền
thay làm Đô hộ. Biền đóng quân ở cửa biển, chưa tiến. Giám quân là
Lư Duy Cố ghét Biền, muốn khử Biền đi, giục phải tiến quân; Biền cho
5.000 quân sang sông, hẹn với Duy Cố đem quân cứu viện. Biền đi rồi,
Duy Cố đóng quân ở cửa biển không chịu tiến. Biền đến Nam Định,
người Man đương gặt lúa, Biền tập kích thu lấy cả số lúa đă gặt được
để làm lương cho quân, rồi tiến thẳng đến Giao Châu, đánh nước Nam
Chiếu, phá được luôn. Những báo tiệp đến cửa biển, Duy Cố đều giấu
đi cả. Vài tháng mà vua Đường không được tin báo, cho Vương Yến
Quyền sang thay Biền. Cũng tháng ấy Biền lại phá được nước Nam Chiếu,
hơn vạn người đầu hàng. Tướng Mán thu quân c̣n lại, vào châu thành
cố thủ, Biền vây thành càng gấp, quân Mán khốn quẫn quá. Biền hạ
được thành lại nhận được tiệp báo của Vương Yến Quyền, là đă cùng
Duy Cố đem đại quân ra cửa biển. Biền lập tức giao việc quân cho Vi
Trọng Tể, rồi cùng hơn 100 người bộ hạ đi về Tàu. Trước kia Biền
cùng với Trọnh Tể sai tiểu hiệu là Vương Tuệ
Tán và
Tăng Cổn mang thư báo tiệp đưa về nhà Đường, bọn này đi đến cửa biển
trông thấy cờ xí ở phía đông kéo đến, hỏi bọn du thuyền, chúng nói
rằng: "Đó là Kinh lược sứ mới và Giám quân đi đến". Hai người bàn
nhau rằng: Duy Cố tất nhiên đoạt cờ biểu để lưu chúng ta lại, bèn ẩn
náu ở ḥn đảo ngoài biển, đợi Duy Cố đi qua rồi, liền đi vội đến
kinh đô. Vua Đường được tờ tấu mừng lắm, lập tức giao cho Biền chức
Kiểm hiệu Thượng thư, lại sai sang đánh quân Mán. Khi Cao Biền tự
cửa biển trở về, v́ Yến Quyên th́ mờ ám và lười biếng, động có việc
ǵ th́ bẩm mệnh với Duy Cố, mà Duy Cố là người tham bạo, chư tướng
không chịu để Duy Cố sai khiến, bèn giải vây, người Mán trốn đi quá
nữa. Cao Biền đến nơi lại đốc thúc đánh thành, quân lính trèo qua
lũy mà vào, chém được tướng Mán tự là Thiên, lại phá cả bọn Thổ Mán
theo làm hướng đạo cho quân Nam Chiếu, b́nh được hết 2 động giặc Mán.
Trước kia tự Lư Trác tham tàn, đến nỗi người Mán làm loạn đến hơn
mười năm, đến bây giờ Cao Biền lấy lại được phủ lỵ, lại đắp cao thêm
thành Đại La.
Thành Đại
La(4) chu vi 1.982 trượng 5 thước, thân thành cao 3 trượng 6 thước,
chân rộng 2 trượng 5 thước, 55 sở vọng lâu, 5 sở cửa cống, 3 ng̣i
nước, 34 ṿm canh. Cao Biền lại đắp con đê ṿng quanh 2.125 trượng 8
thước, cao 1 trượng 5 thước, rộng 2 trượng, và làm 40 vạn gian nhà.
Thành xây gạch để cho vững chắc, san phẳng tất cả g̣ đống, cho nên
làm tổn hại địa h́nh và tổn thương đến long mạch. Nay nền cũ của
thành vẫn c̣n, xây toàn bằng đá xanh.
Cao Biền
tự là Thiên Lư, người U Châu, cháu Cao Sùng Văn đời đời chuyên giữ
cấm binh, chịu khó theo học, thích bàn luận việc kim cổ. Lúc ít tuổi
thờ Chu Thúc Minh làm thày, trông thấy 2 chim điêu bay đều nhau,
giương cung lên bắn, khấn rằng: "Nếu sau này ta được phú quí th́ bắn
trúng". Bắn một phát trúng luôn hai con, mọi người đều cho là kỳ, v́
thế gọi là Lạc điêu Thị ngự (nghĩa là quan Thị Ngự bắn rơi chim điêu).
Khi giặc làm phản, Biền lĩnh cấm binh đi đánh, lập được nhiều công,
đến bây giờ làm đến chức Đô hộ.
CAO BIỀN
ĐÀO HẢI CẢNG DONG CHÂU
Biền đi
tuần đến Dong Châu thấy cửa sông hẹp mà hiểm trở, nhiều đá to ở ḷng
sông, thuyền đụng phải đá là đắm. Biền bèn sai bọn Lâm Phúng, Dư Tồn
Cố dẫn hơn 1000 thuỷ thủ đến khơi đào cho sâu, và dụ bảo rằng, trời
vẫn giúp kẻ thuận, thần th́ phù người thẳng, nay đào cửa biển để
giúp cho dân, nếu ta không có tư tâm, th́ có việc ǵ là khó. Bọn
Phúng mộ nhân công khơi đào, hơn một tháng gần lưu thông được, duy
giữa ḍng nước có 2 tảng đá lớn đứng dựng, búa cũng không thể hạ
được, đă toan bỏ dở, đến ngày 26 tháng 5, ban ngày bỗng có mây kéo
đến tối đen, gió rất to, có sấm sét đến vài trăm tiếng, một lúc trời
lại sáng, th́ hai tảng đá vỡ tan mất rồi. Cao Biền lại lấy cớ rằng,
sứ giả năm nào cũng đến, muốn khơi ra làm 5 lối để ở đó mà hộ tống.
Những lối tắt có đá xanh ấy tương truyền rằng Mă Viện không làm nổi,
mọi người thợ đều cho là khó khăn. Ngày 21 tháng 6 lại sấm động như
trước, các tảng đá lớn đều tan vỡ, đường mới lưu thông được, nhân
thế đặt tên là "Thiên oai cảng", hiện nay ở phía tây nam huyện Bác
Bạch, Bạch Châu 100 dặm.
Lê Văn
Hưu bàn rằng: V́ một Lư Trác tham tàn, đến nỗi gây nên họa người Mán
cướp phá đến vài mươi năm, huống chi lại có người quá tệ hơn Lư Trác
nữa. Được một Cao Biền biết đốc thúc, mà b́nh được vài vạn giặc Mán,
huống chi có người hơn Cao Biền nữa. Vậy th́ người khéo trị nước nên
cẩn thận việc kén chọn Mục và Thú lắm.
Sử thần
bàn rằng: Cao Biền phá Nam Chiếu để cứu vớt dân đời bấy giờ, xây
thành Đại La, làm mạnh thế đô ấp muôn năm, công to tát lắm. Đến như
việc khơi cửa sông, đặt ra trạm, làm việc công bằng, hkông hề có
chút tư t́nh nào, vẫn là việc có thể cảm được thần minh, mà được
nhiều điểm tốt. Thời Ngũ Đại, Vương Thẩm Chi ở đất Mân, những người
buôn bán qua lại, có sự ngăn trở ở Hoàng Kỳ, thế mà có một hôm sấm
động, chỗ ấy thành ra hải cảng, người Mán theo về với Thẩm Chi, v́
có đức chính cảm động đến người, nên gọi tên là Cam Đường Cảng. Việc
của Cao Biền cũng giống như thế.
Cao Biền
đổi đi Thiên B́nh, tiến cử cháu là Cao Tầm thay ḿnh (lúc trước Cao
Biền đánh Nam Chiếu, Tầm đă làm tiền phong, xông vào rừng tên đạn,
xướng xuất cho quân sĩ). Biền đi rồi, tù trưởng Nam Chiếu tên là
Pháp lại ngạnh trở, nhà Đường dùng chính sách hoà thân, đem con gái
tôn thất gả cho Pháp, Pháp sai tướng là bọn Triệu, Long, My, ba
người đi rước vợ về. Cao Biền ở Dương Châu, dâng thư nói ba người ấy
đều là người tâm phúc của Nam Chiếu, xin đánh thuốc độc cho chết đi,
th́ mới tính được quân Mán. Vua Đường nghe theo, ba người ấy chết
rồi Nam Chiếu hết bọn mưu thần, suy yếu dần, tự đấy chúng không dám
ḍm ngó đất nước ta nữa.
Xét lúc
Cao Biền làm Đô hộ, những công nghiệp cũng nhiều đáng kể, tự ghi đổi
sang Tây Xuyên, trong ḷng sinh ra oán vọng, để tha hồ cho Hoàng Sào
vây hăm hai kinh đô, người Đường mong Cao Biền c̣n lập được công,
cho Biền lên làm Bột hải Quận vương, nhưng Biền nhờ lúc Trung Quốc
điên bái, âm mưu chiếm cứ đất đai, nhất đán thất thế, oai vọng mất
hết, tự đấy phải về để ư việc tu tiên, bao nhiêu việc quân giao cho
Lă Dụng Chi. Dụng Chi là quân tiểu nhân, gian tà, đem lời phù phiếm
dối trá mà coi Biền như đứa trẻ con, từng bị kẻ điên cuồng là Chư
Cát Ân nói dối rằng: "Thượng đế cho thần đến giúp đỡ ḿnh", lại hiến
Cao Biền một thanh kiếm mà nói dối là của thượng đế vẫn đeo. Cao
Biền lấy làm báu, giữ bí mật, xây cất cái lầu cao 8 thước, gọi là
lầu Nghênh Tiên, ở trên lầu ăn chay thắp hương mong được gặp tiên.
Biền lại làm con chim hộc bằng gỗ ở trong sân, có đặt máy, chạm vào
người th́bay được; Biền mặc áo lông cưỡi lên, làm ra dáng tiên bay,
Dụng Chi giam giữ cho Biền chết. Sau Dương Hành mật sai đào dưới đất,
bắt được người bằng đồng cao 3 thước, thân bị gông cùm, đóng đanh
vào miệng, khắc tên Tiền vào sau lưng. Đó là Dụng Chi làm mê hoặc
yểm đảo Cao Biền, nhất đán Cao Biền trở nên ngu muội đến thế; coi
với xưa kia có mưu lược phá quân Mán, trí khộn xây La thành(5), và
đào hải cảng động đến thiên oai, thành ra 2 hạng người khác hẳn là
sao thế? Người trong nước truyền lại rằng Biền rắc hạt đậu xuống đất,
dùng phù chú cho hoá ra quân thật, trước kỳ hạn đă đào lên, th́ đều
là non yểu, không thể đứng được. Lại truyền rằng: Cao Biền cưỡi cái
diều giấy đi t́m đất; truyện này cũng chỉ nghe người ta nói thôi.
Biền học phép tiên, cùng với chuyện cưỡi chim hộc đều là ngoa truyền.
Ở sách địa lư di cảo ai cũng đều cho đấy là môn học địa lư của Cao
Vương. Biền ở nước ta, bận việc quân, không có thời giờ nhàn rỗi,
xách túi địa bàn đi t́m phong thủy, tất là đời Trần có người học địa
lư, mượn tên Cao Biền để làm cho thuật của ḿnh thần kỳ đó thôi,
sách địa lư di thảo của Hoàng Phúc đại khái cũng thế.
Trên đây
nước ta ngoại thuộc về Tùy, Đường tự năm Quí Hợi đến năm Bính Dần
cộng 304 năm.
Sách
thông luận bàn rằng: Nước ta là một đại đô hội ở phương nam. Ruộng
th́ cấy lúa, đất th́ trồng dâu, núi sản ra vàng, bể sản ra ngọc. Bọn
nhà buôn nước Tầu, đến nước ta nhiều người làm nên giàu có. Người
Tầu thích lắm, có ư lấy nước ta đă lâu lắm, cho nên tự Triệu Đà trở
về sau, hơn 1000 năm đă nắm được, đâu c̣n chịu bỏ, để cho nước ta
làm một nước lớn ở ngoài Ngũ Lĩnh; chia ra quận, đặt ra quan, làm
cho cơi đất ta như cái bàn cờ, có một người thổ hào nào nổi lên, th́
diệt đi ngay, một quận thú nổi lên, th́ Thứ sử họp lại đánh ngay,
như Lư Tốn, Lương Thạc ở đời Tấn, Mai Thúc Loan, Vương Thăng Triều ở
đời Đường là thế cả. Hai vua Lư và vua Triệu, đương lúc Lương, Trần
ở thiên về một nơi miền nam, Giang tả nhiều việc, không có th́ giờ
để ư đến Giao Châu, cho nên giữ được cảnh thổ mà xưng thế được 50
hay 60 năm, cũng là thời thế xui nên đó.
Đến như
quân Mán Nam Chiếu hàng năm vào cướp bóc, vượt sóng gió, qua hiểm
trở tranh nhau với người Đường, cũng là tham cái lợi của nước ta
giàu có đấy. Trương Chu đánh phá được nước Chiêm, đắp thành Hoan, Ái.
Cao Biền trị Nam Chiếu, bảo toàn được Long Biên, đều là có công với
đất nước; duy Cao Biền làm quan lâu hơn là Chu, cho nên đàn bà con
trẻ trong nước c̣n nói đến tên Cao Biền, c̣n những quan Thú, Mục
trước hay sau, đều không nói đến.
NAM BẮC
PHÂN TRANH
Nước
Lương cho Lưu Ẩn làm Tiết độ sứ Tĩnh Hải, và phong làm Nam B́nh
Vương. Ẩn chiếm cứ đất Phiên Ngung, người Giao Châu là Khúc Hạo
chiếm cứ Châu, hai bên đều tự xưng là Tiết độ sứ, lập chí mưu đồ lẫn
nhau. Ít lâu Ẩn chết, em là Lưu Nghiễm lên ngôi Hoàng đế, đổi niên
hiệu là Kiền Hanh, quốc hiệu là Nam Hán, Hạo sai con là Thừa Mỹ làm
Hoan hiếu sứ, đến Quảng Châu ḍ xem hư thực thế nào? Hạo mất, Thừa
Mỹ nối ngôi, sai sứ cầu nhà Lương, cho quan chức nhà Lương làm Tiết
độ sứ, chia đất làm 12 châu, Vua nhà Hán nghe tin giận lắm, sai
tướng là Lư Khắc Chính đánh Giao Châu, bắt Thừa Mỹ đưa về Tàu. Vua
Hán ngồi ở Nghị Phượng nhận tù binh, bảo Thừa Mỹ rằng: "Mày cho ta
là triều đ́nh ngụy, nay lại bị trói đưa về đây cớ là sao?". Thừa Mỹ
cúi đầu chịu phục, bèn được tha.
Họ Khúc là người Hồng Châu, là họ to nối đời, tiên tổ là Thừa Dụ,
tính khoan ḥa, yêu người, được nhiều người qui phục, khi Tăng Cổn
bỏ phủ thành, Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ, xin với triều đ́nh
Đường, vua Đường nhân thế nhận cho làm chức ấy. Ông Hạo nhờ cơ
nghiệp cũ, chiếm giữ La thành, tự xưng là Tiết độ sứ, chia nước ra
làm các xứ, phủ, huyện, châu, xă; đặt chức lịnh trưởng chánh và tá,
chia đều thuế ruộng, tha không bắt dân làm nhân công; làm sổ hộ,
biên ghi họ tên và niên canh, quán chỉ người dân, Giáp trưởng đốc
xuất làm sổ ấy. Chính sự khoan hồng và giản dị, dân được yên ổn làm
ăn.
Họ Khúc
truyền 3 đời, cộng 51 năm.
Nước Nam
Hán có Lưu Nghiễm là thế gia. Tổ tiên ông là An Nhân lấy nghề buôn
bán sang ở Nam Hải, cha là Khiêm, anh là Ẩn, gặp thời buổi nhiều
biến cố, vẫn có công với Lĩnh Nam, bèn chiếm giữ cả Nam Hải. Nghiễm
đă lên làm vua, là lúc các tay anh hùng ở Lĩnh Nam, chia nhau giữ
các nơi. Nghiễm đă lấy được châu Ung, châu Dong, lại bắt được Thừa
Mỹ ở Giao Châu, v́ tính hay khoe khoang, đă từng nói là nhà ḿnh vốn
ở đất Hàm Tần, lấy sự gọi là Man Vương, Man lại làm sỉ nhục, gọi vua
Đường là Lạc Châu Thứ sử. Vua Đường Trang Tôn cũng không thể đánh
được. Khi chết truyền ngôi cho con là Phần, cháu là Trành, tự lúc
xưng đế đến khi mất nước cộng được 55 năm, cũng là tay cừ hiệt đó.
Dương
Đ́nh Nghệ (chữ Đ́nh có chỗ viết là chữ Diên), người Ái Châu lúc
trước làm tướng cho Khúc Hạo, đến khi Lư Khắc Chính bắt được Thừa Mỹ,
lập cách báo thù cho họ Khúc, bèn đặt ra trường đánh vật, chiêu tập
các hào kiệt, lấy đại nghĩa khuyến khích họ, đồng mưu với nhau cử
binh đánh đuổi tướng Hán là Lư Khắc Chính. Vua Hán cho Lư Tiến thay
làm Thứ sử Giao Châu, Đinh Nghệ lại vây hăm thành đánh Tiến. Vua Hán
sai Trần Bảo đem quân cứu Lư Tiến. Đ́nh Nghệ đón đánh chém được Trần
Bảo, bèn giữ lấy thành, tự xưng là Tiết độ sứ nhận lĩnh việc châu.
Chưa được bao lâu, nha tướng của Đ́nh Nghệ là Kiều Công Tiễn lại
giết Đ́nh Nghệ mà lên thay.
Đ́nh Nghệ
nuôi 3.000 giả tử (con nuôi) mưu đồ khôi phục, Lư Tiến biết việc ấy,
sai người cấp báo vua Hán.
Sử thần
bàn rằng: Cuối đời Hán, Đường phần nhiều nuôi giả tử, là v́ đương
lúc trí, lực chọi nhau, hay là trong khi hoạn nạn cùng theo nhau,
đắc lực trong lúc hoăn cấp, tức th́ nhận làm giả tử, không biết rằng
ḷng lang khó dạ. Dấu của hớ hênh, là xui cho người lấy trộm, thiên
tính như thế không thể làm khác được. Đ́nh Nghệ nuôi giả tử đến
3.000 người, th́ bị nạn, c̣n hối sao được nữa.
