Khâm Định Việt Sử
Thông Giám Cương Mục
Quốc Sử Quán Triều Nguyễn
soạn thảo ( 1856-1881 )
Viện Sử Học dịch ( 1957-1960 )
Tiền Biên
Quyển thứ I
Hùng Vương. Dựng nước gọi
là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu
Hồng Bàng thị. Đầu là
Kinh Dương Vương, tương truyền là vua trước tiên của nước Việt ta.
Kinh Dương Vương sinh Lạc Long Quân. Hùng Vương là con Lạc Long Quân.
Nguyên xưa, Đế Minh, cháu
ba đời Viêm đế Thần Nông thị1, đi tuần sang Nam, đến Ngũ Lĩnh, lấy
Vụ tiên nữ, sinh con là Lộc Tục có đức tính hoàn toàn. Đế Minh yêu
Lộc Tục lắm, muốn truyền ngôi cho, nhưng Lộc Tục cố nhường cho anh
là Nghi. Bấy giờ mới lập Đế Nghi làm vua nối ngôi, thống trị phương
Bắc (Trung Quốc), phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương, thống trị
phương Nam.
Kinh Dương Vương sinh con
là Sùng Lăm, gọi là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, sinh
trăm con trai. Ấy là tổ tiên của Bách Việt, suy tôn người trưởng lên
làm Hùng Vương, nối ngôi vua, dựng nước gọi là nước Văn Lang, đóng
đô ở Phong Châu; truyền nối mười tám đời đều gọi là Hùng Vương.
Thời bấy giờ, cư dân khi
xuống nước, hay bị loài giao long làm hại, Hùng Vương dạy dân lấy
mực vẽ h́nh loài thủy quái xăm vào ḿnh. Từ đó mới tránh khỏi nạn.
Nước ta cái tục xăm ḿnh có lẽ bắt đầu từ đấy.
Lời cẩn án - Phong Châu:
Sử cũ chua "tức là Bạch Hạc". Đường thư Địa lư chí chép: "Phong Châu
thống lĩnh năm huyện". Thái B́nh hoàn vũ kư của Nhạc Sử triều Tống
chép: "Quận Thừa Hóa Phong Châu xưa là nước Văn Lang". Như thế th́
Phong Châu tức là địa hạt phủ Vĩnh Tường và phủ Lâm Thao thuộc tỉnh
Sơn Tây bây giờ. Vả lại, c̣n bằng cứ là huyện Sơn Vi có núi Hùng
Vương và đền Hùng Vương, vậy không thể riêng chỉ Bạch Hạc được. C̣n
Đế Minh chưa từng đi tuần sang Nam, việc bảo là lấy vợ tiên nữ th́
thật là quái lạ lắm. Nhưng hẵng cứ chép lại để truyền nghi.
Lời chua - Sinh trăm con
trai: Sử cũ chép Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, con gái Đế Lai, sinh được
trăm con trai; tục truyền đẻ ra trăm trứng. Một hôm, Lạc Long Quân
bảo Âu Cơ: "Ta là loài rồng, ḿnh là giống tiên, một người ḿnh thủy,
một người ḿnh hỏa, xung khắc nhau, khó ở chung măi với nhau được".
Hai người bèn từ biệt nhau, chia năm mươi con theo mẹ về miền núi,
chia năm mươi con theo cha về miền Nam, suy tôn người con trưởng lên
làm Hùng Vương nối ngôi vua. Truyền mười tám đời: An Nam chí nguyên
của Cao Hùng Trưng chép. "Giao Chỉ khi chưa đặt làm quận huyện, bấy
giờ có ruộng Lạc, theo nước triều lên xuống mà làm ruộng, khai khẩn
ruộng ấy là Lạc dân, thống trị dân ấy là Lạc Vương, người giúp việc
là Lạc Tướng: đều dùng ấn đồng thao xanh. Nước gọi là Văn Lang.
Phong tục thuần hận, mộc mạc, chưa có chữ nghĩa, c̣n dùng lối thắt
nút dây làm dấu ghi nhớ; truyền được mười tám đời".
Lời phê - Kinh Thi có câu:
"Tắc bách tư nam" (hàng trăm con trai). Đó là chúc tụng cho nhiều
con trai đấy thôi, xét đến sự thực cũng chưa đến số ấy, huống chi
lại nói là đẻ ra trăm trứng! Nếu quả vậy, th́ khác ǵ chim muông,
sao gọi là loài người được? Dẫu đến như chuyện nuốt trứng chim huyền
điểu, giẫm vào dấu chân người lớn cũng chưa quái lạ quá lắm như thế.
Vậy th́ chuyện này dường cũng hoang đường, lờ mờ, không kê cứu như
chuyện "ḿnh rắn đầu người, ḿnh người đầu trâu đó chăng?".
Chia
trong nước làm mười lăm bộ
Bắt đầu
chia trong nước làm mười lăm bộ là: bộ Giao Chỉ, bộ Chu Diên, bộ Vũ
Ninh, bộ Phúc Lộc, bộ Việt Thường, bộ Ninh Hải, bộ Dương Tuyền, bộ
Lục Hải, bộ Vũ Định, bộ Hoài Hoan, bộ Cửu Châu, bộ B́nh Văn, bộ Tân
Hưng, bộ Cửu Đức, c̣n bộ Văn Lang là chỗ nhà vua đóng đô. Địa giới
nước Văn Lang bấy giờ phía đông giáp biển Nam, phía tây giáp Ba Thục,
phía bắc giáp Động Đ́nh Hồ, phía nam giáp Hồ Tôn.
Lời cẩn
án - Địa giới nước ta từ Trần (1225-1399), Lê (1428-1527) về trước,
phía đông giáp biển, phía tây giáp Vân Nam, phía nam giáp Chiêm
Thành, phía bắc giáp Quảng Tây, phía đông bắc giáp Quảng Đông, phía
tây nam giáp Lăo Qua. So sánh với các sách dư địa quận quốc thiên hạ
chép nước An Nam phía đông giáp biển, phía tây giáp tỉnh Vân Nam và
nước Lăo Qua, phía nam giáp nước Chiêm Thành, phía bắc giáp tỉnh
Quảng Tây th́ đại lược cũng giống nhau.
Đến Quốc
triều ta, liệt thánh gây dựng cơ sở ở miền Nam, rồi Thế tổ Cao hoàng
đế ta đại định đất nước, thống nhất cả nước Việt: đông giáp biển cả,
tây giáp Vân Nam, nam giáp Cao Miên, bắc giáp Quảng Đông và Quảng
Tây: bờ cơi rộng răi, chưa có đời nào được thế. Nhưng cách hồ Động
Đ́nh và đất Ba Thục c̣n xa lắm, thế mà Sử cũ chép nước Văn Lang phía
tây giáp Ba Thục, phía bắc giáp Động Đ́nh, chẳng cũng xa sự thực lắm
dư! Này, Động Đ́nh giáp hai tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc, thực ra ở về phía
bắc Bách Việt; mà Ba Thục với Văn Lang c̣n cách Tuấn Điền (nay thuộc
Vân Nam) không liền đất nhau. Chẳng qua Sử cũ chép quá khoa trương.
Việc này với việc Thục Vương sau đây đều là hư truyền cả, mà chưa
khảo cứu được. Vả lại, mười lăm bộ đă chia đó đều ở trong địa hạt
Giao Chỉ và Chu Diên, chứ không có bộ nào ở về phương Bắc (Trung
Quốc). Như thể đủ chứng tỏ là không đúng sự thực.
Lời phê -
Theo sách Đại Thanh nhất thống chí ngày nay, Quảng Tây với Hồ
Nam, Hồ
Bắc, Vân Nam và Tứ Xuyên, tức là đất Sở và Thục xưa đó. Nào biết
giáp giới những đâu! Đại để nhiều sự việc trong Việt sử thất truyền
đă lâu, không c̣n dựa vào đâu mà khảo đính được nữa. Mọi việc khác
cũng đại loại như thế đấy.
Lời chua
- Mười lăm bộ: Trong Dư địa chí của Nguyễn Trăi, Nguyễn Thiên Túng
có chua: Sơn Nam (bây giờ là Hà Nội, Nam Định, Hưng Yên) xưa là bộ
Giao Chỉ;
Sơn Tây
xưa là bộ Chu Diên, bộ Phúc Lộc;
Kinh Bắc
(nay là Bắc Ninh) xưa là bộ Vũ Ninh;
Thuận Hóa
(bây giờ là từ Hải Lăng thuộc Quảng Trị đến Điện Bàn thuộc Quảng
Nam) xưa là bộ Việt Thường;
An Bang (bây
giờ là Quảng Yên) xưa là bộ Ninh Hải;
Hải Dương
xưa là bộ Dương Tuyền;
Lạng Sơn
xưa là bộ Lục Hải;
Thái
Nguyên, Cao Bằng xưa là bộ Vũ định nội ngoại;
Nghệ An xưa là bộ Hoài
Hoan;
Thanh Hóa xưa là bộ Cửu
Chân;
Hưng Hóa và Tuyên Quang
xưa là bộ Tân Hưng;
C̣n hai bộ B́nh Văn và
Cửu Đức th́ đều khuyết nghi. Nay khảo ở sách Tấn chí,
quận Cửu Đức, do nhà Ngô
đặt, nay là đất Hà Tĩnh.
Hồ tôn, Sử cũ chua tức là
nước Chiêm Thành, bây giờ là đất B́nh Định.
Đặt danh hiệu quan chức.
Bắt đầu đặt quan chức:
tướng văn gọi là Lạc Hầu; tướng vơ gọi là Lạc tướng; hữu tư5 gọi là
Bồ chính; con trai của vua gọi là Quan Lang, con gái của vua gọi là
Mị Nương. Cứ đời nọ đến đời kia, cha truyền con nối, gọi là phụ đạo.
Đế Nghiêu nhà Đường sai
Hi Thúc giữ việc suy trắc khí hậu ở Nam Giao, lư hội thời tiết mùa
hè (lư nam ngoa).
Kinh Thư, thiên "Nghiêu
điển" chép: vua Nghiêu lại sai Hi Thúc giữ việc suy trắc khí hậu ở
Nam Giao, điều hoà mọi việc theo thời tiết sớm muộn về mùa hè, kính
cẩn ghi bóng mặt trời lúc đến giữa trưa, theo như thời tiết hạ chí,
ban ngày th́ ngày dài, ban đêm th́ lúc chập tối sao trung tinh là
đại hỏa, suy trắc lại cẩn thận, để cho tháng trọng hạ được đúng với
thời tiết; lại phải xem xét đến việc thay đổi của người và vật: lúc
ấy dân ở phân tán, chim muông lông thưa thớt và thay đổi.
Lời chua - Theo tập
truyện của họ Thái:
Nam Giao:
Đất Giao Chỉ ở phương Nam.
Nam Ngoa:
Mùa hè là mùa mọi vật sinh sản phồn thịnh, cần suy trắc kỹ để thay
đổi những
việc nên làm. - Theo sách Thông chí của Trịnh Tiều, Hi Thúc đóng ở
Nam
Giao, lư
hội thời tiết về mùa hè, để cho đúng tiết hạ chí.
Lần đầu
tiên sai sứ sang nhà Đường (2357-2258 tr.c.ng.) dâng con rùa thần.
Sách
Cương mục Tiền biên của Kim Lư Tường chép rằng: Năm Mậu Thân thứ năm
đời Đường Nghiêu, Việt Thường thị sang chầu, dâng con rùa thần.
Lời chua
- Rùa thần: Theo Thông chí của Trịnh Tiều, về đời Đào Đường, phương
Nam có Việt Thường thị qua hai lần sứ dịch sang chầu, dâng con rùa
thần; có lẽ nó được đến ngh́n năm, ḿnh nó hơn ba thước, trên lưng
có văn khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau. Vua
Nghiêu sai chép lấy, gọi là Quy lịch (lịch Rùa)..... Sao mà có ǵ
hay quư th́ đem nộp hết vậy không biết
Sai sứ
sang nhà Chu, dâng chim trĩ trắng.
Sử kư (Trung
Quốc) chép: Năm Tân Măo thứ sáu (1110 tr.c.ng.) đời Thành Vương nhà
Chu, phía Nam bộ Giao Chỉ có Việt Thường thị qua ba lần sứ dịch,
sang dâng chim trĩ trắng. Chu công nói: "Đức trạch chưa thấm khắp
đến phương xa, người quân tử không nhận đồ lễ ra mắt; chính lệnh
chưa ban ra tới, người quân tử không bắt người ta thần phục". Theo
lời thông dịch, sứ giả muốn nói: "Ông già trong nước chúng tôi có
nói: "Trời mưa không dầm gió dữ và biển không nổi sóng đă ba năm
nay, ư chừng Trung Quốc có thánh nhân chăng?". V́ thế, chúng tôi
sang chầu". Chu Công đem dâng lễ vật lên nhà tôn miếu. Sứ giả không
thuộc đường về, Chu Công cho năm cỗ xe biền đều làm theo lối chỉ nam.
Sứ giả đi xe ấy theo ven biển nước Phù Nam và nước Lâm Ấp, vừa một
năm mới về đến nước.
Lời chua
- Phù Nam: Theo Phương dư kỷ yếu, nước Phù Nam ở trong cù lao lớn về
phía tây Nam Hải thuộc quận Nhật Nam và ở về phía Tây Nam nước Lâm
Ấp, cách quận Nhật Nam bảy ngh́n dặm về phía Bắc, cách nước Lâm Ấp
hơn ba ngh́n dặm về phía Tây, diện tích được hơn ba ngh́n dặm.
Thục
vương Phán đem quân sang xâm. Hùng Vương nhảy xuống giếng chết. Nước
Văn Lang mất.
Trước kia,
Hùng Vương có con gái gọi là Mị Nương. Thục vương nghe tin, sai sứ
đến cầu hôn.
Hùng
Vương muốn gả cho, nhưng Lạc Hầu can rằng: "Ư nó muốn toan tính ta
đây, chẳng qua mượn tiếng cầu hôn đó thôi". Thành thử việc đó thôi
hẳn. Thục vương căm giận lắm, dặn con cháu sau thế nào cũng phải
diệt nước Văn Lang. Đến bấy giờ, cháu là Thục Phán có sức mạnh và
mưu lược, nhiều lần đem
quân đánh
Hùng Vương. Hùng Vương quân giỏi, tướng mạnh, hễ ra đánh, quân Thục
thua liền. Hùng Vương nói: "Ta đây có thần lực, Thục không sợ ư?".
Rồi cứ lề mề chè chén để mua vui, không lo đến việc vũ bị. Quân Thục
kéo đến, Hùng Vương hăy c̣n say mềm chưa tỉnh. Kịp khi giặc đến gần,
bức bách gấp rồi, nhà vua thổ ra huyết, gieo ḿnh xuống giếng; c̣n
quân th́ quay giáo đầu hàng. Nước Văn Lang mất.
Lời cẩn
án - Sử cũ phần Ngoại kỷ chép Hồng Bàng thị bắt đầu từ Kinh Dương
Vương thụ
phong năm Nhâm Tuất (2879 tr.c.ng.?) cùng thời với Đế Nghi, truyền
đến Hùng Vương đời cuối cùng là năm Quư Măo (258 tr.c.ng.?), tức năm
thứ năm mươi bảy đời Noăn Vương nhà Chu th́ mất nước, tất cả là hai
ngh́n sáu trăm hai mươi hai năm.
Sự đó
không biết Sử cũ khảo cứu ở đâu, bây giờ cũng hăy cứ chép lại để
pḥng khi tra xét.
Năm Giáp
Th́n (267 tr.c.ng.) (Thục An Dương Vương năm thứ 1; Chu Noăn vương
năm thứ 58).
Thục
Vương đă lấy được nước Văn Lang, đổi tên nước là Âu Lạc, đóng đô ở
Phong Khê.
Sử cũ
chép: vua, họ Thục, húy Phán, người đất Ba Thục. Bấy giờ nhà vua đă
lấy được Văn Lang, đổi quốc hiệu là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê.
Lời cẩn
án - Nước Thục, từ năm thứ 5 đời Thận Tĩnh Vương nhà Chu (316
tr.c.ng.), đă bị nhà Tần diệt rồi, làm ǵ c̣n có vua nữa? Huống chi
từ Thục đến Văn
Lang, c̣n
có đất Kiện Vi (nay thuộc Vân Nam), đất Dạ Lang, đất Cùng, đất Tác
và đất Nhiễm Mang (những đất này xưa là đất rợ mọi ở về phía tây và
nam, nay thuộc Vân Nam), cách nhau hàng hai ba ngàn dặm, có lẽ nào
Thục vượt qua được các nước ấy mà sang đánh lấy nước Văn Lang? Sử cũ
đă chép "cháu Thục Vương là Phán", lại chép "An Dương Vương họ Thục,
húy Phán, người đất Ba Thục", hoặc giả ngoài cơi Tây Bắc giáp với
nước Văn Lang, c̣n có họ Thục khác mà Sử cũ liền nhận là Thục Vương
chăng? chứ nếu bảo Thục Vương đây lại là người ở Ba Thục th́ không
phải.
Lời chua
- Phong Khê: Bây giờ là thành Cổ Loa, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc
Ninh.
Âu Lạc:
Theo Dư địa chí của Cổ Hi Phùng, Giao Chỉ về đời Chu gọi là Lạc Việt,
về đời Tần gọi là Tây Âu, thế th́ đất Tây Âu Lạc lại ở về phía tây
Phiên Ngô. Theo Giao Quảng kư của Hoàng Sâm, Giao Chỉ có ruộng Lạc
Điền, khai khẩn theo nước triều lên xuống. Người "ăn" hoa lợi ruộng
ấy là Lạc Hầu. Các huyện tự gọi là Lạc tướng. Sau này con Thục Vương
đem quân đánh Lạc Hầu, tự xưng là An Dương Vương, lỵ sở ở đất Phong
Khê.
Năm Bính
Ngọ (255 tr.c.ng.) (Thục An Dương Vương năm thứ 3; Chu Đông - chu
quân năm thứ 1).
Tháng ba,
mùa xuân, đắp xong Loa thành.
Vua Thục
đắp thành ở Phong Khê, rộng đến ngh́n trượng, xoáy tṛn như h́nh
trôn ốc, nên gọi là Loa thành, lại gọi là thành Tư Long.
Lời chua
- Loa thành: Theo An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng, Loa thành, ở
huyện Đông Ngàn, xoáy tṛn chín ṿng như h́nh trôn ốc, kiểu làm do
An Dương Vương sáng tạo, lại gọi là thành Khả Lũ3. Trong thành c̣n
nền cung vua An Dương ngày trước.
Thành Tư
Long: Người Đường gọi là thành Côn Luân, ư nói thành ấy cao lắm.
Năm Đinh
Hợi (214 tr.c.ng.) (Thục An Dương Vương năm thứ 44; Tần Thủy Hoàng
năm thứ 33).
Nhà Tần
sai Đồ Thư và Sử Lộc sang lấy đất Lĩnh Nam, đặt ra Tượng quận.
Bấy giờ
nhà Tần hám đất Việt có nhiều ngọc trai và ngọc cơ, muốn chiếm lấy
đặt làm quận huyện, mới bắt kẻ trốn tránh, người gửi rể và lái buôn
ở các đạo đi làm lính, sai hiệu úy là Đồ Thư làm tướng, Sử Lộc th́
khơi cừ lấy lối tải lương, đi sâu vào cơi Lĩnh Nam, cướp lấy đất Lục
Lương, đặt ra Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận để đày những kẻ phải đi
thú. Người Việt bấy giờ đều rủ nhau núp vào trong rừng rậm, không ai
chịu để cho người Tần dùng. Lại ngầm bầu những người tài giỏi lên
làm tướng, đánh nhau với người Tần, giết được hiệu úy Đồ Thư.
Lời chua
- Việc Sử Lộc khai cừ lấy lối tải lương: Theo Lĩnh Nam di thư của Âu
Đại Nhâm, tiên tổ Sử Lộc là người nước Việt. Khi nhà Tần sang đánh
Bách Việt, sai hiệu úy Đồ Thư chia binh sĩ làm năm quân, cắt Lộc tải
lương, khai cừ để tiện lối chở lương thực. Lộc bèn khơi nguồn nước
từ núi Dương Sơn (thuộc Phiên Ngung) xuôi xuống, thấy rằng theo sông
Tương chảy về phía Bắc, đổ vào sông Sở Dung, là hạ lưu sông Tường
Kha chảy về phía nam đổ ra biển mà vận tải lương thực th́ thật vất
vả. Lộc bấy giờ mới lượng tính làm ra cái đập để nước sói mạnh vào
trong băi cát sỏi, rồi xếp đá làm vũng, lái nước sông Tương đổ ra.
Nước chảy xói đi hàng 60 dặm. Lại đặt ra 36 cửa đập, hễ thuyền qua
một cửa đập th́ đóng cửa đập ấy lại, khiến cho nước tụ lại, đầy lên
dần dần.
V́ thế
thuyền có thể lần theo sườn núi mà lên, dễ dàng mà xuống. Không
những thuyền bè đi lại được, mà lấy nước vào ruộng cày cấy cũng tiện.
Người ta gọi cừ ấy là Linh Cừ.
Theo Thái
b́nh hoàn vũ kư của Nhạc Sử nhà Tống, nhà Tần có đào cái cừ ở về
phía Nam huyện Hưng An (nay thuộc Quế Châu) hai mươi dặm. Gốc tận
sông Ly, từ phía Bắc núi Thác Sơn, chảy về Tây Bắc, đến phía Tây Nam
huyện Hưng An, hợp với Linh Cừ năm dặm mới chia ra hai ḍng. Xưa,
nhà Tần sai ngự sử giám, tên là Lộc, từ huyện Linh Lăng đào cừ đến
Quế Lâm tức là đấy.
Lục lương:
Như Thuấn có nói: "Ở miền Giang Nam, bài Chính nghĩa về Sử kư
(Trung
Quốc) cho rằng người Lĩnh Nam phần nhiều ở về đất núi, tính mạnh tợn,
nên gọi là "Lục lương".
Quế Lâm,
Nam Hải, Tượng quận: Theo sách Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi
nhà Tống,
ba quận ấy là đất Bách Việt ngày trước, từ Tần Thủy Hoàng lấy được
thiên hạ, mở núi dọn đường, cướp lấy đất Dương, Việt, đặt ra Nam Hải,
Quế Lâm và Tượng Quận.
Bây giờ
tỉnh Quảng Tây tức là Quế Lâm, tỉnh Quảng Đông tức là Nam Hải, đất
Giao Chỉ tức là Tượng Quận đời Tần. Đến Hán Vũ đế b́nh định được Nam
Hải mới tách Quế Lâm đời Tần làm hai là Uất Lâm và Thương Ngô; tách
Tượng Quận làm ba là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Lại xắn bớt đất
Nam Hải và Tượng Quận đặt ra quận Hợp Phố. Rồi từ huyện Từ Văn, vượt
biển sang lấy hai quận Chu Nhai và Đam Nhĩ ở phía Nam biển, đặt thứ
sử tại Giao Châu. Tiếng rằng nhà Hán chia ra chín quận, nhiều hơn
nhà Tần, nhưng cầm quyền thống trị th́ chỉ có một thứ sử ở Giao Châu
thôi. Đến nhà Ngô chia ra làm đôi, tên gọi Giao Châu, Quảng Châu mới
có từ đó. Bây giờ Giao Châu th́ lỵ sở ở Long Biên, Quảng Châu th́ lỵ
sở ở Phiên Ngung, quy mô cũng như nhà Hán trước, duy có ṭa súy phủ
khác chỗ thôi. Đường Cao Tông bắt đầu đặt An Nam đô hộ phụ ở Giao
Châu. Giữa niên hiệu Hoàng Hựu (1049-1053) bản triều (triều Tống)
đặt chức An Phủ và chức Kinh Lược ở Quế Lâm. Ṭa súy phủ ở Tây Đạo
lập lên là trước từ đấy. Đến bây giờ, Bát Quế, Phiên Ngung và Long
Biên đứng đối nhau như ba chân vạc là theo kiểu cũ của Tần.
Phụ lục -
Sử cũ chép: bấy giờ (đời Thục) Lư Ông Trọng, người huyện Từ Liêm,
Giao Chỉ nước ta, ḿnh dài hai trượng ba thước, sang làm quan nhà
Tần, đến chức Ty Lệ hiệu úy, đem quân giữ huyện Lâm Thao, danh tiếng
lừng khắp Hung Nô. Khi tuổi già, thôi làm quan về, mất ở quê nhà.
Tần Thủy Hoàng cho là một sự lạ, mới đúc tượng đồng để ở cửa Tư Mă
cung Hàm Dương. Tượng ấy ruột rỗng, trong chứa được vài mươi người,
có máy rung động được. Hung Nô tưởng là Hiệu Úy sống, không dám đến
xâm phạm. Về sau, đến đời Đường, Triệu Xương sang làm đô hộ Giao
Châu, thường có đêm nằm chiêm bao cùng ông Lư Ông Trọng giảng sách
Xuân thu Tả truyện, nhân thế mới hỏi thăm đến chỗ nhà cũ Ông Trọng,
lập đền để thờ. Kịp khi Cao Biền đi đánh Nam Chiếu, Ông Trọng thường
hiển linh giúp cho thắng trận. Cao Biền lại tu sửa đền miếu, tạc
tượng gỗ, gọi là đền Lư Hiệu Úy.
Lời chua
- Lư Ông Trọng: theo sách An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng, Lư
Ông Trọng, ḿnh dài hai trượng ba thước, khí lượng nghiêm trang, thể
chất trọng hậu, khác hẳn người thường. Thủa trẻ, làm chức huyện lại,
bị viên Đốc Bưu đánh đ̣n, Ông Trọng than rằng: "Người ta ở đời mà
phải chịu như thế dư!". Bấy giờ mới sang Trung Quốc, học sử sách,
rồi làm quan với nhà Tần. Tần Thủy Hoàng sai Ông Trọng đem quân giữ
Lâm Thao: danh tiếng ông rung động cả Hung Nô. Nhà Tần cho đó là
việc tốt lành. Kịp khi ông mất, nhà Tần đúc đồng làm tượng, đem đặt
ở ngoài cửa Tư Mă cung Hàm Dương. Trong ruột pho tượng ấy có thể
chứa được vài mươi người. Hung Nô vào đất Tần, trông thấy pho tượng,
tưởng Ông Trọng hăy c̣n sống. Sách Đại Thanh nhất thống chí và sách
Quảng dư kư (của Lục Bá Sinh) đều chép là Nguyễn Ông Trọng.
Đền Lư
Hiệu Úy: Ở xă Thụy Hương, huyện Từ Liêm, Hà Nội, nay hăy c̣n.
Lâm Thao:
Tên huyện. Đời Tần thuộc quận Lũng Tây; đời Thanh là đất phủ Lâm
Thao tỉnh Thiếm Tây (Trung Quốc).
Nam Chiếu;
Xem thuộc Đường, Vũ Tông, năm Hội Xương thứ 6. (Tb. 4, 35-36).
Nhà Tần
dùng Nhâm Hiêu làm chức úy (chức quan đứng đầu 1 quận) quận Nam Hải
và Triệu Đà làm chức lệnh
Nhà Tần
sai Nhâm Hiêu và Triệu Đà đem năm mươi vạn dân bị tội đày sang thú ở
đất Ngũ Lĩnh.
Hiêu và
Đà mới âm mưu làm việc cát cứ kiêm tính.
Lời chua
- Long Xuyên: Tên huyện, thuộc quận Nam Hải; nay là đất Tuần Châu (Trung
Quốc).
Ngũ Lĩnh:
theo sách Nam Khang kư của Đặng Đức Minh, Ngũ Lĩnh có năm quả núi:
Đài Lĩnh là quả núi thứ nhất, ở đất Đại Dũ; Kỵ Điền là quả núi thứ
hai, ở đất Quế Dương; Đô Bàng là quả núi thứ ba, ở đất Cửu Chân (nay
là tỉnh Thanh Hóa); Manh Chử là quả núi thứ tư, ở đất Lâm Hạ; Việt
Thành là quả núi thứ năm, ở đất Thủy An. Theo sách Quảng châu kư của
Bùi Uyên, Ngũ lĩnh là Đại Dũ, Thủy An, Lâm Hạ, Quế Dương và Yết
Dương, bây giờ trong địa phận tỉnh Quảng Đông và tỉnh Quảng Tây.
Phương Dĩ Trí có nói: "Kể đến Cửu Chân th́ xa quá, nên cho thuyết
sau là phải hơn". Sách Lĩnh Ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi chép rằng:
"Từ nhà Tần, có vấn đề Ngũ Lĩnh, mọi thuyết đều cho là chỉ vào núi
mà gọi tên cả. Bây giờ xét ra, đó là năm đường đi vào Ngũ Lĩnh, chứ
không cứ phải là núi đâu: Con đường từ tỉnh Phúc Kiến qua sông Thinh,
vào tỉnh Quảng Đông, sang núi Tuần Mai, là một; con đường từ tỉnh
Giang Tây đi Nam An, qua núi Đại Dũ, vào Nam Hùng, là hai; con đường
từ tỉnh Hồ Nam đi sang đất Thâm rồi vào đất Liên, là ba; con đường
từ Đạo Châu vào Quảng Tây rồi đi huyện Lâm Hạ, là bốn; con đường từ
Toàn Châu vào Tỉnh Giang, là năm.
Năm Tân
Măo (210 tr.c.ng.) (Thục An Dương Vương năm thứ 48; Tần Thủy Hoàng
năm thứ 37).
Nhâm Hiêu
và Triệu Đà nhà Tần đem quân sang xâm. Thục vương cùng Triệu Đà
giảng ḥa, rút quân về.
Khi Triệu
Đà sang xâm lược, đóng quân ở núi Tiên Du thuộc Bắc Giang, Thục
vương đem quân chống cự Triệu Đà. Bấy giờ Nhâm Hiêu đóng chu sư2 ở
tiểu giang, mắc bệnh, trở về, giao cả quân cho Triệu Đà. Triệu Đà
dời quân doanh đến núi Vũ Ninh. Thục vương cắt đất cho Đà từ sông
B́nh Giang giở về Bắc để giảng ḥa. Hai bên đ́nh chiến, rút về.
Sử cũ
chép: Triệu Đà sang xâm lược, đóng quân ở núi Tiên Du thuộc Bắc
Giang, đánh nhau với vua Thục. Vua Thục đem nỏ thần ra bắn. Đà thua
chạy. Khi ấy, Nhâm Hiêu đóng chu sư ở tiểu giang, v́ mắc bệnh, phải
trở về. Lúc về, Nhâm Hiêu có dặn Triệu Đà rằng: "Nhà Tần mất rồi.
Nếu ông biết dùng mưu đánh lấy Thục th́ có thể lập được nước đấy".
Triệu Đà biết vua Thục có cái nỏ thần, không thể địch nổi, bèn lui
giữ núi Vũ Ninh, sai sứ đi xin ḥa. Vua Thục mừng, chia đất cho Đà
từ sông B́nh Giang trở về Bắc; c̣n từ B́nh Giang trở về Nam th́ vua
Thục cai trị. Triệu Đà cho con là Trọng Thủy sang làm con tin, nhân
tiện cầu hôn; vua Thục gả con gái là Mị Châu cho Trọng Thủy. Sau,
Trọng Thủy dụ dỗ Mị Châu cho xem vụng cái nỏ thần, ngầm đổi mất lẫy
nỏ, rồi nói thác là về Bắc thăm cha mẹ. Lúc Trọng Thủy từ biệt, dặn
Mị Châu "Mai sau ta lại sang, muôn một mà hai nước bất ḥa, th́ có
dấu tích ǵ để xét nghiệm, khiến chúng ta lại có thể gặp nhau không?".
Mị Châu nói: "Thiếp có cái chăn gấm bằng lông ngỗng, đi đâu cũng
thường mang theo, nếu đến những chỗ đường rẽ, thiếp sẽ nhổ lông
ngỗng ấy mà rắc xuống để làm ghi, th́ sẽ biết chỗ thiếp ở". Trọng
Thủy trở về, báo với Triệu Đà. Triệu Đà quyết tâm sang xâm lược.
Lời chua
- Núi Tiên Du: theo An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng, núi Tiên
Du c̣n
một tên là núi Lạn Kha, ở huyện Tiên Du, trên núi ấy có ḥn đá h́nh
bàn cờ, tương truyền ngày xưa có một người đi kiếm củi, xem hai ông
tiên đánh cờ, cán ŕu nát ra lúc nào không biết.
Tiểu
giang: Tức là con sông nhỏ ở phủ Đô Hộ, sau lầm là bến Đông Hồ. Bây
giờ
không
biết sông này ở đâu.
Núi Vũ
Ninh: Theo An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng, núi Vũ Ninh ở châu
Vũ Ninh,
trên núi ấy có cái sống núi gọi là Tỉnh Thủy Cương, ở sống núi ấy có
con rắn đá, tên gọi Ngọc Kinh. Vũ Ninh bây giờ là huyện Vũ Giàng.
Sông B́nh
Giang: Tức sông Thiên Đức, là phân lưu về phía Đông của sông Lô,
dưới
thông với sông B́nh Than, lại gọi là sông Đông Ngàn.
Nỏ thần:
Sử cũ, phần Ngoại kỷ, chép: Ban đầu, vua Thục đắp Loa Thành, đắp rồi
lại lở. Nhà vua mới trai giới cầu khấn. Khi sắp đắp lại, bỗng có
thần nhân hiện ở cửa Nam, vua Thục hỏi, thần nhân đáp: "Xin đợi sứ
Thanh Giang đến". Sớm hôm sau, thấy có con Kim Quy (Rùa vàng) nổở
trên mặt sông, bơi đến, nói được tiếng người, tự xưng là sứ Thanh
Giang. Vua Thục mừng rỡ, mời vào, hỏi duyên cớ sao thành đắp xong
rồi lại đổ. Kim Quy bảo cho vua Thục cái thuật yểm trừ yêu quái. Do
đó đắp vừa nửa tháng th́ xong thành. Kim Quy từ giă đi. Vua Thục cảm
tạ, lại hỏi Kim Quy có cách ǵ để chống được giặc. Kim Quy trút cái
móng lại cho vua. Vua Thục mới sai bầy tôi là Cao Lỗ chế ra cái nỏ,
lấy móng rùa làm lẫy, đặt tên nỏ ấy là "Linh quang kim trảo thần nỗ",
hễ bắn th́ giặc phải lui. Nhưng, xét ra, việc này là chuyện hoang
đường, nên nay bỏ đi.
Theo sách
Thái b́nh hoàn vũ kư, phần Nam Việt chí, của Nhạc Sử nhà Tống, An
Dương Vương cai trị Giao Châu, Úy Đà đem quân sang đánh. An Dương
Vương có thần nhân là Cao Thông giúp đỡ, chế ra cái nỏ, bắn một phát
giết chết quân Việt hàng vạn người, bắn ba phát giết đến ba vạn.
Triệu Đà biết rơ duyên cớ, liền lui về đóng ở Vũ Ninh, rồi cho con
là Trọng Thủy sang làm tin, xin ḥa hảo với nhau. Về sau, An Dương
đối xử với Cao Thông không được hậu, Cao Thông bỏ đi. An Dương Vương
có người con gái là Mị Châu, thấy Trọng Thủy đẹp trai, liền phải
ḷng. Về sau, Trọng Thủy dụ dỗ Mị Châu đ̣i xem nỏ thần, Mị Châu đem
cho xem. Trọng Thủy nhân đấy bẻ hỏng cái lẫy nỏ, rồi lập tức sai
người ruổi về báo tin cho Triệu Đà. Triệu Đà lại đem quân sang đánh
úp.
Khi quân
Triệu kéo đến, An Dương Vương đem nỏ ra bắn như trước, nhưng nỏ hỏng
rồi!
Quân Thục
chạy tan tác. Triệu Đà phá được Thục.
Năm Quư
Tỵ (208 tr.c.ng.) (Thục An Dương Vương năm thứ 50; Tần Nhị thế năm
thứ 2).
Triệu Đà
nhà Tần lại sang xâm lược. Vua Thục thua, chạy, chết. Nhà Thục mất.
Trước kia,
Nhâm Hiêu mắc bệnh, lúc gần mất, có dặn Triệu Đà: "Nhà Tần vô đạo,
thiên hạ phải khổ sở, nghe đâu bọn Trần Thắng đă nổi loạn, ḷng dân
chưa biết theo về ai. Đất này hẻo lánh xa cách, tôi sợ những đám
giặc khác sẽ xâm phạm đến đây. Ư tôi muốn dấy quân cắt đứt các đường
sạn đạo để tự pḥng bị lấy ḿnh, rồi chờ xem sự biến của các chư hầu.
Vả lại, Phiên Ngung (nhà Hán gọi là Nam Thành) là chỗ núi sông hiểm
trở, đông tây đều vài ngh́n dặm, lại có người Trung Quốc giúp đỡ th́
có thể lập thành một nước được đấy. V́ các trưởng lại trong quận
không có ai đáng để bàn tính việc này, nên tôi đặc biệt mời ông đến
để nói chuyện". Hiêu nói xong, lập tức viết thư cử Triệu Đà làm chức
úy quận
Nam Hải.
Khi Hiêu chết rồi, Đà liền truyền hịch đi các cửa quan ải, như Hoàng
Phố, Dương Sơn, Hoàng Khê, rằng: "Quân giặc đến nơi rồi, mau mau cắt
đứt đường sạn đạo, rồi họp quân lại, tự pḥng thủ lấy".
Hịch đi
đến đâu, các châu các quận đều hưởng ứng cả. Nhân đấy, Triệu Đà dần
dà đem pháp lệnh buộc tội để giết các trưởng lại do nhà Tần đă đặt,
rồi đem những người họ hàng và bè đảng ra giữ hết chức thú lệnh để
cai trị dân. Triệu Đà đem quân sang đánh vua Thục, vua Thục không
ngờ lẫy nỏ đă hỏng, vẫn cứ nhơn nhơn đánh cờ, cười rằng: "Triệu Đà
không sợ nỏ thần của ta ư?". Kịp khi quân Triệu Đà đă bức bách tận
nơi, vua Thục mới giương nỏ, th́ lẫy nỏ hỏng rồi, liền thua chạy,
cho nàng Mị Châu cưỡi ngựa cùng chạy về phía Nam. Trọng Thủy cứ nhận
dấu lông ngỗng mà đuổi theo. Vua Thục đến băi biển, hết đường chạy,
nhảy xuống biển chết. Nhà Thục mất.
Lời phê -
Vua Thục trước đây v́ hôn nhân mà được thắng lợi, rồi cũng v́ hôn
nhân mà bại vong, đạo trời báo phục không sai, kể cũng chóng quá!
Lời chua
- Đền Thục vương: Ở núi Mộ Dạ, xă Hương Ái, huyện Đông Thành,
tỉnh Nghệ
An.
Nhà Thục,
từ An Dương Vương khởi lên năm Giáp Th́n (257 tr.c.ng.) đến năm Quư
Tị (208 tr.c.ng.) mất nước, cộng 50 năm.
Năm Giáp
Ngọ (207 tr.c.ng.) (Triệu Dũ Vương năm thứ 1; Tần Nhị thế năm thứ
3).
Triệu Đà
tự lập làm vua Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung.
Nhà vua
họ Triệu, tên Đà, người huyện Chân Định nhà Hán. Bấy giờ nhà vua đă
kiêm tính được đất Lâm Ấp và Tượng quận, tự lập làm Nam Việt vương.
Lời chua
- Phiên Ngung: Xưa thuộc quận Nam Hải, tức đất phủ Quảng Châu tỉnh
Quảng Đông (Trung Quốc) bây giờ.
Năm Quư
Măo (198 tr.c.ng.) (Triệu Dũ Vương năm thứ 10; Hán Cao hoàng đế năm
thứ 9).
Triệu
Vương mới sai hai sứ thần coi giữ quận Giao Chỉ và quận Cửu Chân.
Nam Việt
vương Triệu Đà đă đánh và diệt được An Dương Vương rồi, sai hai sứ
thần coi giữ quận Giao Chỉ và quận Cửu Chân.
Lời chua
- Giao Chỉ: Xưa là đất các bộ Giao Chỉ, Chu Diên, Phúc Lộc, Vũ Ninh,
Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định và Tân Hưng. Nhà Triệu đặt
làm quận, thống trị 10 huyện; về sau noi theo hay thay đổi mỗi thời
một khác. Bây giờ là đất các tỉnh Bắc Kỳ.
Cửu Chân:
Xưa là ba bộ Cửu Chân, Hoài Hoan và Việt Thường. Nhà Tần đặt làm
đất Tượng
quận; nhà Triệu đặt làm quận, thống trị 12 huyện; đến nhà Hán khoảng
năm Nguyên Đỉnh (116-111 tr.c.ng.), tách năm huyện Tị Ảnh, Lư Dung,
Tây Quyển, Tượng Lâm và Chu Ngô đặt làm quận Nhật Nam; c̣n bảy huyện
Tư Phố, Cư Phong, Đô Bàng, Dư Phát, Hàm Hoan, Vô Thiết và Vô Biên
th́ vẫn để làm quận Cửu Chân. Đến Ngô, Tần, Tống, Tề cũng đều noi
theo như trước. Nhà Lương đổi làm Ái Châu; về sau, noi theo hoặc
thay đổi mỗi lúc một khác. Bây giờ là đất Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng
B́nh, Quảng Trị và Thừa Thiên.
Năm Ất Tị
(196 tr.c.ng.) (Triệu Vũ Vương năm thứ 12; Hán Cao hoàng đế năm thứ
11).
Nhà Hán
sai sứ sang ban ấn và thao cho Triệu Vương.
Nhà Hán
đă b́nh định được thiên hạ, nghe tin Triệu Đà cũng đă xưng vương ở
đất Việt, bèn sai Lục Giả sang phong Đà làm Nam Việt Vương, trao ấn
và thao, chia cho một nửa phù tín, hai bên sứ thần đi lại giao hảo
với nhau, để Triệu Đà ḥa thuận tập hợp cả Bách Việt, đừng gây ra
tai hại cướp bóc.
Sứ nhà
Hán đến, Đà ngồi xổm mà tiếp kiến. Lục Giả thấy thế, bảo Đà: "Vương
vốn là người Hán, họ hàng phần mộ ở cả huyện Chân Định, bây giờ lại
trái chứng, bỏ cả văn hóa lễ nghĩa, ư muốn nổi lên ở đất này, ḥng
làm một nước địch, chống đối với bên Hán, chẳng cũng lầm lắm dư! Vả
lại, nhà Tần mất nước, những người hào kiệt đều nổi dậy, nhưng chỉ
có Hán đế vào Quang Trung trước, giữ được Hàm Dương, nổi ở Ba Thục,
cuối cùng diệt được Hạng Vũ, trong ṿng 5 năm b́nh định được cả nước.
Như thế cũng là ḷng trời gây dựng chứ không phải sức người. Bây giờ
thiên tử nhà Hán nghe tin vương xưng vương ở đây, mà không giúp Hán
thiên tử trừ những kẻ bạo nghịch! Ư các tướng văn, tướng vơ đều muốn
đem quân sang Nam để đánh, nhưng Hán thiên tử nghĩ thương trăm họ
mới qua ṿng nhọc mệt, nên mới băi binh, mà sai sứ giả sang trao cho
vương ấn và thao đây. Đáng lẽ vương nên ra ngoài thành nghinh tiếp,
bái yết, hướng mặt về bắc mà xưng thần là phải, thế mà bây giờ vương
lại muốn cậy có cái nước Việt mới dựng, chưa củng cố, mà dám khinh
nhờn sứ giả của thiên tử nhà Hán! Nếu nhà Hán nghe biết chuyện này,
sẽ đào mồ mả và tru di họ hàng của nhà vương rồi đem quân sang đánh,
th́ vương nghĩ sao?".
Triệu Đà
vội đứng dậy, nói: "Tôi ở đây đă lâu ngày, quên mất cả lễ nghĩa!".
Rồi nhân tiện hỏi Lục Giả: "Ta đây với Tiêu Hà và Tào Tham, ai giỏi
hơn?". Lục Giả đáp: "Có lẽ vương giỏi hơn". Đà hỏi: "Ta đây với vua
Hán, ai giỏi hơn?". Lục Giả đáp: "Vua Hán nối nghiệp Ngũ đế và Tam
Vương, cai trị Trung Quốc, người Trung Quốc kể có hàng ức vạn, đất
Trung Quốc hàng muôn dặm, của nhiều, người đông, chính lệnh do một
nhà mà ra. Từ khi khai thiên lập địa đến giờ chưa có đời nào được
thế. Nay dân chúng của vương chẳng qua được mươi vạn ở lẫn vào nơi
núi non và miền biển, tựa hồ như một quận bên Hán, vậy sao lại dám
so sánh với Hán thiên tử được?". Triệu Đà cười, nói: "Ta chỉ phàn
nàn không được nổi lên ở Trung Quốc, nên phải làm vua ở đây, chứ sao
ta lại không bằng bên Hán?". Rồi giữ Lục Giả ở lại đến vài tháng
trời. Đà bảo rằng: "Ở bên này không nói chuyện với ai được, bây giờ
có ông sang đây làm cho tôi hằng ngày được nghe những điều chưa từng
nghe". Đà cho Lục Giả một cái đẫy, trong chứa các đồ đáng giá ngh́n
vàng. Đến lúc Lục Giả về, Đà lại cho thêm ngh́n vàng nữa.
Lời chua
- Đồ đựng trong đẫy: Ư nói lấy những đồ châu báu trang trí vào trong
đó.
Năm Mậu
Ngọ (183 tr.c.ng.) (Triệu Dũ Vương năm thứ 25; Hán Cao hậu năm thứ
5).
Mùa xuân,
Triệu vương Đà tự xưng là hoàng đế, đem quân đánh Trường Sa.
Bấy giờ
Lữ Hậu nhà Hán cấm không cho bán đồ sắt ở cửa quan ải Nam Việt.
Triệu Vương nghe tin, nói: "Hồi Cao đế làm vua, ta vẫn cho sứ giả
thông hảo, hai nước cùng nhau trao đổi đồ vật. Bây giờ Lữ Hậu nghe
bầy tôi gièm pha, chia rẽ Hán với Việt, làm ngăn cách việc trao đổi
đồ vật. Mưu này chắc là do Trường Sa vương muốn cậy uy quyền nhà Hán,
mưu lấy nước ta để chựa làm vua tất cả và lập lấy công lao cho ḿnh
đấy thôi". Triệu Đà bèn tự lập làm Nam Việt hoàng đế, đem quân sang
đánh những nơi biên ấp của Trường Sa, chinh phục được vài quận rồi
trở về.
Năm Canh
Thân (181 tr.c.ng.) (Triệu Vũ Vương năm thứ 27; Hán Cao Hậu năm thứ
7).
Nhà Hán
sai Lâm Lư hầu Chu Táo sang đánh, nhưng không qua được núi, phải băi
binh.
Nhà Hán
sai Chu Táo đi đánh Việt, để báo thù lại việc đánh Trường Sa. Bây
giờ gặp mùa nắng nóng ẩm thấp, quân chết dịch nhiều, không thể vượt
qua Ngũ Lĩnh được, nên phải băi binh. Đà nhân dịp ấy, dùng binh lực
và của cải chiêu dụ Mân Vệt và bắt Tây Âu lệ thuộc, phục dịch ḿnh,
đất đai chu vi được hơn vạn dặm, đi xe hoàng ốc, dùng cờ tả đạo,
nghi vệ cũng ngang với thiên tử nhà Hán.
Lời chua
- Tây Âu lệ thuộc phục dịch: Theo lời chú giải của Nhan Sư Cổ, Tây
Âu tức là Lạc Việt. Tây Âu là một bộ phận trong Lạc Việt. Ư nói lệ
thuộc và phục dịch nước Nam Việt.
Năm Nhâm
Tất (179 tr.c.ng.) (Triệu Vũ Vương năm thứ 29; Hán Văn đế năm thứ
1).
Nhà Hán
lại sai Lục Giả đến. Triệu Vương nhân đưa thư xin cho sứ giả đi lại
như trước.
Văn đế
nhà Hán đă lên ngôi, liền đặt người thủ ấp trong coi những mồ mả của
nhà Triệu ở Chân Định và, hằng năm, theo thời tiết, làm lễ thờ cúng;
lại cho những anh em của nhà Triệu làm quan to, ban thưởng ưu hậu.
Khi ấy, Hán Văn đế hỏi tể tướng Trần B́nh có ai sang sứ bên nước
Việt được. Trần B́nh nói: "Lục Giả, về đời tiên đế1, thường sang sứ
bên ấy". Văn đế mới cho Lục Giả làm thái trung đại phu và một viên
yết giả làm phó sứ, đưa thư cho Triệu vương. Đại ư bức thư ấy thế
này: "Kính thăm Nam Việt vương rất lao tâm khổ ư. Trẫm đây là con vợ
thứ vua Cao hoàng, phải xa lánh ở ngoài, vâng mạng triều đ́nh giữ
phiên trấn miền Bắc ở đất Đại3, đường sá xa xôi, kiến thức hẹp ḥi
quê kệch, chưa có dịp nào gửi thư thăm hỏi được. Kịp khi vua Cao
Hoàng ĺa bỏ quần thần, vua Huệ đế qua đời. Lữ Hậu tự ư lên cầm
quyền chính, rồi chẳng may có bệnh, bọn họ Lữ chuyên quyền, làm loạn,
không thể chế trị được, bèn đem người khác họ vào làm con thừa tự
vua Huệ đế. May nhờ tông miếu khôn thiêng, công thần giúp sức, dẹp
yên được loạn. Trẫm, v́ cớ vương hầu và các quan trong nước không
chịu buông tha, nên buộc phải lên nối ngôi báu. Mới đây, nghe nói
vương có gửi thư cho tướng quân Lâm Lư hầu, xin nhờ bảo toàn cho anh
em vương và xin băi bỏ hai tướng quân ở Trường Sa. Theo thư của nhà
vương, trẫm đă băi bỏ tướng quân Bắc đương hầu. C̣n anh em nhà vương
ở Chân Định th́ trẫm cũng đă sai người trông nom chăm hỏi. Lại sai
tu sửa phần mộ tiền nhân của nhà vương. Trước kia, nghe nói vương cứ
đem quân đi cướp phá ở ngoài biên giới, gieo tai họa măi, làm cho
dân Trường Sa đă đau khổ mà dân Nam quận lại càng khổ hơn. Như thế
nước của nhà vương phỏng được lợi ích riêng à? Chắc phải chết nhiều
quân lính, hại lắm tướng tài, làm cho vợ người ta phải góa, con
người ta phải côi, cha mẹ người ta phải cô độc. Thế là lợi một hại
mười: trẫm đây không nỡ làm thế. Trẫm đây chỉ muốn định lại những
chỗ địa giới, lồi ra lơm vào, chen kẽ nhau như nanh chó. Đă đem việc
này hỏi ư kiến các quan th́ họ nói: vua Cao hoàng sở dĩ đặt phân
giới ở Trường Sa, là đất của nhà vương đấy, nên trẫm không dám tự
tiện thay đổi. Ngày nay, ví bằng lấy được đất đai của vương cũng
chẳng rộng là mấy; tước được của cải của vương cũng chẳng giàu thêm
vào. Vậy th́ từ Hoang Phục và Ngũ Lĩnh trở về Nam, cho vương được
quyền tự trị. Dẫu vậy, vương tự xưng là hoàng đế, hai hoàng đế cùng
đối lập mà lại không sai sứ giả đi lại để thông t́nh nghị với nhau,
thế là có ư tranh nhau đấy. Tranh nhau mà không chịu nhường nhau,
điều đó người nhân giả không làm. Bây giờ trẫm nguyện với vương xóa
bỏ những hiềm oán cũ, từ nay trở về sau, lại cho trao đổi sứ giả như
xưa. Vậy nên sai Lục Giả sang giăi bày bản ư của trẫm cho vương rơ.
Vương cũng nên nghe theo, đừng có gây sự giặc cướp tai vạ nữa. Nay
xin biếu vương: 50 áo thượng trữ (Sư Cổ giải nghĩa: áo có trang sức
bằng bông gọi là "trữ"), 30 áo trung trữ, 20 áo hạ trữ. Vậy mong
vương nghe âm nhạc, quên nỗi buồn, thăm hỏi đến nước láng giềng".
Khi Lục Giả đến, Triệu Đà cảm tạ, nói: "Tôi kính vâng chiếu chỉ, xin
làm phiên thần, giữ măi lễ cống".
Bấy giờ
Triệu Vương mới hạ lệnh cho người trong nước biết: "Trẫm nghe: hai
hiền tài không thể cùng ở đời với nhau, hai anh hùng không thể cùng
đứng với nhau. Hoàng đế nhà Hán là bậc hiền thiên tử, vậy từ nay ta
bỏ đế chế, không dùng xe hoàng ốc, cờ tả đạo nữa". Rồi Triệu Vương
viết thư gửi sang nhà Hán, xưng là "Người đại trưởng lăo phu ở man
di, tên là Đà, mạo muội đành cam tội chết, hai lạy dâng thư lên
Hoàng đế bệ hạ: Lăo phu là kẻ cố lại ở đất Việt, may được vua Cao
hoàng ban cho ấn và thao, phong làm Nam Việt vương. Kịp khi Huệ đế
lên làm vua, giữ ân nghĩa không nỡ dứt t́nh, ban tặng lăo phu rất
hậu. Đến khi Cao Hậu chuyên quyền, chia rẽ Hán với Di, ra lệnh:
không bán cho Nam Việt những đồ làm ruộng bằng loài kim, loài sắt.
Nếu bán trâu, ḅ, dê, ngựa th́ chỉ bán cho những con đực, chứ không
bán cho những con cái - Lăo phu ở nơi hẻo lánh, trâu, ḅ, dê, ngựa
đă già cả rồi; tự nghĩ không lấy ǵ để cúng tế th́ tội đáng chết,
nên mới sai nội sử Phiên, trung úy Cao và ngự sử B́nh, tất cả ba bọn
sang dâng thư tạ lỗi, đều không thấy trở về cả. Lại mong manh nghe
nói mồ mả cha mẹ của lăo phu đều bị bạt phá, anh em họ hàng của lăo
phu đều bị khép tội chu di. V́ thế, các lại viên của lăo phu mới bàn
với nhau: Bây giờ, ở trong, ta bị nhà Hán chèn ép; ở ngoài, ta không
có ǵ để đề cao ḿnh cho đặc biệt, cho nên đổi hiệu là hoàng đế,
nhưng chẳng qua chỉ xưng đế ở trong nước ḿnh, chứ có dám làm ǵ hại
đến thiên hạ đâu. Hay tin ấy, Cao Hậu cả giận, xóa bỏ tên nước Nam
Việt, làm cho sứ giả không được trao đổi đi lại. Lăo phu trộm ngờ
việc này là do Trường Sa vương gièm pha, nên có đem quân đi đánh
biên giới Trường Sa. Vả lại, phương nam đất thấp, ẩm ướt, trong đám
man di như Đông Mân và Tây Âu đều xưng vương cả; lăo phu xưng đế,
gọi là tạm để vui ḷng, đâu dám để lọt đến tai thiên vương? Lăo phu
ở đất Việt đến nay được 49 năm, đă có cháu ẵm rồi, nhưng vẫn thức
khuya, dậy sớm, ăn không ngon, ngủ không yên, mắt không dám nh́n sắc
đẹp yểu điệu, tai không dám nghe tiếng vui trống chuông, đó chỉ v́
chưa được thần phục nhà Hán. Nay may được bệ hạ rủ ḷng thương yêu,
cho theo hiệu cũ, lại được trao đổi sứ giả đi lại như trước, th́ lăo
phu dẫu chết cũng không mục xương. Vậy, xin đổi hiệu, không dám xưng
là đế nữa. Nhân tiện có sứ giả, xin kính dâng một đôi ngọc bích
trắng, ngh́n chiếc cánh trả, mười cặp tê giác, năm trăm chiếc tử bối,
một hộp sâu quế, bốn mươi đôi chim trả sống, hai đôi công. Lăo phu
mạo muội liều chết, hai lạy, tâu lên Hoàng đế bệ hạ".
Lục Giả
đem thư ấy về tâu, vua Hán hài ḷng lắm. Từ đó hai bên Nam Bắc giao
hảo, thôi việc binh đao, dân được yên nghĩ. Sau đó, Triệu vương hễ
sai sứ sang Hán th́ xưng là vương, gặp các lễ triều sảnh th́ sánh
hàng với chư hầu; c̣n ở trong nước vẫn dùng hiệu đế.
Lời chua
- Phục Lĩnh: Theo Nhan Sử Cổ, Phục, là ngoài cơi hoang; Lĩnh, là
phía Nam Ngũ Lĩnh.
Không sai
sứ giả đi lại (vô nhất thặng chi sứ): Ư nói không có một xe sứ giả
nào được sai đến.
Sắc đẹp
yểu điệu (mĩ man chi sắc): Theo Lâm Hi Dật, mĩ man tức là yểu điệu.
Năm Giáp
Th́n (137 tr.c.ng.) (Triệu Vũ Vương năm thứ 71; Hán Vũ đế năm Kiến
nguyên thứ 4).
Triệu
vương Đà mất, táng ở Ngung Sơn. Đích tôn là Hồ lên nối ngôi.
Hồ là con
Trọng Thủy và là đích tôn Vũ Vương, nay lên làm vua, ấy là Văn Vương,
truy đặt tên thụy cho Triệu Đà là Vũ đế.
Lời chua
- Ngung Sơn: Theo Thái B́nh hoàn vũ kư của Nhạc Sử đời Tống,
Ngung Sơn
cách huyện Nam Hải một dặm về phía Bắc. Theo sách Ngô Lục, Phiên
huyện ở Ngung Sơn, là chỗ táng Úy Đà.
Năm Bính
Ngọ (135 tr.c.ng.) (Triệu Văn Vương năm thứ 2; Hán, năm Kiến Nguyên
thứ 6).
Mân Việt
vương Sính sang xâm lấn. Triệu Vương sai sứ đi báo cáo với nhà Hán.
Nhà Hán đem quân đi đánh và giết chết Mân Việt vương. Triệu Vương
sai thế tử Anh Tề sang Hán làm con tin.
Mùa thu,
Mân Việt vương Sính sang xâm lấn những nơi biên ấp nước Việt. Triệu
vương giữ điều ước của Hán, không dám tự tiện dấy quân, mới sai
người đem thư nói việc này với nhà Hán. Vua Hán khen là người biết
giữ nghĩa, bèn v́ Triệu vương mà rầm rộ ra quân: sai Vương Khôi đem
quân ra huyện Dự Chương; Hàn An Quốc đem quân ra huyện Cối Kê để
đánh Mân Việt. Bấy giờ quân Hán chưa vượt qua Ngũ Lĩnh, Sính xuất
quân chống cự với nhà Hán. Em Sính, là Dư Thiện, cùng với họ hàng
giết Sính, rồi đầu hàng. Vương Khôi đóng quân lại, sai người về báo
với nhà Hán. Vua Hán sai Trang Trợ sang bày tỏ ư chỉ cho Triệu vương
nghe. Triệu vương khấu đầu, nói: "Thiên tử đă v́ quả nhân mà dấy
quân giết Mân Việt vương, quả nhân dầu phải chết cũng không đủ đền
ơn báo đức", bèn cho con là Anh Tề sang làm con tin. Rồi Triệu vương
bảo Trang Trợ: "Nước tôi mới bị giặc cướp; sứ thần cứ về trước đi,
quả nhân đang ngày đêm lo sắm sửa đồ hành trang, sẽ vào yết kiến
Thiên tử đây!". Trang Trợ về rồi, quần thần đều can Triệu vương: "Nhà
Hán đem quân giết Sính, là có ư muốn để cho nước Việt ta phải kinh
sợ nao núng. Vả lại, đức tiên đế có dặn lại rằng: đối với nhà Hán
cốt đừng thất lễ; nhưng rốt lại chớ có nghe lời ngon ngọt mà vào yết
kiến v́ hễ đă vào th́ không về được đâu. Ấy là lâm vào t́nh thế mất
nước". Triệu vương mới cáo bệnh, cuối cùng không vào chầu.
Năm Bính
Th́n (125 tr.c.ng.) (Triệu Văn vương năm thứ 12; Hán, năm Nguyên Sóc
thứ 4).
Triệu
vương Hồ chết, con là Anh Tề lên nối ngôi.
Văn vương
đau nặng. Thái tử Anh Tề từ bên Hán về; đến đây, lên nối ngôi, ấy là
Minh vương, truy đặt tên thụy cho Triệu vương Hồ là Văn vương.
Năm Đinh
Tị (124 tr.c.ng.) (Triệu Minh vương năm thứ 1; Hán, năm Nguyên Sóc
thứ 5).
Nhà Triệu
dùng Lữ Gia làm thái phó. Năm Mậu Ngọ (123 tr.c.ng.) (Triệu Minh
vương năm thứ 2; Hán, năm Nguyên Sóc thứ 6).
Triệu
vương lập Cù Thị làm hoàng hậu, con thứ là Hưng làm thế tử.
Trước kia,
Minh vương c̣n là thế tử, vào làm con tin bên Hán, ở đất Trường An,
có lấy nàng Cù Thị, người huyện Hàm Đan, sinh con là Hưng. Kịp khi
lên ngôi, vương dâng thư sang Hán, xin lập Cù Thị làm hoàng hậu.
Hưng làm thế tử. Nhà Hán thường sai sứ sang khuyên bảo vương vào
chầu. Vương sợ vào chầu, chắc ḿnh sẽ phải theo phép nhà Hán, bị
liệt vào hạng nội chư hầu. Vương cố ư cáo bệnh, không theo lời dụ
của vua Hán, chỉ sai con là Thứ Công vào làm con tin.
Năm Mậu
Th́n (113 tr.c.ng.) (Triệu Minh vương năm thứ 12; Hán, năm Nguyên
Đỉnh thứ 4).
Triệu
vương Anh Tề chết.
Con là Hưng lên nối ngôi.
Truy đặt tên thụy cho
Triệu vương Anh Tề là Minh vương. Hưng là con thứ của Minh vương; mẹ
là Cù Thị, người Hán. Hưng trị v́ được một năm, bị bầy tôi là Lữ Gia
giết chết, tên thụy là Ai vương.
Nhà Hán sai sứ sang dụ
Triệu vương vào chầu.
Hưng lên làm vua, tôn mẹ
là Cù Thị làm thái hậu. Trước kia, Cù Hậu khi chưa lấy Minh vương,
đă từng tư thông với An Quốc Thiếu Quư (An Quốc là họ, Thiếu Quư là
tên), người đất Bá Lăng. Đến năm này, nhà Hán sai Thiếu Quư sang dụ
bảo vương và thái hậu vào cầu, lại sai bọn biện sĩ gián đại phu là
Chung Quân giữ việc du thuyết, dũng sĩ là Ngụy Thần giúp việc quyết
định, vệ úy là Lộ Bác Đức đem quân đóng ở Quế Dương để đợi tin sứ
giả. Bấy giờ vương c̣n thơ dại; Cù Hậu lại tư thông với Thiếu Quư.
Người nước đều biết rơ
chuyện, nên nhiều người không theo về với Cù Hậu. Cù Hậu sợ trong
nước nổi loạn, muốn dựa vào uy quyền nhà Hán, khuyên vương và các
quan nên phụ thuộc vào Hán. Nhân có Hán sứ đấy, thái hậu liền dâng
thư xin liệt vào hàng nội chư hầu: cứ ba năm một lần vào chầu, xóa
bỏ cửa quan ải nơi biên giới. Vua Hán ưng thuận, ban ấn bạc cho thừa
tướng Lữ Gia và các ấn cho nội sử, trung úy và thái phó; c̣n các
quan chức khác đều được tự ư xếp đặt. Từ bỏ những h́nh phạt thích
chữ vào mặt và xẻo mũi; dùng pháp luật nhà Hán. Về chính tị th́ theo
như các nội chư hầu; đặt sứ giả đóng ở trong nước để trấn thủ và vỗ
về.
Lời phê - Việc làm của
Hán Vũ đế so với Hán Văn đế, đằng chính đáng (chỉ Văn
đế), đằng quỷ quyệt (chỉ
Vũ đế), đă khác hẳn nhau rồi, nhưng đọ với việc nghĩa mà Vũ đế đă
làm trong khoảng năm Kiến Nguyên (140-135 tr.c.ng.) 2 lại thật trái
nhau quá! Thế mà Bắc sử khen Vũ đế là một vua có "tài lớn, mưu cao",
vậy ra cho rằng như thế là đủ xứng đáng rồi sao?
Năm Kỷ Tị (112 tr.c.ng.)
(Triệu Ai vương năm thứ nhất; Hán, năm Nguyên Đỉnh thứ 5).
Tháng 11, mùa đông. Thái
phó nhà Triệu là Lữ Gia giết Triệu vương Hưng và thái hậu Cù Thị;
lại giết cả sứ giả nhà Hán, rồi lập Thuật Dương hầu1 Kiến Đức lên
làm vua.
Triệu vương và thái hậu
sắm sửa hành trang, đem nhiều lễ vật quư trọng để làm đồ lễ vào chầu
vua Hán. Bấy giờ tể tướng Lữ Gia đă có tuổi, từng giúp ba triều vua,
họ hàng làm quan to đến hơn bảy mươi người, các con trai đều lấy
công chúa, các con gái th́ gả cho con em họ nhà vua hoặc thông gia
với Tần vương ở Thương Ngô. Lữ Gia ở trong nước rất được ḷng người.
Lữ Gia thường can ngăn Triệu vương chớ có phụ thuộc vào nhà Hán,
nhưng vương không nghe. V́ thế, ông có ḷng phản bạn, thường cáo
bệnh, không hội kiến với sứ giả nhà Hán. Sứ giả vẫn định giết ông
nhưng chưa có đủ thế lực làm được. Triệu vương và thái hậu sợ bọn Lữ
Gia khởi sự trước, nên muốn dựa uy quyền sứ giả nhà Hán để mưu giết
bọn Lữ Gia, bèn đặt tiệc, mời sứ giả đến uống rượu, các quan đại
thần đều ngồi hầu. Em Lữ Gia làm tướng, đem quân đóng ở ngoài cung.
Đến lúc ăn tiệc, thái hậu bảo Lữ Gia: "Nam Việt phụ thuộc vào Hán là
lợi cho nước, vậy mà tướng quân cho là bất tiện là cớ làm sao?". Nói
vậy cốt khích cho sứ giả tức giận, song sứ giả hồ nghi, giữ miếng;
chẳng ai dám hành động. Lữ Gia liền đứng dậy, đi ra. Thái hậu nổi
giận, toan rút ngọn mâu đâm theo, nhưng Triệu vương ngăn lại. Lữ Gia
lui ra được, liền cáo bệnh, không vào chầu, ngầm bàn với các đại
thần để khởi loạn. Triệu vương không có ư giết Lữ Gia. Lữ Gia biết
thế, nên c̣n để chậm lại đến vài tháng không khởi sự. Thái hậu muốn
độc lực giết Lữ Gia, lại không đủ sức. Vua Hán hay tin Lữ Gia không
thuận, mới sai Tế Bắc tướng là Hàn Thiên Thu và em Cù hậu là Cù Lạc
đem hai ngh́n người lấn vào bờ cơi. Lữ Gia hạ lệnh bảo người trong
nước: "Vương c̣n ít tuổi; thái hậu vốn là người Hán, lại tư thông
với sứ giả nhà Hán, chăm chăm chỉ chực nội phụ, đem dâng hết cả đồ
vật quư báu của tiên vương để bợ đỡ nhà Hán, ḥng chuốc lấy cái lợi
chốc lát, không đoái đến xă tắc nhà Triệu, chẳng có ư lo nghĩ đến
mưu chước sâu xa muôn đời". Bấy giờ Lữ Gia mới cùng em đem quân sĩ
đánh giết vương và thái hậu, lại giết hết cả các sứ giả nhà Hán. Rồi
sai người đi báo cho Tần vương Thương Ngô và các quận ấp đều biết,
lập con cả Minh vương là Thuật Dương hầu, tên gọi Kiến Đức, lên làm
vua.
Lời chua - Kiến Đức: Con
cả Minh vương, mẹ Kiến Đức là người Việt.
Đâm bằng ngọn mâu: Ư muốn
dùng ngọn mâu chực đâm chết Lữ Gia.
Mùa thu. Nhà Hán sai bọn
tướng quân Lộ Bác Đức và Dương Bộc đem quân sang đánh.
Khi Lữ Gia lập Kiến Đức
lên làm vua, th́ quân của Hàn Thiên Thu đă sang đến bờ cơi Nam Việt,
phá được vài ấp nhỏ rồi. Lữ Gia bèn mở ngay một con đường để tải
lương cho quân, c̣n cách Phiên Ngung 40 dặm, đem binh đánh giết được
bọn Hàn Thiên Thu, sai người gói cờ sứ tiết của nhà Hán để trả ở núi
Tái thượng. Lại khéo làm những lời giả trá để tạ tội; đóng quân canh
giữ những nơi xung yếu. Hay
tin ấy, vua Hán sai Phục
Ba tướng quân, Lộ Bác Đức, đem một toán quân ra huyện Quế Dương, đi
xuống mạn sông Hoàng Thủy; Lâu Thuyền tướng quân, Dương Bộc, đem một
toán quân ra huyện Dự Chương đi xuống mạn sông Hoành Phố; Qua Thuyền
tướng quân, Nghiêm, đem một toán quân ra huyện Linh Lăng đi xuống
mạn sông Ly Thủy; Hạ Lại tướng quân, Giáp, đi xuống quận Thương Ngô;
Tŕ Nghĩa hầu nước Việt, Quư, đem quân của nước Dạ Lang đi xuống mạn
sông Tường Kha. Rồi tất cả đều hội binh ở Phiên Ngung.
Lời chua - Tái thương:
Sách ẩn2 có chép: theo sách Nam khang kư, núi Đại Dũ tên là Tái
thượng.
Lâu thuyền: Theo Ưng
Thiệu, bấy giờ muốn đánh nước Việt, không đi đường thủy th́ không
đến được, nên phải đóng thuyền lớn, trên thuyền có làm cái lầu, gọi
là "lâu thuyền".
Qua thuyền: Theo Trương
Yến, người Việt dùng thuyền lớn đi trong nước; lại v́ có nạn giao
long làm hại, nên phải cắm cây giáo ở dưới đáy thuyền; v́ thế gọi là
"qua thuyền". Toản (tên người) nói rằng: Trong thư của Ngũ Tử Tư có
nói dùng qua thuyền để chở lá mộc và giáo mác. Do đó có tên gọi là
"qua thuyền".
Hạ Lại: "Lại" là tên sông.
Ở đất Việt, nước chảy qua trên băi cát. Có thuyết cho rằng "Lại" là
ḍng nước chảy xiết.
Tướng quân Nghiêm, Giáp:
Nghiêm và Giáp đều là tên người. Sử cũ đều không chép họ. Sách Thái
b́nh hoàn vũ kư của Nhạc Sử nhà Tống chép là Triệu Nghiêm. Sách Bách
Việt tiên hiền chỉ chép là Trịnh Nghiêm và Điền Giáp.
Tŕ nghĩa hầu Quư: Quư là
người Việt, Sử cũ không chép họ. Sách Bách Việt tiên hiền chỉ chép
là Hà Di.
Dạ Lang: Tên nước. Nay là
đất Kiện Vi thuộc Bá Châu. Đời Hán, ở Tây Di, có đến hàng chục người
làm quân trưởng. Dạ Lang là nước lớn nhất, ở ngoài cơi Thục quận:
Phía Đông giáp Giao Chỉ, phía Tây giáp Điền Quốc. Đời Hán Vũ đế,
Đường Mông dâng thư nói có thể tuyển được hơn mười vạn tinh binh ở
Dạ Lang, bơi thuyền vượt sông Tường kha, xuất kỳ bất ư mà đánh, đó
là một lối dùng kỳ binh để chế trị nước Việt...
Quyển thứ II
Năm Canh Ngọ (111
tr.c.ng.) (Triệu vương Kiến Đức năm thứ 1; Hán, năm Nguyên Đỉnh thứ
6).
Mùa đông. Bọn Lộ Bác Đức
tiến quân đánh phá Phiên Ngung, đuổi bắt được Triệu vương Kiến Đức
và Lữ Gia.
Dương Bộc nhà Hán đem
quân tinh nhuệ trước tiến đánh hăm Tầm Hiệp, phá Thạch Môn, bắt được
thuyền chở lương của nước [Nam] Việt. Nhân thế, tiến quân đánh tràn,
làm nhụt được uy lực sắc bén của đất Việt, rồi dùng mấy vạn người
Việt, chờ Bác Đức. Bác Đức v́ đường xa, nên sau kỳ hạn mới đến. Khi
gặp Dương Bộc, có hơn một ngh́n người, rồi hai bên đều tiến. Quân
Dương Bộc tiến thẳng đến thành Phiên Ngung. Vua Kiến Đức và thái phó
Lữ Gia đóng giữ ở trong thành. Dương Bộc tự chọn lấy chỗ tiện lợi
đóng ở mặt Đông Nam; Bác Đức đóng ở mặt Tây Bắc. Giời sẩm tối, Dương
Bộc đánh bại quân địch, phóng lửa đốt thành. Trong thành vẫn nghe
đồn uy danh Bác Đức, lại nhân trời tối, không biết Bác Đức có bao
nhiêu quân. Bác Đức đóng doanh trại, rồi sai sứ chiêu dụ những người
ra đầu hàng và đều cho họ ấn có thao. Sau lại cho về để họ chiêu dụ
lẫn nhau. Một mặt Dương Bộc lại cứ cố sức đánh, đến tang tảng sáng,
người trong thành đều ra hàng cả. Kiến Đức và Lữ Gia, nhân đêm tối,
cùng với mấy trăm người trốn ra, đi về mạn biển. Bác Đức ḍ hỏi
những người đă đầu hàng, biết được chỗ Lữ Gia ở, sai người đuổi theo.
Quan hiệu tư mă Tô Hoằng bắt được vua Kiến Đức, chức lang nước [Nam]
Việt, Đô Kê, bắt được Lữ Gia. Thương Ngô vương Triệu Quang, người
cùng họ với vua [Nam] Việt, nghe tin quân Hán đến, ra đầu hàng. Quan
giám quận Quế Lâm của Nam Việt là Cư Ông khuyên dụ Âu Việt và Lạc
Việt đều đầu hàng cả. Lúc bấy giờ quân của hai tướng Hạ Lại và Qua
Thuền, với quân Dạ Lang do Tŕ Nghĩa hầu chỉ huy, chưa đến nơi, nước
Việt đă bị Bác Đức và Dương Bộc dẹp yên rồi. Khi ấy hai quan sứ
trong nước [Nam] Việt đem trâu một trăm con, rượu một ngh́n chung và
thân mang sổ hộ hai quận Cửu Chân, Giao Chỉ đến đón hàng. Bác Đức
phong cho hai quan sứ ấy làm thái phú quận Giao Chỉ và quận Cửu Chân,
vẫn được cai trị dân như trước. Từ đây Nam Việt thuộc Hán.
Lời cẩn án - Trước kia,
nhà Triệu khi diệt được nhà Thục, sai hai quan sứ trông coi hai quận
Giao Chỉ và Cửu Chân, thế mà, về đoạn này, Sử cũ lại chép là "ba
quan sứ đem sổ hộ tịch ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam ra
hàng", th́ thực trái ngược nhau. Nay tra sách Thủy kinh chú của Lịch
Đạo Nguyên có chép: "Năm Nguyên Đỉnh thứ 6 (111 tr.c.ng.), Vũ đế nhà
Hán đặt lỵ sở chức đô úy. Sách Giao Chỉ thành kư chép rằng:
Vua Triệu [Đà] sai hai
quan sứ trông coi dân hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân. Về sau, nhà Hán
sai Lộ Bác Đức sang đánh vua [Nam] Việt, quân Lộ Bác Đức đến quận
Hợp Phố, vua Việt sai hai quan sứ đem trâu một trăm con, rượu một
ngh́n chung và sổ hộ tịch hai quận ra hàng. Lộ Bác Đức phong cho hai
quan sứ làm thái thú Giao Chỉ và Cửu Chân, làm chủ các quan Lạc
tướng là những người cai trị nhân dân như trước". Nay cải chính mấy
điều sai ấy của Sử cũ.