Nha tướng
của Đ́nh Nghệ là Ngô Quyền khởi binh từ Ái Châu đánh Công Tiễn. Công
Tiễn cầu cứu với Hán, vua Hán nhân lúc loạn, muốn lấy nước Nam, bèn
sai con là Hoằng Tháo đi trước, mà tự ḿnh đóng quân ở cửa biển để
làm quân cứu viện. Vua Hán hỏi mưu kế với Tiêu Ích, Ích nói: "Đường
bể hiểm và xa, Ngô Quyền là người kiệt hiệt, không nên khinh
thường". Vua Hán không nghe, Hoằng Tháo cho quân thuyền từ sông Bạch
Đằng tiến vào. Bấy giờ Ngô Quyền đă giết được Công Tiễn, nghe Hoằng
Tháo sắp đến, nói rằng: "Thằng trẻ con kéo quân đi xa mỏi mệt, quân
ta đương nhàn rỗi, đối phó với quân của chúng mỏi mệt sẵn, tất nhiên
phá được chúng". Sau đó, ông sai người cắm gỗ nhọn bịt sắt ở ḷng
sông, đợi nước thủy triều lên to, thuyền quân của Tháo vào rồi, lập
tức khiêu chiến, giả cách thua chạy, để cho quân địch đuổi theo.
Nước thủy triều rút xuống rất chóng, thuyền của địch đều mắc vào gỗ
nhọn lật úp cả. Quyền thừa thắng đánh mạnh, bắt giết được Hoằng
Tháo, Nghiễm thương khóc, thu nhặt tàn quân bỏ về nước.
Sử thần
bàn rằng: Lưu Nghiễm ngấp ngó Giao Châu, thừa lúc Đ́nh Nghệ mới mất,
cậy có quân ứng viện của Công Tiễn, chắc rằng có thể đánh một trận
phá được Ngô Quyền, nhân thế lấy được nước nam dễ như móc túi vậy.
Nếu không có một trận đánh to để hỏa nhuệ khí của Lưu Nghiễm, th́
cái t́nh h́nh ngoại thuộc lại dần dần thịnh lên, cho nên trận đánh ở
Bạch Đằng là cái căn bản khôi phục quốc thống đó. Sau này Đinh, Lê,
Lư, Trần c̣n phải nhờ dư liệt ấy. Vơ công hiển hách của Ngô Quyền,
tiếng thơm ngh́n đời, đâu có phải chỉ khoe khoang một lúc bấy giờ mà
thôi.
Trên đây
là Nam, Bắc tranh giành, từ năm Đinh Măo niên hiệu Khai B́nh thứ 1
nhà Lương, đến năm Mậu Tuất niên hiệu Thiên Phúc thứ 3 nhà Tấn, cộng
32 năm (cha con Khúc Hạo 24 năm, Đ́nh Nghệ 8 năm).
Sách
Thông luận bàn rằng: Chu Ôn cướp ngôi vua Đường ở một xó đất Lương
Biện, c̣n các trấn th́ chia nát ra, đất Quảng thuộc về Lưu Ẩn, bỏ
Giao Châu mà không tranh đến, tự nhà Lương đến nhà Chu không có
chiếc xe ngựa nào đến cảnh thổ Giao Châu. Lưu Nghiễm tuy có chí hăng
hái muốn thôn tính Giao Châu nhưng một trận thua Đ́nh Nghệ, một trận
bị nhục với Ngô Quyền, th́ cái ḷng chực cướp đất Giao Châu nguội
như đống gio tàn. Họ Ngô được thời cơ ấy mới dựng nước, truyền cho
con, cũng làm vua một phương như Bắc triều là do ở đó. Khúc Thừa Mỹ
nhận chức quan của Lương mà bị cầm tù ở Ngụy Đ́nh; Dương Đ́nh Nghệ
đuổi tướng Hán nhận lấy châu, mà bị nha tướng giết hại. Truyện có
nói rằng: nếu không có người bị ngă, th́ ḿnh nổi lên sao được, là
nghĩa thế. Tóm lại, cũng là bởi ḷng trời yếm loạn, muốn mở cơ
nghiệp nước ta là một đời trị bắt đầu từ đấy.
1) Mai
Thúc Loan, quê ở xă Mai Phụ, huyện Thanh Hà, tỉnh Hà Tĩnh, theo mẹ
ra sống ở Nam Đường, nay là huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
2) Sa
Nam. Nay là thị trấn của huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
3) Nay là
xă Đường Lâm thuộc thị xă Sơn Tây, tỉnh Hà Tây.
4) Đại
La, nay là khu vực các quận Ba Đ́nh, Hoàn Kiếm của Hà Nội.
5) La
Thành, là toà thành luỹ bao quanh Đại La (nay thuộc Hà Nội).
Nhà Ngô
TIỀN NGÔ
VƯƠNG
Tiền Ngô
Vương, họ Ngô, tên Quyền, người Đường Lâm, giết giặc trong nước để
phục thù cho chúa, giết địch bên ngoài để cứu nạn cho nước, dựng
quốc đô, nối lại chính thống, công nghiệp thật to lớn lắm. V
ua Ngô
đời đời là quư tộc ở Đường Lâm(1), cha là Mân làm quan Mục bản châu.
Khi sinh ra vua có hào quang sáng khắp nhà, ở trên lưng có 3 mụn nốt
ruồi, người xem tướng cho là kỳ, bảo rằng có thể làm vua một địa
phương, bèn cho đặt tên là Ngô Quyền. Mắt Vương sáng như điện, sức
cất nổi được cái vạc, làm nha tướng của Đ́nh Nghệ, Nghệ gả con gái
cho, sai quản trị Châu Ái.
Vương
giết Công Tiễn, phá Hoằng Tháo, tự lập làm vua, tôn Dương Thị làm
Hoàng hậu, đặt đủ 100 quan, dựng ra nghi lễ triều đ́nh, định các sắc
áo mặc, đóng đô ở Cổ Loa thành, làm vua được 6 năm rồi mất.
HẬU NGÔ
VƯƠNG
Tên là
Xương Văn, là con thứ vua Tiền Ngô. Dương Tam Kha nuôi làm con, 3
năm sau truất Tam Kha, lấy lại chính quyền, làm vua được 15 năm,
quang phục được cơ nghiệp cũ, nhưng v́ ở trong nước xảy ra việc binh
đao luôn, rồi bị giết chết, đáng thương.
Phụ thêm:
Dương Tam Kha người làng Dương Xá, huyện Đông Sơn con Dương Đ́nh
Nghệ,anh bà Dương Hậu, tiếm xưng là Vua, bị Ngô Quyền truất ngôi.
Cựu sử để
Dương Tam Kha lên đầu, nay theo lối Hán sử chép lớn lên là Hậu Ngô
Vương, mà chỉ để Tam Kha phụ theo, để cho rơ là thống hệ nhà Ngô
chưa mất hẳn.
Khi Ngô
Vương Quyền đau nặng, dặn lại Tam Kha giúp con ḿnh. Tam Kha cướp
ngôi, tự xưng là B́nh Vương. Con trưởng Ngô Vương là Xương Cập, chạy
về nhà phạm Lệnh Công, ở làng Trà Hương, Nam Sách. Tam Kha sai Dương
Cát Lợi, Đỗ Cảnh Thạc đi t́m, ba lần đi đều không t́m được. Lệnh
Công sợ, bèn giấu Xương Cập vào trong sơn động. S
ử thần
bàn rằng: Tam Kha đă cướp ngôi, lại nuôi Xương Văn làm con, là cớ
sao? Xương Văn tất là con bà Dương Hậu, cho nên có t́nh cậu cháu mà
dung cho, c̣n như t́m bắt Xương Cập đến 3 lần, th́ làm được, ấy cái
họa họ ngoại như thế đó. Ngô Quyền không biết soi gương xưa, đến nỗi
ngôi báu bị mất, đàn con không chỗ nương tựa, Xương Văn sống bên tặc
thần, Xương Cập phải nhờ tay nghĩa sĩ, đều tại sốt trời. Ngô Quyền
báo ơn cho Đ́nh Nghệ, Lệnh Công cũng lại báo ơn cho ông, ḷng trung
nghĩa được trời đền lại, quả là không sai.
Con thứ Ngô Vương là Xương Văn truất phế Tam Kha.
Tam Kha
sai Xương Văn và 2 ông Dương và Đỗ, đem quân đánh hai thôn Thái
B́nh, Đường Nguyễn, đi đến huyện Từ Liêm, Xương Văn bảo 2 ông rằng:
"Ân đức của Tiên Vương ta dân được nhờ nhiều lắm, không may Ngài mất
sớm, B́nh Vương làm điều bất nghĩa, cướp ngôi của anh em ta, nay lại
sai ta đi đánh dân vô tội, nếu dân khôi phục, th́ làm thế nào? Hai
ông nói: "Xin theo mệnh lệnh của ông". Xương Văn nói: "Ta muốn mang
toàn quân về đánh úp B́nh Vương, để lấy lại cơ nghiệp Tiên Vương ta,
có nên không?" Hai ông nói: "Được lắm". Bèn kéo quân về đánh úp Tam
Kha, dân chúng th́ muốn giết Tam Kha, nhưng Xương Văn nghĩ rằng Tam
Kha có ân t́nh với ḿnh, không nỡ giết, giáng làm Trương Dương Công,
cho có thực ấp (ở bến Chương Dương Độ(2)) để thu thuế nơi đó mà chi
dùng. Vương đă truất Tam Kha rồi, lên ngôi Vua tự xưng là Nam Tấn,
rước anh là Xương Cập về, cùng làm việc nước. Xương Cập xưng là
Thiên Sách Vương. Thời bấy giờ có người Hoa Lư là Đinh Bộ Lĩnh, cậy
có núi khe hiểm trở, không chịu làm tôi. Hai Vương khởi binh đánh Bộ
Lĩnh, Lĩnh sợ, sai con là Đinh Liễn vào làm con tin; Hai Vương bắt
Liễn lên ngọn cây tre, bảo Lĩnh rằng: "Không hàng th́ giết". Lĩnh
nói: "Trượng phu phải lập công danh có đâu lại bắt chước cách đàn bà
yêu con?", nói rồi sai 10 người cầm nỏ nhằm vào Liễn mà bắn. Hai
Vương nói: "Ta treo con nó lên, cốt để buộc ḷng nó phải hàng, nay
nó tàn nhẫn như thế, giết cũng vô ích". Bèn thu quân về. S
ử thần
bàn rằng: Đinh Tiên Hoàng nhằm bắn con, cùng với việc chia bát canh
của Hán Cao Tổ, đều là dùng cách gợi thiên tính để thử xem sao.
Nhưng Hán Cao Tổ cậy có Hạng Bá giúp đỡ, nên dám thế, c̣n Đinh Tiên
Hoàng chắc đâu vào ḷng bất nhẫn của Ngô Vương, mà dám nói như thế,
là v́ trong tâm đă không có Liễn lâu rồi. Cho nên sau khi lấy được
nước, bỏ Liễn mà lập con út là Hạng Lang vậy. T
hiên Sách
Vương chuyên quyền, Xương Văn không dự vào chính quyền nữa. Hai
Vương bèn có hiềm khích với nhau. Chưa được bao lâu th́ Thiên Sách
Vương mất, Xương Văn trở lại ngôi vua sai quân đánh 2 thôn Đường
Nguyễn và Thái B́nh, khi kéo quân vào, bỏ thuyền lên bộ, Vua bị tên
lạc của phục binh bắn tin mà chết, Đinh Liễn trở về Hoa Lư.
CHÉP PHỤ
CÁC SỨ QUÂN
Thời bấy
giờ vua Nam Tấn mất, trong nước loạn to, các nơi đua nhau nổi lên
giữ huyện ấp, cùng xâu xé lẫn nhau.
Ngô Xương
Xí tự xưng là Ngô Sứ Quân chiếm cứ B́nh Kiều. (Lúc Thiên Sách Vương
là Xương Cập tị nạn có lấy người con gái ở Nam Sách sinh ra Xương Xí
tức là cháu Nam Tấn Vương Xương Văn).
Kiều Công
Hăn tự xưng là Kiều Tam Chế chiếm cứ Phong Châu (nay là Thành phố
Việt Tŕ, tỉnh Phú Thọ). N
guyễn
Khoan tự xưng là Thái B́nh Công, chiếm cứ Tam Đới (nay là huyện Vĩnh
Tường, Vĩnh Phúc).
Ngô Nhật
Khánh tự xưng là Ngô Lăm Công, chiếm cứ Đường Lâm (có chỗ gọi là
Giao Thủy. (Nay là xă Đường Lâm, thị xă Sơn Tây, tỉnh Hà Tây).
Đỗ Cảnh
Thạc tự xưng là Đỗ Cảnh Công chiếm cứ Đỗ Động Giang (nay thuộc huyện
Thanh Oai, Hà Tây, chân móng thành cũ hiện c̣n).
Lư Khuê
tự xưng là Lư Lăng Công, chiếm cứ Siêu Loại. (Nay là huyện Thuận
Thành, Bắc Ninh).
Nguyễn
Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh Công chiếm cứ Tiên Du (nay thuộc
huyện Tiên Du, Bắc Ninh. Ở đó hiện có đền thờ).
Lă Đường
tự xưng là Lă Tá Công chiếm cứ Tế Giang (nay là huyện Văn Giang,
Hưng Yên).
Nguyễn
Siêu tự xưng là Nguyễn Hữu Công chiếm cứ Tây Phù Liệt. (Nay thuộc
huyện Thanh Tŕ, Hà Nội).
Kiều
Thuận tự xưng là Kiều Lệnh Công chiếm cư Hồi Hồ (nay là làng Trần
Xá, huyện Cẩm Khê, Phú Thọ, chữ Hoa nay đổi ra chữ Cẩm).
Phạm Bạch
Hổ tự xưng là Phạm Pḥng Át chiếm cứ Đằng Châu (nay là huyện Kim
Động, Hưng Yên).
Trần Lăm
tự xưng là Trần Minh Công chiếm cứ Bố Hải Khẩu (nay là xă Kỳ Bá thị
xă TháiB́nh, tỉnh Thái B́nh). Các ông trên này gọi là 12 sứ quân.
Đinh Bộ
Lĩnh nghe tiếng Trần Minh Công là người có đức mà không có con, đến
theo nương tựa. Minh Công cho làm con nuôi, cho giữ binh quyền để
đánh các vị anh hùng khác, đều đánh tan được. Đến khi Minh Công mất,
Bộ Lĩnh thống suất cả đám quân ấy. Khi bấy giờ bọn đệ tử của Ngô
Tiên Chúa có 500 người từ Đỗ Mộng Giang kéo đến đánh, độ 80 người
vào Ô Man, bị người làng là Ngô Phó Sứ đánh thua rồi trở về. Bộ Lĩnh
nghe tin cử binh đánh vào động ấy, quân đi đến đâu các bộ lạc đều
phải hàng phục, bởi thế lại và dân ở các châu, phủ đều tâm phục mà
theo Bộ Lĩnh, suy tôn ông làm Giao Châu súy.
Xét sách
Thập quốc Xuân thu chí, Bộ Lĩnh đánh được Lă Xứ Binh, đảng giặc tan
vỡ. Sách này lại chép rằng đánh được Ngô Phó Sứ, thế th́ Phó Sứ tất
là Xứ B́nh không sai nữa.
Vua Tiên
Hoàng b́nh được 12 sứ quân, trận này là trận đánh then chốt.
Trên đây là đời nhà Ngô có 2 vua và Tam Kha tiếm ngôi, khởi từ năm
Kỷ Hợi đến năm Đinh Măo, cộng 29 năm.
Sách
Thông luận bàn rằng: Ngô Tiến Chúa phát tích là danh gia, giết Công
Tiễn để báo thù cho Đ́nh Nghệ liền có trận đánh ở sông Bạch Đằng,
làm bại được Cường Hán, quốc thế từ đó mạnh lên, đất Nam b́nh yên,
người Tàu sợ chạy, công nghiệp họ Triệu và họ Lư cũng chưa hơn được,
v́ mấy năm sau phó thác không được người giỏi, thật đáng cảm khái.
Tam Kha ở địa vị là họ ngoại, lân la cướp ngôi vua, bắt chước Vương
Măng, Tào Tháo, làm đầu nêu cho Quư Ly, Đăng Dung, tội ác ấy không
bút nào tả xiết. Hậu Ngô Vương ở chỗ thâm cung, nên tặc thần không
ngờ đến, ở giữa đường quay về, mà chư tướng không dám trái ư, truất
phục được kẻ gian tà dễ như thay bàn cờ, 15 năm giữ cơ nghiệp, đáng
gọi là Lương Chúa, đẻ con như thế Ngô Quyền cũng như là không chết.
Đến như Thiên Sách chuyên quyền mà ḿnh không được dự chính quyền,
Tam Kha cướp ngôi vua mà không nỡ gia h́nh, luận giả cho Xương Văn
là cô tức, nhưng xét bản tâm của Xương Văn th́ chỉ biết cung kính
anh, để kính nhường ḍng con trưởng, không giết cậu, để mẹ được yên
ḷn, cũng là người có tư chất tốt, không thế, th́ nếu không giết anh
là Xương Cập, cũng không để Tam Kha được sống. Duy chỉ có lỗi là để
lộ cơ mưu, đến nỗi bị mũi tên lạc, chí khí hăng hái của thiếu niên
chưa bỏ đi được, là đáng tiếc đó thôi. Ngô Sứ Quân là con ngành thứ,
nối chí lớn của cha chú, khó nhọc lẩn lút ở chỗ thôn quê, mưu đồ giữ
lại cơ nghiệp đă mất, chí cũng đáng khen, nhưng v́ vô tài, và ít
người giúp, thế cùng lực kiệt, được một năm rồi mất ngay, cũng đáng
thương. V́ rằng ḷng trời muốn thu nhặt lại cho họ Đinh, tất nhiên
trước hết phải có người khu trừ. Tạo hóa đă có khí số nhất định,
người ta làm thế nào mà ra ngoài ṿng đúc nặn của tạo hóa cho được.
Tự cổ đến nay, chứng nghiệm đă nhiều không phải một việc này, ta có
thể biện hộ cho Nam Tấn Vương được.
1) Hiện
nay có ư kiến khác nhau về Đường Lâm (quê của Ngô Quyền), một số ư
kiến chỉ định là xă Đường Lâm, thị xă Sơn Tây, Hà Tây; c̣n có người
cho rằng Đường Lâm thuộc Hà Tĩnh hiện nay.
2) Nay
thuộc xă Chương Dương, Thường Tín, Hà Tây.
Nhà Lư
Thái Tổ Hoàng Đế
(Ngày trước Viện Vảm
Tuyển ở chùa Thiên Tâm châu Cổ Pháp, có con chó đẻ ra con sắc trắng,
lưng có lông đen, nổi lên hai chữ "thiên tử", người ta bàn đó là cái
điềm báo rằng người sinh tuổi Tuất sẽ được đại quư, quả nhiên vua Lư
đẻ vào năm Giáp Tuất niên hiệu Thái B́nh thứ năm).
THÁI TỔ HOÀNG ĐẾ
Vua họ Lư, tên là Công
Uẩn, người Cổ Pháp(1), tỉnh Bắc Ninh, vua Ngọa Triều mất, tự lập làm
vua, ở ngôi mười tám năm, là người khoan nhân từ thứ, có độ lượng Đế
Vương, nhưng v́ chưa tôn chính học, chỉ thích dị đoan, là điều đáng
tiếc.