Lời chua - Tầm Hiệp: Tên
đất. Sách Sử kư chép là "Hiệp". Đất này ở phía Tây huyện Thủy Hưng (thuộc
tỉnh Quảng Đông).
Thạch Môn: Cách huyện
Phiên Ngung 20 dặm về phía Bắc. Xưa kia, Lữ Gia xếp đá ở sông để
chống nhà Hán, v́ thế gọi là Thạch môn.
Đóng doanh trại (Vi doanh):
Theo Nhan Sư Cổ, nghĩa là đóng doanh trại để chờ đón người đến đầu
hàng.
Hiệu Tư Mă: Theo Nhan Sư
Cổ, chức Tư Mă trong một hiệu quân, cũng như chức Tổng Quản Tư Mă
của một tướng quân đời Đường.
Lang Đô Kê: Theo Mạnh
Khang, lang: tên chức quan, do nước Nam Việt tự đặt ra. Theo Bách
Việt tiên hiền chỉ, Đô Kê là họ và tên người.
Giám Cư Ông: Quan giám
quận Quế Lâm; Cư Ông: họ và tên người.
Nhà Hán diệt nhà Triệu
rồi, chia đất đặt làm chín quận, liệt làm bộ Giao Chỉ.
Nhà Hán đă b́nh được nhà
Triệu, mới lấy đất đặt làm chín quận: Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm,
Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Châu Nhai, Đam Nhĩ. Mỗi quận
đặt một thái thú để cai trị.
Tên gọi "Giao Chỉ bộ" có
từ đấy.
Lời phê - Xét chung từ
trước đến sau, đất đai của nước Việt ta bị mất về Trung
Quốc đă đến quá một nửa,
tiếc rằng vua sáng tôi hiền các triều đại cũng nhiều người lỗi lạc
hiếm có ở trên đời, mà vẫn không thể nào lấy lại được một tấc, đó là
việc đáng ân hận lắm! Thế mới biết việc thu hồi đất đai đă mất, từ
đời trước đă là việc khó, chứ không những ngày nay mà thôi. Thật
đáng thương tiếc.
Lời bàn của Ngô Th́ Sĩ -
Từ khi Vũ đế nhà Hán diệt nhà Triệu, lấy đất của nhà Triệu, đặt ra
chín quận: Châu Nhai, Đam Nhĩ ở trong biển. Hai quận ấy hợp với các
quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm và
Hợp Phố đều liệt làm bộ Giao Chỉ. (Theo Quận quốc chí trong Hậu Hán
thư, kể từ Giao Chỉ trở xuống, 7 quận gồm 55 huyện đều thuộc bộ Giao
Chỉ). Sau đó chưa từng chia sẻ, măi đến nhà Ngô mới chia Giao Châu,
đặt thêm Quảng Châu. Nhà Đường mới đặt An Nam đô hộ, lỵ sở ở quận
Giao Chỉ, do đó ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam mới riêng hẳn
là An Nam. Về đời Hán, chín quận này đều thuộc về Nam Việt, Triệu Đà
chuyên giữ quyền hành trong các đất này; duy có ba quận Giao Chỉ,
Cửu Chân, Nhật Nam (theo các sử sách đă tŕnh bày, chỉ có hai quận
Giao Chỉ, Cửu Chân thôi, c̣n Nhật Nam măi đến đời Hán mới tách ra.
Đây chép làm 3 quận là lầm) th́ dùng ba (đáng phải nói là hai) quan
điển sứ quản lĩnh cai trị. Khi nhà Triệu bị nhà Hán diệt, ba (nên
nói là hai) quan điển sứ đem sổ đinh ra đầu hàng. Nhân thế, nhà Hán
đặt ra các chức thú và úy gọi cả đất Nam Việt là Giao Chỉ. Có lẽ
trong chín quận ấy ba quận thuộc Giao Châu, c̣n sáu quận thuộc Quảng
Châu.
Lời chua - Chín quận:
Theo Địa lư chí trong Tiền Hán thư, chín quận ấy như sau:
Quận Nam Hải thống trị 6
huyện: Phiên Ngung, Bác La, Trung Túc, Long Xuyên, Tứ Hội, Yết
Dương.
Quận Thương Ngô thống trị
10 huyện: Quảng Tín, Tạ Mộc, Cao Yếu, Phong Dương, Lâm Hạ, Đoan Khê,
Phùng Thặng, Phú Xuyên, Lệ Phố, Mănh Lăng.
Quận Uất Lâm thống trị 12
huyện: Bồ Sơn, An Quảng, A Lâm, Quảng Uất, Trung Lưu, Quế Lâm, Đàm
Trung, Lâm Trần, Định Chu, Tăng Thực, Lĩnh Phương, Ung Kê.
Quận Hợp Phố thống trị 5
huyện: Từ Văn, Cao Lương, Hợp Phố, Lâm Doăn, Chu Lư.
Quận Giao Chỉ thống trị
10 huyện: Liên Thụ1, An Định, Cẩu Lậu, Mi Linh, Khúc Dương, Bắc Đái,
Kê Từ, Tây Vu, Long Biên, Chu Diên.
Quận Cửu Chân thống trị 7
huyện: Tư Phố, Cư Phong, Đô Bàng, Dư Phát, Hàm Hoan, Vô Thiết, Vô
Biên.
Quận Nhật Nam thống trị 5
huyện: Chu Ngô, Tị Ảnh, Lư Dung, Tây Quyển, Tượng Lâm.
Nam Hải: Quận cũ của Tần.
Xem thêm An Dương vương, năm thứ 44 (Tb.I, 11).
Thương Ngô: Đời Tần,
thuộc đất quận Quế Lâm, nay là Ngô Châu.
Uất Lâm: Đời Tần, thuộc
đất quận Quế Lâm nay thuộc đất Quảng Tây.
Hợp Phố: Đời Tần, thuộc
đất Tượng quận, nay là đất Liêm Châu.
Giao Chỉ, Cửu Chân: Đều
xem Triệu Vũ vương năm thứ 10 (Tb.I, 12).
Nhật Nam: Xưa kia là bộ
Việt Thường. Đời Tần, là đất Tượng quận. Đời Triệu, thuộc quận Cửu
Chân. Đầu đời Hán, tách ra đặt làm Nhật Nam. Các đời Ngô, Tấn, Tống
vẫn để nguyên thế. Sau đó bị Lâm Ấp chiếm mất. Đời Tùy b́nh Lâm Ấp,
lấy đất ấy đặt làm Đăng Châu, rồi đổi làm quận Tị Ảnh. Sau nữa mất
vào đất Chiêm Thành, bây giờ là đất Quảng B́nh và Quảng Trị. Theo
Nhan Sư Cổ, Nhật Nam nghĩa là ở về phía Nam mặt trời, tức gọi là mở
cửa về phương Bắc để hướng về chiều mặt trời. Như Thuần nói: Đương
lúc giữa trưa, mặt trời tṛn bóng, đúng giữa đầu ḿnh, nên gọi là Tỵ
Ảnh.
Châu Nhai: Ở trong biển
lớn, gần bên bờ biển. Đời Đường đổi Châu Nhai làm Nhai Châu; bây giờ
là đất Nhai Châu thuộc phủ Quỳnh Châu nhà Thanh.
Đam Nhĩ: Cũng là một băi
nổi ở trong biển lớn. Đời Đường đổi gọi Đam Châu; nay là đất Đam
Châu thuộc phủ Quỳnh Châu nhà Thanh.
Nhà Triệu đến đây mất. Kể
từ Triệu Vũ vương năm Giáp Ngọ lên làm vua, đến Thuật Dương vương
năm Canh Ngọ mất nước, tất cả được chín mươi bảy năm (207 đến 111
tr.c.ng.).
Năm Tân Mùi (110
tr.c.ng.)
(Hán, năm
Nguyên Phong thứ 1).
Triều Hán
dùng Thạch Đái làm thứ sử bộ Giao Chỉ.
Theo chế
độ nhà Hán, viên quan giữ chức ở châu có quyền thống lĩnh cả các
quận thuộc châu ḿnh. Chín quận của Giao Chỉ, trừ hai quận Châu Nhai
và Đam Nhĩ ở trong biển không kể, c̣n 7 quận thuộc Giao Chỉ, do
Thạch Đái làm thứ sử trong cả bộ. Về thời Tây Hán, trị sở của thứ sử
ở Long Uyên; thời Đông Hán, trị sở ở Mi Linh.
Lời cẩn
án - Chế độ nhà Hán, ở châu th́ đặt thứ sử, ở quận th́ đặt thái thú.
Sử cũ chép: "Thạch Đái làm thái thú chín quận". Có lẽ nào một người
mà làm việc cai trị cả chín quận? Nay theo bản sử của Ngô [Th́] Sĩ,
cải chính lại. Lại c̣n việc: khi nhà Hán đặt bộ Giao Chỉ, lỵ sở ở
Liên Thụ, năm Nguyên Phong thứ 5 (106 tr.c.ng.) dời trị sở sang
huyện Quảng Tín ở quận Thương Ngô. Đến năm Kiến An thứ 15 (210),
đóng lỵ sở ở huyện Phiên Ngung. Nhà Ngô lại dời lỵ sở sang Long Biên,
c̣n ở lỵ sở cũ (chỉ Phiên Ngung) đặt làm Quảng Châu. Như thế th́ về
đời Tây Hán chưa hề đóng lỵ sở ở Long Uyên; đời Đông Hán chưa hề
đóng lỵ sở ở Mi Linh. Việc này e rằng Sử cũ chép lầm, nhưng cũng hăy
ghi lại để tra xét.
Lời chua
- Liên Thụ: Tên huyện, thuộc quận Giao Chỉ; nay ở xă Lũng Khê, huyện
Siêu Loại, Bắc Ninh, c̣n có vết cũ thành xưa.
Long Uyên:
Tức là Long Biên, tên hiệu về đời Hán, thuộc quận Giao Chỉ, trị sở
của quận về thời Đông Hán. Theo sách Thủy kinh chú, nhà Hán, năm
Kiến An thứ 13 (208), khi mới đắp thành, có giống giao long lượn đi
lượn lại ở hai bên bờ sông; nhân thế đổi gọi là Long Uyên. Nhà Lư
đóng kinh đô ở đấy, đổi tên là Thăng Long; nhà Trần, nhà Lê cũng
đóng kinh đô ở đấy cả. Bây giờ là tỉnh thành Hà Nội.
Mi Linh:
Sử cũ chua là An Lăng thuộc Sơn Tây. Sách Dư địa chí của Nguyễn Trăi
chép rằng: Mi Linh tức là huyện Phúc Thọ (xưa là Phúc Lộc). Trong
sách Vân đài loại ngữ, Lê Quư Đôn chép: Mi Linh tức là đất Phong
Châu. Lại nói: Mi Linh tức là An Lăng. Theo Địa lư chí trong Đường
thư, Mi Linh ở địa phận hai huyện Phúc Lộc và Đường Lâm. Sách Văn
hiến thông khảo chua rằng: "Các đất Gia Ninh, Thừa Hóa và Tân Xương
đều là đất huyện Mi Linh đời Hán. Lại c̣n Đường thư chép: Phong Châu
thống trị năm huyện: Gia Ninh, Thừa Hóa, Tân Xương, Cao Thượng, Châu
Lục. Vậy th́ Mi Linh tức là Phong Châu mới phải.
Huyện
Quảng Tín - Theo sách Phương dư kỷ yếu, Quảng Tín thuộc quận Thương
Ngô; nay đổi làm huyện Thương Ngô thuộc phủ Ngô Châu.
Năm Kỷ
Sửu (29 s.c.ng.) (Hán, Quang Vũ, năm Kiến Vũ thứ 5).
Quan mục
Giao Chỉ là Đặng Nhượng sai sứ sang cống hiến triều Hán.
Cuối đời
Vương Măng, quan mục Giao Chỉ, Đặng Nhượng, cũng như các quận khác,
đóng biên giới, giữ lấy đất quận của ḿnh. Tướng nhà Hán, là Sầm
Bành, vốn quan thân Đặng Nhượng, gửi thư cho Đặng Nhượng kể rơ uy
đức nhà Hán, bấy giờ Đặng Nhượng mới bảo thái thú Giao Chỉ là Tích
Quang và các thái thú các quận khác như là bọn Đỗ Mục, v.v... sai sứ
sang cống hiến nhà Hán. Vua Hán phong cả cho mọi người ấy tước hầu.
Lời chua
- Giao Chỉ: Xem Triệu Vũ vương năm thứ 10 (Tb.I, 20).
Nhà Hán
dùng Nhâm Diên làm thái thú quận Cửu Chân.
Theo Hậu
Hán thư, hồi đầu năm Kiến Vũ (25-39 s.c.ng.), Nhâm Diên được triệu
ra làm thái thú quận Cửu Chân. Tục Cửu - dân làm nghề săn bắn, không
biết dùng trâu cày ruộng, nên nhân dân phải đong ăn ở quận Giao Chỉ,
thường bị khốn khổ thiếu thốn. Nhâm Diên mới sai rèn đúc đồ làm
ruộng, dạy dân khai khẩn đất hoang, ruộng nương mỗi ngày mỗi mở rộng,
nhân dân đều được no đủ.
Lại nữa,
dân Lạc Việt bấy giờ không có lễ pháp ǵ về việc lấy vợ gả chồng.
Nhâm Diên mới gửi thư đi các thuộc huyện, những người con trai từ 20
đến 50 tuổi, con gái từ 15 đến 40 tuổi, cứ theo từng hạng tuổi, phải
đôi lứa th́ lấy nhau; người nào nghèo không lo được lễ cưới th́ được
trợ cấp. Khoản trợ cấp ấy do các viên chức từ trưởng lại trở xuống
bớt một phần lương bổng để giúp cho. Ngay lúc bấy giờ có tới hơn hai
ngh́n người lấy nhau. Năm ấy mưa ḥa gió thuận, thóc lúa phong đăng.
Từ đấy, những người sinh ra con cái bấy giờ mới biết con cái là ḍng
dơi nhà nào. Họ đều nói rằng: "Ta được có đứa con này là nhờ có ông
Nhâm". Nhiều người lấy chữ "Nhâm" đặt tên cho con.
Nhâm Diên
làm quan được bốn năm, được vua Hán gọi về. Người quận Cửu Chân lập
sinh từ thờ sống Nhâm Diên.
Trước kia,
về đời Hán B́nh đế (1-5 s.c.ng.), Tích Quang, người đất Hán Trung
làm thái thú Giao Chỉ, đem lễ nghĩa dạy dân. Hồi đầu niên hiệu Kiến
Vũ, Tích Quang được phong Diêm thủy hầu. Phong tục hoa hạ lan trên
đất Lĩnh Nam là bắt đầu từ đời hai thái thú này.
Lời chua
- Nhâm Diên: Người huyện Uyển, thuộc Nam Dương.
Lời phê -
Triệu Đà vốn là người Trung Quốc, làm vua trên nước Nam Việt và
truyền nối đă ngót trăm năm. Xem bức thư trả lời Văn đế nhà Hán th́
Triệu Đà vốn là người có học thức; có lẽ nào lại chưa biết dạy dân
phép cấy cày và lễ giá thú mà phải đợi bắt đầu từ hai thái thú ấy?
Huống chi, lại bảo đồng thời có tới hơn hai ngh́n người lấy nhau.
Xem thế đủ thấy rơ rằng ghi chép thất thực, không đủ tin.
Năm Giáp
Ngọ (34 s.c.ng.). (Hán, năm Kiến Vũ thứ 10). Triều Hán dùng Tô Định
làm thái thú Giao Chỉ.
Năm Canh
Tí (40 s.c.ng.). (Hán, năm Kiến Vũ thứ 16).
Tháng 2,
mùa xuân. Người con gái quận Giao Chỉ là Trưng Trắc khởi binh đánh
đuổi thái thú Tô Định; tự lập làm vua.
Vương vốn
họ Lạc, lại có một tên họ nữa là Trưng. Là con gái quan lạc tướng
huyện Mi Linh, quận Giao Chỉ, và là vợ Thi Sách1 người huyện Chu
Diên, bà là người rất hùng dũng. Lúc bấy giờ thái thú Tô Định cai
trị tham lam và tàn bạo, giết mất chồng bà. Bà bèn cùng với em gái
là Trưng Nhị dấy quân, đánh hăm chỗ châu lỵ. Tô Định phải chạy về
Nam Hải. Quân Bà đi đến đâu, như gió lướt đến đấy. Các dân tộc man,
lư ở Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng theo. Lấy lại và dẹp
yên được 65 thành ở đất Lĩnh Nam. Bà tự lập làm vua, đóng đô ở Mi
Linh. Các thứ sử, thái thú ở quận Giao Chỉ đều chỉ bảo toàn được
ḿnh thôi.
Lời chua
- Huyện Chu Diên: Đặt từ đời Hán, thuộc quận Giao Chỉ; nhà Đường đổi
làm Diên Châu; nhà Lê đổi làm phủ Tam Đái. Bây giờ là đất phủ Vĩnh
Tường tỉnh Sơn Tây.
Năm Tân
Sửu (41 s.c.ng.). (Hán, năm Kiến Vũ thứ 17).
Tháng 12,
mùa đông. Nhà Hán phong Mă Viện làm Phục Ba tướng quân, Lưu Long làm
Phó tướng, đốc xuất bọn Lâu Thuyền Tướng quân là Đoàn Chí, sang đánh
Trưng Vương.
Nhà Hán
cho rằng Trưng thị tự xưng làm vua, đem quân đánh các thành ấp, làm
cho các nơi biên giới bị khổ sở, bèn bắt các đất Trường Sa, Hợp Phố
và Giao Chỉ sắm sửa đủ xe, thuyền, sửa sang cầu đường, khơi thông
các khe suối, chứa sẵn lương thóc; phong Mă Viện làm Phục ba Tướng
quân, Phù Lạc hầu Lưu Long làm Phó tướng, đốc xuất bọn Lâu thuyền
Tướng quân là Đoàn Chí sang đánh Trưng Vương.
Năm Nhâm
Dần (42 s.c.ng.). (Hán, năm Kiến Vũ thứ 18).
Nhà Hán
bắt đầu đặt ra quan tướng binh trưởng sử ở Tượng Lâm.
Theo Hậu
Hán thư, trước kia, huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam đem hơn ba
ngh́n người cướp bóc nhân dân, đốt cả các dinh thự công; các quận
huyện đem quân ra đánh, chém được người đứng đầu, c̣n dư đảng ra
hàng cả. Bấy giờ mới đặt ra quan tướng binh trưởng sử ở Tượng Lâm,
để đề pḥng mối lo biến loạn.
Lời chua
- Tượng Lâm: Tên huyện, nguyên thuộc quận Nhật Nam; cuối đời Hán, là
đất nước Lâm Ấp.
Tướng
binh Trưởng sử: Tên chức quan đóng ở quận Nhật Nam (theo sách Thập
tam châu chí của Hám Nhân).
Năm Giáp
Dần (114). (Hán, An đế, năm Nguyên Sơ thứ 1).
Tháng 2,
mùa xuân. Quận Nhật Nam đất nứt xé ra.
Sách
Cương mục (Trung Quốc) chép rằng: Ở quận Nhật Nam đất nứt xé ra dài
hơn trăm dặm.
Năm Bính
Tí (136). (Hán, Thuận đế, năm Vĩnh Ḥa thứ 1).
Nhà Hán
dùng Chu Xưởng làm thứ sử Giao Chỉ.
Trước kia,
thái thú Chu Xưởng cho rằng quận Giao Chỉ ở ngoài phạm vi chín châu,
và ở xa măi về ngoài Bách Việt, nên dâng biểu xin đặt chức phương bá;
đến bấy giờ vua Hán mới dùng Chu Xưởng làm thứ sử quận Giao Chỉ,
trông coi cả công việc các quận huyện.
Lời cẩn
án - Thiên Bách quan chí trong Hậu Hán thư chép rằng: 12 châu ở
ngoài (ngoài chín châu, Trung Quốc), mỗi châu đặt một thứ sử, phẩm
trật lương bổng là sáu trăm thạch. Bởi v́ bắt đầu từ Vũ đế đặt ra 13
thứ sử, dùng 6 điều trong chiếu thư để xét công việc thứ sử các châu,
vạch ra việc làm trái phép. Thứ sử tức cũng như giám quận ngự sử đời
Tần vậy. Đến đời Thành đế, năm Tuy Ḥa thứ nhất (8 tr.c.ng.), triều
đ́nh cho rằng chức thứ sử ở dưới hàng đại phu mà lại trông coi việc
các quan ăn lương tới hai ngh́n thạch, th́ không hợp với chức vị
khinh, trọng; v́ thế mới thay đổi đặt ra chức châu mục. Chức này vào
bậc lương hai ngh́n thạch, địa vị liền dưới hàng cửu khanh. Đời Ai
đế, năm Kiến B́nh thứ 2 (5 tr.c.ng.) bỏ chức châu mục, lại đặt thứ
sử.
Năm
Nguyên Thọ thứ 2 (I tr.c.ng.), lại đặt châu mục. Đời Quang Vũ năm
Kiến vũ thứ 18 (42 s.c.ng.), lại đặt mười hai thứ sử, mỗi thứ sử
đứng đầu coi giữ một châu. Một châu trong đó thuộc về quan (binh là)
tư lệ hiệu úy. Đến đời Linh đế, khoảng năm Trung B́nh (184-189), bốn
phương đều có giặc nổi lên, là v́ uy quyền của thứ sử quá nhẹ. V́
vậy, lại đổi đặt làm chức mục bá, chọn các quan thượng thư vào hàng
khanh bổ đi làm châu mục. Không bao lâu, Hiến đế lại bỏ Giao Châu để
thuộc về Kinh Châu, nhưng châu mục là Lưu Biểu lại tự đặt ra chức
thứ sử. Việc vừa có châu mục vừa có thứ sử là bắt đầu từ đấy. Như
thế th́ các chức quan cai trị đặt ra (ở Giao Châu) có khi gọi là thứ
sử, có khi gọi là châu mục, dẫu trước sau hoặc theo cũ hoặc thay đổi,
tên gọi khác nhau, nhưng cũng vẫn là một chức quan đứng đầu coi các
hàng quận huyện.
Đến như
cái tên gọi là Giao Châu, xét theo sách Cương mục (Trung Quốc) th́
từ
năm Kiến
An thứ 8 (203) trở về sau, mới gọi là Giao Châu, c̣n trước đấy chỉ
gọi là quan mục Giao Chỉ, quan thứ sử Giao Chỉ. Khảo thêm sách Tấn
Chí, thấy chép: khoảng đời Hán Thuận đế (126-144), thái thú Giao Chỉ
là Chu Xưởng xin lập đất Giao Chỉ làm một châu; triều đ́nh bàn định
không nghe, lại phong Chu Xưởng làm thứ sử Giao Chỉ. Đến đời Hiến đế,
năm Kiến An thứ 8 (203), thứ sử Trương Tân và thái thú Sĩ Nhiếp cùng
nhau dâng biểu xin lập làm châu. Lúc đó triều đ́nh Hán mới đặt Giao
Chỉ làm Giao Châu, phong Trương Tân làm quan mục Giao Châu. Tên gọi
là Giao Châu thực bắt đầu từ đấy.
Thế mà Sử
cũ, vào năm Kiến Vũ thứ 5 (29), đă chép rằng quan mục Giao Châu là
Đặng Nhượng sai sứ sang cống hiến nhà Hán; vào năm Vĩnh Ḥa thứ 2
(137), đă chép rằng Trương Kiều làm thứ sử Giao Châu. Chép như thế,
là chưa chịu tra xét kỹ. Nay xin cải chính lại.
Lời chua
- Sáu điều:
Điều thứ
nhất: Những nhà cường hào chiếm ruộng vườn trái phép, cậy mạnh đè
nén người yếu, lấy nhiều người bắt nạt ít người.
Điều thứ
hai: các quan bậc lương hai ngh́n thạch không vâng theo chiếu thư mà
tuân giữ phép tắc, trái phép công, thoả ư riêng ḿnh, vơ vét của dân
làm sự gian phi.
Điều thứ
ba: Các quan bậc lương hai ngh́n thạch không lo nghĩ xét các án nghi
ngờ, chỉ nghe tin phao đă buộc người ta vào tội chết, ghét ai th́
phạt, yêu ai th́ thưởng, phiền nhiễu tàn bạo, giết hại dân đen, làm
cho nhân dân oán ghét. Nhân dịp núi lở đá nứt, phao đồn các tin
saingoa.
Điều thứ
tư: Các quan bậc lương hai ngh́n thạch tuyển bổ không công bằng, a
dua với người ḿnh yêu, ghét bỏ những người tài giỏi, tin yêu kẻ
gian ngoan.
Điều thứ
năm: Các quan bậc lương hai ngh́n thạch, những con em cậy ḿnh quyền
thế, thỉnh thác quan trên.
Điều thứ
sáu: Các quan bậc lương hai ngh́n thạch làm trái phép công, bè đảng
với người dưới, về hùa với kẻ cường hào, thông nhau ăn tiền lấy của,
hại đến chính lệnh.
Đô giám
quận, huyện: Trương Cửu Thiều nói rằng: "Nhà Hán đặt thứ sử Giao Chỉ
cai trị
An Nam, trông coi cả việc hành chính bảy quận: Nam Hải, Uất Lâm,
Thương Ngô, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố.
Năm Đinh
Sửu (137). (Hán, năm Vĩnh Ḥa thứ 2).
Tháng tư,
mùa hạ. Người Man ở Tượng Lâm quận Nhật Nam, là Khu Liên, làm phản.
Theo sách
Hậu Hán thư, người Man ngoài cơi xa thuộc Tượng Lâm quận Nhật Nam,
là bọn Khu Liên, đem vài ngh́n người đánh huyện Tượng Lâm, đốt thành
quách công sở, giết người trưởng lại. Thứ sử quận Giao Chỉ là Phàn
Diễn đem hơn một vạn quân ở hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân đến đấy
cứu viện. Quân sĩ sợ đi xa, quay lại đánh nơi phủ lỵ. Phàn Diễn dẫu
có đánh phá được bọn quân sĩ làm phản, nhưng thế lực quân Man mỗi
ngày một mạnh.
Năm Mậu
Dần (138). (Hán, năm Vĩnh Ḥa thứ 3).
Tháng tư
nhuận, mùa hạ. Nhà Hán dùng Trương Kiều làm thứ sử Giao Chỉ, Chúc
Lương làm thái thú Cửu Chân, để chiêu hàng những đám giặc người Man.
Đất ở Lĩnh Nam đều yên cả.
Sách Hậu
Hán thư chép rằng: Lúc bấy giờ thị ngự sử1 Giả Xương sang có việc ở
quận Nhật Nam, liền cùng với các châu quận hợp sức lại đánh bọn Khu
Liên. Đánh không được, lại bị bọn Khu Liên đánh lại và bao vây. Hơn
một năm, quân Hán thiếu lương ăn. Vua Hán lấy làm lo, triệu tập các
công khanh, trăm quan và tơ tào bốn phủ, hỏi về phương kế đối phó.
Mọi người đều bàn nên sai tướng đem bốn vạn người các châu Kinh,
Dương, Duyện, Dự đi ứng phó việc này. Trong đó có đại tướng quân
sung chức trung lang là Lư Cố bác đi mà rằng: "Hiện nay châu Kinh,
châu Dương giặc cướp vẫn lẩn quất tụ họp; đất Trường Sa, đất Quế
Dương thường phải đóng góp binh lương. Nếu nay lại làm cho dân Kinh,
Dương bị náo động, th́ tất sinh loạn. C̣n người các châu Duyện, Dự
cũng bị bắt ra lính và nộp quân nhu, đi xa hàng muôn dặm, nay trát
đ̣i, mai giấy bắt, tất gây ra phản loạn. Vả lại, ở phương nam, khí
hậu nắng nóng ẩm thấp, lại thêm có lam chướng, số quân lính đến đấy
có thể chết đến bốn năm phần mười. Lặn lội hàng muôn dặm, quân sĩ
nhọc mệt, kịp lúc đi đến Lĩnh Nam, không c̣n hơi sức đâu chiến đấu
nữa.
Quân đi
mỗi ngày được ba mươi dặm, mà các châu Duyện, Dự cách Nhật Nam hơn
chín ngh́n dặm, như thế phải đi ba tăm ngày mới đến nơi. Tính đến
lương ăn, mỗi người năm thưng, th́ phải dùng đến sáu mươi vạn hộc
gạo; đó là chưa kể lương ăn của tướng lại và lừa ngựa, chỉ tính số
lương của quân sĩ có mang khí giới mà đă tốn đến thế. Nói hẳn ngay
quân đă đến nơi rồi, số tử vong hao tổn tất nhiều, đă không đủ chống
lại với địch, lẽ tất nhiên rồi lại bắt lính gửi thêm. Như thế có
khác ǵ cắt ruột gan mà vá vào chân tay. Quận Cửu Chân cách Nhật Nam
có độ ngh́n dặm, đem quan và dân Cửu Chân đi đánh Nhật Nam c̣n không
kham nổi, huống chi lại làm khổ quân sĩ bốn châu để đi chịu cái nạn
ở nơi muôn dặm hay sao? Trước đây, Trung lang tướng Doăn Tựu sang
đánh quân rợ Khương làm phản ở Ích Châu, nhân dân Ích Châu có lời
ngạn rằng: "Giặc đến c̣n khá, nếu Doăn Tựu đến, th́ nó giết chúng ta!".
Sau đó, Doăn Tựu bị gọi về, đem quân sĩ giao cho thứ sử (Sử cũ chép
"châu phán" là lầm) là Trương Kiều. Trương Kiều dựa vào những tướng
lại sẵn có ấy, chỉ trong khoảng hàng tuần (10 ngày), hàng tháng, dẹp
yên giặc cướp. Đó là một kinh nghiệm về việc sai tướng đi đánh giặc
xa không có ích ǵ, mà có thể dùng ngay quân ở châu quận ấy. Nay nên
chọn lọc những người có dũng lược, nhân huệ, có thể dùng làm tướng
được, để cho làm thứ sử thái thú, rồi sai cùng đi sang Giao Chỉ.
Hiện nay ở quận Nhật Nam, quân ít, lương không có, giữ thế thủ đă
không xong, thế chiến cũng chẳng được; vậy nên đem tất cả lại dân
dời ra mặt bắc nương nhờ vào quận Giao Chỉ. Sau khi yên tĩnh rồi,
lại cho họ trở về nơi cũ. Một mặt khác chiêu dụ người Man di để cho
chúng đánh lẫn nhau; lấy được vàng lụa làm của tiêu dùng; nếu đứa
nào biết phản gián chặt được đầu tướng giặc đem nộp th́ sẽ được
thưởng bằng cách cắt đất và phong cho tước hầu. Thứ sử Tinh châu
ngày trước là Chúc Lương có tính dũng cảm quả quyết; Trương Kiều,
người quận Nam Dương, trước kia, đă ở Ích Châu, có công đánh được
giặc. Cả hai người này đều nên dùng. Vậy nay nên cho ngay bọn Chúc
Lương tiện đường phó nhậm làm quan". Các quan trong bốn phủ đều theo
như lời bàn của Lư Cố. Vua nhà Hán lập tức bổ Chúc Lương làm thái
thú quận Cửu Chân, Trương Kiều làm thứ sử quận Giao Chỉ. Khi Trương
Kiều đến nơi, hếu điều vỗ về dẫn dụ. Quân giặc đều ra hàng và giải
tán cả. Chúc Lương đến Cửu Chân, một ḿnh đi xe vào trong đám quân
giặc, xếp đặt mưu mẹo, lấy uy tín chiêu dụ dân; số người ra hàng có
đến mấy vạn. V́ thế những đất ngoài Ngũ Lĩnh lại được yên.
Lời chua
- Trương Kiều: Người quận Nam Dương. Chúc Lương người đất Lâm Tương
thuộc Trường Sa.
Năm Giáp
Tân (144). (Hán, năm Kiến Khang thứ 1).
Tháng 10,
mùa đông. Người quận Nhật Nam làm phản. Thứ sử quận Giao Chỉ là Hạ
Phương hàng phục được họ.
Sách Hậu
Hán thư chép rằng: Hơn một ngh́n người ở quận Nhật Nam lại nổi dậy,
đánh đốt các huyện ấp, họ cổ động và liên kết với cả người quận Cửu
Chân. Thứ sử Giao Chỉ, Hạ Phương, dùng ân nghĩa chiêu dụ; quân giặc
đều hàng phục. Lúc đó thái hậu họ Lương nắm quyền triều đ́nh, khen
Hạ Phương là người có công, thăng cho làm thái thú Quế Dương; cử Lưu
Tảo sang thay.
Lời chua
- Hạ Phương: Người quận Cửu Giang nhà Hán.
Năm Canh
Tí (160). (Hán, Hoàn đế, năm Duyên Hi thứ 3).
Tháng 11,
mùa đông. Nhà Hán lại dùng Hạ Phương làm thứ sử Giao Chỉ. Dư đảng
đánh giặc ở Nhật Nam đến doanh trại Hạ Phương xin hàng.
Sách Hậu
Hán thư chép rằng: Trước kia, huyện lệnh huyện Cư Phong là người
tham lam, tàn bạo, không biết tế nào là chán. Người trong huyện là
bọn Chu Đạt họp nhau với quân Man đánh giết huyện lệnh. Họ có đến
bốn năm ngh́n quân, tấn công vào quận Cửu Chân. Thái thú Cửu Chân,
Nghê Thức, ra đánh, bị tử trận. Nhà Hán sai đô úy quận Cửu Chân là
Ngụy Lăng đi đánh, phá tan được. Nhưng tướng giặc vẫn c̣n đóng chiếm
Nhật Nam, thế lực ngày càng cường thịnh. Đến đây, triều Hán lại cho
Hạ Phương làm thứ sử. Hạ Phương vốn là người có uy tín, khi đến quận,
có hơn hai vạn quân giặc kéo nhau đến đầu hàng.
Lời chua
- Ngụy Lăng: Người đất Thượng Ngu quận Cối Kê, có tính công bằng,
trung thực và trí sáng suốt, sau thăng làm thượng thư, rồi v́ đ́nh
nghị khép vào vụ bè đảng, phải băi chức về.
Cư Phong: Tức là huyện Cư
Phong. Xem lời chua ở năm Kiến Vũ thứ 19 đời Hán. (Tb.2, 12).
Năm Mậu Ngọ (178). (Hán,
Linh đế, năm Quang Ḥa thứ 1).
Tháng giêng, mùa xuân.
Quận Giao Chỉ, quận Hợp Phố và Mán Ô Hử nổi dậy làm phản. Nhân thế
người Giao Châu là Lương Long khởi lên làm loạn, đánh phá, vây hăm
các thành ấp.
Năm Tân Dậu (181). (Hán,
năm Quang Ḥa thứ 4).
Mùa hạ. Nhà Hán dùng Chu
Tuấn làm thứ sử, đánh tan được bọn giặc nói trên.
Thời bấy giờ, quận Giao
Chỉ, quận Hợp Phố và Mán Ô Hử làm loạn măi, mục thú là Chu Ngung
không chống nổi. Nhân đó bọn Lương Long là người Giao Châu cũng khởi
quân đánh phá các quận huyện. Họ có đến mấy vạn quân. Đến nay, nhà
Hán sai huyện lệnh huyện Lan Lăng là Chu Tuấn sang cứu Chu Ngung,
nhân tiện đường đi qua quận nhà (Cối Kê), Chu Tuấn mộ thêm gia binh,
hợp với quân của ḿnh mang đi tất cả được năm ngh́n người, chia ra
hai đạo kéo vào Giao Châu. Khi đến địa giới Giao Châu, đóng quân lại,
không tiến, trước hết sai người đi ḍ xem hư thực, và tỏ bầy uy đức
để làm nao núng quân địch; rồi hợp cùng quân bảy quận kéo sát đến
đánh, giết được Lương Long; số người ra hàng có tới mấy vạn. Trong
khoảng hàng tuần, hàng tháng, b́nh định xong cả.
Lời chua - Chu Tuấn:
Người quận Cối Kê.
Ô Hử: Theo truyện Tây Mai
di trong sách Hậu Hán thư và theo sách Nam châu dị
vật chí của Vạn Chấn, Ô
Hử, là tên đất, ở về phía nam Quảng Châu, phía bắc Giao Châu, thường
hay đón đường ŕnh những hành khách qua lại, ập ra đánh, cốt bắt lấy
người ăn thịt, không thiết đến của cải; có khi lấy thịt người ướp
làm món ăn. Cho nên lại gọi là Hám nhân quốc (nước ăn thịt người).
Năm Giáp Tí (184). (Hán,
năm Trung B́nh thứ 1).
Tháng 5, mùa hạ. Binh sĩ
quận Giao Chỉ nổi loạn. Nhà Hán dùng Giả Mạnh Kiên (Sử cũ chép là
Giả Tông) làm thứ sử.
Quân đóng ở quận Giao Chỉ
bắt giết thứ sử Chu Ngung, rồi sai người sang triều Hán kể tội trạng
của Chu Ngung. Vua Hán thấy thế, hạ chiếu kén người tài giỏi sang
làm thứ sử. Trong các quan có người tiến cử ngự sử Giả Mạnh Kiên,
vua Hán bổ Mạnh Kiên sang làm thứ sử. Trước kia, ai sang làm thứ sử,
thấy đất Giao Chỉ có nhiều hạt châu, cánh trả, ngà voi, tê giác, đồi
mồi, hương lạ, gỗ quư, đều không giữ được thanh liêm; khi của đầy
túi rồi, lại xin đổi đi nơi khác. Cho nên lại và dân đều hay làm
phản. Kíp khi Mạnh Kiên đến nơi, ḍ hỏi t́nh trạng gây ra phản bội,
th́ mọi người đều nói: "Chính lệnh trước kia bắt đóng thuế khóa rất
hà khắc, nhân dân khốn khó, đường sang kinh đô th́ xa, không biết
kêu đâu được. Nhân dân không sao sống nổi, cho nên họp nhau để kháng
cự lại chính sách ấy, chứ không thực là làm phản". Giả Mạnh Kiên mới
sai người chia đi các nơi phủ dụ để cho dân chúng yên nghiệp làm ăn.
Lại chiêu tập vỗ về những người lưu vong, tha cả thuế khóa. Rồi giết
những quan lại đầu sỏ về tội tham ngược, chọn lấy người quan lại
lương thiện cho đi cai trị các quận huyện. Do đấy nhân dân mới được
yên ổn. Nơi đường sá họ có làm câu hát, đại ư nói: "Người cha chúng
ta là họ Giả đến muộn, khiến ta trước kia làm phản, nay được thanh
b́nh, ai dám c̣n ḷng phản bội?" (Sử Cương mục [của Trung Quốc] chép
câu cuối là "... kẻ nha lại không dám hạch sách cơm rượu của dân nữa").
Giả Mạnh Kiên làm việc được ba năm th́ triều Hán gọi về, phong làm
nghị lang, cho người bản châu (Giao Châu) là Lư Tiến lên thay làm
thứ sử.
Lời phê - Xem đây, ta
thấy rơ triều Hán có nhiều nhân tài, đời sau không thể sánh kịp được.
Thời đó chưa có khoa cử mà được nhiều nhân tài như thế, lại càng
thấy rơ khoa mục chỉ vụ cái danh về việc học, chứ có bổ ích ǵ cho
chính trị lắm đâu?
Lời bàn của Ngô [Th́] Sĩ
- Xét sách Hán thư có chép đến tên Mạnh Thường là người ở Thượng Ngu
quận Cối Kê, cuối đời Hán làm thái thú quận Hợp Phố. Quận này không
sản xuất thóc gạo, mà hải phận th́ sản châu báu. Quận này giáp giới
Giao Chỉ, người trong quận thường sang buôn bán và đong thóc gạo ăn.
Trước kia, bọn thú tể ở đấy nhiều người tham tàn, bắt ép nhân dân
Hợp Phố đi t́m kiếm hạt châu, không có mức độ nào! Hạt châu do đấy
dần dần chuyển sang địa giới Giao Chỉ. Khi Mạnh Thường đến nhậm chức,
sửa bỏ những tệ hại trước; hơn một năm, hạt châu đă đi mấy ấy lại
trở về chốn cũ. Nhân dân đều yên nghiệp làm ăn, gọi Thường là bậc "thần
minh". Than ôi! nếu các thú mục trong mấy quận này, ai cũng được như
Mạnh Thường cả, th́ dân ta việc ǵ phải khổ sở làm phản nữa.
Lời chua - Mạnh Kiên:
Người Liêu thành thuộc Đông quận, đậu Hiếu Liêm, rồi thăng làm Kinh
Triệu Doăn, có thành tích chính trị; đến đây, các quan cử sang làm
thứ sử quận Giao Chỉ.
Năm Đinh Măo (187). (Hán,
năm Trung B́nh thứ 4).
Triều Hán dùng Lư Tiến
làm thứ sử Giao Chỉ.
Sử cũ chép: Lư Tiến dâng
thư nói với vua Hán: "Khắp cả thiên hạ, đâu chẳng là bầy tôi của nhà
vua, thế mà bây giờ làm quan ở trong triều đều là người Trung Châu1,
chưa thấy nhà vua khen thưởng, khuyến khích những người phương xa".
Lời lẽ thiết tha cảm động, có viện dẫn nhiều lư do. Vua Hán hạ chiếu
cho người Giao Châu ta ai đỗ Hiếu Liêm hay Mậu Tài được bổ làm chức
trưởng lại thuộc Giao Châu, chứ không được làm quan ở Trung Châu. Lư
Tiến lại dâng sớ "xin cho những người đă đỗ Hiếu Liêm được như các
bác sĩ 12 châu: chỉ căn cứ vào nhân tài để nhận xét"2. Nhưng các
quan trong triều sợ rằng người phương xa hay nói suông, chê bai bắt
bẻ triều đ́nh Trung Quốc, nên không ưng cho. Khi bấy giờ, người Giao
Châu ta có Lư Cầm làm túc vệ ở điện đài, mới rủ người đồng hương là
bọn Bốc Long năm sáu người, giữa mồng một Tết là ngày các nơi đến
triều hội, bọn Lư Cầm phục ở sân điện kêu rằng: "Ơn vua thấm ra chưa
khắp". Các quan trong triều hỏi cớ sao. Lư Cầm đáp: "Nước Nam Việt ở
lánh về một phương xa, không được trời che đất chở, nên không được
hưởng gió mát mưa lành!". Lời lẽ rất là đau khổ, thiết tha. Vua Hán
hạ chiếu yên ủi rồi cho nước ta một người đỗ Mậu Tài làm quan lệnh
huyện Hạ Dương, một người đỗ Hiếu Liêm làm quan lệnh huyện Lục Hợp.
Về sau, Lư Cầm làm đến chức Tư Lệ hiệu úy; Trương Vọng làm đến thái
thú Kim Thành. Như thế th́ nhân tài nước Việt ta được cùng thăng
tiến như người bên Hán là do từ Lư Tiến, Lư Cầm mở đường lối trước.
Lời cẩn án - Theo sách
Lĩnh Nam di thư, Trương Trọng người quận Hợp Phố, chăm học, nói giỏi,
là một người có danh vọng ở đất Lĩnh Biểu, được thứ sử kén chọn cất
lên làm việc cối kế ở quận Nhật Nam, đem dâng sổ sách vào Lạc Kinh.
Vua Minh đế (8- 75) thấy vóc người nhỏ bé, lấy làm kỳ dị, hỏi rằng:
"Tiểu lại quận nào?". Trương Vọng, với giọng thẳng thắn cứng cáp,
thưa rằng: "Tôi là kẻ lại giữ chức cối kế ở quận Nhật Nam, không
phải là tiểu lại. Nhà vua muốn được có nhân tài, hay chỉ cân xương
đọ thịt thôi?". Vua Hán khen câu trả lời của Trương Trọng là phải.
Buổi đại hội ngày mồng một Tết, vua Hán hỏi: "Có phải rằng ở quận
Nhật Nam người ta hướng về phía bắc để chầu mặt trời không?". Trương
Trọng thưa: "Tên các quận có quận Vân Trung là trong mây, có quận
Kim Thành là thành vàng, vị tất phải có sự thức. Như thế ở quận Nhật
Nam mặt trời cũng mọc ở phương đông; c̣n như khí hậu ấm áp, mặt trời
đi ngang đỉnh đầu vẫn đứng bóng. Nhà ở của quan dân tùy theo ư muốn
đông tây nam bắc muốn hướng chiều nào th́ hướng, không có nhất định,
v́ thế gọi là lĩnh vực mặt trời ở về Nam". Vua Hán thấy Trương Trọng
nói thế, lại càng thêm trọng, ban thưởng vàng lụa. Nếu ta xét kỹ lời
chép trong Lĩnh Nam di thư, và xét về đời Hoàn đế (147-167), người
đất Lệ Phố là Từ Trưng lúc thường vẫn hay so sánh với Trương Trọng,
th́ biết Trương Trọng là người về đời Minh đế nhà Hán, quyết không
c̣n nghi ngờ ǵ nữa. C̣n như việc Lư Tiến sang làm thứ sử th́ lại ở
về sau Trương Trọng, cách nhau đến hơn mấy chục năm. Về đoạn này, Sử
cũ lại chép "về sau, Lư Cầm làm đến chức Tư Lệ hiệu úy, Trương Trọng
làm Thái thú Kim Thành, là do từ Lư Tiến đă mở đường lối trước". Như
thế là v́ Sử cũ nhận Minh đế nhà Hán lẫn với Minh đế nhà Tấn
(323-325), nên đoạn này mới chép lầm; nay xét kỹ, cải chính lại.
Lời chua - Lư Tiến: Theo
sách Bách Việt tiên hiền chí, Tiến, người đất Cao Hưng, quận Giao
Chỉ, là người thông minh, hiểu khắp Kinh Truyện, được bổ làm chức
công tào ở quận, sau thăng dần đến chức kỵ đô úy. Năm Vĩnh Ḥa thứ 2
(137 s.c.ng.), quân Man ở Kinh Châu làm phản, Lư Tiến được sai làm
thái thú quận Linh Lăng, đánh tan được giặc ấy. Khoảng năm Trung
B́nh (184-189), Lư Tiến được thay Giả Mạnh Kiên làm thứ sử quận Giao
Chỉ, tâu xin theo đúng lệ cống sĩ bên Trung Châu. Về sau, có Nguyễn
Cầm do đỗ mậu tài làm đến chức tư lệ hiệu úy. Nhân tài quận Giao Chỉ
được tuyển bổ cùng với người Trung Châu thực là bắt đầu từ Lư Tiến.
Lư Cầm: Sách Bách Việt
tiên hiền chí chép là Nguyễn Cầm, người Giao Châu. Sách An Nam chí
nguyên của Cao Hùng Trưng chép Lư Cầm, Trương Trọng đều là người do
khoa mục xuất thân.
Nhà Hán dùng Sĩ Nhiếp làm
thái thú quận Giao Chỉ.
Truyện Sĩ Nhiếp trong
sách Ngô chí chép rằng: Nhiếp tên tự là Nghiện Uy, người đất Quảng
Tín quận Thương Ngô. Tiên tổ Sĩ Nhiếp gốc người đất Vấn Dương nước
Lỗ, đến hồi loạn Vương Măng, lánh nạn sang ở Giao Châu. Sau đó sáu
đời đến cha Sĩ Nhiếp, tên là Tứ, làm thái thú quận Nhật Nam ở thời
Hán Hoàn đế. Sĩ Nhiếp, lúc c̣n nhỏ, du học ở kinh sư, tôn thờ Lưu Tử
Kỳ, người đất Dĩnh Xuyên, làm thày, chuyên học sách Tả thị Xuân thu,
đỗ Hiếu Liêm, được bổ làm thượng thư lang, v́ việc công, phải băi
chức. Khi măn tang cha là Tứ rồi, lại đậu Mậu tài, được bổ làm huyện
lệnh huyện Vu Dương, rồi thăng làm thái thú quận Giao Chỉ.
Xét ra, Sĩ Nhiếp chỉ là
một thái thú nhà Hán, chưa hề xưng vương. Sử cũ chép riêng làm một
kỷ, đem so với nghĩa lệ chép Cương mục của Chu Tử th́ không hợp, nay
tước bỏ đi.
Năm Tân Tị (201). (Hán,
Hiến đế, năm Kiến An thứ 6).
Nhà Hán dùng Trương Tân
làm thứ sử quận Giao Chỉ.
Trước kia, thứ sử Chu Phù
dùng nhiều người đồng hương chia cho làm trưởng lại, hà hiếp nhân
dân, thuế khóa nặng nề.
Mọi người đều ta oán,
khởi lên làm phản, đem quân đánh phá châu quận. Chu Phù phải chạy về
mạn biển, bị dân giết chết. Vua Hán mới sai Trương Tân sang làm thứ
sử Giao Chỉ.
Năm Quư Mùi (203). (Hán
năm Kiến An thứ 8).
Nhà Hán đặt Giao Chỉ làm
Giao Châu.
Trước kia, về đời Hán
Thuận đế (126-144), Thái thú Giao Chỉ là Chu Xưởng xin lập Giao Chỉ
làm châu, triều đ́nh nhà Hán bàn định không nghe. Đến đây, thứ sử
Trương Tân và thái thú Sĩ Nhiếp cùng nhau dâng biểu xin lập Giao Chỉ
làm châu, nhà Hán mới đặt Giao Chỉ làm Giao Châu; Giao Châu được
ngang hàng với các châu khác ở Trung Quốc, và phong Trương Tân làm
quan mục ở Giao Châu. Bất đầu từ đấy có tên Giao Châu.
Năm Đinh Hợi (207).
(Hán,
năm Kiến An thứ 12).
Nhà Hán
bổ Sĩ Nhiếp làm tuy nam trung lang tướng, quản đốc cả bảy quận, lĩnh
chức thái thú quận Giao Chỉ; kế đó lại cho làm An Viễn tướng quân,
phong tước Long Độ đ́nh hầu.
Theo
truyện Sĩ Nhiếp trong sách Ngô Chí, trước kia, thứ sử Giao Châu Chu
Phù bị giặc Man di giết chết, các quận trong châu đều rối loạn. V́
thế Sĩ Nhiếp dâng biểu xin cho em là Nhất lĩnh chức thái thú quận
Hợp Phố, em thứ hai trước làm huyện lệnh huyện Từ Văn, tên là Vĩ ,
lĩnh chức thái thú quận Cửu Chân, em Vĩ là Vũ lĩnh chức thái thú
quận Nam Hải. Sĩ Nhiếp, tính nết khoan hậu, khiêm tốn, nhă nhặn,
trọng đăi nhân sĩ, nên những nhân sĩ từ Trung Quốc sang, phần nhiều
tới đó nương nhờ. Sĩ Nhiếp ham đọc sách Xuân thu, có làm lời chú
giải. Viên Huy, người nước Trần, (lúc bấy giờ ở ngụ tại Giao Châu),
viết thư cho thượng thư lệnh là Tuấn Úc, có nói: "Ông Sĩ Nhiếp ở
quận Giao Chỉ đă là người học giỏi, biết rộng, lại trội về chính trị.
Đang lúc loạn lạc, bảo toàn được một quận hơn 20 năm, giữ cho bờ cơi
được vô sự, nhân dân được làm ăn yên ổn. Những người lữ khách đều
được đội ơn. Dẫu họ Đậu (Sử cũ chép là Đậu Dung) xưa kia giữ đất Hà
Tây, cũng không hơn được thế. Khi rảnh việc quan một chút, lại chăm
xem sách vở, nhất là Xuân thu Tả thị truyện lại càng suốt hết mọi
nghĩa tinh vi. Tôi thường hỏi những nghi ngờ trong Tả truyện, th́ Sĩ
Nhiếp đều có lời dẫn giải riêng đáng làm khuôn mẫu, ư tứ rất sát.
Lại như sách Thượng thư th́ Sĩ Nhiếp kiêm thông cả đại nghĩa đời xưa
lẫn đời nay. Nghe nói ở kinh sử đang có cuộc tranh luận phải trái về
nghĩa cổ văn kim văn, Sĩ Nhiếp có ư muốn điều trần những nghĩa phải
trong các sách Tả thị và kinh Thượng thư để dâng vua". Ấy, Sĩ Nhiếp
được người ta khen ngợi là thế.
Anh em Sĩ
Nhiếp đều là bậc hùng trưởng ở các quận. Sĩ Nhiếp giữ một châu ở
ngoài muôn dặm, uy tôn, quyền trọng, không c̣n ai hơn: khi đi ra đi
vào đều có chuông, có khánh, rất oai nghi. Thời bấygiờ ai cũng quư
trọng, đám Man di cũng phải sợ phục, dầu Triệu Úy Đà khi xưa cũng
không hơn thế.
Sau khi
Chu Phù chết, nhà Hán sai Trương Tân sang làm thứ sử Giao Châu được
ít lâu, Trương Tân lại bị bộ tướng là Khu Cảnh giết chết. Quan mục
Kinh Châu, Lưu Biểu, sai huyện lệnh huyện Linh Lăng là Lại Cung sang
thay Trương Tân. Bấy giờ thái thứ quận Thương Ngô là Sử Hoàng chết,
Lưu Biểu lại sai Ngô Cự sang thay, cùng với Lại Cung cùng đến một
lúc. Nhà Hán nghe tin Trương Tân mất, ban cho Sĩ Nhiếp bức tỉ thư1
trong có nói: "Đất Giao Châu bờ cơi xa xăm, phía nam gần sông giáp
biển, ơn bề trên chưa được thấp khắp, t́nh dân khó giăi tỏ. Ta vẫn
biết nghịch tặc Lưu Biểu đă cho Lại Cung sang ŕnh lấy đất miền Nam.
Bây giờ cho nhà ngươi làm Tuy Nam trung lang tướng, quản đốc bảy
quận, lĩnh chức thái thú quận Giao Chỉ như trước". Sau đó Sĩ Nhiếp
sai kẻ lại là Trương Mân đem lễ vật sang cống tận kinh đô Hán. Hồi
ấy, thiên hạ loạn lạc, đường đi đứt nghẽn, thế mà Sĩ Nhiếp vẫn không
bỏ cống hiến, v́ thế Hán lại hạ chiếu cho làm An Viễn tướng quân,
phong tước Long Độ đ́nh hầu. Về sau Ngô Cử với Lại Cung ghét nhau,
Ngô Cự đem quân đánh đuổi Lại Cung chạy về huyện Linh Lăng.
Lời chua
- Từ Văn: Theo Quận quốc chí trong Hậu Hán thư, huyện Từ Văn thuộc
quận Hợp Phố.
Quyển thứ
III
Năm Canh
Dần (210). (Hán, năm Kiến An thứ 15).
Tháng 12,
mùa đông. Chúa Ngô, Tôn Quyền, dùng Bộ Chất làm thứ sử Giao Châu.
Theo sách
Cương mục (Trung Quốc), trước kia, Sĩ Nhếp làm thái thú Giao Chỉ, có
dâng biểu xin cho ba em làm thái thú các quận Hợp Phố, Cửu Chân, Nam
Hải, hùng trưởng một phương. C̣n thứ sử Giao Châu là Trương Tân mê
mải việc quỷ thần, thường đầu đội khăn mầu đỏ sẫm, đọc sách đạo Lăo,
bị bộ tướng giết chết. Đến đây, Tôn Quyền dùng Bộ Chất làm thứ sử,
Sĩ Nhiếp đem anh em ra vâng theo mệnh lệnh nhà Ngô; do đấy đất Lĩnh
Nam mới phụ thuộc Tôn Quyền.
Lời chua
- Bộ Chất: Người đất Hoài Âm thuộc Lâm Hoài.
Giao Châu,
Cửu Chân: Xem Triệu Vũ Vương năm thứ 10 (Tb.I, 20).
Thái thú
quận Giao Chỉ nhà Hán, là Sĩ Nhiếp, sai con vào làm tin ở nước Ngô.
Nước Ngô phong Sĩ Nhiếp làm Long Biên hầu.
Theo
truyện Sĩ Nhiếp trong Ngô chí, lúc bấy giờ Sĩ Nhiếp sai con là Hâm
vào làm con tin, Tôn Quyền cho Hâm làm thái thú Vũ Xương; c̣n các
con của Sĩ Nhiếp và của Sĩ Nhất ở bên Nam đều được phong làm trung
lang tướng. Sĩ Nhiếp lại dụ cường hào Ích Châu, là bọn Ung Khải, đem
nhân dân trong quận xin với danh nghĩa ở xa mà phụ thuộc Đông Ngô.
Tôn Quyền lại càng ngợi khen Nhiếp, thăng cho làm vệ tướng quân,
phong tước Long Biên hầu, cho em Sĩ Nhiếp là Nhất làm thiên tướng
quân, tước Đô Hương hầu. Mỗi lần Sĩ Nhiếp sai sứ giả sang Ngô Tôn
Quyền, không năm nào là không đem cống các thứ hương thơm, vảo nhỏ
kể có hàng ngh́n, hạt trai sáng, vỏ xà cừ, ngọc lưu ly, chim trả,
đồi mồi, ngà voi, tê giác và các thứ quả lạ như chuối tiêu, dừa,
nhăn. Lại c̣n cống cả hàng mấy trăm ngựa. Mỗi khi như thế, Tôn Quyền
lại viết thư khen ngợi, ban cho rất hậu để yên ủi lại.
Lời cẩn
án - Con Sĩ Nhiếp là Hâm, Sử cũ chép sai là Ngẩm.
Lời phê -
Sĩ Nhiếp chẳng qua là một thái thú nhà Hán, tùy thời nịnh hót, cầu
sao cho ḿnh được an toàn, chứ không có mưu lược tài cán ǵ giỏi cả,
đến nỗi truyền được hai đời đă mất, có ǵ đáng khen! Thế mà Sử cũ
cho rằng Úy Đà cũng không hơn được, chẳng cũng là lời khen quá đáng
dư!
Năm Bính
Ngọ (226). (Ngô, Tôn Quyền, năm Hoàng Vũ thứ 5; Hán, năm Kiến Hưng
thứ 4; Ngụy, năm Hoàng Sơ thứ 7).
Sĩ Nhiếp
mất, con là Huy tự động quyền làm thái thú Giao Chỉ.
Theo
truyện Sĩ Nhiếp trong Ngô chí, Sĩ Nhiếp làm quan ở quận Giao Chỉ hơn
40 năm, thọ 90 tuổi mới mất.
Lời bàn
của Ngô Sĩ Liên - Người nước ta thông Thi Thư hiểu lễ nhạc, trở
thành một nước văn hiến là bắt đầu từ Sĩ Nhiếp. Tục truyền: sau khi
Sĩ Nhiếp mất, đến cuối đời nhà Tấn cách xa hơn 600 năm, người Lâm Ấp
vào cướp, đào mả Sĩ Nhiếp lên, thấy thân thể diện mạo vẫn nguyên như
lúc sống, liền đắp trả lại. Nhân dân vùng ấy cho thế là thần, dựng
miếu để thờ, gọi là Sĩ Vương tiên.
Mùa đông.
Nước Ngô chia tách đất Giao Châu đặt ra Quảng Châu, dùng Lữ Đại và
Đái Lương làm thứ sử. Lữ Đại dụ Sĩ Huy ra hàng rồi giết đi. Ít lâu
sau, nước Ngô bỏ Quảng Châu, lại cứ để làm Giao Châu như cũ.
Chúa Đông
Ngô nghe tin Sĩ Nhiếp đă chết, cho rằng quận Giao Chỉ cách xa, mới
chia từ Hợp Phố trở về phía bắc thuộc Quảng Châu, cho Lữ Đại làm thứ
sử; từ Hợp Phố trở về phía nam thuộc Giao Châu, cho Đái Lương làm
thứ sử. Tôn Quyền lại sai Trần Th́ sang thay Sĩ Nhiếp làm thái thú.
Lữ Đại lưu lại Nam Hải, c̣n Đái Lương và Trần Th́ đều đi trước đến
Hợp Phố. Lúc ấy con Sĩ Nhiếp là Sĩ Huy đă tự động quyền làm thái thú,
đem quân ra chống lại. Đái Lương ở lại Hợp Phố. Người quan lại cũ
của Sĩ Nhiếp là Hoàn Lân khấu đầu can Sĩ Huy, khuyên nên ra đón Đái
Lương. Sĩ Huy nổi giận, lấy roi đánh chết Hoàn Lân. Anh Hoàn Lân là
Trị, con Hoàn Lân là Phát (Sử cũ chép lầm là các con nhà anh của Lân
là Trị và Phát), họp quân trong họ lại đánh Sĩ Huy. Sĩ Huy đóng cửa
thành cố thủ. Bọn Hoàn Trị đánh măi mấy tháng, không hạ được thành,
mới giao ước ḥa hảo với nhau; hai bên cùng rút quân. Về phần Lữ Đại
nhận được tờ chiếu chúa Ngô bảo giết Sĩ Huy, Đại mới từ Quảng Châu
đi gấp vào Hợp Phố, cùng với Đái Lương cùng tiến thẳng đến nơi, dụ
dỗ con Sĩ Nhất là trung lang tướng Sĩ Khuông, để Sĩ Khuông bảo Sĩ
Huy ra thú tội, th́ dẫu mất chức quận thú, nhưng không có sự ǵ khác
đáng lo. Lữ Đại cũng đi theo luôn Sĩ Khuông đến, th́ bọn anh Sĩ Huy
là Chi, em là Cán và Tụng sáu người cởi trần ra đón Lữ Đại. Lữ Đại
từ chối, bảo mặc áo lại (Sử cũ chép sai là mặc áo thường), rồi Lữ
Đại tiến thẳng đến trước quận. Sớm ngày hôm sau, xếp đặt màn trướng,
cho mời anh em Sĩ Huy theo thứ tự tiến vào. Trong khi quan khách
ngồi đầy cả, Lữ Đại đứng lên, cầm phù tiết, tuyên đọc chiếu thư, kể
tội Sĩ Huy, rồi sai trói lại đem chém, đưa thủ cấp về Vũ Xương. C̣n
Sĩ Nhất, Sĩ Vĩ và Sĩ Khuông ra hàng sau, vua nước Ngô tha tội cho;
bọn này cùng với con Sĩ Nhiếp là Hâm đang làm con tin bên Ngô, đều
bị cách chức làm dân thường. Mấy năm sau, Nhất và Vĩ phạm pháp, đều
bị giết; chỉ có Sĩ Khuông bị bệnh chết trước. Khi Sĩ Hâm mất, bộ
tướng của Sĩ Huy là Cam Lễ cùng với Hoàn Trị đem các quan lại và
nhân dân đánh Lữ Đại. Lữ Đại ra sức đánh phá được, nên được thăng
phong lên làm Phiên Ngung hầu. Bấy giờ mới bỏ Quảng Châu, lại để làm
Giao Châu như cũ.
Lời bàn
của Ngô Sĩ Liên - Khi cha mất rồi, Sĩ Huy đă không xin mệnh trên, tự
lập làm thái thú, lại đem quân ra cự lại! Như thế, đối với lẽ phải,
cố nhiên là nên đánh Sĩ Huy rồi; nhưng Lữ Đại dụ người ra đầu hàng
để mà giết đi th́ là trái lẽ. Giữ tin thực, là việc quư của một nước.
Sĩ Huy đă ra hàng, nên trói đưa về Vũ Xương, để quyền sinh sát cho
người trên định. Như vậy, ḿnh có uy tín đối với kẻ dưới, chẳng cũng
hay lắm dư! Tôn Thịnh có nói: "Ḥa người phương xa, được ḷng người
gần, không ǵ hay bằng điều tín". Lữ Đại kết thân với Sĩ Khuông như
thày, như bạn để thông tin tức và thề ước với Sĩ Huy, khi anh em Sĩ
Huy cởi trần chịu tội, dốc ḷng gửi mạng, thế mà Lữ Đại lại nhân đấy
diệt đi, để cầu lấy công lợi. Do việc này, người quân tử biết rằng
Tôn Quyền là người không biết cách kinh lư nơi xa và họ Lữ không
được lâu dài.
Lời chua
- Lữ Đại: Tên tự là Đinh Công, người đất Hải Lăng thuộc Quảng Lăng,
trước được bổ làm trưởng đất Dư Diêu, đến khi Cối Kê có giặc, Tôn
Quyền cho Lữ Đại làm đốc quân hiệu úy, đem quân dẹp yên, được thăng
làm thái thú Lư Lăng; đến đây, sang thay Bộ Chất, làm thứ sử Giao
Châu.
Nước Ngô
thăng chức cho Lữ Đại làm trấn nam tướng quân, rồi lại cho làm Giao
Châu mục.
Lữ Đại đă
dẹp yên loạn Sĩ Huy ở Giao Châu, lại tiến quân đánh quận Cửu Chân,
vừa giết vừa bắt được kể có hàng vạn người, rồi lại sai người làm
việc tuyên dương giáo hóa Trung Quốc vào miền nam cho cả vùng ngoài
biên thùy. Các vua nước Phù Nam, nước Lâm Ấp và nước Đường Minh đều
sai sứ dâng cống. Chúa nước Ngô, Tôn Quyền, ngợi khen công của Lữ
Đại, phong lên làm trấn nam tướng quân. Năm Hoàng Long thứ 3 (231)
dân Mán Ngũ Khê quận Vũ Lăng (nước Ngô) làm phản. Chúa Ngô cho rằng
đất đai về mặt nam đă yên rồi, cho triệu Lữ Đại về. Thái thú Hợp Phố
là Tiết Kính Văn (Sử cũ chép là Tông) sợ rằng người sang thay Lữ Đại
không được tốt chăng, bèn dâng sớ sau đây lên vua Ngô: "Xưa kia, vua
Thuấn đi tuần phía Nam, mất ở quận Thương Ngô. Nhà Tần đặt ra các
quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận, th́ bốn quận ấy thuộc vào đất
Trung Quốc cũng đă lâu lắm. Triệu Đà khởi lên ở Phiên Ngung, vỗ về
thuần phục được vua Bách Việt. Đấy là những nước về phía nam quận
Châu Quan. Vũ đế nhà Hán giết Lữ Gia, mở rộng ra làm chín quận, đặt
quan thứ sử để trấn thủ và cai quản, rồi đưa người Trung Quốc sang ở
lẫn với dân bản thổ, cho dân bản thổ học viết qua loa và vơ vẽ biết
được ngôn ngữ Trung Quốc; lại có sứ thần thời thường đi lại, (họ)
trông thấy lễ nghi mà tự thay đổi theo. Đến khi Tích Quang làm thái
thú Giao Chỉ, Nhâm Diên làm thái thú Cửu Chân, dựng ra trường học,
d́u dắt nhân dân theo đường lễ nghĩa. Nhưng mà, (ở đấy) là nơi đất
rộng, người nhiều, rừng hiểm, nước độc, dân dễ khởi loạn. Vả lại,
đất này ở ngoài hẳn chín cơi, cách lựa chọn chức quan cầm đầu việc
cai trị phần nhiều
không
được kỹ mấy. Như tôi được biết có các việc sau đây: Nam hải Hoàng
Cái sang làm thái thú Nhật Nam, khi mới xuống xe, thấy cách đón tiếp
không được long trọng, đánh chết người chủ bạ, rồi Hoàng Cái cũng bị
dân đuổi đi. Thái Thú Cửu Chân, Đam Manh, làm chủ tiệc rượu của bố
vợ là Chu Kinh, mời cả các quan to đến dự. Lúc rượu đă say, nổi khúc
nhạc vui, Công Tào Phiên Hâm đứng lên múa, mời Chu Kinh múa. Chu
Kinh không chịu đứng dậy, Phiên Hâm c̣n cứ ép Kinh măi. Đam Manh tức
giận cầm trượng đánh Phiên Hâm. Em Hâm là Miêu đem dân chúng đến
đánh phủ lỵ. Đam Manh đến nỗi phải chết. Thái thú Giao Chỉ là Sĩ
Nhiếp (thấy thế), sai quân đến đánh, cuối cùng vẫn không dẹp được.
Lại như việc thứ sử trước đây là Chu Phù, người quận Cối Kê, phần
nhiều đem người làng, như bọn Ngu Bao, Lưu Nghiệm ra làm trưởng lại,
chiếm đoạt nhũng nhiễu nhân dân, cưỡng bức dân phải nộp phú thuế: cứ
mỗi một con cá vàng, thu một hộc lúa. Nhân dân ta oán, kéo nhau đánh
châu này, phá quận kia. Chu Phù phải bỏ chạy về đường biển, rồi trôi
giạt đâu mất. Sau đó đến Trương Tân, người quận Nam Dương, không có
uy lực mấy, bị người ta khinh nhờn, rồi bị giết chết. Sau nữa, Lưu
Biểu sai Lại Cung là bậc cao tuổi sang làm quan, Lại Cung là người
cẩn thận, nhưng hiền lành, không hiểu việc đời. Kế đó lại sai Ngô Cự
làm thái thú quận Thương Ngô, Ngô Cự là người vũ phu nóng nảy. Lại
Cung không phục ṭng, rồi hằn học lẫn nhau, Ngô Cự đuổi Lại Cung ra
khỏi Giao Châu. Khi Bộ Chất đến nơi rồi, th́ lúc đó bộ tướng cũ của
Trương Tân trước, như bọn Di Liêu, Tiền Bác, vẫn c̣n khá nhiều. Bộ
Chất tiễu trừ được dần, xếp đặt vừa mới tạm ổn, th́ lại bị gọi về.
Lữ Đại b́nh xong đám loạn Sĩ Huy, đổi đặt trưởng lại, làm sáng tỏ
cương kỷ, uy thanh ra các muôn dặm, đâu đấy đều vâng theo cả. Xem
như thế th́ việc yên ủi dân ngoài biên cương, vỗ về người cơi xa xôi,
cần phải có người giỏi. Chức mục bá, nên lựa lấy người thanh liêm.
Ngoài nơi hoang phục, th́ việc họa hay phúc lại càng quan hệ ở quan
lại. Ngày nay Giao Châu tuy rằng tạm yên, nhưng c̣n có bọn giặc cũ ở
Cao Lương. C̣n biên giới bốn quận Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm và
Châu Quan chưa yên, giặc cướp vẫn thường tụ họp quấy nhiễu. Nếu Lữ
Đại không trở lại phương Nam nữa, th́ nên chọn người có thao lược,
mưu kế, cho làm thứ sử để phủ dụ dân chúng. Đối với người ấy, nên
cho họ có uy quyền, được tùy t́nh thế à t́m cách đối phó, cốt phải
làm được có hiệu quả tốt, như thế th́ may ra mới có thể hàn gắn được.
C̣n những hạng người thường, chỉ biết giữ lề lối cũ, không có mưu
hay chước lạ ǵ, th́ lũ ác nghịch ngày thêm nảy nở, lâu ngày thành
hại. V́ thế, sự an nguy trong nước quan hệ ở việc dùng người. Vậy
việc này không thể không xét kỹ được". Chúa nước Ngô nghe theo lời
sớ này, lại cho Lữ Đại làm Giao Châu mục.
Lời chua
- Tiết Kính Văn: Người ấp Trúc, quận Bái, khi c̣n nhỏ, theo người
trong họ, lánh loạn sang ở Giao Châu, theo học Lưu Hi. Khi Sĩ Nhiếp
đă quy phụ Tôn Quyền, Kính Văn được vời làm ngũ quan trung lang
tướng, thăng lên làm thái thú Hợp Phố. Khi Lữ Đại đem quân sang đánh
Giao Châu, Kính Văn với Lữ Đại cùng đi, vượt biển sang đánh phương
Nam.
Châu Quan:
Nguyên là quận Hợp Phố nhà Hán, đến Ngô đổi làm châu quan.
Phù Nam:
Tên nước. Xem đời Hùng Vương (Tb.I, 7).
Lâm Ấp:
Tên nước. Xem thuộc Tấn, Mục đế, năm Vĩnh Ḥa thứ 9(Tb.3, 20).
Đường
Minh: Tên nước. Ở trong vụng biển, cách quận Nhật Nam bảy ngh́n dặm
về phía Bắc, tức là nước Đạo Minh.
Cao Lương:
Tên huyện, thuộc quận Hợp Phố.
Năm Mậu
Th́n (248). (Ngô, năm Xích Ô thứ 11; Hán, năm Diên Hi thứ 11; Ngụy,
năm Chính Thủy thứ 9).
Bà Triệu
Ẩu, người quận Cửu Chân, họp dân chúng đánh phá các quận huyện. Thứ
sử Lục Dận đi đánh, dẹp yên.
Người
quận Cửu Chân lại đánh phá thành ấp. Các châu quận đâu đấy đều náo
động, chúa nhà Ngô cho đốc quân đô úy châu Hành Dương là Lục Dận làm
thứ sử kiêm chức hiệu úy. Lục Dận đến nơi, dùng ấn tín hiểu dụ, hơn
ba vạn nhà ra đầu hàng; đất Giao Châu lại yên. Bây giờ có người con
gái quận Cửu Chân là Triệu Ẩu tụ họp dân chúng, giành cướp các quận
huyện; Lục Dận đi đánh, dẹp yên.
Lời chua
- Lục Dận: người đất Ngô quận, cháu họ Lục Tốn, người nước Ngô. Lục
Dận trước làm tuyển tào lang, sau làm đốc quân đô úy Hành Dương. Đến
khi giặc Man Di quận Cửu Chân đánh và hạ được các thành ấp, Giao
Châu náo động, chúa nước Ngô dùng Lục Dận làm thứ sử Giao Châu.
Bà Triệu
Ẩu: Theo sách Thái B́nh hoàn vũ kư của Nhạc Sử nhà Tống, trong miền
núi quận Cửu Chân có người con gái họ Triệu, vú dài ba thước, không
lấy chồng, tụ họp đồ đảng đánh cướp các quận huyện thường mặc áo vải
mộc màu vàng, đi guốc, cưỡi đầu voi, xông ra trận đánh. Sau khi chết,
thành thần. Nay có đền thờ ở xă Phú Điền, huyện Mỹ Hóa, tỉnh Thanh
Hóa.
Lời phê -
Con gái nước ta, nhiều người hùng dũng khác thường. Bà Triệu Ẩu cũng
là người sánh vai được với Hai Bà Trưng. Xem như vậy th́ Bắc sử chép
chuyện thành Phu Nhân quân nương tử, há có phải chỉ Trung Quốc là có
đàn bà nổi danh tiếng đâu? Nhưng nói là vú dài ba thước th́ cũng
quái gở, đáng cười!
Năm Quư
Mùi (263). (Ngô, năm Vĩnh An thứ 6; Hán, năm Viêm Hưng thứ 1. - Năm
này nhà Hán mất. Ngụy, năm Canh Nguyên thứ 4).
Tháng 5,
mùa hạ. Kẻ lại quận Giao Chỉ là Lữ Hưng giết Thái thú quận ấy là Tôn
Tư, đem quận Giao Chỉ đầu hàng nhà Ngụy (Sử cũ chép lầm là hàng nhà
Tấn).
Trước kia,
nhà Ngô dùng Tôn Tư làm Thái thú Giao Chỉ. Tôn Tư là người tham lam
bạo ngược, thường chọn bắt hàng hơn ngh́n người thợ thủ công khéo ở
trong quận đưa sang Kiến Nghiệp; nhân dân khổ sở về việc đó. Đến đây,
chúa nước Ngô sai Đặng Tuân đến quận, Đặng Tuân lại tự tiện bắt dân
phải nộp ba mươi con công đưa sang Mạt Lăng. Nhân dân sợ phải làm
lực dịch ở nơi xa, do đấy định mưu làm loạn. Kẻ quận lại là Lữ Hưng
giết cả Tôn Tư và Đặng Tuân, rồi xin với nhà Ngụy đặt Thái thú khác
và cho quân sang đóng. Quận Cửu Chân và Nhật Nam đều hưởng ứng việc
này.
Năm Giáp
Thân (264). (Ngô, Tôn Hạo, năm Nguyên Hưng thứ 1; ngụy, năm Hàm Hi
thứ 1).
Tháng 7,
mùa thu. Nhà Ngô lại chia đất Giao Câu, đặt ra Quảng Châu.