Sách sử
chép Phạm Thái Hậu đi chơi núi Tiên Sơn(2), cùng với thần giao hợp
mà sinh ra Vua. Lư Khánh Vân nuôi làm con, nhận là họ Lư. Bài kư ở
chùa Tiên Sơn có nói: "Thái Hậu cảm tinh anh của Bạch Hầu mà sinh ra
Vua, nhà sư Vạn Hạnh rước về nuôi".
Ngoại
truyện lại nói: Mẹ Vua năm 20 tuổi nghèo hèn không có chồng, nương
tựa người lăo Sa môn ở chùa Ứng Thiên, làm việc thổi nấu, khi lửa
tắt và bà đương ngủ lơ mơ, lăo Sa môn ngẫu nhiên chạm phải, giật
ḿnh trở dậy rồi có thai mà sinh ra Vua". Thế th́ thật không biết
người nào là cha Vua Lư nữa.
Năm Thuận
Thiên thứ nhất, Vua về chơi làng cổ Pháp, yết lăng Thái Hậu, theo
thứ bậc mà thưởng tiền và lúa cho các bô lăo.
Dă sử
nói: "Mẹ Vua ở quanh quẩn trong rừng Cổ Pháp hốt nhiên chết, kiến,
mối xông đất đẩy thành mả, cao bảy thước được chỗ đất tốt chung
linh. Đến bây giờ Vua về yết lăng, trông thấy cây cối xanh tốt, loài
chim bay liệng cảm động rớt nước mắt, sai đo quanh mộ mỗi bên vài
mươi thước làm cấm địa, sau này các triều có phụ táng ở đó đều gọi
là Thọ lăng".
Vua sai
sứ sang Tống cầu phong, vua Tống nói:: "Họ Lê thay họ Đinh, họ Lư
lại bắt chước
mà thay
họ Lê, chả khác ǵ nhau", nên mới nhận lễ xính (lễ hỏi thăm).
Vua lấy
cớ ở Hoa Lư thành th́ hẹp, đất th́ thấp, muốn thiên đô về Đại La,
tay viết chiếu rằng: "Xưa kia nhà Thương đến vua Bàn Canh đă năm lần
thiên đô, nhà Chu đến vua Thành Vương đă ba lần thiên đô, không phải
là theo ư riêng một ḿnh, là nghĩ đến kế muôn năm về sau. Nhà Đinh
và Lê không theo lối cũ của Thương, Chu, cứ để kinh đô ở măi nơi
này, trẫm rất đau ḷng. Duy có thành Đại La ở giữa khu vực của trời
đất, có cái thế long, hổ vững bền, địa thế rộng và bằng phẳng, đất
th́ cao mà sáng sủa, rơ là khu vực phồn thịnh. Đă xét khắp đất Việt,
chỉ có nơi ấy là thắng địa, là nơi đô hội thật là kinh đô của muôn
đời sau. Lũ các ngươi nên hiểu ư trẫm. Bách quan tâm đều tâu: "Bệ hạ
nghĩ đến kế lâu dài cho thiên hạ, lập nên cơ nghiệp lớn và làm cho
nhân dân được giầu thịnh, c̣n ai dám không theo". Vua bằng ḷng lắm,
liền sắp sửa di kinh đô, khi thuyền vua mới đến đậu ở dưới thành,
thấy có con rồng vàng hiện ra, nhân thế đặt tên là Thăng Long, liền
lâp nhiều cung điện, cộng 13 sở, xây thành lũy, sửa sang phủ khố;
thăng cháu Cổ Pháp làm phủ Thiên Đức, Bắc Giang gọi là Thiên Đức
Giang, thành Hoa Lư gọi là Phủ Thiên Tường, trong phủ. Thiên Đức lập
ra tám ngôi chùa, đều có lập bia ghi chép công đức.
Sử thần
bàn rằng: Vua Lư Thái Tổ sinh trưởng nhờ cửa Phật, Khánh Vân nuôi
lớn, Vạn Hạnh dạy dỗ, thuyết nhân quả ăn sâu ở trong ḷng, cho nên
khi mới kiến quốc, đă sáng tạo nhiều chùa, cấp điện độ tăng chúng,
muốn đưa cả thế giới vào nước Phật, bất luận hiền ngu muốn cho qui
Phật, đến đời sau nhà Lư mới khởi lên ngôi chùa cao sát mây, lập nên
cột chùa bằng đá cao vót, lấy sự thờ Phật làm việc thường phải có
của một nước (lập hơn 300 ngôi chùa, đúc quả chuông nặng đến một vạn
hai ngh́n cân đồng). Khi khánh thành chùa th́ mở hội, xá các tội
nhân; một nhà sư tự thiêu, mà cũng tạ ơn Phật, bụt mọc ở chùa Pháp
Vân, mà lập nên chùa tự dối ḿnh và dối đến người khác, trên dưới
như điên như dại, khiến cho ảo thuật của sư Đại Điên dám hoành hành
ở trong cung vua, tà thai của Nguyễn Bông đầu thai làm con thừa tự
của nước; đến nỗi vua Huệ Tôn bỏ nước cho con gái nhỏ mà xuất gia
đầu Phật; V́ nhà sư mà hưng quốc, lại v́ nhà sư mà mất nước, Phật
cũng không đem chén nước công đức mà độ cho vua cho nước được, phải
chăng tại v́ vua Thái Tổ, cho nên đến nỗi thế?.
Vua xá
hết các thứ thuế cho thiên hạ trong ba năm. Những người Mán trước bị
vua Ngoại Triều bắt làm tù binh, đều cấp cho áo mặc và lương ăn mà
tha về.
Nhà Tống
sai sứ sang phong Vương cho vua Lư.
Sử thần
bàn rằng: Vua Thái Tôn mới lên ngôi vua, tức th́ xuống chiếu tha
thuế; năm thứ 7, 8 và 9 lại tha cho dân thuế ruộng, không biết lấy
ǵ mà chi dùng cho đủ? Đại để chính sự triều Lư chỉ cốt chăm nghề
nông làm cho nước được giàu. Nguồn tài chính gồm các thứ thuế gỗ
rừng, cá biển, buôn bán, thuế thổ sản, thuế đất, đồ cống hàng năm,
trong 6 hạng thuế này th́ chỉ thu 4 hạng, c̣n 2 hạng th́ khoan thu,
cũng vẫn làm cho nước có đủ dùng, thật có phong tục cũ của đời vua
Văn Đế, Cảnh Đế nhà Hán.
Vua đặt
ra quân tả, hữu túc vệ, mỗi quân có 500 người.
Phong
Thái tử Phật Mă làm Khai Thiên Vương, lập ra cung Long Đức ở ngoại
thành cho Thái tử ở đó, ư muốn cho hiểu thấu các việc ở trần gian.
Sử thần
bàn rằng: Muốn cho Thái tử biết việc ở dân gian, th́ nên kén các
quan sư phó hiền mà dạy, để biết sự khó nhọc của nhà nông, hà tất
phải lập cung ngoài thành mà bắt ra ở đó; đến khi Vua mất, các thân
vương Chinh Đông và Dực Thánh nổi tà dâm mà gây ra đại biến, nếu
không có Phụng Hiểu trung thành, th́ ngôi vua của nhà Lư nguy hiểm
như treo bằng sợi tóc .
Điều này
là không biết coi trọng căn bản của nước và giữ thể thống.
NƯỚC CHÂN
LẠP ĐẾN CỐNG
Nước này
ở về phía nam Chiêm Thành, đi thuyền mất 2 ngày mới đến nước ta. Tục
nước ấy phía đông là trên, tay bên hữu là sạch. Đời Đường chia nước
ấy ra làm 2, nửa về bắc nhiều núi, gọi là Lục Chân Lạp, nửa về phía
nam, gần biển gọi là Thủy Chân Lạp, đất được 800 dặm, vua nước ấy ở
thành Bà La, nay là Đồng Nai; Lục Chân Lạp đất rộng được 700 dặm,
gọi là Hạ Khuất quốc tức nay là Cao Miên. Vua thân hành đi đánh Diễn
Châu, khi trở về đến Biện Loan, gặp mưa to gió lớn, Vua đốt hương
khấn rằng: "Tôi là kẻ có đức, không dám cậy có quân mạnh, chỉ v́
Diễn Châu không theo giáo hóa, không thể đánh được. Đến như trong
lúc giao chiến, kẻ hay, kẻ dở đều chết cả, đến nỗi trời quở phạt dù
có bị chết cũng chả dám oán trách ǵ, chỉ có quân lính xét ra tội
cũng đáng tha, xin Thượng đế rộng ḷng tha thứ". Nói xong, th́ gió
yên mưa tạnh.
Vua đổi
10 đạo trong nước làm 24 lộ, hai châu Hoan và Ái gọi là Trại.
Vua định
thể lệ các hạng thuế ở thiên hạ:
1.
Đầm ao, điền thổ,
2.
Đất giồng dâu, và cấy lúa,
3.
3. Sản vật ở núi và ở cao nguyên,
4. Thuế
quan ải và muối mắm,
5. Hương
thơm của Mán Lào,
6. Cây gỗ
ở rừng.
Bấy giờ
trong tầu ngựa có con ngựa trắng, khi sắp đem cưỡi th́ tất nó phải
kêu lên trước, nên gọi tên nó là Bạch Long thần mă.
Châu Vị
Long làm phản, qui phụ với Mán, nước Nam Chiếu dẫn tướng Mán là
Dương Trường Trung vào cướp, qua đồng trụ đến Kim Hoa Bộ, bố trí
quân dinh, gọi là trại Ngũ Hoa, Vua sai Dực Thánh Vương đi đánh, bắt
được hơn một vạn quân và ngựa. Xuống chiếu sai Phùng Châu sang Tống
báo tin thắng trận, và dâng vua Tống 100 ngựa Mán.
Hoan Châu
dâng Vua con kỳ lân.
Lân và
phượng là loài mà người không trông thấy, cho nên là điềm lành.
Người ta đă không thường được trông thấy, th́ con chim có vằn, loài
thú có sừng mà bảo là phượng và lân, c̣n ai phân biệt được. Nhà Lư
đă từng đem dâng vua Tống, bị Tư Mă Quang khước từ, biết đâu con lân
đem dâng ấy, chả phải là con lân của Hoan Châu đem dâng đó chăng?
Vua đắp
thành đất Thăng Long.
Vua lại
lập 3 bà Hậu nữa. Trước đă lập 6 bà, nay lại lập 3 nữa, cộng là 9
bà. Vua đi xem các núi sông, đến bến đ̣ Cổ Sở, thấy nước sông sáng,
trong suốt, cảm động cầm chén rượu rót xuống sông mà nói: "Nếu có vị
nhân kiệt anh linh th́ nhận tấm ḷng thành của ta". Đến đêm có vị
chư thần tự xưng là Lư Phục Man trước giúp vua Nam Đế, cho giữ 2 nơi
Đỗ Động và Đường Lâm, quân Di và quân Lào không dám phạm vào đất ấy,
đến khi chết, Thượng đế khen là trung, lại cho giữ chức cũ, và lại
nói: "Thiên hạ gặp buổi loạn lạc, trung thần ẩn dấu họ tên, khi mặt
trời, mặt trăng sáng tỏ ở giữa trời (lúc thịnh trị) th́ ai cũng
trông thấy". Vua thức dậy nói: "Đó là ư thần muốn hiện h́nh", liền
sai người tô tượng mà thờ; đến thời gian Nguyên Phong nhà Trần, quân
Nguyên vào cướp, đến địa giới th́ ngựa què không đi lên được, người
trong thôn ra cự chiến, giặc phải bỏ chạy. Niên hiệu Trùng Hưng,
quân Nguyên lại vào cướp, đi đến đâu th́ cướp của, đốt nhà, mà ở ấp
vẫn như có người pḥng thủ, quân giặc không phạm vào được, đúng như
lời vị thần nhân đó.
Dân được mùa lớn, một cây lúa 30 bông trị giá 70 đồng tiền.
Vua mới
phong các bà tiên tổ làm Hoàng hậu, lập nên lăng tẩm Thiên Đức và
Thái Miếu.
Vua làm
vua đă 10 năm mới lập Nguyên Miếu, c̣n kinh thành Thái Miếu th́
không thấy chép đến việc thờ tổ tiên báo ơn xưa, thật thờ ơ và chậm
trễ quá lắm.
Vua lấy
ngày Vua sinh làm ngày tiết Thiên Thành, băi tṛ chơi Trúc Sơn.
Trước kia
lấy tre làm một trái núi Vạn Thọ Nam Sơn, làm đủ các h́nh trạng cầm
thú kỳ quái, lại cho người bắt chước tiếng cầm thú kêu để làm vui;
bấy giờ v́ sợ làm phiền phí cho dân, nên băi tṛ chơi này đi, chỉ
c̣n đặt ra yến tiệc thôi. Tṛ chơi Trúc Sơn này khởi thủy từ vua Đại
Hành, các đời sau cũng theo làm như thế, vua Thái Tổ biết là vô ích,
mà phiền cho dân, nên băi đi, là phải lắm; đến vua Thái Tôn sao c̣n
giữ lại làm ǵ?
ĐÁNH NƯỚC Đại NGUYÊN LỊCH
V́ Đại
Nguyên Lịch quấy nhiễu ở biên giới nên sai Dực Thánh Vương đánh phá
được. Quân đi vào sâu trại Như Hồng trong đất Tống, đốt kho tàng rồi
kéo về.
Trại Như
Hồng của Tống ở giáp giới Triều Dương của ta, Đại Nguyên Lịch là đất
man mọi sau này Nùng Trí Cao tự xưng là Đại Lịch Quốc, tức là chỗ
ấy.
LẬP CHÙA CHÂN GIÁO
Vua Thái
Tổ tụng kinh ở chùa này, là đạo tràng sáng sủa; vua Huệ Tôn xuất gia
ở chùa này, lại là thế giới phiền năo, nên chép lên đây là để răn
bảo đời sau.
Vua định
số quân ra từng giáp, mỗi giáp là 15 người, dùng một người làm quản
giáo, rồi lại đổi gọi là Hỏa đầu, làm Chánh thủ, duy con nhà chèo
hát th́ gọi là quản giáp.
Bấy giờ
có con hát là Đào Thị, có tiếng tốt và giỏi tài nghệ, từng được Vua
thưởng; người ta mộ dang tiếng thị ấy, phàm con hát đều gọi là Đào
nương, bắt đầu từ đây.
THÀY TĂNG VẠN HẠNH CHẾT
Vạn Hạnh
vô bệnh mà chết, người đời bấy giờ bảo là ông hóa thân. Vạn Hạnh có
bài thơ rằng:
"Thân như
điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc
xuân vinh thu hựu khô,
Tùy vận
thịnh suy hưu bổ úy,
Thịnh suy
như lộ thảo đầu phô"
(Nghĩa là
đời người như cái bóng, khi thịnh khi suy, cũng như sương ở trên
ngọn cỏ, có rồi lại tiêu tan ngay).
Vua thân
đến viếng thăm, lập đàn siêu độ.
Sử thần
bàn rằng: Vạn Hạnh có kiến thức cao siêu, thần toán, biết trước mọi
việc, cũng là tay xuất sắc trong giới thiền; nhưng mà hay xách ẩn
hành quái, chỉ tu luyện về thuật, không tu luyện đạo, tạo ra các câu
sấm, lưu truyền làm mê hoặc cho đời, mở mào ác nghiệp cho đời sau.
Nhà Phật nói rằng: Hết thảy đều do tâm người tạo nên.
Vạn Hạnh
là thủ phạm đấy. Tiền sử chỉ chép là tử, đáng lắm.
Vua Thái
Tổ mất ở điện Long An, Thái tử Phật Mă lên ngôi vua. Lúc trước Vua
đau mệt lắm, Đông Chinh Vương, Dực Thánh Vương và Vũ Đức Vương nghe
tin, đưa phủ binh vào phục sẵn ở Long Thành, đợi Thái tử đến th́ tập
kích; Thái tử biết tin nói rằng: "Ta không có điều ǵ phụ ḷng anh
em, mà 3 vị vương lại làm điều bất nghĩa, thế làm sao?". Lư Nhân
Nghĩa nói: "Anh em phải hiệp mưu với nhau mà chống kẻ bạn nghịch,
nếu không thế th́ anh em trở nên cựu thù. Tôn xin ra quyết chiến một
trận. Trước kia Chu Công và Đường Thái Tôn đều phải bỏ t́nh yêu
riêng, chỉ nghĩ đến công nghĩa, người đời sau vẫn ca tụng việc muốn
che giấu việc ấy". Thái tử nói: "Ta há lại không biết thế, nhưng
ḷng ta muốn che giấu việc xấu, để cho 3 vương phải biết mà lùi đi,
cho toàn t́nh cốt nhục là hơn. Nếu không được thế, th́ ta chỉ hầu ở
bên linh cửu Tiên đế c̣n việc ngoài nhất thiết ủy thác cho nhà
ngươi". Nhân Nghĩa trả lời: "Chức phận của chúng tôi, đâu dám từ
nan", liền cùng Phụng Hiểu rút gươm đi ra, nói rằng: "Việc hôm nay
chỉ có thanh kiếm này thôi" rồi xông thẳng đến trước ngựa giết Vũ
Đức Vương, quân của 3 vương phủ đều thua chạy, Đông Chinh và Dực
Thánh chỉ c̣n một thân tháo lui. Phụng Hiểu vào báo tiệp, Thái tử úy
lạo nói: "Ta xem sử cũ có Kính Đức cứu nạn cho vua, nay thấy ông lại
trung và dũng hơn nhiều". Phụng Hiểu thưa: "Đó là Bệ hạ có đức cảm
động đến trời, thần thánh lại phù hộ nữa, chứ chúng thần làm ǵ
được". Sau hết 2 vương phải đến phục tội, Vua xuống chiếu tha tội,
lại cho phục tước cũ.
Phụng
Hiểu là người làng Băng Sơn, Ái Châu, khi nhỏ tuổi hùng dũng, bữa ăn
đến vài đấu gạo, sức uống không có chừng. Khi 2 thôn Cổ Bi, Đàm Xá
tranh địa giới, đem quân ra tranh nhau, Phụng Hiểu bảo bô lăo Cổ Bi
rằng: "Một ḿnh ta có thể đánh nổi chúng", liền nhổ cây đánh ngay;
Thôn Đàm Xá sợ lắm, phải trả ruộng cho Cổ Bi. Vua Thái Tổ nghe
tiếng, triệu vào làm tướng. Đến bây giờ có công dẹp được nạn này,
sau lại theo vua Thái Tôn đi đánh giặc miền Nam, khi khải hoàn xét
định công, Phụng Hiểu nói: "Không muốn quan tước ǵ, chỉ xin được
đứng trên núi Băng Sơn(3) ném thanh đại đao rơi xuống chỗ nào th́
được nhận đến chỗ ấy làm ruộng thế nghiệp" (giữ đời truyền cho con
cháu). Vua y cho. Phụng Hiểu lên trên núi ném đại đao đi xa hơn 10
dặm, thanh đại đao rơi xuống đất làng Đa My, lập tức cho ông được
nhận ruộng đến chỗ ấy, mà tha không phải nộp thuế, cho nên ở Ái Châu
hễ thưởng công th́ có tiếng là ném đao.
Lại xét:
Trước khi Tam Vương chưa làm phản, một hôm vua nằm mộng thấy vị
thần, tự xưng là thần núi Đồng Cổ, bảo Vua rằng Tam Vương sẽ gây ra
biến loạn phải đánh b́nh chóng lên. Đến khi có việc ấy rồi, th́ sắc
phong vị thần ấy làm tước Vương, lập miếu thờ ở sau chùa Thánh Thọ,
phía hữu La thành, là nơi làm lễ minh thệ, đặt đàn ở trong miếu, đọc
lời thề ở tước vị thần rằng: "Làm con mà bất hiếu, làm tôi mà bất
trung, th́ thần giết hại đi". Quần thần từ cửa Đông đi vào, uống máu
mà thề, là ngày 25 tháng ấy, sau này hàng năm làm lễ ấy, coi là lễ
thường phải làm.
Vua thân
đi đánh phủ Trường An.
Xưa kia
khai quốc vương là Bồ ở Trường An, cậy có núi sông hiểm trở, tụ tập
nhiều kẻ vong mạng, vua Thái Tổ không biết, đến bây giờ đốc xuất
quân trong phủ làm phản, Vua phải thân chinh, bọn chúng đầu hàng.
Quân Vua đến dưới thành, ra lệnh kẻ nào cướp bóc của dân th́ sẽ bị
chém đầu, dân chúng dâng trâu ḅ và rượu chật đường, tuyên chiếu chỉ
úy lạo dân, xuống chiếu đưa Khai Quốc Vương về kinh đô Thăng Long,
tha tội cho được giữ tước cũ. Quần thần tâu: "Thái tử là căn bản của
thiên hạ, xin chọn ngay người hiền đức để yên ḷng mong đợi của
thiên hạ". Vua gnhe lời, sách phong Hoàng tử Nhật Tôn làm Đông cung
Thái tử.
Vua cho
Lương Nhận Văn làm chức Thái sư, Đinh Ngô Thượng làm chức Thái phó,
Đào Xử Trung làm chức Thái bào; lại đặt ra chức Tả, Hữu khu mật, Tả,
Hữu tham tri, và Tả, Hữu phúc tâm. Quan chế triều Lư không thể khảo
xét được phẩm cấp thế nào; đại lược chức Tam công chỉ để gia hàm cho
các quan, chứ không có chức việc. Những chức việc phải làm th́ chia
ra: chức quan trong và quan ngoài, quan để cai trị dân là chức quan
trong gọi là Phụ Quốc Thái úy, quan làm việc binh là quan ngoài, gọi
là Đô Thống Tướng quân; lại c̣n có chức Thông Phán là quan làm việc
cai trị tạp tụng; ở ngoài biên giới cực xa th́ đặt ra chức Mục, cũng
nhu Phục đạo ngày nay, đều dùng thổ hào làm chức đó. C̣n đến tư cách
để vào làm quanchức, th́ tuyển cử rất cẩn thận rồi mới đến việc dùng
con các quan, sau mới đến các người nộp tiền để vào ngạch quan. Con
cháu các thợ và kĩ nữ th́ không được lục dụng. C̣n như họ ngoại về
Hoàng hậu, không công ǵ mà lạm nhận, cũng được có danh hiệu là An
Quốc, Khuông Quốc, Phúc Tâm cũng có và danh hiệu Tả Hữu, th́ thật là
quê kịch, không kê cứu ǵ. Đặt ra Cấm quân ở trước điện Vua, gọi là
các vệ Quảng Thánh, Quang Vũ, Ngự Long, Phủng Nhật và Trừng Hải, mỗi
vệ chia ra Tả và Hữu trực, trại quân đóng quanh cả trong Cấm Thành
để bảo vệ, tổng cộng gọi là 10 vệ.
Vua lấy
ngày Vua sinh làm tiết Thiên Thánh, lại làm ra núi bằng tre (Trúc
Sơn), trên núi cắm xen kỳ xí, treo lẫn đ̣ bằng loài kim, cho người
con hát ở trong núi đó, đánh xênh, thổi sáo, hát múa cho vui. Mùa
đông, Vua làm lễ táng Thọ Lăng ở phủ Thiên Đức, đặt tên là "Thần Vũ
Hoàng Đế" miếu hiệu là Thái Tổ. (Vua Thái Tổ có 7 mụn nốt ruồi ở
dưới lưng, như h́nh thất tinh).
Nhà Lư
Thái Tôn Hoàng Đế
Thánh Tôn Hoàng Đế
Nhân Tôn Hoàng Đế
THÁI TÔN
HOÀNG ĐẾ
Tên là
Phật Mă, con trưởng vua Thái Tổ, ở ngôi 27 năm. Khi sinh ra vua có
tướng lạ, lại có nhiều điềm tốt, khi c̣n nhỏ, bắt lũ trẻ đi dàn hầu
ở trước sau, như nghi vệ các quan theo hầu Vua. Thái Tổ trông thấy
nói: "Con nhà làm tướng th́ nên tập việc quân, dùng ǵ đến việc dàn
hầu ấy". Khi lên ngôi vua, đánh đâu được đấy. Nhưng mà làm việc ǵ
cũng theo lễ, người ta vẫn chê.
Niên hiệu
Thiên Thành thứ hai, nhà Tống sai Đồng Dĩnh sang điếu tang và lễ,
phong cho vua làm Giao Chỉ Quận Vương.
Vua khởi
công làm điện Thiên Khánh, để làm nơi xét chính sự. Định ra mũ, áo
cho các công, hầu, văn, vơ quan.
Vua đi
đến Đỗ Động, cầy tịch điền. Có người nhà nông dâng vua một gốc lúa
chiêm có một bẹ sinh ra 9 bông, Vua xuống chiếu cải tên ruộng đó là
ứng thiên. Đời nhà Lư rất trọng việc làm ruộng, năm nào Vua cũng có
đi xe, cấy, xem gặt, đủ rơ chính thể của nhà Lư.
Vua thân
đi đánh, hạ được Đinh Nguyên. Khi kéo quân về đóng ở Chân Đăng, Đào
Đại Nương đem tiến người con gái, Vua lấy làm cung phi, rồi cho đi
về. Xuất quân ra mà rước con gái về, chả c̣n oai vũ ǵ nữa.
Vua xuống
chiếu cho quần thần khi nói việc nước trước mặt Vua, th́ gọi vua là
Triều Đ́nh. Thiên tử tự xưng là Trẫm, là Dư nhất thân, thế mà vua
Thái Tôn bắt quần thần gọi ḿnh là Triều Đ́nh, Thánh Tôn tự xưng là
Vạn Thặng. Cao Tôn bắt người ta gọi là Phật, danh đă không chính,
nên lời nói không thuận. Vua sai sứ sang Tống biếu con voi đă dạy
thuần thục, nhà Tống cho giả lại bằng kinh Đại Tạng. Niên hiệu Thông
Thụy thứ nhất (bấy giờ có 2 vị sư Nghiêm và Phạm thiêu ḿnh, thành
ra thất bảo, xuống chiếu để thất bảo ấy vào chùa thờ cúng, nhân có
việc lạ ấy mới đổi niên hiệu) chế ra cái mũ kim bát giác tiêu giao,
(lối chế
thế nào không xét đâu được). Khi Vua thân chinh đánh Ái Châu, trong
lúc ban yến cho các tướng súy và quan hầu gần ở hành cung, mật chỉ
vào Nguyễn Khánh mà bảo phi tần rằng: "Khánh tất làm phản". Phi tần
hỏi có ǵ, vua nói: "V́ y trông thấy trẫm có vẻ mặt hổ thẹn, lời nói
và cử chỉ trái khi b́nh thường, nên biết y có ḷng bất trắc". Quả
nhiên Phụng Kiền Vương báo tin Khánh mưu phản, phi tần kinh sợ nói:
"Đúng như câu thánh nhân biết trước được các việc chưa xảy ra".
Đúc
chuông chùa Trùng Quang. Khi đúc xong không cần đến nhân lực, tự
nhiên chuông đi đến chùa được.
Phàm các
vật h́nh tṛn th́ lăn đi được, chuông đi được là v́ h́nh tṛn; cây
gỗ tṛn đẩy đi cũng thế, có ǵ lạ; việc này cùng việc bụt mọc đều do
bọn tăng chúng nó đặt ra đó thôi.
Vua cải tên Hoan Châu là
Nghệ An
Vua lập đền thờ Hoằng
Thánh Đại Vương.
Vua lấy cớ nha Đô Hộ có
nhiều việc án bất ngờ, muốn cho rơ chân t́nh, vẫn đốt hương kêu cầu,
có một đêm nằm mộng thấy vị sứ áo đỏ vâng sắc Thượng đế cho Phạm Cự
Lạng làm chủ ngục, và hỏi rằng: "Có phải vị Thái úy của vua Lê Đại
Hành đó chăng?". Khi thức dậy, phong Cự Lạng là Vương tước, lập đền
ở phía tây nam, tuế thời thờ cúng.
Sử thần bàn rằng: Trong
ḷng không nghĩ ǵ mà tự nhiên nằm mộng, mới là chính mộng, ḷng
ḿnh có nghĩ đến việc ấy, mà hốt nhiên có mộng, gọi là mộng nghĩ ra.
Cự Lạng đă nhị tâm trong khi triều đ́nh thay đổi vua, nếu ở nơi âm
ty mà bị Đinh Điền và Nguyễn Bặc tố cáo, th́ tự ḿnh không trả lời
nổi cho mính, c̣n xét việc án nghi ngờ thế nào được; sắc của Thượng
đế, và vị sứ áo đỏ, việc có chăng hay là không có? Mộng của vua Thái
Tôn thật không đáng tin, thế mà người đời sau vẫn thờ phụng, thật là
mê hoặc.
Vua ta cày tịch điền ở
cửa Bố Hải(4), xây đền thờ vua Thần Nông. Người tả hữu Vua nói rằng:
"Cầm cái cày đi cày ruộng là việc con nhà nông, Vua không làm việc
ấy". Vua nói: "Không làm th́ không xướng xuất cho người ta được".
Vua đẩy cái cày ba lần ṛi thôi. Vua tự làm tướng đi đánh bắt được
Nùng Tồn Phúc, duy có vợ nó là A Nùng và con là Trí Cao chạy trốn
thoát.
Tồn Phúc là thủ lĩnh đảng
Nùng, giết em nó là Tồn Lộc và em vợ là Dương Đạo, thôn tính cả đất,
sắm sửa giáp binh, không nộp cống cho triều Lư; đổi châu nó ở gọi là
Trường Sinh Quốc. Hà văn trinh tâu rơ t́nh trạng lên Vua biết, Vua
thân hành đánh giặc, khi quân sang đ̣ Lănh Kinh, có con cá trắng
nhảy vào thuyền. Tồn Phúc ẩn nấp ở trong núi và đầm sâu, quân đuổi
theo bắt được.
Vua từ Quảng Nguyên ban
sư về, xuống chiếu nói: "Từ khi trẫm có đất nước đến giờ, các xứ xa
lạ đều xin làm tôi, Tồn Phúc dám đem ḷng phản bội, tụ hợp quân ong
kiến làm hại dân chúng ngoài biên giới, ta thấy trời đánh kẻ có tội
mà bắt được nó". Vừa lúc đó động Vũ Kiến dâng một khối vàng sống,
Châu Định Biên nói rằng, ở núi có khí bạc hiện lên, bấy giờ quần
thần xin cải niên hiệu là Kiền Phù Hữu Đạo, và tôn hiệu Vua 8 chữ là
"Kim dũng ngân sinh, Nùng b́nh phiên phục". Vua nói: "Đời Đường, Ngu
chỉ vẽ cái h́nh xuống đất mà không ai dám phạm vào, không phải đánh
mà khuất phục được quân địch, v́ thế nên các ngôi sao không trái
phương hướng, mưa to, sét lớn không bị mê muội, có chim phượng hoàng
đến chầu, các man mọi theo phong hóa. Trẫm nay tư chất hèn mọn, kém
đức, mà ở trên thần dân, có đạo đức ǵ thấu đến trời đất, mà sánh
được với Nghiêu , Thuấn, thế mà giặc Nùng b́nh được, Chiêm Thành qui
phục, trong động sinh ra vàng, dưới đất chảy ra bạc; không biết cớ
sao lại được đến thế, hay là trời muốn cảnh báo trẫm đó chăng? Trẫm
rất sợ hăi, tấu nghị của các khanh nên băi bỏ đi". Quần thần cố kêu
nài, mới nhận lời.
Vua xuống chiếu lấy gấm
(gấm của Tống) đă có sẵn ở Nội phủ ban cho quần thần. Trước vua bắt
dạy cung nữ dệt gấm vóc, bây giờ dệt xong, mới đem hết cả gấm Tống
ra may áo (quan từ ngũ phẩm trở lên th́ được áo gấm, từ cửu phẩm trở
lên được áo vóc) tỏ ra là không phải nhà Vua dùng riêng.
Người nước ta ưa chuộng
gấm vóc, đồ dùng của người Tàu; mỗi năm có tàu buôn đến, th́ hao tổn
tiền không biết đâu mà kể; có biết đâu rằng trong đời Hồng Đức những
đồ mâm, bát, b́nh, chén dùng ở trong cung vua, đều là của nước ta
chế tạo, không thấy nói lấy đồ của Tàu làm quí. Đồ dùng của nước ta
tinh xảo chả kém ǵ Trung Hoa, cứ cho mẫu mà bảo thợ chế tạo, th́
sao lại chả tinh xảo được? Đó là một cách bỏ thói xa xỉ, làm cho
nước giàu. Xa nữa th́ nên bắt chước vua Lư Thái Tôn, gần th́ lấy đời
Hồng Đức làm mẫu mực.
Vua xuống chiếu: "Các
việc từ tụng trong nước hết thảy ủy cho Khai Hoàng Vương quyết định,
lấy điện Quảng Vũ làm nơi xét xử kiện tụng".
Bấy giờ việc h́nh phục
phiền nhiễu, các quan giữ pháp luật chỉ cốt dụng ư thâm độc và khổ
khắc, nhiều việc oan uổng vua lấy làm thương đau, sai quan Trung Thư
định ra luật lệnh, châm chước vừa phải với thời, chia ra mộn loại,
biên thành điều mục, làm riêng hẳn thành h́nh thư của đời ấy, khi
ban hành, dân lấy làm tiện lắm. Từ đấy pháp luật xử kiện rất là minh
bạch, mới lấy năm ấy làm niên hiệu Minh Đạo thứ 1, đúc ra đồng tiền
Minh Đạo. Vua lại định lệ cho thục tội, những ngưỡi tuổi từ 70, 80
trở xuống, cùng những người tật bệnh yếu đuối, người cư tang từ 1
năm mà có phạm tội th́ cho thục tội; duy kẻ phạm vào tội thập ác th́
không tha. Đời nhà Chu có h́nh pháp bát nghị và tam xá. Lời chiếu
này của vua Thái Tôn có thể nói là có ḷng bất nhẫn; duy Thái tử ở
trong cung th́ làm Giám quốc, đi ra ngoài là Phủ quân, việc xét tự
tụng không phải là chức sự của Thái tử.
Vua cho tô hơn 1000 pho
tượng Phật, khánh thành, đặt hội La Hán ở trong sân rồng. Đại xá,
tha những người bị tội phát lưu.
Vua xuống chiếu các thứ
thuế của dân nộp vào công quỹ 10 phần lấy riêng ra một phần, gọi là
hoành đầu, cũng như hiện nay ngoài số thuế có tiền bút chỉ.
Nùng Trí Cao lại chiếm cứ
châu Thảng Do, đổi tên châu ấy là Đại Lịch quốc, Vua sai quân đi
đánh, bắt sống Trí Cao đưa về kinh đô. Vua thương y có anh và cha
đều bị giết, nến tha tội cho y, lại được làm quan ở Quảng Nguyên
(nay là Quảng Uyên)(5) như cũ, lại thêm cho các động Lôi Hỏa, B́nh
An và cho được mang ấn.
Trí Cao là tên gian ác,
theo lốt phản bội cũ của cha anh nó, đă tha tội, lại c̣n cho thêm
đất, sự thưởng và phạt thật không có pháp luật ǵ. Đến lúc nó làm
rối ở biên giới, th́ lại bảo nó là việt trợ cho nước láng giềng, có
khác ǵ thả con hổ cho cắn người ta, rồi sau lo cứu dần dần; là v́
mê đắm về ḷng nhân nhỏ mọn của nhà Phật, mà quên mất đại nghĩa làm
việc nước đó.
Vua xuống chiếu: "Có
người nào ẩn giấu người Đạn Nam th́ bị tội".
Triều Lư tra xét số nhân
khẩu rất là tường tế, nghiêm ngặt; dân đinh đến 18 tuổi th́ biên vào
sổ vàng, gọi là hoàng nam, 20 tuổi gọi là đại nam; quan, chức, đô
chủ quản, cấm quân, chỉ được nuôi một tên hoàng nam làm đứa ở, nếu
có ẩn giấu người đại nam th́ quan, chức, đô 3 người ấy bị tội như
nhau.
Vua bảo các người tả hữu
rằng: "Tiên đế thăng hà đă 16 năm nay, nước Chiêm Thành chưa có cho
một sứ thần nào sang nước ta, có phải là oai đức của Trẫm chưa đến
nước ấy, hay là chúng ta cậy có núi sông hiểm trở đó chăng?. Quần
thần thưa: "Đức tuy đă có đến chúng mà oai chưa được rộng". Vua cho
là phải.
Vua xuống chiếu đóng tàu
chiến tên là Long, Phụng, Ngư, Xá; gặp lúc ấy cái thuẫn (lá chẵn)
của vua ở điện Trường Xuân tự nhiên rung động, Vua mới xuống chiếu
cho quần thần hội bàn, đều nói: "Cái thuẫn là binh khí, chim loan
bay lượn trước khi có gió, đá đổ mồ hôi trước khi có mưa. Nay sắp
đánh Chiêm Thành mà cái thuẫn tự động trước, đó là thần và người hợp
ư nhau, nên vật loại tương ứng như thế, chả c̣n nghi ngờ ǵ nữa". V́
thế Vua chinh đi đánh Chiêm Thành, quân đóng ở cửa biển Đại Ác sóng
gió im lặng, quân đi qua cửa biển được thuận lợi, Vua xuống chiếu
đổi cửa biển ấy làm cửa Đại An. Đi đến núi Mi Cô, có đám mây đỏ nâng
đỡ mặt trời, đi qua vịnh Hà Năo, có đám mây che trên thuyền ngự.