Năm ấy,
nhà Ngô cắt ba quận Nam Hải, Thương Ngô và Uất Lâm đặt làm Quảng
Châu, châu lỵ ở Phiên Ngung; Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố
làm Giao Châu, châu lỵ ở Long Biên. Việc chia ra Giao Châu và Quảng
Châu bắt đầu từ đấy.
Lời chua
- Nam Hải: Xem An Dương Vương, năm 44 (Tb.1, 11). Thương Ngô, Uất
Lâm, Nhật Nam, Hợp Phố: Xem Triệu Vương, Kiến Đức, năm thứ 1. (Tb.2,
4...).
Nhà Ngụy
dùng Lữ Hưng làm An Nam tướng quân, đô đốc mọi việc quân ở Giao Châu;
dùng Hoắc Giặc ở xa lĩnh chức Thứ sử Giao Châu.
Nhà Ngụy
phong Lữ Hưng làm An Nam tướng quân, đô đốc mọi việc quân ở Giao
Châu; dùng nam trung giám quân là Hoặc Giặc, ở xa lĩnh chức Thứ sử
Giao Châu, được quyền tùy tiện kén bổ các trưởng lại. Hoặc Giặc đề
cử Thoán Cốc (có chỗ chép là Phàn Cốc) làm Thái thú GiaoChỉ, thống
suất thuộc lại trong nha môn ḿnh là lũ Đổng Nguyên và Vương Tố đem
quân đến giúp đỡ Lữ Hưng. Quân chưa đến nơi, Lữ Hưng đă bị công tào
Lư Thống giết chết; Thoán Cốc cũng chết.
Năm Ất
Dậu (265). (Ngô, năm Cam Lộ thứ 1; Tấn, Vũ đế, năm Thái Thủy thứ 1).
Nhà Tấn
dùng Mă Dung làm Thái thú Giao Chỉ.
Mă Dung bị
bệnh mất. Hoắc Giặc đề cử Dương Tắc sang thay.
Lời chua -
Mă Dung: người Ba Tây.
Dương Tắc:
người Kiện Vi.
Năm Mậu Tí
(268). (Ngô, năm Bảo Đinh thứ 3; Tấn, năm Thái Thủy thứ 4).
Nhà Ngô dùng
Lưu Tuấn làm thứ sử Giao Châu, đánh lại Dương Tắc nhà Tấn. Dương Tắc
đánh phá được quân Lưu Tuấn ở Cổ Thành.
Nhà Ngô dùng
Lưu Tuấn làm thứ sử, cùng với bộ đốc trước là Tu Tắc (Sử cũ chép lầm
là đại đô đốc Tu Tắc), tướng quân là Cố Dung, trước sau ba lần đánh
vào Giao Châu, nhưng Dương Tắc đều đem quân chống cự lại và đánh phá
được cả. Quận Uất Lâm, quận Cửu Chân đều phụ theo với Dương Tắc.
Dương Tắc
sai tướng quân là Mao Quế (Sử cũ chép lầm là Linh), Đổng Nguyên, nha
môn tướng là bọn Mạnh Cán, Mạnh Thông, Lư Tùng, Vương Tố, Thoán Năng,
đi từ đất Thục sang Giao Chỉ, đánh phá quân Ngô ở Cổ Thành, giết
được Tu Tắc và Lưu Tuấn quân c̣n sót lại đều tan ră cả. Nhân thế,
Dương Tắc đề cử Mao Quế làm thái thú Uất Lâm, Đổng Nguyên làm thái
thú Cửu Chân.
Lời chua -
Cổ Thành: Tức là thành Hợp Phố.
Năm Kỷ Sửu
(269). (Ngô, năm Kiến Hành thứ 1; Tấn, năm Thái Thủy thứ 5).
Tháng 11,
mùa Đông. Nhà Ngô đem quân sang đánh Dương Tắc nhà Tấn.
Nhà Ngô sai
giám quân là Ngu Phiếm, úy nam tướng quân là Tiết Hủ và thái thú
Thương Ngô là Đào Hoàng đi đường Kinh Châu; giám quân là Lư Húc (Sử
cũ chép sai là Đỉnh) và đốc quân là Từ Tồn đi đường biển Kiến An. Cả
hai đạo gặp nhau ở Hợp Phố để sang đánh Dương Tắc. Lư Húc, v́ thấy
đi đường biển không được tiện lợi, bèn giết tướng đưa đường là Phùng
Phỉ, rồi đem quân về. Chúa nhà Ngô cho rằng Lư Húc đă giết uổng
Phùng Phỉ và tự tiện rút quân về, nên bắt cùng với Từ Tồn đều phải
tội chết.
Năm Tân Măo
(271). (Ngô, năm Kiến Hành thứ 3; Tấn, năm Thái Thủy thứ 7). Đào
Hoàng nhà Ngô đánh và bắt được bọn Dương Tắc nhà Tấn. Nhà Ngô lại
lấy được đất Giao Chỉ, chia đất ấy ra làm quận Tân Xương.
Trước kia,
Đào Hoàng và bọn Ngu Phiếm, Tiết Hủ chống nhau với Dương Tắc ở trên
sông Phần. Đào Hoàng thua, lui giữ quận Hợp Phố, chết mất hai tướng.
Tiết Hủ tức giận, bảo Đào Hoàng: "Ngươi tự dâng biểu xin đi đánh
giặc mà để mất hai tướng, trách nhiệm ấy tại ai?". Đào Hoàng thưa: "Tôi
là quan cấp dưới, không được làm theo ư muốn của ḿnh, quân sĩ không
ḥa thuận nhau, nên đến nỗi bị thua đó thôi". Tiết Hủ chưa nguôi
giận, muốn đem quân về. Đêm hôm ấy Đào Hoàng đem vài trăm quân đánh
úp Đổng Nguyên, bắt được của báu đưa xuống thuyền chở về. Tiết Hủ
thấy thế mới xin lỗi Hoàng, dùng Hoàng lĩnh chức đô đốc quân tiền bộ
ở Giao Châu, Đào Hoàng lại đi đường biển, nhân lúc không ngờ, đi tắt
đến Giao Châu. Đổng Nguyên đem quân ra chống cự. Các tướng của Hoàng
đều muốn ra đánh, nhưng Hoàng ngờ trong chỗ cầu đổ có lẽ có quân mai
phục, mới để toán quân sử dụng trường kích dàn riêng hàng ngũ ở phía
sau. Khi quân hai bên mới giáp trận, Đổng Nguyên giả cách rút lui;
Đào Hoàng đuổi theo, quả nhiên quân mai phục đổ ra. Quân trường kích
của Hoàng đón đánh, phá tan được quân địch và giết Đổng Nguyên tại
trận. Lúc đó Đào Hoàng lấy tất cả những thuyền chở của báu và mấy
ngh́n tấm thổ cẩm mà trước kia cướp được, đem gửi cho tướng giặc Phù
Nghiêm là Lương Kỳ (Sử cũ chép sai là Lương Tề). Lương Kỳ đem hơn
một vạn người đến giúp Đào Hoàng. Bấy giờ Dương Tắc dùng bộ tướng là
Vương Tố thay Đổng Nguyên. Dũng tướng của Đổng Nguyên là Giải Hệ
cùng ở trong thành. Đào Hoàng sai em Hệ là Tượng viết thư cho Hệ;
lại sai Tượng đi xe độc mă, có người thổi sáo, đánh trống, hộ vệ
diễu đi. Bọn Vương Tố thấy thế, bảo nhau: "Tên Tượng là em Giải Hệ
c̣n được như thế, chắc hẳn Giải Hệ cũng có ư muốn đi theo". Họ bèn
giết Hệ. Đào Hoàng nghe tin ấy, lập tức đem quân đánh gấp, phá được
châu lỵ, bắt được bọn Dương Tắc và Mao Quế. Mao Quế ngầm lập mưu
đánh úp Đào Hoàng. Việc ấy tiết lộ, Đào Hoàng bắt giết Mao Quế, rồi
cho đưa bọn Dương Tắc về nước Ngô. Đi đến Hợp Phố, Tắc bị bệnh chết.
C̣n bọn Mệnh Cán, Lư Tùng, Thoán Năng khi về đến Kiến Nghiệp, th́
Mạnh Cán trốn về với nhà Tấn; nhà Tấn dùng làm thái thú Nhật Nam. Lư
Tùng và Thoán Năng đều bị nhà Ngô giết cả. Nhà Tấn truy tặng cho
Dương Tắc chức thứ sử Giao Châu, các con của Mao Quế, Lư Tùng và
Thoán Năng đều được phong tước quan Nội hầu. Viên Công Tào quận Cửu
Chân là Lư Tộ giữ toàn được quận, đem quận ấy phụ thuộc về nhà Tấn.
Đào Hoàng sai tướng đến đánh không được. Cậu Lư Tộ là Lê Hoảng (có
chỗ chép là Lê Minh) đi theo quân thứ nhà Ngô, khuyên Lư Tộ ra hàng.
Lư Tộ đáp: "Cậu cứ việc làm tướng bên Ngô, tôi cứ việc thần phục bên
Tấn, ngưoời nào cũng chỉ nh́n vào sức mạnh mà ḿnh cho là có thể
trông cậy được". Lư Tộ giữ thành không hàng. Quân của Đào Hoàng đánh
măi mới hạ được thành.
Lời chua -
Đào Hoàng: Con Đào Cơ, người Mạt Lăng thuộc Đan Dương.
Tân Xương:
Theo chú thích của Hồ Tam Tỉnh, Tân Xương tức là Phong Châu, nay là
đất tỉnh Sơn Tây.
Nhà Ngô dùng
Đào Hoàng làm thứ sử, giữ phù tiết tiền tướng quân, Giao Châu mục,
đô đốc mọi việc quân ở Giao Châu.
Sau khi Đào
Hoàng phá được bọn Dương Tắc, b́nh được Giao Châu, nhà Ngô dùng luôn
làm chức Châu mục. Đào Hoàng là người có mưu chước, biết thương kẻ
khó, sẵn ḷng bố thí, được ḷng dân. Người ta ai cũng thích giúp
việc, nên Hoàng đi đến đâu cũng được thành công. Bấy giờ tại các
quận Vũ B́nh, Cửu Đức, Tân Xương, v́ thế đất hiểm trở, dân Di, Lạo
hung hăng mạnh tợn, đă từ lâu vẫn không chịu thần phục. Đào Hoàng
đem quân đi đánh, dẹp yên, mở thêm đất, đặt làm ba quận và hơn 30
huyệnở các nước phụ thuộc với quận Cửu Chân. Sau đó, nhà Ngô gọi Đào
Hoàng về làm đô đốc quận Vũ Xương, và dùng Tu Doăn là thái thú quận
Hợp Phố, sang thay. Có đến hàng ngh́n người dân bản thổ (Giao Châu)
xin giữ Đào Hoàng ở lại. Chúa nhà Ngô lại cho Hoàng trở về châu lỵ
cũ.
Lời chua -
Vũ B́nh: Vốn là đất huyện Phong Khê, đặt ra từ nhà Ngô, Vũ B́nh
thống trị 7 huyện: đời Tùy bỏ quận, đổi làm huyện Long B́nh; đời
Đường đổi làm huyện Vũ B́nh rồi lại đặt làm Đằng Châu. Triều Đinh,
Lê đổi làm phủ Thái B́nh; triều Trần đổi gọi Khoái Lộ; triều Lê đổi
đặt làm hai phủ Tiên Hưng và Khoái Châu. Nay là địa hạt Hưng Yên.
Cửu Đức: Đất
của Việt Thường thị xưa, nhà Ngô lấy đặt làm quận Cửu Đức,thống trị
8 huyện. Đời Tấn, Tống, Tề vẫn cứ theo cũ; nhà Lương bỏ quận, đổi
làm huyện Cửu Đức thuộc quận Nhật Nam; nhà Đường đổi cho thuộc Hoan
Châu. Nay là đất Hà Tĩnh.
Năm Canh Tí
(280). (Tấn, năm Thái Khang thứ 1).
Quan mục ở
Giao Châu của nhà Ngô là Đào Hoàng đầu hàng nhà Tấn. Tấn hạ chiếu
cho Hoàng làm chức cũ.
Chúa Ngô là
Tôn Hạo, khi đă đầu hàng nhà Tấn, tự tay viết thư khuyên Hoàng nên
về với Tấn. Nhận thư ấy, Hoàng sụt sùi ứa nước mắt đến mấy ngày, rồi
sai đưa nộp ấn và thao về Lạc Dương. Vua Tấn hạ chiếu cho Hoàng giữ
chức cũ, phong tước Uyển Lăng hầu, đổi làm quán quân tướng quân.
Khi nhà Tấn
đă đánh được nhà Ngô, giảm bớt số quân ở các châu quận (Sử cũ chép
sai là bắt lính Giao Châu). Đào Hoàng dâng thư tŕnh bày: "Giao Châu
ở trơ trọi một nơi, liền sát núi, biển, cách nước Lâm Ấp ở ngoài chỉ
độ 700 dặm (Sử cũ chép sai là mấy ngh́n dặm). Tướng người Di ở Lâm
Ấp là Phạm Hùng, suốt đời làm kẻ cướp lẩn lút, thường đánh cướp nhân
dân. Hắn lại c̣n liên kết với Phù Nam, thường làm giặc cướp đánh phá
các quận huyện, giết hại quan và dân. Tôi trước làm quan nước Ngô,
được cử đem quân đóng ở bên Nam có đến hơn mười năm. Trước sau nhiều
phen đi đánh dẹp, tuy có giết được tướng lĩnh họ, nhưng v́ ở chỗ núi
sâu hang cùng, nên c̣n có kẻ ẩn núp được. Vả lại, quân lính thuộc
dưới quyền tôi tất cả có hơn tám ngh́n người. Thủy thổ phương Nam
nóng nược, ẩm thấp, (Sử cũ chép lầm là ôn nhuận), có nhiều khí độc;
thêm vào đó nhiều năm phải đi đánh giặc, quân lính ngày một hao ṃn,
hiện c̣n có hai ngh́n bốn trăm hai mươi người. Ngày nay bốn biển hợp
nhất, đâu cũng thần phục cả, đáng lẽ nên cuốn áo giáp, hủy bỏ gươm,
chăm lo về đường lễ nghĩa. Nhưng mà, người châu này lại không thích
yên vui, ưa làm những sự khởi loạn. Vả lại, về phía nam Quảng Châu,
cả vùng có đến hơn sáu ngh́n dặm, trong đó có đến hơn năm vạn hộ
không phục theo và không phụ thuộc. Những bọn ngang tàng ở Quế Lâm
cũng có đến một vạn hộ nữa. Nói đến những người chịu phục dịch việc
quan chỉ có hơn năm ngh́n nhà. Hai châu Giao và Quảng, h́nh thế như
môi với răng, phải có quân đóng mới giữ được. Lại c̣n đất Hưng Cổ
thuộc Ninh Châu ở mạn thượng lưu, cách quận Giao Chỉ một ngh́n sáu
trăm dặm, đường thủy, đường lục đều tiện, hộ vệ lẫn nhau. Vậy th́ số
quân đóng ở châu chưa nên giảm bớt, để có vẻ yếu đuối cô đơn". Vua
nhà Tấn theo lời Đào Hoàng. Đào Hoàng ở Giao Châu 30 năm, tỏ ra
người có ân, có uy, được dân Giao Châu yêu mến. Khi Hoàng mất, vua
Tấn dùng viên ngoại lang tán kỵ thường thị là Ngô Nghiện (Sử cũ chép
chữ "Ngô" là họ "Ngô") làm chức nam trung đô đốc, thứ sử Giao Châu.
Hồi Đào Hoàng mới mất, lính thú ở quận Cửu Chân nổi loạn, đánh đuổi
thái thú Cửu Chân. Tướng giặc là Triệu Chỉ bao vây quận. Ngô Nghiện
dẹp yên được cả. Ngô Nghiện làm quan được 25 năm, dân Giao Châu được
yên ổn. Ngô Nghiện tự dâng biểu xin đổi người khác thay ḿnh. Vua
nhà Tấn cho Cố Bí sang thay. Cố Bí cũng là một quan tốt, cả châu ai
cũng yêu mến. Kịp khi Cố Bí chết, người Giao Châu ép con Bí là Tham
quản lĩnh công việc Giao Châu. Khi Cố Tham chết, em là Thọ cố ư cầu
xin lên thay. Thọ giết người trưởng lại là Hồ Triệu, lại toan giết
cả đốc quân thuộc dưới quyền ḿnh là Lương Thạc. Lương Thạc chạy
thoát, cất quân đánh giết được Cổ Thọ. Sau đó, Lương Thạc chuyên
quyền, nhưng sợ dân t́nh không thuận, mới đón con Đào Hoàng là Uy,
đương làm thái thú Thương Ngô, về lĩnh chức thứ sử Giao Châu. Đào Uy
làm quan, rất được ḷng dân, giữ chức được ba mươi năm th́ chết. Em
Uy là Thục, con Uy là Tuy, kế tiếp nhau làm thứ sử. Từ Đào Cơ đến
Đào Tuy tất cả bốn đời, đều làm thứ sử. Đào Cơ là cha Đào Hoàng (Sử
cũ chép sai là ông nội Đào Hoàng).
Lời chua -
Phù Nam: Xem đời Hùng Vương (Tb.I, 7).
Năm Mậu Dần
(318). (Đông Tấn, Nguyên đế, năm Đại Hưng thứ 1).
Tháng 10,
mùa Đông. Nhà Tấn hạ chiếu gia phong cho thứ sử Quảng Châu là Đào
Khản đô đốc các việc quân ở Giao Châu.
Theo Sử kư
của Ngô [Th́] Sĩ, thời bấy giờ người Trường Sa là Vương Cơ cùng với
giặc đất Thục là Đỗ Hoằng, và tú tài ở Giao Châu là Lưu Trầm cùng
nhau làm phản. Đào Khản sai đốc hộ đánh phá, bắt được Lưu Trầm, chém
được Vương Cơ. V́ có công ấy, Khản được phong chức nói trên.
Lời chua -
Đào Khản: Người Phiên Dương.
Vương Cơ:
Theo Tấn thư , trước kia có người ở Trường Sa tên là Vương Cơ, cha
Vương Cơ tên là Nghị làm thứ sử Quảng Châu, rất được ḷng dân chúng.
Sau người Quảng Châu đón Vương Cơ làm thứ sử. Khi ấy gặp dư đảng
giặc đất Thục là Đỗ Hoằng đem vàng cho Vương Cơ, xin đi đánh giặc
Quế Lâm để tự lập công. Vương Cơ đem việc ấy bầy tỏ lên triều đ́nh.
Vương Đôn cho Vương Cơ là người khó chế ngự, v́ có công hàng được Đỗ
Hoằng, cũng muốn nhân đó sai đi đánh Lương Thạc. V́ vậy đổi Vương Cơ
sang làm thứ sử Giao Châu. Lương Thạc nghe tin ấy, sai con đón Vương
Cơ ở Uất Lâm. Vương Cơ giận việc đến đón chậm, trách rằng: "Đợi khi
đến châu, sẽ hỏi tội cho!". Con Lương Thạc vội sai người về báo cho
cha biết. Lương Thạc nói: "Chàng Vương đă làm hại Quảng Châu rồi,
lại c̣n đến đây phá Giao Châu nữa sao!". Nói rồi liền cấm người
trong châu không ai được ra đón. Quan Tư Mă ở phủ là Đỗ Tán thấy
Lương Thạc không cho đón Vương Cơ, liền đem quân đánh Lương Thạc, bị
Thạc đánh thua. Lương Thạc lại sợ những người kiều ngụ bênh vực
Vương Cơ, bấy giờ đem bao nhiêu người khá giết đi hết, rồi tự lĩnh
chức thứ sử Giao Châu. Vương Cơ đă bị Lương Thạc chống cự lại, liền
đi sang Uất Lâm. Khi ấy Đỗ Hoằng đi đánh được giặc Quế Lâm về, gặp
Vương Cơ ở giữa đường. Vương Cơ khuyên Đỗ Hoằng đánh lấy Giao Châu.
Đỗ Hoằng vẫn có ư lấy Giao Châu đă lâu, mới cầm lấy phù tiết của
Vương Cơ, bảo rằng: "Ta nên thay đổi nhau cầm, sao nên một người cầm!".
Vương Cơ mới đưa phù tiết cho Đỗ Hoằng. Bấy giờ Vương Cơ với Hoằng
và bọn Ôn Thiệu, Lưu Trầm đều làm phản. Liền đó, Đào Khản đến Quảng
Châu, đánh giết được Ôn Thiệu, Lưu Trầm trước; rồi sai đốc hộ đánh
Vương Cơ. Vương Cơ chạy, bị chết. Đào Khản sai quật thây lên đem
chém.
Năm Quư Mùi
(323). (Tấn, Minh đế, năm Thái B́nh thứ 1).
Lương Thạc
đánh giết thứ sử là Vương Lượng. Đào Khản sai quân đánh chém được
Lương Thạc. Nhà Tấn dùng Đào Khản lĩnh chức thứ sử Giao Châu.
Trước kia,
Vương Đôn dùng Vương Lượng làm thứ sử Giao Châu để đánh Lương Thạc.
Lương Thạc đem quân vây Vương Lượng ở Long Biên, hạ được thành, cướp
lấy phù tiết của Vương Lượng; Vương Lượng không cho, Lương Thạc chặt
mất cánh tay trái của Lượng. Vương Lượng nói: "Chết, ta c̣n không sợ,
chặt mất tay th́ có làm ǵ!". Được hơn 10 ngày, Lượng chết. Lương
Thạc giữ Giao Châu, v́ hung bạo, nên mất ḷng dân chúng. Đào Khản
sai tham quân là Cao Bảo ánh chém được Lương Thạc. Vua Tấn cho Đào
Khản lĩnh chức thứ sử Giao Châu, tiến phong cho hiệu là Chinh nam
đại tướng quân khai phủ nghi đồng tam ti.
Lời chua -
Long Biên: C̣n tên gọi là Long Uyên. Xem thuộc Hán, Vũ đế, năm
Nguyên Phong thứ nhất. (Tb.2, 7).
Năm Quư Sửu
(353). (Tấn, Mục đế, năm Vĩnh Ḥa thứ 9).
Tháng 3, mùa
xuân. Thứ sử Giao Châu là Nguyễn Phu đánh phá được nước Lâm Ấp.
Vua nước Lâm
Ấp là Phạm Phật thường sang xâm lấn quấy nhiễu. Nguyễn Phu đem quân
đi đánh, phá được hơn năm mươi lũy.
Lời chua -
Lâm Ấp: Quốc giới của Việt Thường thị xưa; đời Tần là huyện Lâm Ấp,
thuộc Tượng Quận; đời Hán đổi làm huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật
Nam. Cuối đời Hán, con viên Công tào ở huyện ấy là Khu Liên, giết
huyện lệnh, tự lập làm vua nước Lâm Ấp. Sau v́ Khu Liên không có con
kế tự, cháu ngoại là Phạm Hùng lên thay làm vua, truyền ngôi đến con
là Phạm Dật. Người gia nô Phạm Dật là Phạm Văn dạy Phạm Dật xây đắp
thành tŕ, nhà cửa, đặt bày binh trận, chế tạo khí giới. Phạm Văn
được Phạm Dật tin yêu. Kịp khi Phạm Dật chết, Phạm Văn cướp ngôi làm
vua. Phạm Văn chết, con là Phạm Phật nối ngôi. Phạm Phật chết, cháu
là Hồ Đạt lên làm vua. Đến Văn Địch, cháu năm đời của Phạm Phật, bị
con vua Phù Nam là Đương Côn Thằng (có chỗ chép là Thuần) giết chết.
Đại thần là Phạm Chư Nông b́nh được loạn ấy, tự lập làm vua. Chư
Nông chết, con là Dương Mại lên kế vị. Dương Mại chết, con là Đốt
lên làm vua, vẫn lại lấy tên là Dương Mại, thường sang lấn cướp quận
Nhật Nam. Nhà Tấn sai Đàn Ḥa Chi đi đánh. Dương Mại sợ, sai sứ sang
triều cống; về sau, không triều cống nữa. Nhà Tùy sai Lưu Phương
sang đánh. Chúa Lâm Ấp là Phạm Chí sai sứ sang tạ lỗi. Khoảng giữa
niên hiệu Trinh Quán (627-649) nhà Đường, vua Lâm Ấp là Đầu Lê chết,
con là Trấn Long bị giết, người trong nước lập con nhà cô của Đầu Lê
là Gia Cát Địa lên làm vua, đổi quốc hiệu là Hoàn Vương, thường sang
xâm lấn An Nam. Bị đô hộ nhà Đường là Trương Chu đánh phá, nước ấy
mới bỏ Lâm Ấp, dời đến Chiêm, gọi là nước Chiêm Thành.
Liệt Thánh
bản triều, trước mở cơ nghiệp ở đất này, sau thống nhất được toàn
quốc; việc đóng đô ở đây đă xem xét kỹ càng, không khác ǵ các vua
đời Tam đại dùng ngọc thổ khuê để đo bóng mặt trời ở Lạc Thủy, đem
con linh quy để bói chỗ đóng đô ở Hoàng Hà . Kinh đô đóng ở đây, có
cửa ải Hải Vân, có đèo Ngang, có cửa Thuận, có núi Thương Sơn. Thật
là nơi kín đáo hiểm trở cũng như một cái kho của nhà Trời. Do đấy,
thanh danh văn vật ngày thêm phồn thịnh, không triều đại nào trước
đây có thể sánh kịp. Bây giờ, thành Phật thệ ở Phủ Thừa Thiên, thành
Chà Bàn ở tỉnh B́nh Định đều là di tích cố đô của Chiêm Thành đó.
Năm Canh
Th́n (380). (Tấn, Hiến Vũ đế, năm Thái Nguyên thứ 5).
Tháng 10,
mùa đông. Thái thú quận Cửu Chân là Lư Tốn chiếm giữ châu, làm phản.
Năm Tân Tị
(381). (Tấn, năm Thái Nguyên thứ 6).
Tháng 7, mùa
thu. Thái thú quận Giao Chỉ là Đỗ Viện đi đánh, dẹp yên được loạn Lư
Tốn.
Theo Liệt
truyện trong Tống thư, trước kia, Thái thú quận Cửu Chân là Lư Tốn,
cha con khỏe mạnh, và có quyền thế, uy danh khống chế được đất Giao
Châu. Nghe tin thứ sử Đằng Độn Chỉ sắp đến, Tốn sai hai con chia đi
chẹn những chỗ hiểm yếu về đường thủy và đường bộ. Đỗ Viện thu thập
quân sĩ đánh chém được Lư Tốn. Đất Giao Châu được yên. Nhà Tấn phong
Đỗ Viện làm Long nhương tướng quân.
Lời chua -
Đỗ Viện: Người huyện Chu Diên quận Giao Chỉ, gốc tích là người đất
Kinh Triệu. Ông nội là Nguyên làm thái thú quận Ninh Phố, di cư sang
ở quận Giao Chỉ.
Năm Kỷ
Hợi (399). (Tấn, An đế, năm Long An thứ 3).
Tháng 3,
mùa xuân. Vua Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt (có chỗ chép là Tu Đạt) vào lấn
cướp. Đỗ Viện đánh phá được. Nhà Tấn thăng Đỗ Viện làm thứ sử Giao
Châu.
Theo
Lương thư , năm ấy, vua nước Lâm Ấp, là Phạm Hồ Đạt, lấn cướp quận
Nhật Nam, bắt thái thú là Quế Nguyên; lại tiến sang cướp quận Cửu
Đức, bắt thái thú là Tào Bính. Thái thú Giao Chỉ, Đỗ Viện, sai đốc
hộ là bọn Đặng Dật đi đánh, phá tan được. Nhà Tấn liền thăng cho Đỗ
Viện làm thứ sử.
Lời cẩn
án - Tống thư và Lương thư đều chép năm Long An thứ 3 (399), thăng
Đỗ Viện làm thứ sử Giao Châu, dính liền với năm có việc đánh phá Lâm
Ấp . Sử cũ lại chép việc thăng Đỗ Viện làm thứ sử vào năm Thái
Nguyên thứ 6 (381)5. Như thế là sai, nay theo sự thực đổi lại . Năm
Tân Hợi (411). (Tấn, năm Nghĩa Hi thứ 7).
Tháng 4,
mùa hạ. Giặc bên Tấn là Lư Tuần chạy sang Giao Châu. Thứ sử Giao
Châu là Đỗ Tuệ Độ đánh và giết, đưa thủ cấp về Kiến Khang.
Trước đây,
cháu họ Lư Tuần là Ân làm giặc. Ân chết, Lư Tuần đầu hàng nhà Tấn,
được làm thứ sử Quảng Châu; đến đây, Tuần lại làm phản, bị bộ tướng
của Lưu Dụ là Lưu Phiên đánh bại, phải chạy sang Giao Châu. Khi bấy
giờ thứ sử trước là Đỗ Viện đă mất, vua Tấn cho con Viện là Tuệ Độ
lên thay làm thứ sử. Khi tờ chiếu chưa đến nơi, Lư Tuần đă đánh úp
và phá được Hợp Phố, đi tắt sang Giao Châu. Tuệ Độ đem các quan văn
vơ ở các châu phủ chống nhau với Lư Tuần ở trấn Thạch Kỳ, phá tan
quân Lư Tuần. Tàn quân của Lư Tuần c̣n tới ba ngh́n người, lại có dư
đảng của Lư Tốn là bọn Lư Thoát, liên kết với dân Lư, Lạo tới hơn
năm ngh́n người để hưởng ứng với Lư Tuần. Lư Tuần đến bến sông bên
Nam thành Long Biên. Tuệ Độ đem hết của nhà thưởng cho quân sĩ. Em
Tuệ Độ là Tuệ Kỳ, thái thú Giao Chỉ, cùng với Chương Dân, Thái thú
Cửu Chân, cùng đốc suất quân thủy, quân bộ. Tuệ Độ tự trèo lên chiếc
thuyền cao cùng với Lư Tuần đánh giáp lá cà, dùng mồi tẩm dầu châm
lửa ném đốt thuyền giặc, rồi cho quân bộ đứng hai bên bờ bắn xuống.
Quân Lư Tuần bị vỡ. Lư Tuần trúng tên lăn xuống nước chết. Tuệ Độ
vớt xác Lư Tuần, đem chém, sai đóng ḥm đựng thủ cấp Lư Tuần, thủ
cấp vợ con hắn và thủ cấp bọn Lư Thoát, đưa về Kiến Giang127 .
Lời chua
- Tuệ Độ: Con thứ năm Đỗ Viện.
Thạch Kỳ:
Tên trấn, ở phía Tây Nam phủ trị Giao Châu. Họ Hồ cắt nghĩa rằng: bờ
cong queo gọi là Kỳ.
Năm Quư
Sửu (413). (Tấn, năm Nghĩa Hi thứ 9).
Tháng 3,
mùa xân. Nước Lâm Ấp lại sang cướp Cửu Chân. Đỗ Tuệ Độ đánh tan được.
Theo
Lương thư , vua Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt lại sang cướp Cửu Chân. Tuệ Độ
đi đánh phá được, chém con nó là Giao Long vương Chân Tri và tướng
nó là bọn Phạm Kiện, bắt sống được hơn trăm người trong có con nó là
Na Năng.
Năm Ất
Măo (415). (Tấn, năm Nghĩa Hi thứ 11).
Nước Lâm
Ấp xâm phạm Giao Châu. Tướng ở Giao Châu đánh bại quân Lâm Ấp.
Năm Canh
Thân (420). (Tấn, Cung đế, năm Nguyên Hi thứ 2; Tống, Vũ đế, năm
Vĩnh Sơ thứ 1).
Tháng 7,
mùa thu. Đỗ Tuệ Độ đánh Lâm Ấp, phá tan được, bắt Lâm Ấp phải hàng.
Theo
Lương thư , khi bấy giờ Tuệ Độ đi đánh, cả phá được nước Lâm Ấp, số
người bị giết có tới quá nửa; nước Lâm Ấp phải xin hàng, dâng nộp
voi lớn, vàng, bạc, vải hoa, mới được tha. Những người Lâm Ấp trước
sau bị bắt đều được cho về. Sau đó, Tuệ Độ sai trưởng sử là Giang Du
dâng biểu sang Tống báo tin thắng trận.
Tuệ Độ ở
Giao Châu, ăn cơm rau, mặc áo vải, cấm những đền thờ thần nhảm nhí,
dựng trường dạy học. Gặp phải năm đói th́ lấy lương bổng riêng của
ḿnh phát chẩn cho dân. Tuệ Độ làm việc tinh tế chu đáo, coi việc
công như việc nhà. Các quan lại và nhân dân ai cũng kính nể và yêu
mến. Cửa thành đêm bỏ ngỏ, ngoài đường không ai nhặt của bỏ rơi. Khi
Tuệ Độ mất, vua nhà Tống tặng chức Tả tướng quân và cho con là Hoằng
Văn làm thứ sử. Hoằng Văn cũng là người khoan ḥa, được ḷng mọi
người, nối tước phong là Long Biên hầu.
Lời chua
- Hoằng Văn: Con trưởng Tuệ Độ. Trước kia, Vũ đế nhà Tống đi đánh
miền bắc, Tuệ Độ dâng "phủ bản" xin cho Hoằng Vân làm thái thú Cửu
Chân; đến đây, lại được kế chân Tuệ Độ làm thứ sử.
Bản: Tức là phủ bản. Theo
Tống chí , được nhà vua bổ dụng th́ làm chức tham quân, do quan tiến
cử bằng "phủ bản" th́ làm chức hành tham quân.
Năm Đinh Măo (427). (Tống,
Văn đế, năm Nguyên Gia thứ 4).
Tháng 4, mùa hạ. Thứ sử
Giao Châu là Đỗ Hoằng Văn chết. Nhà Tống dùng Vương Huy là thứ sử.
Nhà Tống với Hoằng Văn về
làm đ́nh úy. Bấy giờ Hoằng Văn đang bị bệnh, cũng tự ḿnh cố gắng đi
kiệu lên đường. Có người khuyên Hoằng Văn nên đợi khi bệnh khỏi sẽ
đi. Hoằng Văn trả lời: "Nhà tôi ba đời giữ phù tiết, tôi vẫn muốn
đem thân cống hiến đế đ́nh, huống chi bây giờ lại có lệnh triệu".
Nói rồi, nhất quyết đi, đến Quảng Châu th́ mất.
Năm Tân Mùi (431). (Tống,
năm Nguyên Gia thứ 8). Nước Lâm Ấp cướp Cửu Chân. Thứ sử Giao Châu
là Nguyễn Di Chi đánh không được, kéo quân về.
Theo Sử kư của Ngô [Th́]
Sĩ, bấy giờ vua Lâm Ấp là Phạm Dương Mại sai hơn một trăm thuyền lầu
sang cướp Cửu Chân, vào cửa sông Tứ Hội. Thứ sử Giao Châu là Nguyễn
Di Chi sai đội chủ là Tướng Đạo Sinh đem quân đi đánh. Đánh thành
Khu Lật không được, kéo quân về.
Lâm Ấp, từ sau khi thứ sử
Giao Châu là Đỗ Viện mất, không năm nào không vào cướp các quận Nhật
Nam và Cửu Chân, giết hại nhiều lắm, đến nỗi Giao Châu bị hư nhược.
Đầu năm Nguyên Gia (424- 453), Dương Mại lại càng xâm lấn dữ lắm.
Hoằng Văn định đi đánh, nhưng nghe tin có người sang thay ḿnh, nên
lại thôi. Đến đây (Nguyên Gia thứ 8), Lâm Ấp lại đem lực lượng toàn
quốc sang cướp. Hai biên giới Nhật Nam và Cửu Chân từ đấy mới sinh
ra nhiều sự rối loạn.
Lời chua - Thành Khu Lật:
Ở phía Bắc nước Chiêm Thành. Theo sách Thủy Kinh chú , sông Lư Dung
phát nguyên từ núi cao ở phía Nam thành Khu Lật thuộc huyện Lư Dung,
quận Nhật Nam, về mặt đông chảy qua phía Bắc thành Khu Lật . Binh
khí chiến cụ của nước Lâm Ấp để ở cả trong thành ấy. Sau này Đàn Ḥa
Chi từ đồn Chu Ngô, tiến quân vây Phạm Phù Long ở thành Khu Lật, tức
là thành Khu Lật này.
Năm Quư Dậu (433). (Tống,
năm Nguyên Gia thứ 10).
Tháng 5, mùa hạ. Vua Lâm
Ấp là Phạm Dương Mại sai sứ sang nhà Tống xin quản lĩnh Giao Châu.
Vua Tống không cho.
Vua nước Lâm Ấp là Phạm
Dương Mại sai sứ sang cống nhà Tống, xin quản lĩnh Giao Châu. Vua
Tống xuống chiếu trả lời v́ cớ ở xa, không cho. Ngay năm ấy, nhà
Tống dùng Hữu quân tham quân là Lư Tú Chi làm thứ sử Giao Châu.
Năm Bính Tuất (466). (Tống,
năm Nguyên Gia thứ 23).
Tháng 3, mùa xuân. Nhà
Tống sai thứ sử Giao Châu là Đàn Ḥa Chi đánh Lâm Ấp, thu được toàn
thắng. Ḥa Chi kéo quân vào kinh thành Lâm Ấp.
Trước kia, vua Lâm Ấp là
Phạm Dương Mại tuy sai sứ sang cống hiến nhà Tống, nhưng vẫn cướp
bóc Giao Châu luôn luôn. Vua Tống mới sai Đàn Ḥa Chi đi đánh. Bấy
giờ có người quận Nam Dương là Tông Xác, vốn là ḍng dơi nhà Nho,
nhưng riêng về phần Tông Xác lại thích vơ nghệ, thường nói: "Muốn
giong ruổi theo luồng gió, phá tan làn sóng muôn dặm". Đến khi Ḥa
Chi đi đánh Lâm Ấp, Tông Xác hăng hái quyết xin ṭng quân: vua Tống
cho Tông Xác làm chấn vũ tướng quân. Ḥa Chi sai Tông Xác làm tiền
phong. Phạm Dương Mại nghe tin quân Tống đă xuất phát, sai sứ dâng
biểu xin trả lại những dân quận Nhật Nam trước kia đă cướp về và xin
nộp một vạn cân vàng, mười vạn cân bạc. Vua Tống hạ chiếu cho Ḥa
Chi: "Dương Mại nếu quả thực ḷng hàng phục cũng nên ưng cho quy
thuận". Sau Dương Mại bị mê muội về lời can ngăn của đại thần là Đốc
Tăng Đạt, nên không cho quy thuận nữa. Khi Đàn Ḥa Chi đến đồn Chu
Ngô, sai bọn hộ tào tham quân ở phủ thứ sử Giao Châu là Khương Trọng
Cơ đi thẳng đến chỗ Dương Mại. Trọng Cơ bị Dương Mại bắt giữ lại.