Trong ngày ấy nhờ có gió vượt qua được 2 băi cát dài, đi thẳng đến
cửa biển Tư Dung (có tên là Ô Long, thuộc huyện Hương Trà, đất Thuận
Hóa, eo biển hiểm ác, núi non khuất khúc, rất cao. Vua Trần Nhân Tôn
gả Huyền Trân công chúa cho vua Chiêm, thuyền đậu ở đó, nhân thế đổi
tên gọi là Tư Dung. Sau Mạc Đăng Dung lấy cớ đồng âm với tên y, lại
cải tên là Tư Khách, cửa đó tức là cửa Thuận An ngày nay), có con cá
trắng nhảy vào thuyền ngự. Được tin Chiêm Thành bầy trận voi ở nam
ngạn sông Ngũ Bồ, Vua sai bỏ thuyền lên bộ mà đánh, quân Chiêm tan
vỡ, Quách Gia Di chém vua nó là Xạ Đẩu đem dâng, vua kéo quân vào
thành Phật Thệ, bắt cung nữ của Xạ Đẩu, kén lấy người nào giỏi hát
và biết múa điệu khúc Tây thiên. Quân về đến Lư Nhân, triệu Mị Ê là
vợ Xạ Đẩu lên hầu Vua. Mị Ê từ chối nói: "Tôi là đàn bà quê, vợ tên
mán mọi, không được bằng Cơ Khương, gặp buổi nước mất, chồng chết,
tự phận chỉ c̣n một cái chết nữa thôi". Lập tức lấy chăn quấn ḿnh
rồi nhảy xuống nước mà chết. Vua khen là người trinh tiết, phong cho
làm Hiệp chính Hựu thiện phu nhân (cư dân ở nơi bà ấy chết, cứ đêm
nghe có tiếng khóc ở bên sông, ngày một thấy rơ linh ứng, mới lập
đền thờ ở nơi ấy). Vua về đến kinh đô đem tin thắng trận cáo Thái
miếu, ban tiệc rượu thưởng công. Quần thần dâng tôn hiệu lên Vua, và
xin đổi niên hiệu Thiên Cảm Thánh Vũ. Mùa đông năm ấy lại được mùa
lớn, Vua xuống chiếu nói: "V́ đưa quân đi đánh nơi xa, làm ngăn trở
việc nhà nông, có ngờ đâu lại được mùa lớn. Vậy tha cho dân một nữa
thuế phải nộp, để vui ḷng những người lặn lội xa xôi".
Vua cho đặt ra nhà trạm
Hoài Viễn ở bờ sông Gia Lâm, để làm nơi nghỉ cho sứ thần ngoại quốc
(tức nhà sứ thần quán Gia Quát ngày nay).
Vua sai chế ra cái xe
Thái B́nh, sơn thếp bằng vàng mui xe lợp lụa bắt voi kéo.
Vua sai Phùng Trí Năng đi
đánh Ai Lao.
Tổ tiên Ai Lao là người
đàn bà, tên là Sa Đài, trên núi Lào, lội xuống nước bắt cá, xúc chạm
vào cây gỗ ch́m, rồi có mang thai, sinh ra con trai, sau cây ch́m đó
hóa ra con rồng ra sông. Nhân v́ con rồng liếm vào lưng con trai ấy,
người trong bộ lạc đều nhấn vẽ vào thân, giống như áo vẽ rồng. Đời
Vĩnh B́nh nhà Hán, vua nước ấy là Hiền Lật Liễu Báo, xin phụ thuộc
vào Trung Quốc, bấy giờ mới thông hiếu với nước Tầu. Vua Minh Đế đặt
đất ấy làm 2 huyện Ai Lao và Bác Nam (tức là Vân Nam). Đất đó có rất
nhiều bộ lạc, đều gọi là Lào. Tục xứ đó lấy vải quấn quanh ḿnh, rồi
vào chùa để tránh quân thù, không có chữ nghĩa, chỉ lấy lá cây ghi
các việc.
Nùng Trí Cao chiếm cứ
động Vật Ác làm phản, vua đánh không được.
Trí Cao chiếm cứ châu An
Đức, tiếm xưng là Nam Thiên Quốc, đổi niên hiệu là Cảnh Thụy, liền
đến cướp Ung Châu của nhà Tống, bắt được người Tống và Nghiên Mân,
được biết hư thật của Trung Quốc. Mân bảo Trí Cao xin nội thuộc
Tống, dâng biểu cống các sản vật, khi bấy giờ Tống đương ḥa thuận
với nước ta, lấy cớ Quảng Uyên là đất thuộc nước ta, từ khước không
nhận. Trí Cao bên ngoài th́ xin nội thuộc Tống không được, nói đổ là
bị nước ta đánh riết, nhân thế đem đồ đảng mưu cướp đất biên giới
Tống. Một hôm y đốt hết sào huyệt, nói dối dân chúng rằng: "Của chức
góp bao lâu nay, bị trời đốt hết, không c̣n ǵ để sống nữa, cùng kế
lắm rồi, phải đánh lấy Châu Ung nước Tàu mà làm vua". Nói rồi y liền
đốc xuất quân đánh Ung Châu. Trí Cao chỉ muốn làm thuộc quốc của
Tống, để chống cự nước ta; đến khi quẫn bách quá, lại sinh ḷng cắn
trộm để cầu may. Lấy được Ung Châu rồi, tiếm xưng là Nhân Huệ Hoàng
Đế, đổi niên hiệu là Khải Lịch. Đất biên giới Tống được hưởng thái
b́nh đă lâu, không pḥng bị ǵ, cho nên Trí Cao đánh một trận đă
được to, đến đâu cũng đều đắc chí; người Tống lo lắm. Địch Thanh
khảng khái xin đánh, vua Tống cho làm Tuyên Huy sứ, nhậnt tiết việc
đi đánh. Trí Cao cự chiến bị thua, mới đốt thành, đương đêm trốn
chạy sang phủ Đại Lư, quan ở phủ Đại Lư chém đầu Trí Cao đóng ḥm
dâng lên vua Tống. Họ Nùng tuyệt diệt. Trước vua Lư xin với Tống đem
quân trợ chiến, vua Tống đă cho. Địch Thanh nói: "Nhờ quân nước
ngoài để trừ nạn trong nước, không phải là kế hay. Có một Trí Cao,
mà hai tỉnh Quảng không đủ lực đánh nổi phải nhờ quân nước ngoài,
nếu nước ngoài ấy lại làm phản th́ lấy ǵ chống đỡ?". Vua Tống xuống
chiếu đ́nh chỉ viện binh của nước ta. Đến khi Trí Cao bại, mẹ nó là
A Nùng lại thu nhặt dư chúng vào cướp, nhà Tống sai Duy Tĩnh đánh úp
giết được, từ đấy hai động Vật Ác và Vật Dương lại thuộc vào Tống.
Vua sai đặt ra đàn Xă
tắc, để 4 mùa cúng tế cầu cho được mùa.
Vua đặt ra tùy xa Long
Quân (đạo Long Quân theo xe vua).
Vua sai đặt cái chuông
lớn ở sân rồng; dân có sự oan ức ǵ th́ đánh chuông ấy lên, để thấu
đến tai vua.
Có con rồng vàng hiện ra
ở Thụy Minh Các, quần thần đến mừng Vua, thầy Tặng Pháp Ngữ nói:
"Rồng th́ bay ở trên
trời, nay hiện ra ở dưới là bất thường".
Nhà Lư rất thích điềm tốt
lành, cho nên quần thần đời ấy chiều chuộng phùng nghinh; có một con
thú lạ, bảo là con lân, th́ vẽ vời cho rơ ra lân; một cây cỏ lạ, bảo
là cỏ chi, lại vẽ vời cho thành ra cỏ chi. Xem sử một đời vua Thái
Tôn, thấy chép có vị Phật Quang, chép thần hiện ra, chép có hoa ưu
đàm nở, và chép mưa ra thóc ở thềm điện, c̣n nhiều hơn nữa. Nếu có
Pháp Ngữ thường luôn ở đó, tất không có các điều ấy.
Vua mất, miếu hiệu là
Thái Tôn, Thái tử lên nối ngôi vua, cải niên hiệu là Long Thụy thứ
nhất.
THÁNH TÔN HOÀNG ĐẾ
Vua tên là Nhật Tôn, là
con trưởng của vua Thái Tôn, ở ngôi vua 17 năm.
Vua khéo cư xử, nối được
nghiệp, đáng gọi là vị vua tốt, nhưng có việc xây tháp Báo Thiên làm
mệt sức dân, làm cung Dâm Đàm phao phí của dân, đó là điều sở đoản.
Niên hiệu Long Thụy Thái
B́nh thứ hai, mùa đông rét lắm, Vua bảo người chung quanh rằng:
"Trẫm ở thâm cung, đốt
than, mặc hồ cừu mà c̣n rét khổ đến thế này, nghĩ đến tù nhân ở
trong ngục thất, bị gió rét thế nào. Vậy bắt phải cung cấp cho đủ
chăn chiếu và đồ ăn uống".
Sử thần bàn rằng: Vua
Thánh Tôn ở đông cung 27 năm, biết hầu hết những sự khổ sở của người
ta, ẩn t́nh ở dân gian, đến khi lên làm vua, nhân có rét mướt mà
thương kẻ tù giam, suy ḷng yêu con mà xét đến các việc án oan uổng
(Vua ngồi ở điện xử án, công chúa hầu ở bên, Vua chỉ bảo quan coi
việc án rằng: "Ta suy ḷng yêu con ta, để làm cha mẹ dân, người dân
không hiểu biết, th́ nên khoan tha cho". Khuyên dân làm ruộng trồng
dâu, chẩn cấp kẻ bần cùng, chấn chỉnh việc văn, xét duyệt vơ bị, các
chính sự tốt, trong sử chép luôn luôn. Vua tôi thân yêu nhau, không
có sự cách biệt, cho nên thông hiểu dân t́nh, không bị ai che lấp,
thật là hiền quân đời Lư, cũng là do vua Thái Tôn dạy con có phương
pháp đó.
Vua sai xây tháp Báo
Thiên 12 tầng, cao vài mươi trượng (có tên gọi là Đại thắng tư thiên
bảo tháp, tục truyền: An Nam tứ khí, là tháp Báo Thiên, Chùa Quỳnh
Lâm, cái vạc Phổ Minh, chuông chùa Quy Điền).
Vua ra lệnh các quan vào
chầu phải đội mũ bộc đầu, đi giày da (vào triều đội mũ đi giày từ
đây).
Vua định quân hiệu, gọi
là: Ngự Long, Vũ Thắng, Long Dực, Thần Điệp, Phủng Thánh, Bảo Thắng,
Hùng Lược, và Vạn Tiệp, quân lính đều thích vào trán chữ Thiên tử
quân.
Chế độ binh lính của nhà
Lư đại lược theo quân Phủ vệ của nhà Đường, quân Cấm sương của nhà
Tống, mỗi tháng lên cơ ngũ một lần, gọi là đi canh, hết hạn canh lại
về quê làm ruộng, quan không phải cấp lương, duy có người trưởng cấm
quân theo hầu chực tức vệ, được cấp cho 10 bó lúa, 1 tấm vải, cho ăn
gọi là đại ḥa, cấp cho lúa mạch gọi là chiêm mễ. Không có phí tổn
nuôi lính, mà có công hiệu dùng sức lính, cũng là chế độ hay.
Tuổi Vua đă cao (40
tuổi), mà chưa có con, nhân đi du quan đến làng Thượng Lỗi(6), thấy
một người con gái hái dâu đứng nấp trong đám cỏ gianh, lấy về làm
vợ, đặt tên là Ỷ Lan phu nhân, đến chùa hành hương, có mang sinh ra
Kiên Đức (có thuật đầu thai thác hóa của Nguyễn Bông).
Vua cấp bổng liền cho
quan Sĩ sư Ngụy Trọng Ḥa, Đặng Thế Tư và các ngục lại, để nuôi ḷng
liêm khiết.
Sử thần bàn rằng: "Dương
Chấn từ khước vàng, Ôn Tẩu từ chối tiền, người đời có mấy người được
như thế. Nếu không được thế, th́ nghèo túng tất sinh ḷng tham, cũng
là thường t́nh, mà cho ra làm việc dân, đó là cho lăng chăn dê, đưa
vịt nuôi chim ưng. Kinh Thư có câu: "Có được giàu mới cho làm quan,
cho nên rút bớt số quan mà cho có lương bổng là việc cần lắm".
Chân Dăng dâng con voi
trắng, Vua cho là điềm tốt, cải niên hiệu là Thiên Huống Bảo tượng.
Xưa kia vua Hiếu Tĩnh nhà Nguyên Ngụy bắt được con voi lớn ở Nam
Duyện, th́ đổi niên hiệu là Thiên Tượng, ngày nay niên hiệu Bảo
Tượng của Thánh Tôn cũng giống như thế; cái bệnh thích điềm tốt đến
thế đó.
Vua thân đi đánh nước
Chiêm Thành, bắt được vua nước ấy là Chế Củ giải về. Chế Củ xin đem
đất ba châu: Địa Lí (nay là Quảng Ninh, tỉnh Quảng B́nh), Ma Lệnh
(nay là Minh Linh, tỉnh Quảng B́nh), để chuộc tội, Vua tha Chế Củ
được về nước. Vua đánh Chiêm Thành lâu lắm không hạ nổi, nghe tin bà
Nguyễn Phi giúp việc trong cung cấm, mà ḷng dân ḥa vui, liền nói
rằng: "Một người đàn bà mà làm được như thế, đánh Chiêm Thành mà
không hạ được, th́ bọn con trai ta dùng làm ǵ được". Lại đi đánh
nữa, mới thu phục được.
Vua sai sửa sang Văn
Miếu, tô tượng Khổng Tử và Chu Công, thờ cúng đủ bốn mùa.
Có nước đă ba triều vua,
mới sửa sang nhà học, chỉ cần có tượng Phật và kinh Phật thôi.
Vua mất, miếu hiệu là
Thánh Tôn. Thái tử lên nối ngôi vua, mới 7 tuổi, mẹ đẻ là Ỷ Lan Lê
Thị.
NHÂN TÔN HOÀNG ĐẾ
Tên là Kiên Đức, con
trưởng vua Thái Tôn, làm vua được 56 năm. Trong đời vua nước lớn
phải kiêng sợ, nước nhỏ mến phục, thần th́ giúp, người vui theo, đời
được thái b́nh, có thể khen là vị vua tốt, tiếc rằng tôn sùng đạo
Phật và thích điềm tốt quá lắm, là điều đáng chê trách.
Niên hiệu Thái Ninh thứ hai, Hoàng thái hậu là Dương Thị cùng dự
việc chính trị giúp Vua; mẹ đẻ Vua là Lê Thị kêu ca với vua rằng:
"Mẹ già sinh dưỡng khó nhọc, mới được có bấy giờ, mà người khác được
hưởng phú quí, vậy xử trí cho mẹ già sao đây". Vua c̣n nhỏ tuổi
không biết xét đoán ra sao, liền ép bà Hoàng thái hậu phải chết theo
vua Thánh Tôn.
Quan Thái sư Lư Đạo Thành
lấy chức Tả gián nghị Đại phu ra trấn Nghệ An.
Con chim sẻ trắng đậu ở
sân cung cấm.
Tiền Lư thích điềm tốt
thành bệnh nghiện, ai ai cũng xu my như điên, con qui, con hươu cũng
tự cho là điềm tốt, giống ǵ cũng đều là điềm tốt cả. Khảo cứu một
bộ sử triều Lư, cả trước sau gần 50 lần chép tường thụy, lớn nhỏ gần
30 chục bài chép về việc Phật, việc tầm thường nhỏ mọn chả có ǵ
đáng là điềm tốt, thuyết không hư tịch diệt chả đáng giáo lư, không
quan hệ ǵ đến chính trị, lại c̣n làm hại luân thường, tên các người
quê hèn, đàn bà hóa, các việc tắm bụi, nuôi sư, nhất nhất chép cả
vào sử, cách chép sử như thế đó sao? Than ôi! Nói về tường thụy bắt
đầu từ khi có con sẻ trắng, rồi lại đến truyện con sẻ trắng là hết
đời, vậy th́ chép con sẻ trắng đó, gọi là yêu quái cũng được.
Vua cho các công thần đến
80 tuổi th́ cho được chống gậy và ngồi ghế ở trong triều đ́nh.
Vua mới tuyển các người
minh kinh và bác học, lại thi Nho học tam trường. Lê Văn Thịnh
(người làng Đông Cứu, huyện Gia Định)(7) được dự tuyển, được tiến
vào chầu Vua giảng học.
Vua sai Lư Thường Kiệt và Tôn Đản lạnh 10 vạn quân chia làm 3 đạo
sang xâm lấn đất Tống (1 đạo đi từ Quảng Châu, 1 đạo đi từ Khâm Châu
và 1 đạo đi từ Côn Luân). Khi bấy giờ nhà Tống dùng Vương Anh Thạch,
là người thích cầu công ở biên giới, quan Tri Châu Ung là Thẩm Khởi
theo ư An Thạch, lập mưu xâm lấn đất nước ta, muốn kiếm chuyện để
lấy cớ mà dụng binh, mới cấm các châu huyện không được buôn bán với
dân ta. Vua ta giận lắm, xuống chiếu cho Lư Thường Kiệt đưa quân
đánh hăm Khâm Châu và Liêm. Quan Đô giám Quảng Tây, nhà Tống là
Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu viện, Thường Kiệt đón đánh ở Côn
Luân, chém Thủ Tiết tại trận. Tôn Đản tiến quân lên vây Ung Châu,
quan Tri châu là Tôn Giàm hết sức cố giữ thành, quân ta lấy túi chứa
đất xếp đống ở chân thành mà trèo lên, Giàm phải tự đốt mà chết,
thành bị hăm, (Giàm bắt 36 người nhà y đều chết trước, cho xác chết
xuống cả một hố, rồi mới tự đốt ḿnh, người trong thành cảm nghĩa
khí của Giàm, không một người nào chịu hàng, chết gần 10 vạn người,
nhà Tống truy tặng cho Giàm là Trung dũng). Thường Kiệt thắng trận,
ra tờ bố cáo nói: "V́ nghe Tống thi hành phương pháp "Tham miêu" làm
khổ cho dân, nên ta phải ra quân, là muốn cứu vớt dân". An Thạch
thấy thế càng giận lắm, cho Triệu Cao làm Chiêu Thái sứ, cho Quách
Quỳ là người lăo luyện về công việc ở biên giới, làm phó sứ, hiệp
cùng nước Chiêm Thành và Chân Lạp đếm xâm lấn đất nước ta. Thường
Kiệt đón đánh tan ở sông Như Nguyệt, Quách Quỳ phải rút lui, lại lấy
mất các châu Quảng Nguyên của ta, vua ta sai Đào Tôn Nguyên ra đưa
con voi đă dạy thuần rồi cho nhà Tống, để xin lại đất Quảng Nguyên
và dân mà Tống đă dắt voi về. Nhà Tống hẹn với nước ta nếu trả lại
hơn ngh́n dân Châu Ung đă bắt làm tù binh, th́ sẽ trả hết đất ở địa
giới nước ta, Vua ta ra lệnh chỉ trả độ 200 người, trai th́ thích
vào trán chữ "Thiên tử binh" gái th́ thích vào tay tả chữ "quan
khách" cho xuống thuyền chở đi, lấy đất trát kín cả các cửa sổ,
trong thuyền đốt nến, làm cho không biết rơ lúc nào là ngày và đêm,
đưa đi đường biển, vài tháng mới về đến nơi. Người Tống giận việc đó
lắm, nhưng đă trót hẹn, nên giả 4 châu về cho nước ta.
Nhà Tống lấy được châu
Quảng Nguyên, đổi tên là Thuận Châu, cho Đào Bật làm Tri châu. Bật
bị chết ngay. Quan quân cũng có nhiều người chết v́ chướng khí, nên
Tống chán lắm, khi ấy nước ta trả lại tù binh châu Ung và Liêm nên
cùng giả đất lại cho nước ta. Tống có câu thơ: "V́ tham voi Giao
Chỉ, để mất vàng Quảng Nguyên" là chỉ vào việc biếu voi để xin lại
đất này đó.
Tương truyền: Khi Thường
Kiệt đánh Tống, cắm trại dựa theo sông Như Nguyệt, có một đêm nghe
có tiếng đọc to rằng: "Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định
phận tại thiên thư, Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành
khan thủ bại hư". Có 2 anh em tướng quân họ Trương, một người tên là
Hống, một người tên là Hát đều là danh tướng của Triệu Việt Vương,
sau khi mất thường có linh ứng, các triều trước phong cho vương
tước. Lúc ấy có công lui được quân Tống, vua Lư phong cho một vị là
Khước Dịch Đại Vương đền thờ ở sông Long Nhỡn Tam kư, một vị là Cảm
Linh Đại Vương, đền thờ ở
sông Như Nguyệt. Sử thần bàn rằng: Nước ta đánh nhau với quân nước
Trung Hoa nhiều lần, từ vua Nam Đế trở về trước, việc đă lâu rồi,
sau này vua Ngô Tiên Chúa đánh Bạch Đằng, vua Lê Đại Hành đánh trận
Lạng Sơn, vua Trần Nhân Tôn đánh đuổi được Toa Đô, Thoát Hoan, những
trận được vẻ vang đó là câu chuyện hănh diện của nước ta, nhưng đều
là giặc đến đất nước, bất đắc dĩ mà phải ứng chiến. C̣n đến đường
đường chính chính đem quân vào nước người, khi đánh không ai địch
nổi, khi kéo quân về không ai dám đuổi theo, như trận đánh Ung Liêm
này thật là đệ nhất vơ công, từ đấy người nước Tầu không dám coi
thường chúng ta, đến những đồ cống, h́nh thức thơ từ, không dám hà
trách, chỉ sợ lại sinh ra hiềm khích. Đến thơ từ của nước ta đưa cho
Trung Hoa chỉ dùng có hai tấm ván sơn đen, liệt tên vài vị đại thần
dùng ấn tín Trung thư môn hạ mà đóng vào, thế th́ triều Lư được
trịch với Tống nhiều lắm.
Quan Thái sư Lư Đạo Thành
mất. Khi trước bà Thái hậu Linh nhân tham dự việc triều đ́nh, Lư
Thượng Cát cậy là quan Ngự vũ cùng tham dự chính sự, Đạo Thành không
hợp ư với Thượng Cát, liền xin bổ ra làm quan ngoài; Đến khi ông lại
vào phụ chánh, kết sức trù hoạch, được nhiều điều bổ ích cho việc
trong triều và ngoài biên giới. Nay ông mất đi, ai cũng tiếc.
Lê Văn Thịnh đi sang
triều đ́nh Tống bàn việc cương giới. Văn Thịnh đi đến Quảng Tây, hội
nghị với Thành Trác triều Tống, việc ǵ cũng ủy khúc, không có biện
bạch, lấy lư giải quyết dần, có câu nói bồi thần tranh chấp, vua
Tống khen là cung thuận, ban cho áo và đai, nhân thế giả cho nước ta
Bảo Lạc 6 huyện Túc Tang 6 động. Văn Thịnh thung dung chu toàn,
không cần phí lời, mà làm vua Tống phải khen, giả cho 6 huyện đă bị
xâm chiếm, thật là vị sứ thần giỏi.
Vua cho th́ các người có
văn học trong thiên hạ, để xung vào làm quan viện Hàn lâm, Mạc
Hiển Tích được trúng
tuyển, vua xuống chiếu cử ông làm chức Học sĩ.
Vua lập nên Bí Thư Các và
định ra việc thu thuế, mỗi mẫu 3 thăng lúa, để cấp lương cho quân.
Lê Văn Thịnh mưu làm phản, bị an trí ở Thao Giang. Văn Thịnh có
người thầy tớ là người nước Đại Lư, biết biến hóa kỳ thuật; khi ấy
ông làm chức Tam công cầm quyền chính trong nước, liền manh tâm khởi
loạn, gặp khi Vua đi chơi hồ Dâm Đàm (Tây hồ), ngự trên thuyền xem
cá, hốt nhiên khởi lên đám mây đen, trong đám tối mờ nghe có tiếng
chèo thuyền rẽ nước đến gần thuyền Vua, Vua lấy cây giao ném, chốc
lát đám mây đen tan mất, trong thuyền thấy có con hổ, người đánh cá
là Mục Thận lấy lưới vung ra chụp lên con hổ, th́ là quan Thái sư Lê
Văn Thịnh. Vua lấy cớ Thịnh là đại thần có công giúp nước, không nỡ
giết, chỉ đem đày ở đầu trại Thao Giang(8) thôi.
Thái hậu phát tiền ở nội
phủ chuộc con gái nghèo đem thân cầm bán, về gả cho người hóa vợ.
Khi Thái hậu giữ triều
chính, thị nữ có tội ǵ mà bị giết, việc ấy c̣n nhẫn tâm làm được,
nay mới xám hối làm phúc th́ muộn lắm rồi.
Lư Giác ở Diễn Châu biết
thuật lạ, có thể biến cây cỏ thành người, âm mưu khởi loạn, vua sai
Lư Thường Kiệt đi đánh, Giác chạy sang Chiêm Thành, nói cho biết hết
hư thực trong nước, vua Chiêm là Chế Ma Na nhân thế vào cướp nước
ta, lấy lại được 3 châu Địa Lư mà Chế Củ đă dâng khi trước.
Thường Kiệt đánh được
quân Chiêm, người Chiêm lại phải nộp giả lại đất ấy.
Lư Thường Kiệt mất.
Thường Kiệt là tướng tài,
nhiều mưu lược lúc nhỏ v́ có tướng mạo xinh đẹp, tự thiến, để vào
làm Hoàng môn chí hậu, đánh bại được quân Tống, b́nh được giặc
Chiêm, danh vọng, công danh ngày thêm trọng.
Vua đắp đê Cơ Xá.
Vua kén chọn con tôn thất
làm con thừa tự. Vua đă cao tuổi, chưa có con thừa tự, nên lập nhiều
bà Hậu, làm đàn chay cầu đảo; đến bấy giờ em vua là Sùng Hiền Hầu
sinh ra con trai là Dương Úc nuôi ở trong cung, mới 2 tuổi mà thông
minh lanh lẹ, Vua rất yêu, xuống chiếu cho lập Dương Úc làm Thái tử.
Phu nhân Sùng Hiền có mang thai, vừa lúc vị sư Từ Đạo Hạnh ở núi
Thạch Thất đến chơi nhà, nói chuyện về việc cầu tự, vị sư hẹn rằng
đến khi sinh tất phải bảo ông trước, đến lúc khó sinh, Sùng Hiền Hầu
nhớ tới lời vị sư, sai người đến bảo, vị sư lập tức tắm rửa thay
quần áo vào trong chùa Thi Giả mà mất, phu nhân liền sinh con trai,
tức là Dương Úc. Núi Thạch Thất ở làng Lật Sài, huyện Yên Sơn(9),
cao nhọn xinh đẹp, mọc ở giữa đất bằng. Trong sơn động có vết đầu,
lốt chân in vào đá, h́nh giống vẩy rồng, người ta nói đó là nơi thi
giả. Người làng lấy làm lạ, để thây vào trong khám mà thờ, hàng năm
cứ ngày 7 tháng 3 là ngày đại hội của xứ ấy, đến năm Vĩnh Lạc, người
Minh đốt xác ấy đi, người làng ấy mới tô tượng thờ ngang với vua
Thần Tôn. Trong năm Quang Thuận đời Lê, vua sai Nguyễn Đức Trinh cầu
tự ở trong động, có điềm lạ là phiến đá bay đến, mang về dâng vua,
bà Trường Tạc Thái hậu nằm mộng thấy con rồng vàng chui vào hông
phía hữu, rồi sinh ra vua Hiến Tôn, từ đấy mà đi hiển hiện nhiều sự
anh linh.
Dă sử nói: Đạo Hạnh là
con Từ Vinh, nhà ấy có tiếng là pháp thuật, chứ không phải là cao
tăng; xem ngay việc th́ giải đầu thai, là chuyện quái lạ, c̣n cao
tăng th́ trong ḷng sáng suốt, thấy rơ t́nh lư, tất không đưa pháp
thuật làm mê hoặc người ta. Chép sử th́ phải bỏ hết sự quái dị, mà
chỉ giữ lấy việc thường có, cũng không nên đưa câu chuyện thần quái
làm mê hoặc đời.
Thời bấy giờ dân lưu vong
ở kinh đô hay ở quê phần nhiều làm nghề trộm trâu ḅ, nên dân gian
cùng quẫn, vài nhà cày chung một con trâu,Vua ra lệnh cấm giết trâu,
ai giết một con trâu phải tội 80 trượng.
Vua đi chơi Ứng Phong,
xem dân cày ruộng công. Mùa thu năm ấy được mùa, Vua lại đi xem dân
gặt lúa.
Bà Ỷ Lan Thái hậu mất,
hỏa táng ở Thọ Lăng.
Vua ra lệnh kén chọn
hoàng nam người nào khoẻ mạnh xung vào số lính Ngọc giai Hưng thánh.
Vua sai đóng 2 thuyền
Cảnh Hưng và Thanh Lan, tập tàu chiến, sửa sang áo giáp và binh khí,
vua thân hành đi đánh động Ma Sa. Xuống chiếu nói: "Trẫm nhận lấy cơ
nghiệp của tổ tiên, thống trị dân đen, coi dân nào cũng như con đỏ,
nên nước khác mến ḷng nhân mà qú phục. Dân thần của ta, thế mà tên
tù trưởng ấy bỏ cả tuế cống, bất đắc dĩ trẫm phải thân đánh. Vậy lục
quân, phải nghe mệnh lệnh của trẫm". Bấy giờ bắt đầu từ Thiên Thu Bộ
kéo quân đi; sĩ khí hăng hái lên trăm phần, đánh phá được Ma Sa, bắt
tên tù trưởng là Ngụy Phang, rồi hạ lệnh chiêu dụ nhân dân cho về an
nghiệp. Khi quân về, khao tướng sĩ, quần thần xin dâng tôn hiệu, đổi
niên hiệu là Thiên Phù Duệ Vũ.
Vua cấm dân không được
lấy gậy tre, gỗ nhọn đánh nhau.
Vua ra lệnh bắt kẻ trốn
tránh, (người đi bắt giữ lại ở nhà riêng, không báo cho quan th́
phạt 80 trượng. Các thế gia cướp đoạt kẻ bắt được ấy để làm đứa ở
riêng cho ḿnh, th́ tội cũng đồng thế). Vua cho chế ra cái ô đi mưa
cán không thẳng. Vua cấm không được giết trâu. Trong tờ chiếu nói:
"Con trâu là vật hệ trọng cho sự cày cấy, làm lợi cho người không
phải ít, mà dám giết để ăn thịt là phải tội".
Nhà Tống trả tên thổ tù
làm phản là Mạc Hiền về cho nước ta. Khi ấy Lê Bá Ngọc đánh Quảng
Nguyên, bọn phản loạn Mạc Hiền 7 tên trốn vào đất Tống, vua đưa thư
sang nhà Tống, nên nhà Tống nghiêm sức bắt trả cho nước ta.
Vua xuống chiếu: phàm
đánh người ta đến chết, th́ phải tội 100 trượng.
Vua cấm dân gian trong
mùa xuân không được chặt cây.
Vua sai Nghiêm Thường
sang Tống tạ ân (tạ việc bắt trả Mạc Hiền). Đi đến Quế Phủ, yết kiến
ty Kinh Lược, được bảo rằng: Hiện nay Đông Kinh đương đều bắt binh
mă đánh nước Kim, lần đi này ngựa trạm, người hầu ở chỗ nào cũng
thiếu, không bằng hăy trở về. Thường mới trở về. Năm ấy nước Kim có
Ly Phần vây hăm kinh đô Biện, bắt 2 Vua đem về Bắc.
Sao thiên cẩu xa xuống,
có tiếng nổ như sấm.
Vua đau, triệu quần thần
vào nhận di chiếu, rằng: "Loài sinh vật không có loài ǵ là không
chết, mà người đời ai cũng thích sống ghét chết, Trẫm không cho là
phải. Nghĩ như Trẫm khi ít tuổi đă phải chịu cơ nghiệp lớn, biết
kính sợ đă 56 năm nay, nhờ Tổ Tôn phù hộ, biên cảnh được yên, nay
chết được theo sau Tiên quân là may lắm rồi: Thái tử Dương Úc sẵn có
thông minh thành thật, có thể nối được ngôi báu, quan Thái úy Lưu
Khánh Đàm nên nhất tâm pḥ tá, quan Nội thị Lê Bá Ngọc phải pḥng bị
các điều bất ngờ, đừng bỏ lời Trẫm việc tang th́ để 3 ngày thôi,
việc táng cần phải sẻn nhặt". Đến ngày hôm sau th́ Vua mất, Thái tử
lên ngôi vua, Bá Ngọc tuyên thị các quan phải đến ngoài cửa Đại Hưng
đợi mệnh, đóng hết các cửa thành, nghiêm cấm cả nội ngoại; một chốc
cửa nách phía hữu mở ra, cấm quân đứng sắp hàng ở dưới điện, dẫn
quần thần vào sân rồng. Vua sai Bá Ngọc tuyên dụ chỉ rằng: "Tiên đế
đă thăng hà, ngôi trời không thể để không được, Trẫm lên nối ngôi,
lo lắng vô cùng, các khanh phải nhất tâm giúp Trẫm không những không
phụ ḷng Tiên Đế, mà cũng là cùng với nước cùng yên hưởng phúc",
quần thần lạy mừng ai nấy khóc cả. Vua xuống chiếu cho thiên hạ cứ
yên nghiệp làm ăn như cũ
Sử thần bàn rằng: Vua
Nhân Tôn có học cao minh, hiểu rơ việc đời, biết nghĩ đến người mất
người c̣n, thấu lẽ tử sinh, xem như mấy câu nói khi sắp mất, không
phải người không biết đạo lư không quan tâm đến việc sống chết. Tuy
thế, vua Nhân Tông nói ra là người biết rơ đạo, vua Thần Tôn sở hành
lại là thất hiếu. Thể lệ để tang ngắn ngày từ Hán Văn Đế nêu ra
trước, v́ ông học đao Hoàng Lăo, việc ǵ cũng lui một nước, nên mới
thành ra có lỗi. Vua Cảnh Đế cũng theo như thế, toại thành việc bất
hiếu để lại ngh́n đời sau. Vua Thần Tôn c̣n nhỏ tuổi chưa hiểu lễ,
mà quần thần cũng không ai cán gián, sao thế?
1) Nay là xă Đ́nh Bảng,
huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
2) Núi Tiên Sơn, nay
thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
3) Băng Sơn: Nay là xă
Dương Sơn huyện Hoàng Hóa, Thanh Hóa.
4)Cửa Bố Hải. tức là Cửa
Bo, nay là vùng thị xă Thái B́nh, tỉnh Thái B́nh.
5) Nay thuộc huyện Trùng
Khánh, tỉnh Cao Bằng. 6) Nay là làng Sủi, xă Phú Thị, huyện Gia Lâm,
Hà Nội.
7) Nay là làng Bảo Tháp,
xă Đông Cứu, huyện Gia Lương, Bắc Ninh.
8) Nay thuộc vùng miền
tây, tỉnh Thanh Hóa.
9) Nay là chùa Thày, núi Sài Sơn, xă Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh
Hà Tây.
Nhà Lư
Thần Tôn Hoàng Đế
Anh Tôn Hoàng Đế
Cao Tôn Hoàng Đế
Huệ Tôn Hoàng Đế
Bà Chiêu Thánh Hoàng
THẦN TÔN
HOÀNG ĐẾ
Vua tên
là Dương Úc, con Sùng Hiền Hầu, vua Nhân Tôn nuôi, ở ngôi 11 năm.
Khi vua mới lên ngôi hăy c̣n tính trẻ con, đến khi lớn biết tu bổ
chính sự, dùng người hiền tài, cũng là vị vua có thể thành hiền quân
được, duy chỉ có việc sùng đạo Phật quá, thích các điềm tốt, là đáng
cười thôi. Niên hiệu Thiên Thuận thứ nhất, Vua xuống chiếu: phàm
người dân có điền thổ bị lấy sung công và người dân phải biên vào sổ
làm điền nhi và lộ ông, nay đều tha hết. (Điền nhi và lộ ông đều là
người làm đày tớ để người sai khiến).
Vua tăng
thước vị và phẩm trật cho các quan văn, vơ. Lê Bá Ngọc làm Thái phó,
tước là Đại liên ban, Mâu du đô làm Giám nghị, tước vị Nội Thượng
Chế, để đền công giúp vua khi mới lên ngôi. Vua xuống chiếu: "Trong
nước có tang không ai được cưỡi ngựa và đi xe lam sư" (kiểu xe thế
nào không khảo cứu được). Vua sai sứ thần sang Tống báo cáo việc Vua
mới lên ngôi, sai quan đến nước Chiêm Thành tuyên bố tờ chiếu khi
Vua lên ngôi.
Nước Chân
Lạp vào cướp đất Nghệ An, Vua sai Công B́nh đem quân ra đánh ở bế n
Ba Đầu Bộ, bắt được chủ tướng và quân lính của địch, quân sĩ về dâng
tù binh đă bắt được, Vua cho là nhà Phật phù hộ mới được thế, bèn
đến chùa tạ ân. Từ lúc ra quân đến lúc báo tiệp mới gần hai tháng,
truy nguyên công đánh phá được giặc là công của tướng và sự khó nhọc
của lính, không có lời khen ngợi úy lạo, mà chỉ quy công cho Phật,
thế th́ phàm những người lưng đeo áo giáp, tay chống ngọn giáo, đều
không có chút công ǵ đáng khen, c̣n khuyến khích tướng sĩ sao được?
Quần thần
dâng tôn hiệu lên Vua, Vua nói: "Trẫm tuổi trẻ nối nghiệp lớn, thế
mà người nước sợ oai đều nhờ các khanh biết tận tâm chức vụ, giúp
Trẫm các
điều sơ sót không nghĩ tới". Vua cho độ 4 người lăo binh làm thày
tăng.
Lăo binh
mà độ làm thày tăng, mất hết khí hùng cường đi rồi. Bỏ kiếm mà lần
chuỗi tràng hạt, cởi chiến bào mà khoác áo cà sa, ngồi ở trong cửa
không vắng vẻ, sao không nghĩ đến t́nh của khuê phụ vợ các chiến sĩ
đương mong mỏi được vui cảnh cuốc ruộng, đưa cơm trong lúc luống
tuổi.