Đàn Ḥa Chi giận lắm, tiến quân vây tướng Lâm Ấp là Phạm Phù Long ở
thành Khu Lật. Dương Mại sai tướng là Phạm Côn Sa Đạt đến cứu, bị
Tông Xác bí mật đem quân đón đánh, phá tan. Tháng 5, bọn Ḥa Chi hạ
thành Khu Lật, chém được Phù Long, nhân thắng thế, đánh vào Tượng
Phố. Dương Mại đem cả quân trong nước ra đánh, và trang bị đầy đủ
cho các thớt voi, trước sau không chỗ nào sơ hở. Tông Xác nói: "Nghe
nói nước ngoài có giống sư tử, oai phục được trăm loài thú". Nói rồi,
liền chế ra h́nh sư tử, để chống lại voi: quả nhiên voi sợ, chạy.
Quân nước Lâm Ấp bị thua to. V́ thế, Đàn Ḥa Chi đánh được nước Lâm
Ấp. Dương Mại cùng với con đều chỉ chạy thoát thân. Ḥa Chi lấy được
của báu lạ không biết bao nhiêu mà kể, lại phá hủy những tượng đúc
bằng vàng được mấy mươi vạn cân vàng. Tông Xác không lấy một thứ ǵ,
khi về đến nhà khăn áo có vẻ tiêu điều.
Lời chua - Đàn Ḥa Chi:
Người đất Kim Hương thuộc Cao B́nh. Đến năm Hiếu Kiến thứ 3 (456),
đổi đi làm thứ sử Duyện Châu, can tội say rượu và nhũng loạn của
công, bị băi chức. Lúc bị bệnh, Ḥa Chi thấy ma quỷ rợ Hồ hiện h́nh
hành hạ, rồi chết.
Chu Ngô thú: Chu Ngô: tên
huyện, từ nhà Hán về sau, thuộc quận Nhật Nam; bấy giờ ở đấy có đặt
ra đồn lính thú ở phía bắc nước Chiêm Thành.
Tượng Phố: Tên huyện, ở
phía tây bắc nước Chiêm Thành, vốn là huyện Tượng Lâm, về đời án,
thuộc quận Nhật Nam. Đến đời Tùy, năm Đại Nghiệp (605-616) đổi thuộc
về quận Lâm Ấp.
Tượng người vàng: Theo
Tống thư, tục Lâm Ấp theo đạo Ni Kiền130 , đúc tượng người vàng
người bạc, to đến mười ṿng131 .
Năm Mậu Thân (468). (Tống,
Minh đế, năm Thái Thủy thứ 4).
Tháng 3, mùa xuân. Người
Giao Châu là Lư Trường Nhân chiếm giữ châu trị, tự xưng là Thứ sử.
Trước đây, nhà Tống dùng
Lưu Mục làm Thứ sử Giao Châu. Lưu Mục bị bệnh chết. Người trong châu
là Lư Trường Nhân giết những bộ thuộc của Lưu Mục đem từ Trung Quốc
sang, rồi chiếm giữ đất Giao Châu làm phản, tự xưng làm Thứ sử. Nhà
Tống lại dùng Nam Khang tướng là Lưu Bột làm Thứ sử Giao Châu. Khi
Lưu Bột đến nơi, bị Trường Nhân chống cự lại; chưa được bao lâu, Lưu
Bột mất. Nhân thế Trường Nhân sai sứ xin hàng, tự giáng chức ḿnh
xuống làm người chấp hành công việc Giao Châu. Vua Tống y cho.
Năm Kỷ Mùi (479). (Tống,
Thuận đế, năm Thăng Minh thứ 3; Tề, Cao đế, năm Kiến Nguyên thứ 1).
Tháng 7, mùa thu. Nhà Tề
dùng Lư Thúc Hiến là Thứ sử Giao Châu.
Thúc Hiến là em họ Trường
Nhân. Trước kia, Trường Nhân mất, Thúc Hiến, do chân quyền Thái thú
Vũ B́nh, lên thay Trường Nhân, lĩnh việc Giao Châu. V́ hiệu lệnh của
ḿnh chưa được thi hành, nên sai sứ sang nhà Tống xin làm thứ sử.
Nhà Tống dùng Thái thú Nam Hải là Thẩm Hoán làm Thứ sử Giao Châu và
cho Thúc Hiến làm Ninh viễn quân tư mă, giữ chức thái thú hai quận
Tân Xương và Vũ B́nh. Khi Thúc Hiến đă nhận được lệnh triều Tống,
dân chúng vui ḷng phục tùng. Thúc Hiến liền đem quân giữ nơi hiểm
yếu, không nhận Thẩm Hoán sang nhậm chức; Thẩm Hoán phải lưu lại Uất
Lâm rồi chết ở đấy. Nhà Tề cho ngay Thúc Hiến làm thứ sử, để vỗ về
đất miền Nam cho được yên ổn.
Lời chua - Tân Xương, Vũ
B́nh: Đều xem thuộc Ngô, năm Kiến Hành thứ ba. (Tb.3, 15).
Năm Ất Sửu (485). (Tề, Vũ
đế, năm Vĩnh Minh thứ 3).
Lư Thúc Hiến đi đường tắt
sang chầu nước Tề.
Bấy giờ Thúc Hiến đă
phụng mạng nhà Tề làm thứ sử, nhưng không cống hiến ǵ cả. Tháng
giêng mùa xuân năm ấy, nhà Tề dùng đại tư nông là Lưu Khải làm thứ
sử, điều động quân các quận Nam Khang, Lư Lăng và Thủy Hưng sang
đánh. Thúc Hiến sai sứ xin băi binh, dâng mũ đâu mâu bằng bạc nguyên
cất, đủ dùng cho hai mươi đội, và lông công để trang sức. Vua nước
Tề không nghe. Thúc Hiến sợ bị Lưu Khải đánh úp, mới đi đường tắt từ
Tương Châu sang châu nước Tề . C̣n Lưu Khải th́ vào trấn giữ Giao
Châu.
Lời bàn của Ngô [Th́] Sĩ
- Do việc này ta nhận thấy h́nh pháp nước Tề thực là sai hỏng. Thúc
Hiến là họ với kẻ bạn thần, lân la xin làm chức châu mục. Khi uy
lệnh chưa thi hành được th́ xin với Tề cho làm thứ sử; khi đă nhận
được mệnh triều đ́nh, th́ lại chống cự thứ sử Thẩm Hoán ở Uất Lâm.
Thế mà, Tề đối với Thúc Hiến khi chống cự lại, th́ lại thực thụ cho
làm thứ sử. Khi đă được nhà Tề trao cho cờ lệnh và ấn phù, Thúc Hiến
lại thôi không cống hiến nữa. Đến khi Lưu Khải lĩnh mệnh sang đánh,
nhà Tề lại để cho Thúc Hiến đi tắt vào chầu. Sau đó cũng không nghe
nói nhà Tề tuyên bố tội trạng Thúc Hiến. Việc Đăng Chi xảy ra sau
này cũng thế. Thưởng, phạt như vậy th́ làm thế nào cho ḷng người
phục tùng và tỏ rơ được thể thống một nước? Lời chua - Nam Khang, Lư
Lăng, Thủy Hưng: Nam Khang và Lư Lăng, hai quận này thuộc Giang Châu.
Quận Thủy Hưng thuộc Tương Châu.
Tương Châu: Là Kinh Châu
xưa, nhà Tấn chia đất 8 quận làm Tương Châu; nay thuộc đạo Hồ Nam.
Năm Mậu Th́n (488). (Tề,
năm Vĩnh Minh thứ 6).
Tháng 6, mùa hạ. Nhà Tề
dùng Thái thú Thủy Hưng là Pḥng Pháp Thừa làm thứ sử Giao Châu.
Năm Canh Ngọ (490). (Tề,
năm Vĩnh Minh thứ 8). Tháng 10, mùa đông. Trưởng sử Giao Châu là
Phục Đăng Chi bắt giam thứ sử Pḥng Pháp Thừa. Nhà Tề cho Đăng Chi
làm thứ sử.
Trước kia, nhà Tề cho
Pháp Thừa sang thay Lưu Khải. Pháp Thừa đến trấn, mượn cớ ốm đau,
không trông nom đến việc quan, chỉ thích đọc sách. V́ thế, trưởng sử
Phục Đăng Chi chuyên quyền, tự tiện thay đổi tướng và quan lại,
không cho Pháp Thừa biết. Lục sự Pḥng Quư Văn đem việc ấy nói với
Pháp Thừa. Pháp Thừa giận lắm, bắt giam Đăng Chi vào ngục đến hơn
mười ngày. Đăng Chi đút lót cho em rể Pháp Thừa là Thôi Cảnh Thúc,
nên được thả. Sau khi ở ngục ra, Đăng Chi đem quân thuộc dưới quyền
ḿnh đánh úp châu lỵ, bắt Pháp Thừa, bảo Pháp Thừa rằng: "Sứ quân đă
là người có bệnh hay yếu đau, không nên làm việc nhọc mệt". Hắn giam
lỏng Pháp Thừa ở một nhà riêng. Pháp Thừa không có việc ǵ, lại đến
nói với Đăng Chi cho sách để đọc. Đăng Chi trả lời: "Sứ quân nghỉ
ngơi yên tĩnh, c̣n sợ bệnh lên cơn, lại c̣n xem sách thế nào được?".
Rồi không cho sách. Đăng Chi liền tâu với triều Tề rằng Pháp Thừa bị
bệnh tim, không thể trông nom việc quan được. Nhà Tề lại dùng Đăng
Chi làm thứ sử Giao Châu. Pháp Thừa về đến Ngũ Lĩnh th́ chết.
Năm Ất Dậu (505). (Lương,
Vũ đế, năm Thiên Giám thứ 4).
Tháng 2, mùa xuân. Thứ sử
Giao Châu nhà Tề là Lư Khải chiếm giữ Giao Châu, chống lại nhà Lương,
bị trưởng sử Lư Tắc giết chết.
Lư Khải thay Đăng Chi làm
thứ sử. Khải thấy nhà Lương mới được nhà Tề truyền ngôi vua cho, bèn
giữ Giao Châu, chống lại nhà Lương. Đến đây, Lư Tắc đem quân giết Lư
Khải. Nhà Lương dùng Lư Tắc làm thứ sử Giao Châu.
Lời cẩn án - Lư Khải , Sử
cũ chép lầm là Lư Nguyên Khải . Năm Bính Thân (516). (Lương, năm
Thiên Giám thứ 15).
Tháng 11, mùa đông. Thứ
sử Giao Châu nhà Lương là Lư Tắc đánh dư đảng của Lư Khải là bọn
Nguyễn Tôn Hiếu, chém được Tôn Hiếu, dẹp yên được đất Giao Châu. Nhà
Lương tha hết tội cho tất cả người theo đảng làm loạn ở Giao Châu.
Lời chua - Tôn Hiếu: Sử
cũ chép lầm là Tôn Lăo.
Năm Quư Măo (523). (Lương,
năm Phổ Thông thứ 4).
Nhà Lương chia đất Giao
Châu, đặt ra Ái Châu.
Theo Sử kư của Ngô [Th́]
Sĩ, từ đời Hán trở về sau, cho đơn vị châu kiêm quản các quận. Suốt
đời Lục triều135 vẫn theo như thế, hễ gọi là Giao Châu tức là lỵ sở
của thứ sử, thống lĩnh cả Thái thú bảy quận; các quận thú không được
gọi là châu.
Lời chua - Ái Châu: Tức
là đất quận Cửu Chân.
Từ đây trở lên, nước ta
bị thuộc về Tây Hán, Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương. Kể từ Tân
Mùi, thuộc Hán, Vũ đế, Nguyên Phong thứ 1 (110 tr.c.ng.) đến năm
Canh Thân, thuộc Lương, Vũ đế, Đại Đồng thứ 6 (540), cộng sáu trăm
bốn mươi chín năm (110 tr.c.ng. - 540 tr.c.ng.).
Quyển thứ IV
Năm Tân Dậu (541). (Lương,
năm Đại Đồng thứ 7).
Tháng 12, mùa đông. Người
Giao Chỉ là Lư Bôn khởi binh, đánh đuổi thứ sử triều Lương là Tiêu
Dư, rồi đóng giữ thành Long Biên.
Tổ tiên Lư Bôn gốc ở
phương Bắc (Trung Quốc), cuối đời Tây Hán, tránh loạn sang ở phương
Nam, đến Lư Bôn là đời thứ bảy đă thành người phương Nam. Lư Bôn tài
kiêm văn vơ làm quan triều Lương, coi đạo quân Cửu Đức. V́ bất đắc
chí, nên về Thái B́nh khởi binh. Tù trưởng huyện Chu Diên là Triệu
Túc cũng đem quân theo Lư Bôn. Tiêu Tư biết rơ việc ấy, đem tiền của
đút lót cho Lư Bôn rồi chạy về Quảng Châu. Lư Bôn liền giữ thành
Long Biên.
Theo sách Cương mục
(Trung Quốc), Lư Bôn là ḍng dơi nhà hào trưởng. Lúc ấy có Tinh
Thiều là người học giỏi, văn hay, đă sang triều Lương ứng tuyển để
ra làm quan, nhưng Thượng thư bộ Lại triều Lương là Thái Tỗn cho
rằng tiên tổ họ Tinh không có người hiển đạt, nên bổ cho làm Quảng
Dương môn lang . Tinh Thiều lấy làm xấu hổ, trở về; mưu bàn việc
khởi binh với Lư Bôn. Giữa lúc đó thứ sử Giao Châu là Tiêu Tư v́ tàn
bạo khắc nghiệt mất ḷng dân. Hai người, Lư Bôn và Tinh Thiều, nhân
đấy liên kết với mấy châu, các tay hào kiệt đều hưởng ứng, theo cả.
Lời chua - Giao Chỉ: Xem
Triệu Vũ vương, năm thứ 10 (Tb.I, 20). Sử cũ chép Lư Bôn người Thái
B́nh thuộc Long Hưng. Nay xét: tên Thái B́nh đặt từ năm Vũ Đức thứ
tư (621) triều Đường, tên Long Hưng đặt từ đời Trần (1225-1400). Đời
Lương không có tên đất này. Sử cũ chỉ theo đó mà truy gọi thôi. Bây
giờ ở xă Từ Đường, huyện Thụy Anh, phủ Thái B́nh, tỉnh Nam Định138
c̣n có đền thờ Lư Bôn.
Long Biên: Tức là Long
Uyên. Xem thuộc Hán, năm Nguyên Phong thứ nhất (Tb.2, 7).
Chu Diên: Xem thuộc Hán
năm Kiến Vũ thứ 16 (Tb.2, 10).
Quảng Châu: Tên mới đặt
từ triều Ngô (222-280), đất Giao Châu bị chia lấy một số thuộc về
Quảng Châu.
Thái Tỗn: Người Khảo
Thành, quận Tế Dương.
Tiêu Tư: Tước Vũ Lâm hầu,
người cùng họ vua Lương.
Năm Quư Hợi (543). (Lương,
năm Đại Đồng thứ 9).
Quân nước Lâm Ấp xâm lấn
quận Nhật Nam, Lư Bôn sai tướng Phạm Tu đi đánh và phá được ở Cửu
Đức.
Lời chua - Lâm Ấp: Xem
thuộc Tấn, Mục đế, năm Vĩnh Ḥa thứ 9 (Tb.3, 20-21).
Nhật Nam: Xem Triệu Thuật
Dương vương, năm đầu (Tb.2, 5-6).
Cửu Đức: Xem thuộc Ngô,
Kiến Hành năm thứ 3 (Tb.3, 15).
Năm Giáp Tí (544). (Lư,
Nam Việt đế Bôn, năm Thiên Đức thứ 1; Lương, năm Đại Đồng thứ 10).
Tháng giêng, mùa xuân. Lư
Bôn tự xưng là Nam Việt đế, đặt niên hiệu là Thiên Đức, tên nước là
Vạn Xuân.
Lư Bôn nhân thắng quân
địch, tự xưng đế, đặt niên hiệu gọi tên nước là Vạn Xuân, có ư mong
xă tắc lâu dài đến muôn đời; dựng điện Vạn Xuân để làm chỗ triều hội.
Lời chua - Vạn Xuân: Theo
sách Thái B́nh hoàn vũ kư của Nhạc Sử triều Tống, huyện Long Biên có
đài Vạn Xuân139 . Đài này của Lư Bôn ở Giao Chỉ làm năm Đại Đồng
triều Lương. Nay ở xă Vạn Phúc, huyện Thanh Tŕ, có hồ Vạn Xuân, c̣n
gọi là đầm Vạn Phúc. Vậy điện Vạn Xuân có lẽ ở đấy.
Đặt ra trăm quan.
Dùng Triệu Túc làm thái
phó140 , Tinh Thiều làm tướng văn, Phạm Tu làm tướng vơ.
Năm Ất Sửu (545). ([Tiền]
Lư, năm Thiên Đức thứ 2; Lương, năm Đại Đồng thứ 11).
Tháng 6, mùa hạ. Triều
Lương sai Dương Phiếu, Trần Bá Tiên sang đánh. Nam Việt đế Lư Bôn
chạy sang Gia Ninh.
Theo sách Cương mục
(Trung Quốc), trước kia, Lư Bôn giữ thành Giao Châu, nhà Lương sai
thứ sử Cao Châu là Tôn Quưnh và thứ sử Tân Châu là Lư Tử Hùng đem
quân sang đánh. Bấy giờ là mùa xuân, đương có khí lam chướng, bọn
Quưnh xin đợi đến mùa thu; nhưng tước Vũ Lâm hầu là Tư cứ giục tiến
quân. Đến quận Hợp Phố, th́ quân bị vỡ, chúng lại quay về. Đến năm
này, nhà Lương sai thứ sử Giao Châu là Dương Phiếu sang đánh Lư Bôn,
cử Trần Bá Tiên làm tư mă; thứ sử Định Châu là Tiêu Bột cùng họp với
Dương Phiến ở Tây Giang. Tiêu Bột biết ư các tướng sĩ sợ phải đi
đánh xa, nên nói dối để Dương Phiếu ở lại. Dương Phiếu tập họp các
tướng lại để hỏi mưu kế. Bá Tiên nói: "Quan thứ sử Định Châu muốn
tạm an nhàn trước mắt, không nghĩ đến mưu kế lớn, Tiết hạ vâng mạng
vua đi đánh kẻ có tội, dù sống chết thế nào cũng không quản ngại, lẽ
nào dùng dằng không tiến quân để nuôi cho thế giặc thêm mạnh mà làm
cho quân ḿnh nản chí hay sao?". Bá Tiên liền thúc quân ḿnh đi
trước. Dương Phiếu cử Bá Tiên làm tiên phong; đến Giao Châu, Lư Bôn
bị thua to, chạy sang thành Gia Ninh. Quân Lương tiến vây thành.
Lời chua - Gia Ninh: Theo
Đường Nguyên Ḥa (806-820) Quận huyện chí, Gia Ninh vốn là đất huyện
Mi Linh do Hán đặt; nhà Ngô chia lập thành huyện Gia Ninh; sau để
theo như thế.
Hợp Phố: Xem Thiệu Thuật
Dương vương năm thứ 1 (b.2, 5).
Tây Giang: ở cách nửa dặm
về phía Tây huyện Vĩnh Phúc thuộc phủ Quế Lâm (Trung Quốc).
Dương Phiếu: Người Tây
Huyện thuộc Thiên Thủy.
Bá Tiên: Người Trường
Tành thuộc Ngô Hưng, tức là Trần Cao Tổ sau này.
Tiêu Bột: Tôn thất nhà
Lương.
Định Châu: Chỉ Tiêu Bột.
Tiết hạ: Nghĩa cũng như
các hạ, chỉ Dương Phiến.
Năm Bính Dần (546). ([Tiền]
Lư, năm Thiên Đức thứ 3; Lương, năm Trung Đại Đồng thứ 1).
Tháng giêng, mùa xuân.
Bọn Dương Phiến đánh được thành Gia Ninh, Nam Việt đế Lư Bôn chạy đi
Tân Xương.
Lời chua - Tân Xương: Tức
là Phong Châu. Xem thuộc Ngô, năm Kiến Thành thứ 3 (Tb.3, 14).
Mùa thu, tháng tám. Nam
Việt đế Lư Bôn đóng đồn ở hồ Điển Triệt. Quân Lương đến đánh, quân
Lư Bôn bị vỡ, rút vào giữ động Khuất Lạo.
Theo sách Cương mục
(Trung Quốc), Lư Bôn lại đem quân từ trong xứ người Lạo ra, đóng đồn
ở hồ Điển Triệt. Quân Lương sợ, cứ đóng ở cửa hồ, không dám tiến. Bá
Tiên bảo các tướng: "Quân ta ở đây đă lâu, mà lại không có quân tiếp
viện. Bây giờ đă đi sâu vào trong nước người ta, nếu một trận đánh
nào bất lợi, c̣n mong ǵ sống mà về được nữa? Chi bằng bây giờ nhân
dịp quân địch đang thua luôn mấy trận, ḷng người chưa cố kết, ta
nên liều chết gắng sức quyết đánh bằng được. Nếu vô cớ cứ đóng ở đây
th́ việc hỏng mất!". Các tướng không ai trả lời. Đêm hôm ấy, nước
sông bỗng lên to đến bảy thước, chảy rót vào trong hồ. Bá Tiên đốc
thúc quân bản bộ ḿnh theo ḍng nước tiến đi trước. Quân Lương đánh
trống, reo ḥ, kéo tràn vào. Quân Lư Bôn bị vỡ, lại trốn vào trong
vùng người Lạo.
Sử cũ chép: Nam Việt đế
Lư Bôn lại rút lui, giữ trong động Khuất Lạo, điều chỉnh binh lính,
mưu tính chiến đấu về sau; giao cho tả tướng quân Triệu Quang Phục
giữ nước, cầm quân chống nhau với Bá Tiên.
Lời chua - Hồ Điển Triệt:
Theo lời chua của Hồ Tam Tỉnh trong sách Thanh Tông giám tập lăm ,
hồ này ở Tân Xương, tức là Phong Châu. Theo sách Phương dư kỷ yếu ,
của Cố Tổ Vũ đời Minh th́ hồ Điển Triệt ở về phía Tây phủ Thái
Nguyên, nay đă bị lấp. Trong hai thuyết ấy, chưa biết rơ ai phải,
nay hăy ghi cả hai để cùng tham khảo.
Động Khuất Lạo: Không rơ
ở đâu.
Năm Đinh Măo (547). (Nhà
[Tiền] Lư, Năm Thiên Đức thứ 4; Lương, năm Thái Thanh thứ 1).
Tháng giêng, mùa xuân.
Triệu Quang Phục đóng giữ Dạ Trạch.
Quang Phục cầm cự với Bá
Tiên, chưa phân thua được. Quân Bá Tiên nhiều và mạnh lắm. Quang
Phục liệu ḿnh không chống nổi, bèn lui giữ Dạ Trạch. Dạ Trạch là
cái chằm, chu vi không biết bao dặm mà kể, cỏ cây rậm rạp, giữa chằm
có băi ở được, bốn mặt th́ bùn lầy. Người ở đấy thuộc đường, dùng
sào đẩy thuyền độc mộc để đi lại. Quang Phục đem hơn một vạn người
vào giữ trong chằm ấy: ban ngày th́ bặt hẳn khói bếp thổi nấu, đến
đêm th́ đem quân ra đánh úp trại quân Lương giết chết và bắt được
địch rất nhiều; trông vào những lương thực bắt được để làm kế duy
tŕ lâu dài. Bá Tiên cứ theo dơi để đánh nhưng rút cục vẫn không
thắng được. Người trong nước bấy giờ gọi Quang Phục là Dạ Trạch
vương.
Lời chua - Dạ Trạch: Bây
giờ thuộc huyện Đông An, phủ Khoái Châu. Theo sách Thanh Nhất thống
chí , Dạ Trạch thuộc huyện Đông Kết, phủ Kiến Xương. Thời Lương Vũ
đế, Trần Bá Tiên đánh Lư Bôn, Lư Bôn trốn vào trong chằm này, đêm
đến đem quân ra đánh; nhân thế gọi là Dạ Trạch. Huyện Đông An trước
kia gọi là Đông Kết.
Sử cũ chua: Tục truyền:
con gái Hùng Vương là Tiên Dung mị nương ra chơi ngoài cửa biển, khi
thuyền trở về đến băi Chử Gia, gặp Chử Đồng Tử, hai người kết làm vợ
chồng, ở ngay trên băi ấy, rồi băi ấy trở thành một nơi đô hội. Bỗng
một hôm, đương nửa đêm, tự nhiên mưa to gió lớn lôi cuốn cửa nhà
đang ở, dân cư và gà chó bay mất cả, nên người thời đó gọi băi ấy là
băi Tự Nhiên, chằm ấy là chằm Dạ Trạch. Việc này xuất xứ ở sách Lĩnh
Nam trích quái , là một việc hoang đường, nay phụ chép để tham khảo.
Năm Mậu Th́n (548). ([Tiền]
Lư, năm Thiên Đức thứ 5; Lương, năm Thái Thanh thứ 2).
Tháng 3, mùa xuân. Nam
Việt đế Lư Bôn mất ở động Khuất Lạo.
Nam Việt đế Lư Bôn ở động
Khuất Lạo, bị cảm mạo khí lam chướng đến năm này mất.
Lời phê - Nam đế nhà [Tiền]
Lư dẫu sức không địch nổi giặc Lương đến nỗi công cuộc không thành,
nhưng đă biết nhân thời cơ vùng dậy, tự làm chủ lấy nước ḿnh, đủ
làm thanh tế mở đường cho nhà Đinh, nhà Lư sau này. Vậy việc làm của
Lư Nam đế há chẳng hay lắm sao? Lời cẩn án - Sử cũ chép năm Giáp Tí,
niên hiệu Đại Đồng thứ 10 (544) nhà Lương, Lư Bôn tự xưng đế, đặt
niên hiệu là Thiên Đức, đến tháng 3, năm Mậu Th́n (548) th́ mất. Như
vậy năm Mậu Th́n c̣n là năm Thiên Đức thứ 5, Quang Phục vẫn chưa
xưng vương . Sử cũ vội đem năm ấy chép làm năm đầu của Triệu Việt
vương th́ không hợp nghĩa và lệ, nay xin chép năm Mậu Th́n vẫn là
năm Thiên Đức thứ 5, đến hẳn năm Kỷ Tị (549) mới chép làm năm thứ
nhất của Triệu Quang Phục, để cho đúng khỏi ngang trái nghĩa và lệ (như
phàm lệ ở đầu sách đă nêu ra) và không sai sự thực . Nhà [Tiền] Lư
khởi từ năm Giáp Tí (544), mất năm Mậu Th́n (548), cộng được 5 năm.
Năm Kỷ Tỵ (549). (Triệu,
Việt Vương Quang Phục năm thứ 1, Lương, năm Thái Thanh thứ 3).
Triệu Quang Phục tự xưng
là Việt vương.
Quang Phục là con Triệu
Túc, người huyện Chu Diên, là người có oai và hùng dũng, theo Nam
Việt đế Lư Bôn đi đánh dẹp, có công, được phong làm tả tướng quân.
Khi Lư Bôn mất, Quang Phục tự xưng làm vua. Lúc bấy giờ Quang Phục
đóng quân ở Dạ Trạch, thấy quân Lương không rút lui, bèn đốt hương
khấn trời th́ có điềm tốt là được móng rồng để đính lên mũ đâu mâu,
dùng để uy hiếp quân giặc. Từ đó thanh thế quân đội lừng lẫy, đánh
đâu được đấy.
Lời chua - Chu Diên: Xem
thuộc Hán, năm Kiến Vũ thứ 16 (Tb.2, 10).
Móng rồng: Sử cũ chua
rằng: tục truyền trong chằm Dạ Trạch có người tiên là Chử Đồng Tử
cưỡi rồng vàng từ trên trời bay xuống trút cái móng rồng trao cho
Quang Phục bảo đem đính lên trên mũ đâu mâu để đi đánh giặc.
Đâu Mâu: Theo sách Thuyết
Văn , đâu mâu là mũ trận. Thiên Duyệt mệnh trong kinh Thư chép: "Áo
giáp mũ trụ là thứ gây ra việc binh nhung". Sách đó chua rằng mũ trụ
tức là mũ đâu mâu.
Năm Canh Ngọ (550). (Triệu,
Việt vương, năm thứ 2; Lương, Giản Văn đế, năm Đại Bảo thứ 1).
Tháng giêng, mùa xuân.
Triệu Việt vương đánh bại được tướng nhà Lương là Dương Sàn; vào
đóng ở trong thành Long Biên.
Khi ấy nhà Lương cho Bá
Tiên làm Uy Minh tướng quân, thứ sử Giao Châu. Triệu Việt vương vẫn
c̣n đóng giữ Dạ Trạch, Bá Tiên định làm kế cầm cự lâu, cắt đứt đường
tiếp viện lương thực để làm ṃn mỏi quân đội Triệu Việt vương. Bấy
giờ nhà Lương có loạn Hầu Cảnh, gọi Bá Tiên về, để tỳ tướng của Bá
Tiên là Dương Sàn ở lại đánh Triệu Việt vương. Triệu vương đem quân
ra đánh: Dương Sàn bị thua và chết, quân Lương tan vỡ, kéo nhau về
Bắc (Trung Quốc). Trong nước được yên, Triệu Việt vương vào đóng ở
thành Long Biên.
Lời chua - Hầu Cảnh:
Người trấn Hoài Sóc nước Nguỵ, phản bội nhà Nguỵ, đầu hàng nhà Lương,
được Lương Vũ đế thu nạp. Hầu Cảnh lại làm phản nhà Lương, đánh vây
đài thành144 . Bá Tiên hội quân đánh Hầu Cảnh.
Lư Thiên Bảo giữ động Dă
Năng, tự xưng là Đào Lang vương.
Trước kia, Lư Bôn lánh
vào ở động Khuất Lạo, anh ruột Lư Bôn là Thiên Bảo cùng với một viên
tướng người cùng họ là Lư Phật Tử rút vào Cửu Cân. Bá Tiên đuổi đánh,
quân Thiên Bảo bị thua, mới thu thập quân c̣n lại chạy sang vùng
người Di, Lạo ở biên giới Ai Lao. Thiên Bảo thấy động Dă Năng ở đầu
nguồn sông Đào Giang là chỗ đất bằng phẳng và màu mỡ, bèn đắp thành
ở đấy; nhân tên đất đặt hiệu nước, được dân chúng tôn làm chúa, xưng
là Đào Lang vương.
Lời chua - Ai Lao : Tên
nước. Theo sách Hậu Hán thư , người Di Ai Lao gốc tính trước ở Lao
Sơn , sau dần sinh nở măi, mới chia đặt ra các tiểu vương, thường
hay ở rải rác những nơi khe núi. Theo sách Thái B́nh hoàn vũ kư ,
của Nhạc Sử nhà Tống: "Nước Ai Lao, khoảng giữa niên hiệu Hán Vĩnh
B́nh (58-75), thuộc trong khu vực nhà Hán. Nhà Hán lấy đất của họ
đặt ra hai huyện Ai Lao và Bác Nam, hợp lại làm quận Vĩnh Xương.
Sách ấy chua tức là quận Vân Nam bây giờ. Nước Lào phía tây thông
với Đại Tần , phía nam thông với Giao Chỉ. Theo sách Điền tái kư của
Dương Thận nhà Minh, đất Điền trước kia ở về miền rừng núi Ai Lao
thuộc Vĩnh Xương, tộc loại mỗi ngày một sinh nở nhiều, ḍng giống
tràn lan, cắt giữ từng vùng chia làm 99 bộ. Họ có sáu người tù
trưởng, đều gọi là Chiếu. Đến đời Đường, họ Mông mới xưng là nước
Nam Chiếu. Theo sách Quảng dư kư của Thái Phương Bính nhà Minh, Vĩnh
Xương quân dân phủ thuộc Vân Nam trước là nước Ai Lao. Sau năm Khai
Nguyên (713-741) đời Đường, mới bị nước Nam Chiếu chiếm giữ. Đến đời
Tống, bị họ Đoàn, họ Cao chiếm giữ. Nhà Nguyên khai thác Vân Nam,
lập ra Kim Xỉ tuyên phủ ti. Nhà Minh đổi đặt Vĩnh Xương quân dân chỉ
huy sứ. Trong sách Dư địa chí , của Nguyễn Trăi nhà Lê, có chua rằng:
"Bộ lạc Ai Lao nhiều lắm, đâu đâu cũng có, đều gọi là Lào".
Hợp các sách lại mà khảo
cứu, th́ Ai Lao này thuộc Vân Nam. Chỉ v́ loài giống họ nhiều lắm,
họ ở rải rác các nơi khe núi, nên các dân tộc ở ven biên giới nước
ta, như là Lăo Qua, Vạn Tượng cho đến cả các man ở Trấn Ninh, Trấn
Man và Lạc Biên, tục đều gọi là Lao cả.
Về đoạn sử này, Sử cũ
phần trên th́ chép là chạy vào Cửu Chân, phần dưới th́ chép là chạy
sang vùng Di, Lạo ở biên khu Ai Lao. Vậy có lẽ là Trấn Man hay Nam
Chưởng bấy giờ chăng?
Dă Năng động : Không biết
ở đâu.
Năm Ất Hợi (555). (Triệu,
Việt vương, năm thứ 7; Lương, Kính đế, năm Thiệu Thái thứ 1).
Lư Thiên Bảo mất, mọi
người suy tôn Lư Phật Tử lên làm chủ soái.
Thiên Bảo mất ở động Dă
Năng, không có con thừa tự, mọi người mới suy tôn Lư Phật Tử lên nối
ngôi thay để thống suất quân và dân.
Năm Đinh Sửu (557). (Triệu,
Việt vương, năm thứ 9; Trần, Vũ đế, năm Vĩnh Định thứ 1).
Lư Phật Tử đánh nhau với
Triệu Việt vương, không thắng được, xin giảng hoà.
Phật Tử kéo quân xuống
phía đông, đánh nhau với Triệu Việt vương ở Thái B́nh, năm lần giáp
chiến chưa phân được thua. Quân Phật Tử phải lùi một ít rồi xin ḥa.
Việt vương nghĩ Phật Tử là người cùng họ với Lư Bôn trước, không nỡ
tuyệt t́nh, mới lấy châu Quân Thần làm địa giới chia cho Lư Phật Tử
ở về phía Tây nước ḿnh. Lư Phật Tử mới dời sang ở thành Ô Diên.
Lời chua - Thái B́nh :
Tên đất. Thời bấy giờ Lư Phật Tử từ trong vùng Di Lạo kéo quân xuống
phía đông, đánh nhau với Triệu Việt vương ở đấy; sau cắt chia địa
giới ở châu Quân thần thuộc huyện Từ Liêm, th́ Thái B́nh phải thuộc
về Phong Châu xưa, tức là Sơn Tây bây giờ. Có thể khảo thêm ở Địa lư
chí trong Đường thư mà lấy làm bằng chứng: "Huyện Thái B́nh bị cắt
ra đặt làm Phong Khê". Lại nói: "Phong Khê thuộc Phong Châu". Nhưng
các sách chép không rơ, nên chưa biết đích xác ở đâu. Hai thôn Đường,
Nguyễn thuộc Thái B́nh sẽ thấy sau này, có lẽ cũng là ở đây. Có nếu
bảo đấy là Thái B́nh thuộc Sơn Nam th́ không phải.
Quân Thần châu : Nay là
hai làng Thượng Cát, Hạ Cát thuộc huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Nội. Có
thuyết cho rằng hai làng ấy xưa kia gọi là Thượng Cát Giới và Hạ Cát
Giới, về sau đổi lại .
Ô Diên : Đất Giao Chỉ xưa,
năm Vũ Đức thứ tư (621) nhà Đường đặt ra huyện Ô Diên, cùng với Từ
Liêm và Vũ Lập là ba huyện đều thuộc Giao Chỉ. Sử cũ chua Ô Diên là
xă Hạ Mỗ ở Từ Liêm. Xă ấy có đền thờ Bát Lang thần, có lẽ là Nhă
Lang (con Lư Phật Tử) chăng.
Năm Tân Măo (571). (Lư,
Hậu đế Phật Tử, năm thứ 1; Trần Tuyên đế, năm Đại Kiến thứ 3).
Lư Phật Tử đánh úp, lấy
được nhà Triệu.
Sử cũ chép: Trước kia,
Phật Tử giảng ḥa với nhà Triệu, rồi cầu hôn cho con trai là Nhă
Lang. Việt vương gả con gái là Cảo Nương cho Nhă Lang, và cho ở gửi
rể. Nhă Lang nhân lấy trộm được cái móng rồng, trở về nước mưu với
Phật Tử đánh úp nhà Triệu. Khi Phật Tử kéo quân đến đánh, Việt vương
vội ra đối địch, th́ cái móng rồng đă mất rồi, mới cùng với con gái
là Cảo Nương chạy về phía nam. Bị quân Lư Phật Tử đuổi sát, Việt
vương chạy đến cửa biển Đại Nha, hết đường chạy, gieo ḿnh xuống
biển chết.
Lời cẩn án - Sử cũ chép
việc Triệu Việt vương được cái móng rồng của Chử Đồng Tử cho; việc
Nhă Lang sang gửi rể rồi lấy trộm móng rồng; việc Triệu Việt vương
v́ mất cái móng rồng mà bị thua. Đem những việc ấy kháp với chuyện
Thục An Dương vương và Triệu Trọng Thủy trước kia giống nhau như hệt,
kỳ quái trái thường không cần phải biện bạch cho lắm. Nhưng Sử cũ
chép phần nhiều trùng điệp nhau, sai hẳn sự thực, đại loại như thế
đấy. Nay muốn t́m ở Sử cũ lấy chuyện có thể tin ở đời này và truyền
lại đời sau, thật cũng khó lắm. Lời chua - Cửa biển Đại Nha : Xưa
gọi là Đại Nha , lại gọi là Đại Ác; nhà Lư đổi là Đại An. Nay ở cửa
Liêu thuộc xă Quần Liêu huyện Đại An có đền thờ Triệu Việt vương.