Vua cải
cho Lê Bá Ngọc là họ Trương. Họ của trời cho, không thể người ta làm
được, yêu một vị bầy tôi mà cho cải sang quốc tính, người ta c̣n chê
là cưỡng ép, nay Bá Ngọc là đại thần cho cải họ Lê sang họ Trương là
nghĩa ǵ? Đó cũng là việc làm của người c̣n tính trẻ con đấy!
Vua tôn
thân phụ làm Thái Thượng hoàng, thân mẫu là Đỗ Thị làm Thái hậu.
Vua Thần
Tôn đă 14 tuổi, tuy không có tư chất như vua Hán Chiêu, nhưng sao
lại không biết nhớ đến cái ân vua Nhân Tôn là cha, th́ Sùng Hiền Hầu
phải là Hoàng thúc, như việc Hiếu Tôn đời Tống xử với Tú An Hy
Vương, là để tỏ ra có một gốc th́ mới phải, bây giờ lại tư ân với
người đẻ ra ḿnh, là cớ sao thế?
Dân bắt
được con hươu trắng, ở rừng Giang Để.
Trong sử
đời vua Thần Tôn chép đến 29 điềm tốt, mà điềm con hươu đến tám lần,
v́ hươu mà được làm quan đến ba lần, ḍ xét hươu mà được thưởng hai
lần. Thích hươu như thế, không biết dùng để làm ǵ, túng xử một con
hươu lạc mất, lại đến sai nhiều người vác giáo đi đuổi, thật đáng
cười lắm. Vua sai làm thần chủ vua Nhân Tôn, rước vào thờ ở Thái
Thất (Thái Miếu).
Chủ là để
h́nh tượng thần ở đó, thần nương tựa vào cái chủ. Tế ngu th́ mới làm
thần chủ, hết tế ngu th́ mới đổi thần chủ, đă đổi thần chủ rồi, th́
mới được rước vào thờ ở miếu, là lễ phải thế đó. Cho nên theo lễ th́
phải có 2 thần chủ: 1 ngu chủ và 1 thần chủ. Ngu chủ làm bằng gỗ
dâu, cao 1 thước 5 tấc, không đề tên thụy; thần chủ làm bằng gỗ táo,
rửa nước thơm, lau khăn lụa, đề chữ mực, rồi quét sơn dầu ra ngoài.
Thể chế
của nhà Tống: Đưa tử cung (quan tài vua) lên hoàng đường, lễ yếm
toàn (bỏ xác chết vào quan tài mà che đậy lại) sắp xong, quan Nội
yết rước ngu chủ đến trước quan tài, tâu xin thần linh nhập vào ngu
chủ, liền rước lên xe đưa lên điện, chờ che đậy nắp quan tài xong
th́ làm lễ tế ngu thứ nhất. Từ lần tế ngu thứ hai đến thứ năm đều
làm lễ tại Hành cung ở dọc đường, các quan làm lễ. Lần tế ngu thứ
sáu làm tại kinh đô, quan Chánh khanh làm lễ; lần tế ngu thứ bảy đến
thứ chín th́ vua làm lễ, các quan làm bồi tế. Khi chín lần tế ngu
xong rồi, th́ làm lễ tốt khốc mà rước vào thờ ở miếu. Lễ tế ngu đến
chín lần này có từ đời nhà Chu, đến đời nhà Tống không thay đổi. Chu
Văn Công đặt ra ba lần tế ngu, đó là lễ tế người sĩ, cận lai dùng
làm quốc lễ, theo nhau làm lỗ mỗ, chưa có xét khảo kỹ. Người giữ
việc nước cải chính mới được.
Vua xuống
chiếu cấm nô tỳ nhà Vương, Hầu không được ỷ thế đánh người, nếu phạm
cấm lệnh đó th́ phạt gia chủ.
Vua xuống
chiếu con gái các quan đến tuổi cập kê chờ để tuyển vào cung cấm,
người nào không trúng tuyển nhiên hậu cho đi lấy chồng.
Vua ra
lệnh cấm con gái dân gian không được bắt chước lối ăn mặc nhà quan.
Cấm thày tớ nhà quan không được lấy con gái nhà quan.
Sáu cung
của nhà vua thiếu ǵ phi tần, mà cũng phải kén người hiền thục mới
phải, đâu lại có xét khắp con gái bách quan để t́m sắc đẹp. Xưa kia
Tôn Hiệu, và Tấn Vũ đă làm như thế. Nay vua Thần Tôn cùng một thói
ấy, ham mê nữ sắc quá lắm.
Vua xá
tội nhân thiên hạ, lại xá tù ơ phủ Đô Hộ.
Năm nào
cũng xá, th́ bọn gian c̣n sợ ǵ nữa. Trộm cướp đă có nhiều mà vua
Thần Tôn làm cho chúng nó được tụ họp vào sào huyệt rừng rậm. Lạm
dụng thuyết giới sát của nhà Phật, tha các kẻ phạm tội chết để hại
lương dân, lại chỉ làm cho ngắn đời ḿnh lại đó thôi. Như Vũ Hầu đời
Hán, không xá kẻ có tội, mới thật là biết cách trị dân.
Nước
Chiêm Thành sai sứ đến cống, Vua đương đánh cầu, cho sứ nước Chiêm
vào xem. Vua Huy Tôn đời Đường giỏi về đá cầu, tự khoe nếu thi, th́
sẽ trúng Trạng Nguyên, người phường chèo nói: "Nếu gặp phải vua
Nghiêu, vua Thuấn làm lễ quan, sợ không khỏi bị đuổi ra mất"; lời
này thật chê mỉa mai lắm. Vua Thần Tôn đem việc đá cầu khoe với sứ
thần nước Chiêm, uy nghi của nước đâu có như thế được?
Nguyễn
Măi ở làng Thái B́nh dâng con hươu trắng, lính ở đội quân Tả Vũ Tiệp
là Đỗ Khánh dâng con cá vàng, Vua cho là điềm tốt. Lư Phụng Án là
Hạp Môn sứ nói rằng: "Đó là những vật nhỏ mọn có ǵ là điềm tốt".
Sử thần
bàn rằng: Vua Thái Tôn thích điềm tốt, như việc vàng bạc sản sinh
ra; như việc có rồng vàng hiện ra, chỉ có một người thày chùa cho là
bất thường. Vua Thần Tôn thích điềm tốt, như việc dâng con hươu, con
cá. Đến việc con cá yết tùng chỉ một ḿnh Phụng Án cho là phi thụy,
cả triều các quan chỉ đều xu nịnh, một người nhà chùa lại dám nói
thẳng, viên quan nhỏ dám can ngăn, các quan văn vơ tại triều đáng hổ
thẹn lắm.
Vương Cửu
là lính ở đội quân Thạch Hưng Vũ dâng con rùa "Lục mâu", trên lưng
có h́nh như quả lựu, Vua xuống chiếu cho quan Học sĩ biện luận h́nh
ấy, thành ra 8 chữ: "Thiên hư hạ thị Thánh nhân vạn tuế"(1).
Sử thần
bàn rằng: Giống rùa thiêng là v́ nó báo triệu chứng; sau việc rùa ở
Lạc Thủy(2), ở đâu cũng thế, chỗ đen chỗ trắng gián cách nhau, có ǵ
là lạ, mà xuyên tạc, phụ hội thành ra hai chữ, bốn chữ, tám chữ, chỉ
là tự dối ḿnh đấy thôi. Xưa kia nước Tiêu Tề bắt được 2 con rùa,
cũng có chữ Vạn hoan, Vạn tề, có quẻ Thuần tốn, Thuần đoài, mà không
cứu văn được việc mất nước, xem thế rơ ràng con rùa không phải là
điềm tốt.
Vua xuống
chiếu cho Lư Công Tín được ra vào trong cung cấm mà tâu việc, không
ai được ngăn cản.
Trong
cung cấm không phải là nơi các đại thần được ra vào, nếu mà Công Tín
có tà tâm th́ bà Lê Hậu đă là Dương Quư Phi của An Lộc Sơn rồi, c̣n
đợi đâu đến Anh Vũ mới dám thất lễ. Việc bất chính trong nhà vua
Thần Tôn, là v́ không biết pḥng bị cẩn thận ngay từ trước đó.
Vua cho
vị tăng là Minh Không làm quốc sư: Khi bấy giờ vua đau nặng, thuốc
uống vào không kiến hiệu, Minh Không chữa khỏi, nên mới cho làm quốc
sư.
Đời
truyền lại rằng: Khi Đạo Hạnh sắp thi giải (hồnn trút khỏi xác), lấy
thuốc và thần chú giao phó cho học tṛ là Nguyễn Chí Thành tức là
Minh Không mà bảo rằng: "20 năm sau quốc vương có đau th́ đem mà
chữa", thuyết này xuất xứ ở sách trích quái. Ngoại truyện lại nói:
"Từ Vinh là thân phụ Đạo Hạnh v́ pháp thuật bị thày tăng Đại Điên
giết mất, Đạo Hạnh nghĩ cách báo thù cho cha, vào tu đạo ở chùa
Hương Tích, đi đường gặp Khổng Minh Không kết bạn cùng đi, đến chùa
Vân Mông, nhà thày trao cho thần thông quyết, ở đó 3 năm rồi từ giă
trở về, Đạo Hạnh muốn thử pháp thuật, nấp vào nơi hiểm, hóa làm con
hổ để dọa Minh Không, Minh Không biết, trách là có tà hạnh, và lại
có lời thần chú, Đạo Hạnh thẹn và hối, tạ lỗi nói: "Nghiệp thai sinh
chưa trừ bỏ hết, dám phiền giải thoát cho". Đạo Hạnh về am, Minh
Không về Giao Thủy. Sau nghe Đạo Hạnh thi giải, Minh Không cười,
nói: "Vị ḥa thượng này c̣n mộ phú quí ở cơi đời chăng?". Đến khi ấy
vua Thần Tôn bị đau, kêu gầm muốn hóa ra con hổ, uống thuốc không
kiến hiệu, nghe có lũ trẻ con hát rằng: "Dục y Lư Cửu Trung, tu đắc
Khổng Minh Không". Bà Thái hậu nghe tiếng hát, mời Minh Không đến,
khi tới nơi, tŕnh bày thuyết nhân quả cho vua nghe, vua giác ngộ,
khỏi bệnh. Minh Không có câu kệ rằng: "Kỳ lân đồ hậu mạt, nguyệt
vọng đáo trung thiên". Người đời bấy giờ không hiểu. Sau vua ở ngôi
và tuổi thọ đúng như lời kệ.
Minh
Không người làng Đàm Xá, huyện Gia Viễn, lại ở chùa Phả Lại, huyện
Giao Thủy có tô
tượng
thờ, mất vào năm Đại Định thứ 2, được 76 tuổi.
Sử thần
bàn rằng: Triều Lư sùng đạo Phật, từ Vạn Hạnh nổi tiếng, nhiều người
mộ và bắt chước, đến Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải đều là người
Thanh Hải, thờ Hà Trạch Sa Môn làm thày; lại có Thông Huyền Chân
Nhân cũng có đạo pháp cao, cho nên vua Nhân Tôn có câu: "Giác Hải
tâm như hải, Thông Huyền đạo hựu huyền". Nhưng mà gọi được rồng
xuống, phục được hổ dữ, không phải là tài b́nh loạn cứu nguy, bước
vào chốn không, bay được lên trời, không phải là kế sách trị dân giữ
nước, chỉ cũng như loại La Thập, Đồ Trừng đó thôi, có ích ǵ cho
đời, thế mà đời vua nào cũng làm cho Phật giáo thành ra thần dị, c̣n
đến có ông vua để riêng một số dân làm người hầu ở chùa, th́ mê hoặc
quá lắm.
Trong sử
có chép Hoàng Bà mất, Ngô Sĩ Liên cho rằng: Hoàng Bà là "Bảo mẫu".
Nếu quả thật là Bảo mẫu, th́ chép thế nào? So với cổ lễ th́ không
có, dùng bằng quốc tâm th́ không chính nghĩa. Có quan hệ ǵ mà cũng
chép vào sử.
Nghệ An
có động đất, nước sông đỏ như máu.
Gặp năm
đại hạn, vua xuống chiếu quần liêu hội nghị. Phạm Tín xin tế Hu để
cầu đảo.
Trong
thời gian 10 năm không năm nào là không đại hạn, khi th́ cầu đảo ở
cung Báo Thiên, khi th́ cầu đảo ở chùa Pháp Vân, may mà trời mưa,
th́ quy công cho Thích Già, chưa thấy có một lời nào tự trách ḿnh
hay ban một ân điển thương dân nào; đến bấy giờ giao quần thần hội
nghị, chính sự thời ấy thiếu sót, dân gian đau khổ, lại không có
việc ǵ đáng nói hay sao? Hội nghị trong một nhà, vẫn cứ mờ mờ mịt
mịt, ngoài sự xinh tế Hu để cầu đảo, không có việc ǵ đáng can gián,
bày tỏ, chỉ lấy sự dâng tờ biểu mừng điềm tốt làm công việc bổn
phận, là tận trung với vua; nhân tài hèn kém, đáng than thở lắm. Vua
bị đau, Hoàng tử là Thiên Lộc mới 7 tuổi, đă được lập làm thừa tự.
Khi ấy ba bà phu nhân: Cảm Thánh, Phụng Thánh và Nhật Phụng muốn cải
lập người khác, hối lộ cho Từ Văn Thông để tán thành việc đó, vừa
gặp lúc Văn Thông được triệu vào thảo tờ di chiếu, Văn
Thông
chưa dám xin cải, chỉ cầm bút không chịu viết, một lát, ba bà phu
nhân đến, cùng nghẹn ngào nói: "Lũ thần thiếp được biết đời cổ lập
con trưởng không lập con thứ, Thiên Lộc là con người thiếp yêu,mà mẹ
lại có tính ghen, mẹ con lũ thần thiếp tránh khỏi nạn sao được?".
Vua bảo rằng: "Thiên Tộ là con trưởng, nên được chịu nhận cơ nghiệp
lớn. Thiên Lộc th́ nên phong cho làm Minh Đạo Vương". Ngày hôm sau,
vua mất, Thái tử là Thiên Tộ lên ngôi vua, cải niên hiệu là Thiệu
Minh, tôn bà mẹ là Cảm Thánh Lê Thị lên làm Hoàng Thái hậu.
Sách Quế
Hải chí của Phạm Thành Đạt đời Tống, có nói: "Vua Anh Tôn có người
anh bị phế, đảng của người ấy chạy sang tố cáo với nhà Tống, nhà
Tống lại bắt tội người ấy; ư tất là Thiên Lộc.
Sử thần
bàn rằng: "Vua Nhân Tôn nuôi người con nuôi, không đặt quan Sư, Phó
hiền để dạy bảo, nên nỗi vua Thần Tôn đă đứng tuổi; mà chưa biết lễ
nhạc. Vua mất c̣n để đó, mà đi rước lập Thái hậu, làm con vua Nhân
Tôn, mà tôn riêng người sinh ra ḿnh, đều là sự lỗi lầm lớn cả. Đến
sự b́nh được giặc mà tạ ân Phật, dâng con hươu mà cho làm quan, vô
cớ mà tha thù tội, kén gái đẹp mà cấm giá thú, hành vi càn bậy,
không được một việc ǵ làm phải lẽ. Kinh Dịch, nói rằng: "Gặp phải
vị vua âm nhu, tất phải có bày tôi dương cương để mà giúp đỡ, mới
làm nên việc". Vua Nhân Tôn 7 tuổi mà làm vua, được Đạo Thành giúp
cho, mà mọi chính sự được sửa sang; Vua Cao Tôn lên 2 tuổi nối ngôi,
có Hiến Thành biết lẽ phải mà đánh tan mưu mô phế lập, c̣n vua Thần
Tôn, Anh Tôn th́ tả hữu không được người nào, đến nỗi chính sự thiếu
sót rối ren, kẻ gian tà làm loạn triều chính. Cho nên dùng người để
lên ngôi tướng, không thể nào không thận trọng được.
ANH TÔN
HOÀNG ĐẾ
Vua tên
là Thiên Tộ, con trưởng vua Thần Tôn, làm vua được 37 năm. Trong khi
lập con nọ phế con kia mà không hoặc về lời người đàn bà, biết gửi
con cho người bầy tôi hiền cũng xứng đáng là vị vua biết trách
nhiệmcủa ḿnh. Nhưng mà không biết phân biệt kẻ gian tà, không xét
công minh việc h́nh phạt, đến nỗi có thiên tai luôn luôn, giặc
cướp,nổi lên, chính sự bỏ bê, là đáng chê trách.
Niên hiệu
Đại Định thứ nhất, kẻ đi bói là Thân Lợi tự xưng là con vua Nhân
Tôn, tụ đảng chiếm cứ hai châu Thượng Nguyên, Hạ Nông khởi loạn,
tiếm xưng là Nam B́nh Vương, nói rêu rằng nó có thuật dụng binh
giỏi, để uy hiếp các động Mán ở bên giới, ai cũng phải sợ, nôn nao;
quan ở biên giới dâng thư tháo cấp, vua xuống chiếu cho Lưu Vũ Xưng,
Hứa Viên đem quân đến đánh, đóng quân ở sông Bác Đà, gặp toán thủy
quân của tên Lợi đánh nhau, Vũ Xưng thua; tên Lợi thừa thế xua đuổi
cả nhân dân Châu Vĩnh Thông và Cảm Hóa đến đánh phủ Phú Lương, vây
hăm thành phủ, kéo quân về cướp kinh đô. Vua sai quan Thái úy Đỗ Anh
Vũ đem quân ra cự chiến, gặp quân giặc ở Quảng Dịch, quân Lợi thua
chạy, đuổi đến sông Nam Hán, bắt được tên thủ lĩnh là Dương Mục, Chu
Ái, đóng cũi giải về kinh đô, tên Lợi chạy thoát được thân, chaạy
đến châu Lục Linh, quan Thái phó Tô Hiến Thành bắt được tên Lợi, báo
tin lên vua biết. Vua ngự ở đền Thiên Khánh nhận tù binh, chém đầu
tên Lợi, và các tên thủ mưu 20 người, người nào bị bắt phải theo
gặc, th́ tha cho hết, xuống chiếu chiêu tập dư đảng của giặc cho về
an nghiệp.
Niên hiệu
Thiệu Hưng thứ nhất, đời Tống, quan tỉnh Quảng Tây nói rằng: "Vua
Nhân Tôn nhà Lư có người con của cung thiếp sinh ra, không nhận là
con, mà lập vua Thần Tôn. Người cung thiếp ấy chạy sang Đại Lư, đổi
tên là Trí Chi. Khi vua Thần Tôn mất, Đại Lư cho Trí Chi về nước
muốn tranh ngôi vua với Anh Tôn, xin mượn quân của nhà Tống, quan
tỉnh Quảng Tây đưa việc ấy tâu lên, vua Tống xuống chiếu khước từ.
Chắc rằng Trí Chi với Thân Lợi là một người, sự trần t́nh để xin nhà
Tống cho việc binh, là nói dối để lừa nhà Tống đó".
Lưu Vũ Xưng dâng con hươu trắng.
Một đời
nhà Lư, chính sự phần nhiều rộng quá và bỏ bê, xem như Văn Trịnh mưu
làm phản mà không bị chết. Vũ Xưng thua trận mà không bị tội, nhất
vị nín lặng, chả trách Anh Vũ hống hách chuyên quyền được.
Vua định
phép chuộc ruộng, nhận ruộng.
Cầm ruộng
trong 20 năm được chuộc, ruộng tranh nhau trong 20 năm được thưa
kiện, có thửa ruộng bỏ hoang bị người canh tác mà phải tranh kiện,
không được để quá một năm. Ruộng đă đoạn măi mà đă có văn khế hay
khoán ước th́ không được chuộc. Ai trái lệ này th́ bị tội 80 trượng.
Vua cấm
giết trâu riêng, có tế tự phải tâu xin, chờ có chỉ cho mới giết. Ba
gia đ́nh là một Bảo, người trong Bảo biết mà không cáo giặc, cũng bị
tội như người giết riêng.
Vua sai
xây dựng các đền thờ thần. (Các đền thờ như là: núi Tản Viên, Bố
Cái, Ông Nghiêm, Ông Mẫu v.v.).
Người có
yêu thuật của nhà Tống là Đàm Hữu Lượng trốn vào châu Tư Lang, nói
dối là đi sang sứ, dụ người nước ta đưa đồ đảng đến cướp châu Quảng
Nguyên. Khi bấy giờ Nam, Bắc thông hiếu với nhau đă lâu, chợt nghe
có biên báo, triều đ́nh không hiểu ra sao, vừa gặp Ty án sát Quảng
Tây đưa văn thư ước hẹn cùng ta đuổi bắt Hữu Lượng, liền sai lũ
Dương Tự Minh đánh b́nh được, bắt được Hữu Lượng hơn 20 người giao
trả cho nhà Tống, quan Tri châu Ung của Tống là Triệu Nguyên nhân lũ
Hữu Lượng đem chém cả. Vua xuống chiếu kén người bổ sung vào Cấm
quân, chỉ kén người ở lộ lớn, không được lấy người cô độc.
Vua ra
lệnh cấm người Mán Lào ở 2 trấn Đại Thông, Quy Nhân vô cớ không được
vào kinh đô. Vua cho lập ra trang Vân Đồn(3). Khi bấy giờ thuyền
buôn 3 nước Qua Oa, Lộ Lạc, Tiêm La vào trú ở Hải Đông để buôn bán,
có nhiều đồ quí báu của xứ họ, tiến lên Vua, Vua sai lập ra trang
Vân Đồn cho các người buôn ấy ở. (Hiện nay châu Vạn Ninh, có phủ
Lương An đều người buôn xứ Bắc ở cả, có từ trước).
Nguyễn
Dương lập mưu giết Anh Vũ, không xong, tự tử chết. Khi bấy giờ vua
c̣n nhỏ tuổi, Anh Vũ giữ cả việc nội ngoại, ra vào cung cấm, thông
gian với bà Lê Thái hậu. (Anh Vũ người đẹp, khéo múa hát, đời vua
Thần Tôn được vào hầu gần Vua, bà Lê Thái hậu yêu tiếng hát và sắc
đẹp, muốn tư thông với y đă lâu, đến lúc ấy sửa lại cung Quảng Từ
làm rất xa xỉ đẹp đẽ, ngày đêm ăn nằm với Anh Vũ mà Vua không biết)
nhân cậy có bà Thái hậu yêu lại càng kiêu quá, ở triều đ́nh mà khoa
tay nói lớn, sai khiến các quan như sai tôi tớ. Vũ Đới, Dương Tự
Minh định kế đánh Anh Vũ, gọi quân sĩ hô lớn rằng: "Anh Vũ làm hung
ác, xấu xa, khắp trong ngoài đều biết, lũ thần xin giết y đi". Có
chiếu xuống bắt Anh Vũ giam vào ngục, giao quan Đ́nh Úy tra án đó,
bà Thái hậu sai người đưa rượt thịt giấu kín vàng bạc vào trong đó,
để hối lộ cho Vũ Đới; Nguyễn Dương biết chuyện đó, bảo Đới rằng:
"Làm sao anh lại tham của hối lộ mà không tiếc ǵ đến tính mạng" bèn
cầm giáo toan đâm. Đới cướp đượccây giáo, ngăn đi nói rằng: "Tội Anh
Vũ đáng chết, phải chờ mệnh lệnh của vua, không nên tự chuyên".
Dương giận lắm, nói đến cứt đái với Đới và nói: "Vũ Đới tất chết về
tay Anh Vũ, đừng hốt rằng ta không bảo trước"; nó xong biết rằng
ḿnh cũng không khỏi chết, bèn nhảy xuống giếng tự tử. Vua xét việc
án Anh Vũ, phát đày đi xa, làm kẻ làm ruộng, bà Thái hậu lo buồn,
lập ra đại hội luôn, xá cho các tội nhân, mong Anh Vũ được dự vào số
đó, quả nhiên v́ xá tội luôn mà Anh Vũ lại phục chức như cũ, lại
cũng được yêu thêm, không kiêng sợ ǵ, vẫn nghĩ kế báo thù, mật tâu
vua rằng: "Trước kia Vũ Đới vô cớ chạy vào cung cấm, tội đó lớn lắm;
nếu không trừ sớm đi, sợ lại sinh ra biến loạn". Vua không xét biết
ǵ, liền y theo lời tâu. Anh Vũ lập tức sai Phụng quốc Vệ úy (là
người riêng của y đưa vào để tiện sai khiến) đến bắt Đới chém ngay,
lũ Dương Tự Minh th́ bày đi nơi châu xa khí hậu độc.
Dân đói lớn, một cân gạo trị giá 70 đồng tiền.
Cấm kẻ
yêm tự (bị thiến) không được thiện tiện vào cung vua, các quan triều
không được đi lại nhà các vị Hầu, ở trong cung cấm không được tụ năm
tụ ba bàn nói chê bai, phụng mệnh hộ vệ ở trong cung vua, không có
chiếu thư mà thiện tiện mang binh khí đi qua nơi địa đầu, đều bị
tội.
Sử thần
bàn rằng: Cái kế của bà Lê Thái hậu pḥng người ta cũng chu đáo,
nhưng mà tiếng xấu đă rơ rồi, không che giấu được, sợ rằng tiếng xấu
ấy thấu đến ngoài, không che giấu được, có kẻ nghĩa khí sẽ bàn luận
ǵ chăng, và cũng sợ bọn thân quân không biết sớm hôm lúc nào lại
sinh biến chăng, cho nên mới đặt ra nghiêm cấm như thế. Vua Anh Tôn
thật là ngốc dại quá.
Trời mưa
cát vàng.
Mùa đông,
th́ học ở trong điện (Bấy giờ phép khoa cử chưa có thể lệ nhất định,
nhân có lúcnào muốn kén người mới thi đó thôi).
Người
nước Chiêm Thành là Ung Minh Tá Điệp đến cửa nhà Vua xin cho y làm
vua, Vua xuống chiếu sai Lư Mông đem quân dẫn về nước, bị vua Chiêm
Thành là Chế B́ La Bút giết mất, nhân thế vua Chiêm dâng con gái,
Vua nhận, không hỏi ǵ đến việc ấy nữa.
(Đă khởi
binh càn bậy, làm cho quân thua nhục quốc thể, lại c̣n nhận đứa con
gái Mường mà không vấn tội, là cớ sao thế?).
Nông Khả
Cầu chiếm cứ Tràng An làm phản, vua thân hành đi đánh, 10 ngày b́nh
được.
Đất Thiên
Tràng th́ núi và khe suối cũng không hiểm trở cho lắm, thế mà Khai
Minh Vương trước kia đă làm phản ở nơi ấy, nay Nông Khả Cầu cũng lại
làm phản ở nơi đó; v́ rằng đất ấy ở trong th́ thông với Thiên quan,
ngoài th́ liền với đất Nga Sơn Tống Sơn, núi rừng chồng chập, khe
suối quanh co, có địa thế cho chúng nương tựa được, cho nên bọn phản
nghịch cứ tụ tập ở đó để quấy rối.
Vua cho
thu thuế ruộng mùa hạ.
Vua sai
xây dựng nhà cửa lớn, làm điện Thụy Quang, đ́nh Thưởng Hoa, ao Kim
Liên, cầu Minh Nguyệt và thuyền Đại Diệp, tầu Vĩnh Chương.
Một triều
Lư, dùng sức dân nhiều, không vua nào bằng vua Anh Tôn, trong thời
gian 37 năm, hai lần làm miếu, ba lần làm đền thờ, 6 lần đóng
thuyền, c̣n việc xây đàn, xây cửa, làm nhà kho, sửa sang cầu, đều
một lần. Nước lụt, đại hạn luôn luôn, mà không thấy ra ân tha thuế
hay phát chẩn, ơn huệ của tổ tông đến đây là tiêu tan hết. Duy có
hai việc xây đàn tế trời đất và lập miếu Khổng Minh là hợp nghĩa mà
thôi.
Vua cho
đặt các hộp bằng đồng ở sân điện, cho người nào có việc ǵ th́ bỏ
thư vào trong đó.
Khi trước
Nguyễn Quốc đi sang sứ nhà Tống về, nói rằng: "Thấy ở sân điện triều
đ́nh Tống có đặt cái thùng bằng đồng để nhận sớ tấu, cho được thông
suốt tính t́nh của kẻ dưới". Vua cho làm theo; vừa gặp có lúc kẻ đầu
thư nặc danh nói Anh Vũ khởi loạn. Anh Vũ vu cho Quốc làm ra, mới
đày Quốc đi Thanh Hóa, rồi đánh thuốc độc cho chết.
Tự cổ đến giờ bọn gian thần bên trong nhờ cậy vào Mẫu hậu, bên ngoài
chuyên chế việc triều đ́nh, đều là v́ vua hăy c̣n nhỏ tuổi quá đi
thôi. Vua Thủy Hoàng lớn lên, th́ Lao Ái phải giết, gian t́nh của Hồ
Hậu lộ ra, th́ Đàm Hiển phải chết. Vua Anh Tôn đă ngoài 20 tuổi,
việc tư t́nh của Lê Hậu, gian trạng của Anh Vũ, đều đă biết cả;
huống chi sau khi binh biến đă bắt được tội nhân, mà lại ân xá luôn
luôn để cho nó được phục chức, rồi nó báo thù Vũ Đới, đánh thuốc độc
chết Nguyễn Quốc, chả phải chí ngu là ǵ?
Đỗ Anh Vũ
chết.
Vua Anh
Tôn lên ngôi vua mới 3 tuổi, thơ ấu hơn Đinh Toàn, Lê Hậu tư thông
với Anh Vũ quá tệ hơn Dương Hậu; Anh Vũ là Thái úy giữ binh quyền,
mạnh hơn Thập Đạo, mà quần thần tại triều lại không có một người nào
làm được như Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lê Hậu c̣n nghĩ ǵ đến xă tắc
nhà Lư mà không đem cho người yêu, để làm như Thắng Minh Hoàng hậu
của nhà họ Đỗ; trong thời gian 20 năm, vua Anh Tôn c̣n được xưng là
quả nhân giữ việc biên tế, không đến nỗi như Vệ Vương nhà Đinh bị
mũi tên lạc ở Cùng Giang, là cớ sao? Đó là trời đấy.
Tô Hiến
Thành làm quan Thái úy, kén người đinh tráng xung vào quân ngũ, chọn
tướng hiệu thông binh pháp, am hiểu sách và nghề nghiệp chia cho
quản lĩnh quân ấy. Liền lại cho Tô Hiến Thành làm Đô tướng, đưa quân
đi tuần phía biển tây nam, an trấn biên giới. Khảo khóa công việc
các quan văn, vơ, không phạm tội lỗi th́ được lên trật. Đinh ra 9
năm một lần khảo, làm lệ vĩnh viễn.
Mùa thu,
các học sinh thi.
Nước
ChiêmThành đưa quân Phong Thủy vượt biển vào cướp, vua sai Tô Hiến
Thành đi đánh, Chiêm Thành xin ḥa, từ khi ấy trở đi phải giữ lễ
phiên thần, không dám bỏ thiếu cống hiến. Sứ thần nhà Tống và sứ
thần nước Kim cùng đến nước ta, Vua sai lấy lễ tiếp đăi kín, không
cho hai bên gặp nhau.
Vua tập
cưỡi ngựa và bắn ở phía nam thành Đại La, các quan văn vơ tập các
cách đánh giặc phá trận.
Vua đi
tuần ngoài Hải Đảo, xem khắp h́nh thế núi sông, hỏi hết các điều
tật, khổ trong dân gian, vẽ bản đồ và ghi chép phong tục nhân vật
rồi trở về.
Từ khi
Hiến Thành cầm binh quyền, việc quân cơ, việc canh biên giới có một
phen chấn chỉnh lại hết. Chính sự năm Bảo Ứng với chính sử năm Đại
Định, một đằng chăm chỉ, một đằng trễ nải, khác xa nhau. Kinh thi có
câu: "Việc ǵ cũng tốt tại người", thật là đúng.
Vua sai Doăn Tử Tư sang thăm nhà Tống đưa cho 15 con voi đă dạy
thuần rồi. Cuối năm Đại Định, vua Cao Tôn nhà Tống đ́nh việc cống
voi, đến lúc ấy vua Hiếu Tôn mới tức vị, đưa thư sang mua những con
voi đă dạy thuần rồi, để rước khi đi tế giao, vua ta đưa cho 10 con
voi làm lễ mừng tức vị, 5 con voi dâng lên để dùng khi đại lễ, làm
cái lầu trên lưng voi gọi là La nga (lầu trên lưng voi) và các đồ
buộc ở ngà, chân và đầu voi, trang sức bằng vàng bạc, rồi mới đem
cho. Tử Tư đi đến quán Hoài Dịch, vua Tống cho dẫn kiến và hỏi han
úy lạo.
Từ khi nhà Tống phải bỏ xứ Bắc qua sông sang miền Nam, th́ khi sứ
thần nước ta có sang chỉ đi đến Quảng Tây giao đồ cống, chứ chưa đến
kinh đô, đến khi ấy Tử Tư làm Đại sứ chưa bao giờ có đủ 3 sứ thần,
đến khi ấy cho Tử Tư làm Đại sứ, Lư Bang Chính làm Chánh sứ, Nguyễn
Văn Hiến làm Phó sứ; người theo làm người giới thiệu đều đặt đủ; Vua
Tống thấy ở xa mà đến, rất khen là trung thành, lễ tiếp đăi cũng
khác hơn, và xuống chiếu gọi tên nước là An Nam quốc,cho ấn bằng
vàng.
Sử thần
bàn rằng: Nước ta từ đời Hùng Vương giao thông với Trung Quốc, nhưng
c̣n chưa được có địa vị ở Minh Đường, không được chép vào sách Xuân
Thu, là khinh v́ nước nhỏ. Đến đời Triệu Đà ở nhà vàng, xưng Đế, nhà
Hán phải phong làm Nam Việt Vương, chỉ được ví với Chư hầu ở nội
địa, cũng chưa có ǵ nêu ra là một nước. Sau lại ngoại thuộc Hán và
Đường, chia nước ra thành quận, huyện. Đến đời Đinh, Lê th́ có đất
riêng, mới lập thành một nước, được gia cho chức quan Kiểm hiệu Tam
súy, sau tiến lên chức Quận vương; các Vua triều Lư cũng đều như
thế. Đến đời vua Anh Tôn một việc bang giao, chu toàn thân mật, sai
3 sứ thần đến quan ải, giữ đủ lễ, làm cho Trung Quốc biết nước đă
văn minh, Tử Tư 2 lần đi sứ, tỏ được ḷng thành cung thuận, vua Tống
phải khen, cho vua ta được là Chân Vương, có quốc hiệu, sau này vẫn
làm theo mà không đổi khác được, đó là công vua Anh Tôn, mà Tử Tư
cũng đáng là vị sứ thần. Duy có điều để chữ "An" ở trên chữ "Nam",
đó là người Tống có ư ngăn ngừa nước ta. Nay muốn chính danh chỉ gọi
là Nam Việt, có lẽ phải chờ đến một vị anh quân.
Vua sách
phong Long Hăn làm Thái tử, Tô Hiến Thành làm Thái phó để dạy Đông
cung. Trước kia Thái tử Long Sưởng gian dâm với cung phi, vua không
nỡ giết, chỉ giam thôi; Vua bảo Tể tướng rằng: "Muốn lập Long Hăn
làm con thừa tự, nhưng tuổi c̣n nhỏ, ta th́ suy yếu, biết làm sao
được?". Vừa lúc đó, người trong nội ẵm Long Hăn ra chỗ Vua, thấy Vua
đội khăn, Long Hăn xin để cho đội, Vua chưa cho th́ khóc, Vua liền
bỏ khăn mà đội cho Long Hăn th́ cười ngay; Vua lấy làm lạ, mới quyết
định lập làm con thừa tự. Bà Hoàng hậu Lê Thị xin lập Long Sưởng,
Vua nói: "Làm con mà bất hiếu, c̣n trị dân sao được", bèn không nghe
lời.
Thái hậu
quen làm việc hối lộ biết đâu Hiến Thành lại không là Vũ Đới?.
Vua bị đau, xuống chiếu cho Tô Hiến Thành ẵm Thái tử mà nhiếp chính.
Vua mất, bà Thái hậu hối lộ vàng bạc cho vợ Hiến Thành, lại muốn làm
việc phế Thái tử lập người khác. Hiến Thành nói: "Làm đại thần giúp
Vua c̣n nhỏ tuổi, lẽ nào lại nhận hối lộ", Thái hậu lại triệu ông
vào mà dụ dỗ, ông trút mũ ra mà thưa rằng: "Làm điều bất nghĩa mà
được giàu sang, trung thần không ai làm thế. Tôi không dám vâng
lời". Việc đó mới thôi.
Trong mấy năm mới làm vua, Anh Tôn chỉ là trẻ con si ngốc, tha hồ
cho mẹ cùng kẻ gian thần công nhiên làm vợ chồng, mà không hay biết
ǵ. May mà trời tựa cho họ Lư, Anh Vũ bị trời bắt chết, rồi được có
Hiến Thành pḥ tá ở trong triều, bôn tẩu ơ bên ngoài; Vua cũng biết
răn sợ, dần dần có trí lực biết giảng tập vơ bị, kén tướng giỏi,
chọn sứ thần, nước Chiêm Thành phải giữ lễ phiên thần, nhà Tống phải
tôn như một nước lớn; đến mấy năm sau được có người hiền mà phó
thác, làm cho nước yên như sập đá, so với năm trước khác hẳn như hai
người, đó là v́ có tư chất tốt, nên trong nước được b́nh yên sáng
sủa.
Đọc tiếp trang 2 |