Nhà Triệu mất. Nhà Triệu
khởi năm Kỷ Tị, mất năm Canh Dần, cộng hai mươi hai năm (549-570).
Lư Phật Tử tự xưng đế,
đóng đô ở Phong Châu.
Phật Tử đă diệt nhà Triệu,
bèn theo hiệu Nam đế trước xưng là Hậu Nam đế, dời từ thành Ô Diên
đến đóng ở Phong Châu.
Năm Nhâm Tuất (602). (Lư,
Hậu đế, năm thứ 32; Tùy, Văn đế, năm Nhân Thọ thứ 2).
Đế Phật Tử sai Lư Đại
Quyền giữ thành Long Biên, Lư Phổ Đỉnh giữ thành Ô Diên.
Lời chua - Lư Đại Quyền:
Con người anh Lư Hậu đế. Sử cũ chép chữ Đại Quyền (quyền lớn) là Đại
Quyền (thay quyền). Nay căn cứ vào Tùy thư , đính chính lại.
Phổ Đỉnh: Một tướng họ Lư
khác.
Nhà Tùy sai Lưu Phương
sang xâm lấn. Đế Phật Tử ra hàng.
Theo Tùy thư , Phật Tử
giữ châu, tự xưng đế. Dương Tố tiến cử thứ sử Qua Châu là Lưu Phương
có tài lược làm tướng. Vua Tùy dùng Lưu Phương làm hành quân tổng
quản đạo Giao Châu, thống lĩnh quân sĩ 27 dinh sang đánh. Quân tiến
đến núi Đô Long, gặp hơn hai ngh́n quân Phật Tử, Lưu Phương đánh phá
được ngay. Khi kéo quân đến Phong Châu, Lưu Phương sai người hiểu dụ
về họa phúc, Phật Tử sợ, xin hàng. Lưu Phương bắt Phật Tử đem về Bắc
(Trung Quốc), c̣n những tướng cũ bắt được người nào kiệt liệt đều
giết chết cả.
Lời chua - Dương Tố:
Người Hoa Âm thuộc Hoằng Nông.
Lưu Phương: Người đất
Trường An thuộc Kinh Triệu.
Qua Châu: Đời Đường,
thuộc đạo Sơn Nam.
Núi Đô Long: Theo Thanh
Nhất thống chí , ở phủ Khánh Viễn đời Đường, thuộc An Nam quản, có
núi Đô Long.
Nhà Hậu Lư mất. Nhà Hậu
Lư khởi lên năm Tân Măo155 , mất năm Nhâm Tuất, cộng ba mươi hai năm
(571-602).
Năm Ất Sửu (605). (Tùy,
Dượng đế, năm Đại Nghiệp thứ 1).
Tháng giêng, mùa xuân.
Nhà Tùy cho Lưu Phương làm chức hành quân tổng quản156 đạo Hoan Châu,
đi đánh Lâm Ấp, phá tan được nước ấy.
Theo sách Cương mục
(Trung Quốc), các quan nhà Tùy bảo nước Lâm Ấp có nhiều của báu lạ.
Khi đó, thiên hạ (đất nước Trung Quốc) đâu đấy không có giặc giă ǵ
cả, Lưu Pương mới b́nh được Giao Châu. Dượng đế cho Lưu Phương làm
chức hành quân tổng quản đạo Hoan Châu, đi kinh lược nước Lâm Ấp.
Quân Lưu Phương tiến đến cửa biển, vua Lâm Ấp là Phạn Chí sai quân
đóng giữ các nơi hiểm yếu. Lưu Phương đánh đuổi được bọn này. Quân
Lưu Phương vượt qua sông Chà Lê, gặp quân Lâm Ấp cưỡi voi từ bốn mặt
kéo ra đánh: quân Phương thua. Phương sai đào nhiều hố nhỏ, phủ cỏ
lên trên, rồi đem quân ra đánh, giả cách thua: quân Lâm Ấp đuổi theo,
voi sa xuống hố, nhiều con ngă què. Quân Phương lấy nỏ bắn voi, voi
lùi chạy, chà đạp cả vào trận địa Lâm Ấp. Nhân đó Phương tung quân
tinh nhuệ ra đánh kịch liệt: quân Lâm Ấp bị thua. Phương thúc quân
đuổi theo, vượt qua phía nam cột đồng của Mă Viện, tám ngày th́ đến
kinh đô nước Lâm Ấp. Tháng tư, Phạn Chí bỏ thành, chạy ra phía biển.
Lưu Phương vào thành, tước lấy 18 cái thần chủ thờ ở miếu. Những
thần chủ ấy đều đúc bằng vàng. Sau đó
Lưu Phương đục bia ghi
công rồi kéo về. Trong trận này quân Tùy bị chân phù thũng, chết đến
bốn năm phần mười; Lưu Phương cũng bị bệnh, chết ở dọc đường.
Lời phê - Binh đao là
hung khí, thánh nhân bất đắc dĩ mới phải dùng để ngăn bọn gian bạo,
giữ cho dân được yên ổn, đâu lại hám của, tham lợi, cầu làm thỏa
thích ḷng ham muốn của ḿnh, để cho dân tàn nước hại, không hề tơ
hào đoái hoài thương xót, sao lại nhẫn tâm đến thế được? Cổ nhân nói:
"Một tướng thành công, hàng vạn xương cốt người khác phải khô héo",
điều ấy không cần nói đến, huống chi tướng Tùy cũng không khỏi chết
đường, nước Tùy rồi cũng mất theo. Việc này thực đáng là bài học sâu
cay cho những kẻ sính dùng vơ lực! Lời chua - Hoan Châu: Đời Hùng
Vương xưa là bộ Hoài Hoan; đời Tần, thuộc Tượng quận; đời Hán, thuộc
quận Nhật Nam; nhà Lương đổi là Đức Châu; nhà Tùy năm Khai Hoàng
(581-600) đổi là Hoan Châu đến năm Đại Nghiệp (605-616), đổi là Nhật
Nam. Nhà Đường, năm Trinh Quán (627-649) lại đặt làm Hoan Châu.
Triều Đinh, Lê cũng theo tên này. Đến nhà Lư đổi là châu Nghệ An;
nhà Trần đổi là trấn Lâm Giang; thuộc Minh đổi làm các phủ Nghệ An
và Diễn Châu; nhà Lê, năm Quang Thuận (1460- 1469) đặt làm Nghệ An
thừa tuyên. Nay là tỉnh Nghệ An.
Lâm Ấp: Xem thuộc Tấn,
Mục đế, năm Vĩnh Ḥa thứ 9 (Tb.3, 20-21).
Chà Lê: Sách Thông giám
tập lăm chua là ở phía bắc nước Chiêm Thành, nay chưa rơ chỗ nào.
Kinh Đô nước Lâm Ấp: Nay
xét các xă sau đây đều có di tích thành cũ vua Chiêm, c̣n kinh đô
nước Chiêm th́ không rơ ở đâu: xă Trung Ái ở huyện B́nh Chính và xă
Uẩn Áo ở huyện Lệ Thủy thuộc tỉnh Quảng B́nh; xă Nguyệt Biếu ở huyện
Hương Thủy và xă Thành Trung ở huyện Quảng Điền thuộc tỉnh Thừa
Thiên; xă Thăng B́nh ở huyện Diên Phúc thuộc tỉnh Quảng Nam; hai
thôn Nam An, Bắc Thuận ở huyện Tuy Viễn thuộc tỉnh B́nh Định.
Đồng Trị (cột đồng): Xem
thuộc Hán, năm Kiến Vũ thứ 19 (Tb.2, 12-14).
Năm Tân Tị (621). (Đường,
Cao tổ, năm Vũ Đức thứ 4).
Nhà Đường cử Khâu Ḥa làm
đại tổng quản158 Giao Châu.
Theo Đường thư , cuối năm
Đại Nghiệp (605-616), trong nước (Trung Quốc dưới triều Tùy) khổ sở
v́ nạn quan lại tham nhũng, xâm hại, thường thường nổi dậy làm phản.
Dượng đế thấy Khâu Ḥa nhận chức ở đâu cũng tỏ ra là người tốt, bèn
bổ làm thái thú Giao Chỉ. Khâu Ḥa gần gụi nhân dân, hết ḷng vỗ về
chúng; những miền biên viễn đều được yên ổn. Các nước ở về phía tây
nước Lâm Ấp thường đưa biếu Khâu Ḥa hạt trai sáng, văn tê vàng bạc,
của báu. V́ thế, Khâu Ḥa giàu ngang với bọn vua chúa. Vua nhà Lương
là Tiêu Tiển nghe thấy vậy, sai Nịnh Trường Chân đem quân Man, Lư
sang đánh Khâu Ḥa, Khâu Ḥa sợ, muốn ra đón tiếp xin hàng, trưởng
sử Cao Sĩ Liêm bảo Khâu Ḥa rằng: "Quân của Trường Chân dẫu nhiều
thực, nhưng từ xa đến đây, chắc cũng không thể ở lâu được. Quân sĩ
trong thành c̣n có thể đánh nổi, việc ǵ mà phải chịu người ta áp
chế!". Khâu Ḥa theo lời Sĩ Liêm, cho Liêm làm hành quân tư mă, đón
đánh đuổi được quân Trường Chân. Người quận Giao Chỉ thấy thế dựng
bia ghi công Khâu Ḥa. Khi nhà Tùy mất, Khâu Ḥa xin thần phục nhà
Đường, nhà Đường cho Khâu Ḥa làm đại tổng quản Giao Châu, phong
tước Đàm quốc công.
Lời chua - Khâu Ḥa: Theo
truyện Khâu Ḥa trong Đường thư , Khâu Ḥa, người đất Lạc Dương,
trước làm quan nhà Chu đến chức khai phủ nghi đồng tam ti; sau theo
nhà Tùy, làm quan ở ba châu Tư, Lương, Bồ, đều có tiếng là người
khoan ḥa.
Tiêu Tiển: Cháu bốn đời
Tuyên đế nhà Lương. Theo Cương mục (Trung Quốc), năm Đại Nghiệp thứ
13 (617) đời Dượng đế nhà Tùy, Tiêu Tiển khởi binh tự xưng là Lương
vương; đến đời Cung đế năm Nghĩa Ninh thứ hai (618), tự xưng là đế,
chiếm địa vực phía đông từ Cửu Giang, phía tây đến Tam Hiệp, phía
nam đến tận Giao Chỉ, phía bắc tới Hán Xuyên. Về sau, Tiêu Tiển đầu
hàng nhà Đường.
Nịnh Trường Chân: Theo
Khâm Châu chí của Chu Xuân Niên, Trường Chân là con Nịnh Mănh Lực,
thứ sử Khâm Châu. Khi Mănh Lực chết, Trường Chân thay cha làm thứ sử.
Trường Chân có quân đội mạnh, gồm có cả mấy quận Uất Châu. Sau
Trường Chân hàng nhà Đường, từ đó mấy châu Giao (châu), Ái (châu)
mới giao thông được với nhau.
Cao Sĩ Liêm: Người đất Tu
thuộc Bột Hải. Khoảng năm Nhân Thọ (601-604), đậu văn tài giáp khoa,
được bổ làm trị lễ lang, sau v́ can cữu, bị giáng chức làm chủ bạ
Chu Diên, Khâu Ḥa cử lên làm tư pháp thư tá; về sau, cùng với Khâu
Ḥa cùng ra hàng nhà Đường, làm quan đến chức hữu bộc xạ.
Năm Kỷ Măo (679). (Đường,
Cao Tông, năm Điều Lộ thứ 1).
Tháng 8, mùa thu. Nhà
Đường bắt đầu đặt ra An Nam đô hộ phủ, phủ lỵ ở Giao Châu.
Theo Đường thư , An Nam
đô hộ phủ vốn là quận Giao Chỉ, phủ lỵ ở Giao Chỉ, thống trị 12 châu,
là: Giao Châu, Lục Châu, Phong Châu, Ái Châu, Hoan Châu, Trường Châu,
Phúc Lộc châu, Thang Châu, Chi Châu, Vũ Nga châu, Diễn Châu, Vũ An
châu.
Lời cẩn án - Theo Sử của
Ngô [Th́] Sĩ, nhà Đường đổi quận Giao Chỉ làm An Nam đô hộ phủ gồm
có An Nam (nên chép là Giao Châu), Ái Châu, Phúc Lộc châu, Hoan Châu,
Phong Châu, Lục Châu, Diễn Châu, Trường Châu. Các châu trên đây đều
ở trong địa giới nước ta. C̣n như Thang Châu, Chi Châu, Vũ Nga châu,
Vũ An châu, chưa chắc đă phải là đất An Nam cả. V́ tại cương giới
các châu ấy giáp với Nam Giao nên cũng để thuộc về đô hộ phủ đó thôi.
Nay xét: Theo sách Thái B́nh hoàn vũ kư của Nhạc Sử nhà Tống, đất
Trường Châu cùng với Cửu Chân là một, th́ Trường Châu phải ở gần đất
Thanh Hóa bây giờ, nhưng chưa biết đích xác là chỗ nào. Theo sách
Thanh Nhất thống chí, ở Khâm Châu có ba huyện Ô Lôi, Hoa Thanh và
Ninh Hả, hiện c̣n có thành cũ bỏ hoang. Vậy th́ Lục Châu thuộc về
Khâm Châu nhà Thanh, nếu bảo là ở địa giới nước ta cả th́ e lầm
chăng. Lại như Địa dư chí trong Lịch triều hiến chương của Phan Huy
Chú bảo Hưng Hóa là Chi Châu đời Đường, Tuyên Quang là Thang Châu
đời Đường; Thái Nguyên là Vũ Nga châu đời Đường; An Bang tức bây giờ
là Quảng Yên, đời Đường gọi là Vũ An châu. Không biết Phan Huy Chú
căn cứ vào đâu mà chép thế, nhưng cũng ghi lại để tham khảo.
Lời chua - Theo Địa lư
chí trong Đường thư :
Giao Châu thống lĩnh 8
huyện là Tống B́nh, Nam Định, Thái B́nh, Giao Chỉ, Chu Diên, Long
Biên, B́nh Đạo và Vũ B́nh.
Lục Châu thống lĩnh 3
huyện, là: Ô Lôi, Hoa Thanh và Ninh Hải.
Phong Châu thống lĩnh 5
huyện, là: Gia Ninh, Thừa Hóa, Tân Xương, Cao Sơn và Châu Lục.
Ái Châu thống lĩnh 6
huyện, là: Cửu Chân, An Thuận, Sùng B́nh, Quân Ninh, Nhật Nam và
Trường Lâm.
Hoan Châu thống lĩnh 4
huyện, là: Cửu Đức, Phố Dương, Việt Thường và Hoài Hoan.
Trường Châu thống lĩnh 4
huyện, là: Văn Dương, Đồng Thái, Trường Sơn và Kỳ Thường.
Phúc Lộc châu thống lĩnh
3 huyện, là: Nhu Viễn, Đường Lâm và Phúc Lộc.
Thang Châu thống lĩnh 3
huyện, là: Dương Tuyền, Lục Thủy và La Thiều.
Chi Châu thống lĩnh 7
huyện, là: Hân Thành, Phú Xuyên, B́nh Tây, Lạc Quang, Lạc Diễm, Đa
Vân và Ân Long.
Vũ Nga thống lĩnh 7 huyện,
là: Vũ Nga, Như Mă, Vũ Nghĩa, Vũ Di, Vũ Duyên, Vũ Lao và Lương Sơn.
Diễn Châu thống lĩnh 7
huyện, là: Trung Nghĩa, Hoài Hoan, Long Tŕ, Tư Nông, Vũ Lang, Vũ
Dung và Vũ Kim.
Vũ An châu thống lĩnh 2
huyện, là: Vũ An và Lâm Giang.
Năm Điều Lộ thứ nhất: Sử
cũ chép lầm là năm Vũ Đức thứ năm; nay theo Đường thư, đổi lại.
Giao Châu: Đặt từ đời Hán,
lấy 7 quận ở Giao Chỉ lệ thuộc Giao Châu.
Phong
Châu: Xem Hùng vương (Tb, 1, 2, ...)
Ái Châu:
Xem thuộc Lương, Vũ đế, năm Phổ Thông thứ 4 (Tb.3, 33)159 .
Chi Châu:
Bộ Tân Hưng xưa, nay là tỉnh Hưng Hóa.
Diễn Châu:
Bộ Việt Thường xưa, nay là phủ Diễn Châu thuộc tỉnh Nghệ An.
Phúc Lộc
châu: Nay ở địa giới tỉnh Thanh Hóa, nhưng chưa rơ chỗ nào.
Trường
Châu, Thang Châu: Bộ Vũ Định xưa, nay là Tuyên Quang.
Vũ Nga
châu: Bộ Vũ Định xưa, nay là Thái Nguyên. (Hoài Hoan nguyên thuộc
Hoan Châu, đầu năm Trinh Quán (627-650) đổi tên là Diễn Châu, rồi
lại bỏ. Năm Quảng Đức thứ hai (764) lại tách đất ở Hoan Châu đặt ra
Hoài Hoan).
Năm Đinh
Hợi (687). (Đường, Trung Tông, năm Tự Thánh thứ 4).
Tháng 7,
mùa thu. Đám người Lư160 làm loạn, giết đô hộ Lưu Diên Hựu. Tư mă
Quế Châu là Tào Huyền Tĩnh đi đánh, b́nh được.
Theo
Đường thư , trước kia, đám người Lư hằng năm nộp tô có một nửa số đă
quy định. Diên Hựu bắt phải nộp cả số ấy. Mọi người đều oán, mưu
định cùng nhau dấy loạn. Diên Hựu giết chết người cầm đầu là Lư Tự
Tiên. Dư đảng của Tự Tiên là bọn Đinh Kiến nổi lên làm phản, họp
nhau lại vây phủ thành. Trong thành quân ít, không thể chống lại
được, bèn đóng cửa thành, đợi quân cứu viện. Phùng Tử Du là một đại
tộc ở Quảng Châu, nhân dịp đó, mong để lập công, đóng quân lại không
đi cứu. Diên Hựu bị giết. Về sau, tư mă Quế Châu là Tào Huyền Tĩnh
đem quân sang đánh, chém được Đinh Kiến.
Lời chua
- Diên Hựu: Theo truyện Lưu Diên Hựu trong Đường thư , Hựu là người
đất Bành Thành thuộc Từ Châu, đậu tiến sĩ có sở năng về nghề làm
quan lại, trước đă làm thứ sử Cơ Châu, sau đổi sang làm đô hộ An
Nam.
Huyền
Tĩnh: Sử cũ chép là Trực Tĩnh.
Tự Tiên:
Sử cũ chép là "Tiên".
Tử Du: Sử
cũ chép là Do đều lầm; nay theo Đường thư, đổi lại.
Năm Nhâm
Tuất (722). (Đường, Huyền tông, năm Khai Nguyên thứ 10).
Tháng 7,
mùa thu. Ở Hoan Châu Mai Thúc Loan giữ lấy châu, tự xưng đế. Nhà
Đường, sai bọn nội thị Dương Tự Húc sang đánh, phá được.
Theo
Đường thư , khoảng năm Khai Nguyên (713-741), An Nam có Mai Thúc
Loan làm phản, tự xưng là Hắc đế, chiêu tập quân 32 châu, ngoài liên
kết với các nước Lâm Ấp, Chân Lạp và Kim Lân, giữ vùng biển nam,
quân số có đến 40 vạn. Tư Húc xin đi đánh, chiêu mộ 10 vạn quân,
cùng với Quang Sở Khách tiến quân theo đường cũ của Mă Viện, nhân
lúc bất ư, sập đến đánh. Thúc Loan hoang mang nao núng, không kịp
mưu tính cách đối phó, bị thua to. Tư Húc mới chôn những xác chết
chung vào một nơi, đắp thành cái g̣ cao (Ḱnh quán), để ghi chiến
công của ḿnh, rồi rút quân về.
Lời cẩn
án - Khoảng năm Khai Nguyên (713-741) nhà Đường, An Nam đô hộ phủ
vẫn c̣n ở Giao Châu, thống trị 12 châu, 59 huyện, đều đặt các quan
thú, tể để quản trị; Việc đánh thuế tô, thuế điệu và bắt lính đều
tuân theo lệnh nhà Đường; lúc Mai Thúc Loan khởi lên, th́ phủ đô hộ
với các châu Phong, Ái, Lục, Diễn chưa nghe thấy có đâu là thuộc về
Mai Thúc Loan đóng giữ, như vậy Mai Thúc Loan làm thế nào mà chiêu
tập được người 32 châu, có số quân đến 40 vạn? Trộm nghĩ Thúc Loan
chẳng qua giữ được một châu, thế lực cũng nhỏ. Bấy giờ Đường Huyền
Tông thích lập công ở biên giới, bọn Tư Húc và Sở Khách th́ lợi dụng
xứ này ở nơi hiểm trở xa xôi, nên mới thổi phồng thanh thế bên địch
để cầu lấy công cán và phong thưởng đó thôi. Nếu không phải thế th́
sau giáp binh và đất đai như thế, mà quân nhà Đường mới thoạt kéo
đến đă vội kinh hăi tan ră ngay? Sử cũ cũng chép Thúc Loan ngoài
liên kết với các nước Lâm Ấp, Chân Lạp, số quân có 30 vạn có lẽ cũng
cứ dựa qua vào Đường thư, chứ chưa xét đến sự thực. Lời chua - Dương
Tư Húc: Theo truyện Dương Tư Húc trong Đường thư , Tư Húc là hoạn
quan người Thạch Thành thuộc La Châu, gốc tích là họ Tô.
Quang Sở
Khách ( Sử cũ chép Nguyên Sở Khách là lầm): Người Giang Lăng, hồi
đầu niên hiệu Khai Nguyên, sang làm An Nam đô hộ.
Chân Lạp:
Tên nước. Xem thuộc Đường, Tuyên Tông, năm Đại Trung thứ 12 (Tb.4,
39).
Kim Lân:
Tên nước. Theo sách Thái B́nh ngự lăm đời Tống nước Kim Lân c̣n có
tên gọi là Kim Trần. Ngoại quốc truyện chép: từ phía tây Phù Nam đi
hơn 2.000 dặm th́ đến Kim Lân.
Đường cũ
của Mă Viện: Theo sách Khâm Châu chí của Chu Xuân Niên, núi Ô Lội
liên tiếp chạy ra biển lớn, (đứng đó) nh́n về phía tây thấy Hải Đông
phủ thuộc Giao Chỉ. Mă Phục Ba khi vào An Nam đi theo đường này. Ở
đấy có miếu thờ Mă Phục Ba. Theo sách Quận quốc lợi bệnh thư của Cố
Viêm Vũ, triều Minh: từ Mă Phục Ba về sau, thủy quân (Trung Quốc)
đều đi từ phía nam Khâm Châu ra biển lớn, giương buồm đi một ngày
tới trấn Triều Dương thuộc Giao Châu. Nơi đường cũ Mă Viện, tức là
đường này.
Mai Thúc
Loan: Người Mai Phụ, huyện Thiên Lộc huyện Hoan Châu, bây giờ thuộc
huyện Can Lộc, phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Thúc Loan người đen lắm,
nên người Hoan Châu gọi là Hắc đế. Nay c̣n có vết thành cũ ở núi Vệ
thuộc huyện Nam Đường và có đền thờ ở xă Hương Lăm thuộc huyện ấy.
Đền này được liệt vào hàng đền thờ đế vương các triều đại.
Năm Đinh
Dậu (757). (Đường, Túc Tông, năm Chí Đức thứ 2).
Nhà Đường
đổi An Nam đô hộ phủ làm Trấn Nam đô hộ phủ.
Lời chú -
Trấn Nam đô hộ: trị sở và các châu thống trị, xem: thuộc Đường, Cao
Tông Điều lộ năm đầu (Tb.4, 18). Năm Đinh Mùi (767). (Đường, Đại
Tông, năm Đại Lịch thứ 2).
Nước Côn
Luân, nước Chà Bà vào lấn cướp. Kinh lược sứ162 là Trương Bá Nghi
đánh phá được; đắp La Thành.
Theo sách
An Nam kỷ yếu, Côn Luân và Chà Bà đánh hăm châu thành. Trương Bá
Nghi cầu viện với đô úy quận Vũ Định là Cao Chính B́nh. Viện binh
đến đánh phá được quân giặc ở Chu Diên. Bá Nghi lại đắp La Thành.
Lời chua
- Chà Bà: Theo Nam Man truyện trong Đường thư , nước Chà Bà, phía
đông giáp Lục Chân Lạp, phía tây giáp Đông Thiên Trúc, phía nam liền
với biển, phía bắc giáp Nam Chiếu. Chà Bà có 18 nước phụ thuộc; lại
có bộ Tiểu Côn Luân và nước Đại Côn Luân.
Côn Luân:
Theo Quận quốc lợi bệnh thư của Cố Viêm Vũ, Côn Luân ở về phía nam
nước Lâm Ấp. Căn cứ vào tài liệu đó th́ đất đai của nước Chà Bà bao
gồm cả các nước Tiêm La, Diến Điện; chỉ v́ nước Chà Bà không có
thống thuộc, xứ sở nào hùng trưởng ấy, đều sống về nghề đi cướp bóc;
nay bị các nước Tiêm La, Diến Điện kiêm tính mất rồi. Những xứ Tất
Lực, Hạ Liêu, Giang Lưu Ba và Ma Lục Giáp cũng đều bị người Tây
Dương chiếm cứ cả. Người ta hăy c̣n gọi người bản thổ là Chà Bà. Côn
Luân lại là thuộc quốc của nó. Nay về hải phận Vĩnh Long, c̣n có cù
lao Đại Côn Luân, Tiểu Côn Luân, dân Hán163 đến ở làm ăn tại đó cũng
đă lâu đời.
Vũ Định:
Theo Địa lư chí trong Đường thư , là tên một cơ mi châu . (cơ mi th́
xem ở dưới)
Bá Nghi:
Theo Truyện Lư Quang Bật trong Đường thư , Bá Nghi người Nguỵ Châu,
lúc trước v́ có chiến công, nên lệ thuộc vào quân Lư Quang Bật.
Chu Diên:
Xem Hùng Vương (Tb.I, 3...)
La Thành:
Xem thuộc Đường, Ư Tông, năm Hàm Thông thứ 7 (Tb.5, 10...).
Vua nhà
Đường hạ chiếu nêu khen người đàn bà tiết nghĩa ở Giao Châu là Kim
thị.
Theo
truyện Liệt Nữ trong Đường thư, tiết phụ Kim thị là mẹ tướng giặc
Đào Tề Lượng. Kim thị thường lấy điều trung nghĩa khuyên bảo Tề
Lượng, nhưng Tề Lượng ngoan ngạnh, không chịu vâng lời, Kim thị liền
từ con, tự làm ruộng lấy thóc ăn, tự dệt vải may áo mặc, xóm làng
đều cho là một người gương mẫu. Vua Đường hạ chiếu cho hai người đến
hầu hạ nuôi nấng, và quan sở tại phải thường lui tới thăm hỏi suốt
đời Kim thị.
Lời chua
- Đào Tề Lượng: Người Giao Châu.
Năm Mậu
Thân (768). (Đường, năm Đại Lịch thứ 3).
Nhà Đường
lại đổi Trấn Nam làm An Nam đô hộ phủ.
Năm Tân
Mùi (791). (Đường, Đức Tông, năm Trinh Nguyên thứ 7).
Tháng 4,
mùa hạ. Người Đường Lâm thuộc Phong Châu là Phùng Hưng khởi binh,
đánh phủ đô hộ và chiếm giữ phủ lỵ.
Trước kia
Phùng Hưng người Đường Lâm thuộc Phong Châu, vốn là nhà hào phú, lại
có sức khỏe, có thể vật nổi trâu, đánh được hổ. Khoảng năm Đại Lịch
(766-779) nhà Đường, nhân thời buổi loạn lạc, Phùng Hưng cùng với em
là Phùng Hải đem quân uy phục được các ấp láng giềng, tự xưng là đô
quân; Phùng Hải xưng là đô bảo. Khi bấy giờ chính sách của đô hộ là
Cao Chính B́nh, đánh thuế nặng lắm. Phùng Hưng đánh Chính B́nh măi
không được, mới dùng kế của người làng là Đỗ Anh Hàn, đem quân đến
vây phủ: Chính B́nh v́ lo sợ mà chết. Phùng Hưng vào ở trong phủ lạy,
được ít lâu th́ mất. Dân chúng lập con là An lên làm đô phủ quân,
tôn Hưng làm Bố Cái đại vương.
Lời chua
- Cao Chính B́nh: Theo sách An nam kỷ yếu, Cao Chính B́nh người thời
Đại Tông nhà Đường, trước làm đô úy Vũ Định, v́ có công đem quân cứu
viện Trương Bá Nghi, được phong làm đô hộ.
Đường Lâm:
Tên xă xưa. Sử cũ chua ở huyện Phúc Lộc. Phúc Lộc nay đổi tên là
Phúc Thọ thộc tỉnh Sơn Tây. Xét theo Sơn Tây tỉnh sách , xă Cam Lâm
thuộc huyện Phúc Thọ, xưa gọi là Đường Lâm. Phùng Hưng và Ngô Quyền
đều là người xă này cả. Bây giờ vẫn c̣n đền thờ.
Phong
Châu: Sử cũ chép lầm là Giao Châu, nay sửa lại. Xét Đường thư, bản
kỷ , đời Đức Tông, năm Tring Nguyên thứ 7 (791), chỉ chép rằng tù
trưởng An Nam là Đỗ Anh Hàn làm phản, chứ không chép việc Phùng Hưng,
có lẽ v́ ở cách xa nước ta, nên không rơ có việc Phùng Hưng.
Bố Cái:
Sử cũ chua tục cổ nước ta gọi cha là bố gọi mẹ là cái, nên đặt Bố
Cái làm tôn hiệu.
Tháng 7,
mùa thu. Nhà Đường dùng Triệu Xương làm đô hộ.
Theo sách
An Nam kỷ yếu , bấy giờ Giao Châu chưa yên, Triệu Xương đến nơi, vỗ
về phủ dụ, ḷng dân mới yên. Triệu Xương sai sứ đến dụ Phùng An,
Phùng An đem quân ra hàng, Triệu Xương được gia phong làm kinh lược
chiêu thảo xử trí sứ, Triệu Xương đắp thêm La Thành, đi thăm khắp
nơi núi sông danh thắng, cổ tích, đền miếu ở các đô quận, chép làm
sách Phủ chí. Triệu Xương ở phủ được mười năm, v́ đau chân, dâng
biểu xin người khác sang thay.
Lời chua
- Triệu Xương: Theo Đường thư , Triệu Xương tên tự là Hồng Tô, người
Thiên Thủy, được thăng dần đến chức thứ sử Kiền Châu. Khi Đỗ Anh Hàn
ở An Nam làm phản, nhà Đường dùng Xương làm đô hộ, dân Giao Châu
hưởng ứng giáo hóa, không dám ngang ngược, Xương làm được mười năm,
v́ đau chân, xin về.
Năm Tân
Tị (801). (Đường, năm Trinh Nguyên thứ 17).
Nhà Đường
dùng Bùi Thái làm đô hộ.
Triệu
Xương xin người sang thay, nhà Đường sai lang trung bộ Binh là Bùi
Thái sang thay. Bùi Thái đến nơi, bắt quân sĩ lấp bỏ những hào rănh
ở trong thành, hợp làm một thành, lại đắp thành ở các châu Hoan và
Ái. Sau đó Bùi Thái bị bộ tướng trong châu là Vương Quư Nguyên đuổi
đi.
Năm Quư
Mùi (803). (Đường, năm Trinh Nguyên thứ 19).
Tháng 12,
nhà Đường lại cử Triệu Xương sang làm đô hộ.
Theo
Đường thư , bấy giờ Triệu Xương về triều làm tế tửu chưa được bao
lâu, bộ tướng Giao Châu đánh đuổi Bùi Thái. Đức Tông vời Triệu Xương
tới để hỏi t́nh h́nh. Triệu Xương bấy giờ đă ngoài 70 tuổi, tâu bày
rơ ràng không lẫn; Đức Tông lấy làm lạ, lại cử sang làm đô hộ. Khi
tờ chiếu đến nơi, người Giao Châu cùng nhau mừng rỡ; quân làm phản
liền yên ngay. Triệu Xương sau thăng làm tiết độ sứ đất Lĩnh Nam,
dẹp yên và hàng phục được những nơi biên viễn. V́ có công, Xương
được thăng thượng thư bộ Công, tước thái tử thiếu bảo, năm chết đă
tám mươi nhăm tuổi, vua Đường truy tặng cho Xương chức Dương Châu
đại đô đốc.
Lời bàn
của Ngô [Th́] Sĩ - Diên Hựu ngược đăi dân Lư, gây ra cuộc khởi loạn
của Đinh Kiến. Chính B́nh đánh thuế dân Giao Châu quá nặng169 , đă
thúc đẩy Đỗ Anh Hàn khởi binh. Triệu Xương đến lần trước, yên ngay
được dân; đến lần sau, dẹp xong được loạn. Quan lại ở biên cảnh tốt
hay xấu, quan hệ đến như thế. Chẳng qua hồi đó người Bắc (Trung Quốc)
cho Giao Châu ta là nơi hẻo lánh xa xôi, coi nhẹ việc kén chọn người
giỏi, nên dân thời bấy gờ phải cảnh lầm than, không kêu đâu được.
Đọc sử đến đây, đáng v́ dân thời ấy mà ngậm ngùi than thở! Năm Mậu
Tí (808). (Đường, Hiến Tông, năm Nguyên Ḥa thứ 3).
Nhà Đường
dùng Trương Chu làm đô hộ. Trương Chu sửa đắp lại thành Đại La.
Theo sách
An Nam kỷ yếu , Trương Chu làm kinh lược phán quan, khi thăng lên
làm đô hộ, hắn sửa đắp lại thành Đại La, đóng chiến thuyền "mông
đồng" ba trăm chiếc mỗi chiếc có 25 quân chiến, 23 tay chèo. Khi
thuyền đang chèo, xuôi ngược như bay. Hai thành Hoan Châu và Ái Châu
trước kia bị Hoàn vương170 đánh phá, bấy giờ đều sửa đắp lại.
Lời chua
- Theo sách Thái B́nh hoàn vũ kư của Nhạc Sử nhà Tống, năm Nguyên
Ḥa thứ 4 (809) đô hộ An Nam là Trương Chu đánh viên Hoan - Ái đô
thống giặc của Hoàn vương quốc, giết được hơn ba vạn người.
Mông đồng:
Thứ thuyền hẹp mà dài, dùng để xông đánh thuyền giặc.
Hai thành
Hoan, Ái: Trước kia do Bùi Thái đắp.
Hoàn
vương: Tên gọi vua nước Lâm Ấp.
Năm Kỷ
Hợi (819). (Đường, năm Nguyên Ḥa thứ 14).
Thứ sử
Hoan Châu là Dương Thanh làm phản, đánh úp phủ thành, giết đô hộ Lư
Tượng Cổ.
Theo
Cương mục (Trung Quốc), Tượng Cổ là người tham lam khắc nghiệt, mất
ḷng mọi người. Dương Thanh là nhà nhiều đời làm tù trưởng dân Man.
Tượng Cổ cho làm nha tướng sai đi đánh Man Hoàng Động, Dương Thanh
nhận thấy ḷng người ai cũng oán giận Tượng Cổ, đang đêm, quay về
đánh úp lấy phủ thành, giết Lư Tượng Cổ.
Theo
Đường thư , Dương Thanh là Man Tù1, vẫn uất ức muốn khởi loạn. Nhân
dịp đi đánh giặc Hoàng Động, được Lư Tượng Cổ giúp cho binh sĩ,
Dương Thanh liền đem quân quay lại đánh úp lấy châu thành, giết Lư
Tượng Cổ. Nhà Đường hạ chiếu tha tội Dương Thanh và cho làm Thứ sử
Quỳnh Châu, dùng Quế Trọng Vũ làm Đô hộ. Dương Thanh chống cự lại,
không tuân lệnh. Quế Trọng Vũ đi dụ riêng từng người đầu sỏ trong
đám dân Man, rồi đánh chém được Dương Thanh, tru di cả họ.
Lời chua
- Tượng Cổ: Theo Đường thư truyện Tào Vương Minh , Tượng Cổ là con
Lư Cao, tông thất nhà Đường, năm Nguyên Ḥa thứ 14 (819), làm đô hộ
An Nam.
Quế Trọng
Vũ: Sử cũ chép sai là Quế Trọng; nay chữa lại.
Hoàng
Động: Theo Đường thư, Nam man truyện , các người Man ở Tây Nguyên có
họ Hoàng ở động Hoàng Chanh, đất giáp với Nam Chiếu, gọi là Man
Hoàng Động, đánh mười tám châu Quế Quản, đi đến đâu đốt cướp đến đấy;
người Đường gọi là Hoàng tặc. Khi quân phủ đô hộ nổi loạn, Hoàng tặc
giúp Dương Thanh giết Lư Tượng Cổ.
Quỳnh
Châu: Theo Thanh Nhất thống chí , là đất Châu Nhai đời Hán, nhà Đờng
chia đặt ra Quỳnh Châu, thuộc Lĩnh Nam đạo.
Nhà Đường
dùng Mă Tổng làm đô hộ.
Theo
Đường thư , Mă Tổng, do chức thứ sử Kiền Châu thăng lên làm đô hộ An
Nam, là người thanh liêm, không quấy nhiễu dân, đem học thuật nho
gia rèn luyện phong tục, chính sự tốt đẹp, người Lư người Lạo đều
yên cả. Mă Tổng dựng hai cột đồng, ghi chép công đức nhà Đường và tỏ
ra ḿnh là con cháu Phục Ba (Mă Viện).
Lời cẩn
án - Mă Tổng làm Đô hộ, chính sự tốt đẹp , Sử cũ bỏ sót không chép.
Nay khảo trong Đường thư, xin bổ sung vào; Nhưng chính truyện Mă
Tổng chỉ cho biết là vào khoảng năm Nguyên Ḥa (806-802) chứ không
chép rơ năm, tháng, cho nên nay chép luôn vào cuối năm Nguyên Ḥa để
giữ lấy sự thực. Lời chua - Mă Tổng: Theo truyện Mă Tổng , Tổng tên
tự là Nguyên Hội, người Phù Phong.
Kiến Châu:
Theo địa lư chí trong Đường thư , Kiến Châu thuộc đạo Giang Nam.
Đồng trụ:
Xem thuộc Hán, năm Kiến Vũ thứ 19 (Tb.II, 12).
Năm Giáp
Th́n (824). (Đường, Mục Tông, năm Trường Khánh thứ 4).
Tháng 11,
mùa đông. Đô hộ là Lư Nguyên Gia dời phủ thành ra ngoài cửa Đông
Quan.
Theo sách
An Nam kỷ yếu , Lư Nguyên Gia cho rằng trước cửa thành là ḍng nước
chảy ngược, sợ người Giao Châu hay làm phản. V́ thế dời phủ trị (tới
trên bờ) sông Tô Lịch. Khi đang đắp cái thành nhỏ, có người đến xem
bảo rằng: "Nhà ngươi không đủ sức đắp cái thành lớn, 50 năm nữa có
người họ Cao sẽ đóng đô dựng phủ ở đây". Đến giữa niên hiệu Hàm
Thông (860-873), Cao Biền đắp La Thành, đúng như lời người ấy.
Lời chua
- Tô Lịch: Một nhánh của sông Nhị Hà. Theo Thanh nhất thống chí ,
sông Tô Lịch đi từ phía đông thành phủ Giao Châu, chuyển sang phía
bắc rồi đi sang phía tây, thẳng đến sông Nhuệ. Xưa kia có người tên
là Tô Lịch ở đấty, cho nên gọi sông ấy là sông Tô Lịch. Hồi đầu niên
hiệu Vĩnh Lạc (1403-1424) nhà Minh, Hoàng Phúc lại đào thêm, nhân
đổi tên gọi là sông Lai Tô. Nay ở phía đông tỉnh Hà Nội, đất huyện
Thọ Xương có cái cửa sông, đấy là chỗ phân lưu từ sông Nhị Hà.
Năm Ất Tỵ
(825). (Đường, Kính Tông, năm Bảo Lịch thứ 1).
Nhà Đường
dời phủ lỵ đô hộ sang Tống B́nh.
Lời chua
- Tống B́nh: Theo sách Phương dư kỷ yếu của Cố Tổ Vũ, Tống B́nh ở
phía nam phủ lỵ. Nó là đất huyện Long Biên đời Hán; đầu đời Lưu Tống
tách ra đặt làm huyện Tống B́nh, đời Tùy thuộc về Giao Châu. Vậy th́
Tống B́nh phải ở miền ngoại ô phủ Đô hộ cũ. Theo Thanh nhất thống
chí , huyện Tống B́nh thuộc Giao Châu xưa, ở đây c̣n có thành cũ
Liên Thụ ở phía tây huyện 75 dặm. Nay xét thành Liên Thụ là trị sở
quận Giao Chỉ hồi đầu đời Hán, ở vào xă Lũng Khê huyện Siêu Loại
tỉnh Bắc Ninh hiện nay, cách tỉnh thành Hà Nội hơn 30 dặm.
Năm Mậu
Thân (828). (Đường, Văn Tông, năm Thái Ḥa thứ 2).
Thứ sử
Phong Châu là Vương Thăng Triều làm phản. Đô hộ là Hàn Ước đánh giết
được.
Theo
Đường thư , Hàn Ước là người có chí dũng quyết, lơm bơm sử sách, có
tài hành chính; trước đă làm thứ sử Kiền Châu. Đến khi Thăng Triều
làm phản, Hàn Ước lĩnh chức An Nam đô hộ, đánh dẹp yên, Thăng Triều
bị giết. Sau, quân phủ đô hộ nổi loạn, Hàn Ước bị đuổi, chạy về
Quảng Châu.
Lời chua
- Hàn Ước: Theo truyện Vương Phan trong Đường thư , Hàn Ước người Vũ
Lăng thuộc Lăng Châu, tiến thân bằng tiền và thóc174 .
Năm Bính
Th́n (836). (Đường, năm Khai Thành thứ 1).
Nhà Đường
dùng Mă Thực làm đô hộ.
Theo
Đường thư, hồi đầu năm Khai Thành (836-840), Mă Thực làm An Nam đô
hộ, là người giỏi việc hành chính, cách ăn ở văn nă, làm việc quan
thanh liêm trong sạch, không phiền nhiễu, dân các động đều được yên
ổn. Thủ lĩnh các châu cơ mi đầu thần phục, xin chịu theo khuôn phép
về việc thuế má. Năm Khai Thành thứ ba (838), Mă Thực tâu xin đổi
huyện Vũ Lục, làm châu Vũ Lục, kén người thủ lĩnh ở đấy cho làm thứ
sử. Vua Đường y theo lời xin ấy. Nhưng rồi ra lại bỏ, không đặt làm
châu nữa. Lúc ấy có điềm: một cái ao trước vẫn sản ngọc châu, rồi
một dạo tự nhiên mất đi, nay trong cái ao ấy lại sinh sản ngọc châu
như cũ. V́ Mă Thực là viên quan có chính tích trội nhất nên được
thăng làm quan sát sứ ở Kiềm Trung.
Lời cẩn
án - Theo Liệt truyện trong Đường thư, Mă Thực làm đô hộ, chính sự
trong sạch, dân các động được yên. Hạt châu ở ao lại sinh sản như
xưa: đó là tiết thanh bạch cảm đến cả loài vật. Sách Thanh nhất
thống chí liệt tên Mă Thực vào hàng các quan có tiếng ở An Nam, cùng
với Triệu Xương, Vương Thức đều xứng đáng là những người trội nhất
trong đám thú lệnh. Lại theo Địa lư chí trong Đường thư, năm Khai
Thành thứ ba (838), Mă Thực dâng biêu xin đặt châu Vũ Lục. Việc ấy
có chứng cứ rơ àng, thế mà Sử cũ bỏ sót không chép, chỉ chép "Thuộc
Đường, năm Hội Xương thứ nhất (841), Vũ Hồn thay Hàn Ước làm kinh
lược sứ". Nay xét Đường thư Bản kỷ, đời Văn Tông, năm Thái Ḥa thứ
ba (829), Ước bị quân nổi loạn đuổi. Kể từ năm Thái Ḥa thứ hai
(828) đến năm Hội Xương thứ nhất (841), trong khoảng đó c̣n có niên
hiệu Khai Thành (836-840) gồm 5 năm phải c̣n có Mă Thực làm đô hộ.
Vậy th́ Vũ Hồn kế chân Mă Thực, chứ không phải thay chân Hàn Ước.
Nay theo Đường thư, xin bổ chính để nêu rơ người thú mục tốt và chữa
chỗ sai lầm. Lời chua - Mă Thực: Theo truyện Mă Thực , Thực là người
Phù Phong, đậu tiến sĩ, lại đậu khoa chế sách.
Cơ mi:
Theo Địa lư chí trong Đường thư , Thái Tông nhà Đường, sau khi b́nh
định các Phiên Quốc th́ Man Di các nơi dần dần nội thuộc, lúc ấy nhà
Đường lấy ngay các bộ lạc của họ đặt thành châu, huyện, dùng người
thủ lĩnh bộ lạc làm đô đốc, làm thứ sử, họ đều được cha truyền con
nối, gọi là "cơ mi". Theo sách Cương mục tập lăm dẫn thiên Hán quan
nghi nói rằng: (đồ vật làm đầu) ngựa gọi là cơ , (đồ vật dàm hai má)
trâu gọi là mi . Ư nói kiềm chế các rợ mọi (tứ di) phải lỏng lẻo như
đem buộc "cơ", "mi" cho loài trâu ngựa.
Vũ Lục
châu: Tên một châu cơ mi, nay không biết ở đâu.
Tŕ châu:
Theo Hán Thư , khi Mạnh Thường làm Thái thú Hợp Phố, hạt châu (ngọc
trai) đă mất đi ở Hợp Phố, lại thấy trở lại. Trong Thanh Nhất thống
chí có chép
"Châu tŕ"
(hồ sản hạt trai) ở phía đông nam huyện Hợp Phố, là nơi người trong
quận đến ṃ hạt châu.
Năm Tân
Dậu (841). (Đường, Vũ Tông, năm Hội Xương thứ 1).
Nhà Đường
dùng Vũ Hồn làm Kinh lược sứ.
Vũ Hồn
đến nơi, bắt tướng sĩ sửa phủ thành; quân lính ở phủ Đô Hộ lại khởi
loạn, đốt lầu thành, cướp kho đạn. Vũ Hồn phải chạy về Quảng Châu.
Viên giám quân là Đoàn Sĩ Tắc dẹp yên đám quân lính làm loạn, Giao
Châu mới được yên.
Năm Bính
Dần (846). (Đường, năm Hội Xương thứ 6).
Tháng 9,
mùa thu. Quân Man Nam Chiếu vào lấn cướp. Kinh lược sứ Bùi Nguyên Dụ
đem quân các đạo đánh bại được địch.
Lời chua
- Đường thư Bản kỷ chép là "tháng 9 năm Hội Xương thứ 6", Sử cũ chép
sai là tháng 7, mùa thu.
Nam Chiếu
, theo Lời chua của sách Cương mục (Trung Quốc), gốc tích người Nam
Chiếu vốn là giống Man Di ở Ai Lao. Vị trí ở phía tây Diêu Châu.
Theo Địa lư chí trong Đường thư , Nam Chiếu ở quận Vân Nam thuộc
Diêu Châu, phía đông nam giáp Giao Chỉ, phía tây bắc giáp Thổ Phồn.
Tiếng Man gọi vua là Chiếu. Trước kia có 6 Chiếu, Tức là: Mông Tuấn,
Việt Tích, Lăng Khung, Đăng Đạm, Thi Lăng và Mông Xá. Mông Xá ở măi
về phía nam, nên gọi là Nam Chiếu. Đến năm Khai Nguyên (713-741) nhà
Đường Nam Chiếu dưới đời B́ La Cáp, mỗi ngày một mạnh lớn thêm lên,
c̣n năm Chiếu kia th́ suy yếu đi. Lúc đó, B́ La Cáp mới lấy tiền của
đút lót cho tiết độ sứ Kiếm Nam là Vương Dục, xin hợp 6 đất Chiếu
làm một. Triều đ́nh ưng theo và đặt tên cho là Quy Nghĩa. Từ bấy giờ
chúng mới lấy vũ lực phục được các Man khác, phá được Thổ Phồn, dời
sang ở thành Thái Ḥa, thành ra sau này Nam Chiếu làm mối lo cho
miền biên giới. Theo Đường thư, truyện Nam Chiếu, Nam Chiếu từ năm
Khai Nguyên (713-741), B́ La Cáp hợp 6 Chiếu làm một, truyền măi đến
con Phong Hựu là Từ Long, năm Hàm Thông thứ I (860), tiếm xưng đế,
đặt niên hiệu là Kiến Cực, gọi tên nước là Đại Lễ, thường sang lấn
cướp Giao Châu, bị Cao Biền đánh, thua chạy về nước.
Năm Đinh
Sụu (857). (Đường, Tuyên Tông, năm Đại Trung thứ 11).
Tháng 4,
mùa hạ. Nhà Đường dùng Chu Nhai làm kinh lược sứ.
Khi bấy
giờ ở Giao Châu thường hay có giặc cướp ở nơi biên giới, Chu Nhai
đang làm hữu can ngưu vệ đại tướng quân, đổi sang làm kinh lược sứ,
không bao lâu lại về Quảng Châu.
Năm Mậu
Dần (858). (Đường, năm Đại Trung thứ 12).
Tháng
giêng, mùa xuân. Nhà Đường dùng Vương Thức làm kinh lược đô hộ sứ.
Theo
Đường thư , Vương Thức đang làm thứ sử Tấn Câu, v́ có tiếng giỏi,
được thăng làm An Nam đô hộ: Người làm đô hộ trước, gặp lúc đang đại
hạn, ruộng bị khô, lại làm lũy gỗ (để ngăn ngừa giặc cướp), bắt dân
hàng năm nộp tiền. Đă không làm hoàn thành cho kịp thời, lại hạch
sách và bắt dân đóng góp rất gắt gao! Đến khi Vương Thức sang làm đô
hộ, Thức trích lấy tiền thuế một năm mua cây táo gai (cức mộc), ken
làm lũy suốt 12 dặm, băi bỏ thuế ngoại phụ hàng năm để nhẹ cho
thường dân; lại đào hào, rào lũy, ngoài trồng tre gai, giặc cướp
không thể vào được. Sau, quân Man cướp Cẩm Điền bộ, Vương Thức sai
người dịch lời ḿnh hiểu dụ họ, một đêm kia quân Man kéo đi, sai
người đến tạ rằng: "Chúng tôi tự đến bắt quân Lạo làm phản, chứ
không phải làm giặc đâu".
Theo
Cương mục (Trung Quốc), Vương Thức là người có tài năng và mưu lược,
khi mới đến phủ, thấy đô hiệu là La Hành Cung đă từ lâu vẫn chuyên
giữ chính quyền, số quân tinh nhuệ dưới cờ chỉ huy của hắn có tới
hai ngh́n người, c̣n quân của phủ đô hộ chỉ có mấy trăm người gầy
yếu. Vương Thức đến nơi đem Hành Cung ra phạt trượng và cách thức.
Lời chua
- Vương Thức: theo truyện Vương Bá trong Đường thư , Vương Thức
người đất Thái Nguyên, đậu khoa hiền lương phương chính khoảng giữa
niên hiệu Đại Trung (847-859), làm thứ sử Tấn Châu, cứu sống được
mấy ngh́n dân xiêu giạt, v́ thế nổi tiếng được thăng làm đô hộ An
Nam.
Cức mộc:
Tên một thứ cây, dùng làm lũy, bền được vài mươi năm. Theo lời chua
trong Cương mục, khoảng giữa niên hiệu Vĩnh Lạc (1403-1424) đời
Minh, thượng thư Trần Hiệp, khi ở Giao Chỉ t́m được sách An Nam chí
(có chép) Vương Thức đời Đường trồng cây táo gai làm chiến hào ch́m,
xung quanh hào trồng tre gai, giặc cướp không xâm phạm được. Nay ở
Giao Chỉ có cây táo gai.
Cầm Điền:
Chưa biết rơ ở đâu.
Bộ: Tức
là bến đ̣; Cẩm điền bộ tức là bến đ̣ Cẩm Điền. Theo sách Thanh Xương
tạp kư , ở Lĩnh Nam gọi Tân (bến sông) là Bộ.
Tháng 5,
mùa hạ. Quân Thổ man đến lấn cướp. Vương Thức đánh lùi được địch.
Theo
truyện Nam Chiếu trong Đường thư , trước kia Lư Trác làm kinh lược
sứ, khắc nghiệt tham ô, tự tư tự lợi, cứ mỗi đấu muối đổi lấy một
con trâu, người Man Di không chịu nổi. Họ liên kết với tướng Nam
Chiếu là Đoàn Tù Thiên cướp phủ đô hộ. Họ tự xưng là Bạch Y một mệnh
quân (Quân Áo trắng liều mạng). Lư Trác lại giết tù trưởng người Man
là Đỗ Tồn Thành; dân chúng Thổ Man đều oán giận, dắt người Nam Chiếu
vào cướp vùng biên giới. V́ thế Giao Châu mới xảy ra mối lo ở biên
cương; đến đây người Man lại vào cướp. Vương Thức đánh lui được quân
Man.
Tháng 7,
mùa thu. Dân Giao Châu nổi loạn, vây phủ thành Vương Thức bắt giết
dân nổi loạn.
Theo sách
An Nam kỷ yếu , khi bấy giờ có gian dân họp nhau làm loạn. Nhân ban
đêm, họ đánh trống reo ḥ, kéo đến vây thành, phao đồn là quan kinh
lược sứ Chu Nhai sai đạo binh dưới cờ là Hoàng đầu quân vượt biển
sang đánh úp, xin đưa quan đô hộ về Bắc (Trung Quốc). Nay ta đến
đóng ở thành này để chống lại với Hoàng đầu quân từ Bắc phương kéo
sang. Vương Thức đang ăn cơm; có người khuyên nên lánh đi. Vương
Thức trả lời: "Ta nếu dời chân một chút th́ thành này vỡ ngay".
Vương Thức cứ ngồi ăn thong thả đến xong bữa. Đoạn, Vương Thức đóng
áo giáp, đem những kẻ tả hữu lên thành, kéo cờ đại tướng, ngồi đấy
quở trách dân nổi loạn, th́ chúng trở tan chạy. Ngay hôm sau Vương
Thức cho bắt và giết hết.
Giao Châu
bấy giờ luôn luôn đói kém và loạn lạc, đến nỗi hàng 6 năm không có
thuế nộp lên trên, trong quân lính không có khi nào khao thưởng.
Vương Thức mới sửa lễ cống, khao các quân sĩ. Từ đấy các nước Chiêm
Thành, Chân Lạp đều sai sứ đi lại và trả lại những dân đă cướp đi từ
trước.
Lời chua
- Hoàng đầu quân: Theo Đường thư , lính thú đóng ở Trung Vũ mặc áo
cánh rộng vạt ngắn đầu đội khăn vàng, nên phương nam gọi là Hoàng
đầu quân, đó là tứ lính tinh nhuệ trong nước. Lúc đó kinh lược sứ là
Chu Nhai đă về Quảng Châu, nên đám dân nổi loạn phao đồn như vậy.
Chiêm
Thành: Tức là Lâm Ấp. Xem thuộc Tấn, Mục đế, năm Vĩnh Ḥa thứ 9
(Tb.3, 20).
Chân Lạp:
Tên nước, ở về phía nam Lâm Ấp. Theo Đường thư , Chân Lạp c̣n có tên
là Cát Miệt (Khơ Me). Chân Lạp vốn xưa là thuộc quốc của Phù Nam,
sau năm Thần Long (705-706) đời Đường, chia làm hai: nửa về phía bắc
có nhiều g̣ núi, gọi là Lục Chân Lạp, tức nay là Cao Miên; nửa ở về
phía nam liền biển, nhiều hồ, nhiều chằm, nên gọi là Thủy Chân Lạp,
nay là sáu tỉnh Nam Kỳ185 .
Năm Canh
Th́n (860). (Đường, Ư Tông, năm Hàm Thông thứ 1). Tháng 3, mùa xuân.
Nhà Đường cho Lư Hộ sang làm đô hộ.
Theo
Cương mục (Trung Quốc), giặc ở Chiết Đông là Cửu Phủ làm loạn, vua
Đường bàn với các quan kén tướng đi đánh, Hạ Hầu Ti nói: "Vương Thức,
con nhà nho, trước làm quan ở An Nam, đă có công, có thể dùng được".
V́ thế mới vời Vương Thức cho làm Quan sát sứ Chiết Đông, dùng Lư Hộ
sang thay Vương Thức làm Đô hộ.
Tháng 12,
mùa đông. Nam Chiếu đánh phá phủ thành, Đô hộ Lư Hộ bỏ châu lỵ chạy.
Theo sách
Thông giám, khi Lư Hộ mới đến Đô hộ phủ, giết người tù trưởng dân
Man là Đỗ Thủ Trừng. Đồng đảng của Thủ Trừng mới xui người Nam Chiếu
đánh phá phủ thành, Lư Hộ chạy về Vũ Châu.
Năm Tân
Tị (861). (Đường, năm Hàm Thông thứ 2).
Tháng 6,
mùa hạ. Nhà Đường dùng Vương Khoan làm Kinh lược sứ.
Lư Hộ bị
thua, nhà Đường đem quân Ung quản và quân các đạo lân cận sang cứu.
Theo sách
Thông giám, Lư Hộ từ Vũ Châu tập hợp lính thổ, kéo về đánh các quân
Man, lấy lại được châu thành. Vua Đường trách Lư Hộ về tội bỏ thành
tŕ, giáng chức cho làm tư hộ Đam Châu. Sau đó vua Đường cho rằng họ
Đỗ của Thủ Trừng hăy c̣n mạnh lắm, cốt sao nhuế nhóa để mong thu
dùng được họ, bèn cho Tồn Thành, cha Thủ Trừng, làm Kim ngô tướng
qân. Vua Đường lại quở trách Lư Hộ về tội giết Thủ Trừng, liền đày
đi Nhai Châu một thời hạn, lâu dùng pḥng ngự sứ Diêm Châu là Vương
Khoan sang thay Lư Hộ.
Lời chua
- Ung Quản: Tức là Ung Châu một khu vực hành chính do nhà Đường đặt.
Theo sách Cương mục tập lăm , quản cũng như phủ.
Đam Châu:
Tức là Đam Nhĩ, đời Đường thuộc về đạo Lĩnh Nam. Xem: Triệu Thuật
Dương vương, năm Kiến Đức thứ nhất (Tb.2, 4-6).
Đây trở
lên, từ năm Tân Dậu, thuộc nhà Lương, niên hiệu Đại Đồng thứ 7, đến
năm Tân Tỵ thuộc nhà Đường, niên hiệu Hàm Thông thứ 2, cộng ba trăm
hai mươi mốt năm (541-861).
Quyển thứ V
Năm Nhâm
Ngọ (826). (Đường, năm Hàm Thông thứ 3).
Tháng 2,
mùa xuân. Nam Chiếu lại vào lấn cướp. Nhà Đường cho Thái Tập sang
làm kinh lược sứ, đem quân chống nhau với quân Nam Chiếu.
Theo
Cương mục (Trung Quốc), nước Nam Chiếu vào lấn cướp, Vương Khoan
nhiều lần cáo cấp với nhà Đường. Vua Đường dùng Thái Tập, nguyên
quan sát sứ Hồ Nam, sang thay Vương Khoan, vẫn điều động quân các
đạo Hứa, Hoạt, Từ, Biện, Kinh, Tương, Đàm, Ngạc, tất cả là ba vạn
người, giao cho Thái Tập để chống nhau với Nam Chiếu. Thế lực quân
Đường đă mạnh, người Man phải rút lui.
Lời chua
- Hựa, Hoạt, Từ, Biện, Kinh, Tương, Đàm, Ngạc: Tên tám châu (Trung
Quốc).
Tháng 5,
mùa hạ. Nhà Đường chia đất Lĩnh Nam làm hai đạo; Đông và Tây. Dùng
Vi Trụ và Thái Kinh sang làm tiết độ sứ.
Theo sách
Cương mục (Trung Quốc), tả thứ tử Thái Kinh có tính tham tàn, hay
dối trá. Tể tướng bấy giờ tưởng hắn là người có tài cai trị, tâu xin
cho Kinh đi khu xử các việc ở Lĩnh Nam. Đất Lĩnh Nam trước kia chia
làm năm quản là Quảng, Quế, Ung, Dung và An Nam, đều lệ thuộc Lĩnh
Nam. Theo lời tâu xin của Thái Kinh, nhà Đường chia Quảng Châu làm
Đông Đạo, Ung Châu làm Tây Đạo, giao cho Vi Trụ và Thái Kinh mỗi
người coi một đạo. Thái Tập bấy giờ cầm quân các đạo đóng ở An Nam.
Thái Kinh ghen ghét, sợ Thái Tập lập công, bèn tâu với vua Đờng rằng
quân Man đă lánh xa, nơi biên viễn không có ǵ đáng lo ngại, xin băi
bỏ lính thú. Vua Đường nghe theo lời Thái Kinh. Thái Tập nhiều lần
tâu rằng quân Man vẫn ŕnh chỗ sơ hở của ta, không thể không có quân
đóng để pḥng bị; vậy xin lưu lại năm ngh́n quân. Vua Đường không
nghe. Thái Tập có làm bài trạng nói mười điều tất chết gửi lên ṭa
Trung thư. Tể tướng lúc đó cả nghe lời Thái Kinh, không xét ǵ lời
trạng cả. Thái Kinh cai trị làm nhiều điều hà khắc thảm hại. Nhân
dân khắp nơi ai cũng ta oán. Rồi bị quân sĩ đuổi đi, Kinh phải giáng
chức làm tư hộ Nhai Châu, nhưng hắn không chịu đến Nhai Châu nhận
chức, khi hắn về đến Linh Lăng, vua Đường hạ lệnh bắt phải tự tử.
Lời chua
- Quảng, Quế: Sử cũ chép sai là Liêm, Quế. - Vi Trụ: Người Vạn Niên
thuộc Kinh Triệu. Theo truyện Vi Đan trong Đường thư , con Đan là
Trụ được thăng làm tiết độ sứ Lĩnh Nam.
Năm Quư
Mùi (863). (Đường, năm Hán Thông thứ 4).
Tháng
giêng, mùa xuân. Nam Chiếu đánh phá phủ đô hộ. Kinh lược sứ Thái Tập
và ngu hậu Nguyên Duy Đức đều bị chết.
Theo sách
Cương mục (Trung Quốc), nước Nam Chếu thống suất quân các Man gồm
năm vạn người đến lấn cướp. Thái Tập cáo cấp với nhà Đường. Vua
Đường hạ sắc điều động hai ngh́n quân ở Kinh, Hồ và ba ngh́n quân ở
Quế Quản sang cứu viện. Các quân ấy chưa đến nơi, Nam Chiếu đă vây
thành phủ; quân cứu viện không tới được, thành liền bị phá. Thái Tập
quanh ḿnh không c̣n ai, đi bộ gắng sức cố đánh, khắp ḿnh bị mười
mũi tên. Tập muốn chạy xuống thuyền giám quân, th́ thuyền đă ĺa
khỏi bờ, liền nhảy xuống sông chết. Các tướng sĩ Kinh Nam hơn 400
người, chạy đến bến nước ở phía đông thành; ngu hậu là Nguyên Duy
Đức bảo mọi người: "Bọn ta không có thuyền, xuống nước thế nào cũng
chết, chi bằng quay lại cùng đánh nhau với quân Man, cứ một mạng đổi
lấy hai quân Man, cũng vẫn có lợi". Nói xong, liền kéo về phía thành,
tung quân ra giết được hơn hai ngh́n người Man. Đêm đến, tướng Man
là Dương Tư Tấn kéo ra tiếp cứu, bọn Duy Đức bị thua trận bị chết.
Nước Nam Chiếu hai lần đánh phá phủ đô hộ, vừa giết vừa bắt làm tù
binh tổng số đến mười lăm vạn người. Chúng lưu lại hai vạn quân Man,
sai tướng là Dương Tư Tấn ở lại giữ thành phủ. Các Di, Lạo ở miền
Khê động đều đầu hàng chúng.
Lời chua
- Theo sách Điền tá kư của Dương Thận, năm Hàm Thông thứ 4 (863) đời
Đường, người Nam Chiếu là Mông Thế Long cướp Giao Chỉ, vừa giết vừa
bắt làm tù binh gần mười lăm vạn người, lưu lại hai vạn quân Man,
sai tướng của chúng là Dương Tư Tấn ở lại chiếm đóng. Các Di, Lạo ở
miền Khê động đều ra hàng cả. Đến năm Hàm Thông thứ 5 (864), chúng
lại sang cướp Ung Châu, bị thua, rút về. Năm Hàm Thông thứ 7 (866),
tiết độ sứ Cao Biền đánh phá tan hẳn, Giao Chỉ lại yên. Xem thế th́
Nam Chiếu lúc bấy giờ là Nam Chiếu dưới thời Mông Thế Long.
Tháng 6,
mùa hạ. Nhà Đường băi bỏ phủ đô hộ, đặt ra Hành Giao Châu ở trấn Hải
Môn; dùng Tống Nhung làm thứ sử, Khang Thừa Huấn giữ chức kiêm Lĩnh
Nam chư quân hành doanh.
Theo sách
An Nam kỷ yếu , bấy giờ Nam Chiếu đánh phá phủ thành, nhà Đường gọi
quân các đạo về giữ Lĩnh Nam Tây Đạo, băi bỏ phủ đô hộ, đặt Hành
Giao Châu ở trấn Hải Môn, dùng hữu giám môn vệ tướng quân Tống Nhung
làm chức Hành Giao Châu thứ sử, Vũ Nghĩa tiết độ sứ Khang Thừa Huấn
kiêm tiết độ sứ Lĩnh Nam và chư quân hành doanh.
Theo sách
Cương mục (Trung Quốc), Khang Thừa Huấn đến Ung Châu, không đặt quân
xích hậu . Khi Nam Chiếu đem sáu vạn người sắp tiến vào địa giới,
Thừa Huấn sai quân ra chống cự, th́ cả tám ngh́n người trong năm đạo
quân đều bị chết, duy có quân Thiên B́nh đến sau được thoát. Thừa
Huấn không biết xoay xở ra sao. Phó sứ Lư Hành Tố đem quân sửa hào
lũy vừa mới xong; quân Man bổ vây đến bốn ngày. Lúc khí giới chuẩn
bị gần đủ, các tướng xin: đêm đến, chia từng đạo quân đánh phá đánh
phá vào doanh trại quân Man. Khang Thừa Huấn không nghe. Có viên
tiểu hiệu trong quân Thiên B́nh, hai ba lần cố tranh căi, Thừa Huấn
mới chịu nghe. Viên tiểu hiệu này đem ba trăm dũng sĩ đang đêm ḍng
dây từng người một ra khỏi thành, phóng lửa đốt các dinh trại quân
Man, chém được hơn năm trăm thủ cấp. Quân Man phải cởi ṿng vây, rút
đi. Khang Thừa Huấn mạo nhận lấy công ấy, tâu tin thắng trận lên
triều đ́nh. Nhà Đường thăng Thừa Huấn lên chức kiểm hiệu hữu bộc xạ,
các con em thân cận của hắn đều được tâu là có công và đều được
thưởng. C̣n viên tiểu hiệu có công đốt dinh trại địch không được
thăng một cấp bậc nào cả. V́ thế, trong quân ai cũng oán giận.
Lời chua
- Khang Thừa Huấn: Theo truyện Khang Nhật Tri trong Đường thư , Thừa
Huấn là người Linh Châu, con Khang Nhật Tri. V́ ông cha có công,
Thừa Huấn được bổ làm quan, dần lên đến chức hữu thần vũ tướng quân,
thăng làm Vũ Nghĩa tiết độ sứ, rồi đổi sang Lĩnh Nam Tây Đạo.
Hải Môn:
Theo Thanh nhất thống chí , trấn Hải Môn ở cách 15 dặm về phía tây
huyện Bác Bạch thuộc châu Uất Lâm bây giờ, xưa kia là đường đi vào
đất An Nam. Cao Biền luyện tập quân lính ở đó, và từ đấy tiến quân
lấy lại An Nam. Có người bảo Hải Môn trấn ở Hải Dương, đó là nhận
lầm chữ Hải Môn là nơi cửa biển (hải môn) mà Ngô Quyền trồng cọc để
đánh Hoằng Tháo.
Tháng 7,
mùa thu. Nhà Đường lại đặt phủ đô hộ ở Hành Giao Châu; dùng Tống
Nhung làm kinh lược sứ, đem quân Sơn Đông sang đóng giữ.
Theo sách
Cương mục (Trung Quốc), quân các đạo nhà Đường sang cứu viện An Nam
thường tụ tập đóng đồn ở Lĩnh Nam, việc vận tải lương thực vừa nhọc
vừa tốn. Trần Bàn Thạch, người Nhuận
Châu,
dâng sớ xin đóng thứ thuyền lớn trọng tải được ngh́n hộc, để trở gạo
từ Phúc Kiến đi đường biển không đầy một tháng đến Quảng Châu. Vua
Đường nghe theo, nên lương ăn của quân lính mới đầy đủ. Nhưng các
quan cứ mượn tiếng "ḥa cô" , chiếm đoạt thuyền buôn, khi đi ra biển,
có chiếc bị sóng gió làm ch́m đắm th́ viên chức có trách nhiệm lại
giam giữ viên cương lại190 và bắt người chủ thuyền phải đền số gạo
bị mất. Người ta phải khổ về việc này.
Lời chua
- Cương Lại: Cũng như Cương Điền, theo lời chua của Cương mục tập
lăm , là Lại Viên giữ giấy má sổ sách về việc chở lương thực.
Năm Giáp
Thân (864). (Đường, năm Hàm Thông thứ 5).
Nhà Đường
dùng tổng quản kinh lược sứ Trương Nhân kiêm giữ cả các công việc
Giao Châu.
Theo sách
Cương mục (Trung Quốc), bấy giờ Nam Chiếu lấn cướp Ung Châu, quan
quân nhà Đường thua thiệt nặng. Thừa Huấn mạo nhận có công, được
thăng chức Kiểm hiệu Lĩnh Nam tiết độ. Vi Trụ biết rơ việc làm của
Thừa Huấn, viết thư tŕnh bày lên tể tướng. Nhà Đường bèn băi chức
Thừa Huấn, dùng Trương Nhân sang thay, và thêm ba vạn năm ngh́n quân
cho trấn Hải Môn, sai Trương Nhân tiến lấy thành phủ đô hộ.
Tháng 7,
mùa thu. Nhà Đường dùng Cao Biền làm đô hộ tổng quản kinh lược chiêu
thảo sứ.
Theo sách
An Nam kỷ yếu, Trương Nhân dùng dằng không chịu tiến quân Hạ Hầu Ti
tiến cử Kiêu Vệ tướng quân Cao Biền sang thay; Trương Nhân giao lại
cho Cao Biền tất cả những quân mà Nhân đă coi quản.
Lời chua
- Cao Biền: Theo truyện Cao Biền trong Đường thư , Biền, tiểu tự là
Thiên Lư, người U Châu, là cháu Sùng Văn, một nhà truyền đời làm
quân Cấm Vệ. Cao Biền, từ khi c̣n nhỏ, rất chịu khó trau giồi về văn
học. Giao du với các nho sĩ, Biền bàn luận đường lối chính trị một
cách rắn rỏi. Những người trong hai quân Cấm, Vệ lại càng khen ngợi
Biền. Biền theo hầu Chu Thúc Minh, làm tư mă . Bấy giờ có hai con
chim điêu (thuộc loại chim cắt) đang song song bay với nhau, Cao
Biền giương cung định bắn và khấn: "Nếu ta sau này làm nên sang cả,
th́ bắn trúng nhé!". Khấn rồi bắn một phát trúng cả đôi. Mọi người
đều quá đỗi kinh ngạc, nhân thế gọi Biền là Lạc Điêu thị ngự (quan
thị ngự bắn rơi chim điêu). Biền làm quan, được thăng dần đến hữu
thần sách đô ngu hậu, v́ có công, lại được thăng làm pḥng ngự sứ
Tấn Châu. Hồi Nam Chiếu đánh phá Giao Châu, Biền được cử sang thay
Trương Nhân đánh Nam Chiếu.
Hạ Hầu
Ti: Theo truyện Lưu Triện , Hạ Hầu Ti tên tự là Hiếu Học, người đất
Tiêu thuộc Bạc Châu.
Năm Ất
Dậu (865). (Đường, năm Hàm Thông thứ 6).
Tháng 7,
mùa thu. Cao Biền tiến quân sang Phong Châu, đánh và phá tan được
quân Man.
Theo sách
Cương mục (Trung Quốc), Cao Biền đang rèn luyện quân lính ở trấn Hải
Môn, chưa tiến quân; giám quân là Lư Duy Chu ghét Biền, muốn hại
Biền, nên nhiều lần cứ thúc Biền tiến quân. Biền đem hơn năm ngh́n
người vượt biển đi trước, hẹn Duy Chu cho quân tiếp ứng viện trợ cho.
Khi Biền đem quân đi rồi, Duy Chu giữ chặt quân c̣n lại, không chịu
điều động xuất phát. Tháng chín, quân Cao Biền đến Nam Định , thấy
dân Man Phong Châu ngót năm vạn người đang gặt lúa ở đồng ruộng,
Biền ập lại đánh tan được, chém được Man tướng là bọn Trương Thuyên,
thu lấy lúa của dân đă gặt để làm lương ăn cho quân.
Lời chua
- Nam Định: Theo Địa lư chí trong Đường thư , Nam Định đặt năm Vũ
Đức thứ 4 (621), thuộc Giao Châu. Theo Thái B́nh hoàn vũ kư của Nhạc
Sử đời Tống, ở huyện Nam Định có núi Đông Cứu. Theo Thanh nhất thống
chí , núi Đông Cựu ở châu Gia Lâm. Nay xét núi Đông Cứu ở huyện Gia
B́nh, tỉnh Bắc Ninh, vậy huyện Nam Định phải ở địa giới Gia Lâm và
Gia B́nh.
Phong
Châu: Xem đời Hùng Vương (Tb.I, 2).
Năm Bính
Tuất (866). (Đường, năm Hàm Thông thứ 7).
Tháng 4,
mùa hạ. Cao Biền đánh lấy lại được thành Giao Châu. Nhà Đường thăng
cho Biền lên chức kiểm hiệu Công bộ Thượng thư.
Theo
Đường thư , bấy giờ thủ lĩnh man Nam Chiếu tên là Tù Long, bổ Đoàn
Tù Thiên làm tiết độ sứ ở Thiện Xiển, sai Dương Tập Tư giúp Tù Thiên
sang lấn cướp, cho Phạm Ni Ta làm phủ đô thống, Triệu Nặc Mi làm đô
thống ở Phù Da.
Theo sách
Cương mục (Trung Quốc), Cao Biền tiến quân thường đánh phá được quân
Nam Chiếu. Những tin thắng trận ấy gửi đến trấn Hải Môn đều bị Duy
Chu d́m đi cả. Chu lại tâu với vua Đường rằng Biền có ư nuông giặc,
không chịu tiến quân. Vua Đường nổi giận, muốn giáng chức Cao Biền,
dùng hữu vũ vệ tướng quân Vương Án Quyền sang thay và gọi Biền về
triều. Ngày tháng ấy, Biền lại đánh thắng quân Nam Chiếu được một
trận lớn, vừa giết vừa bắt được nhiều lắm, rồi bao vây thành Giao
Châu đến hơn mười ngày; quân Man bị khốn quẫn lắm. Khi thành sắp sửa
bị hạ th́ Biền nhận được công văn của Vương Án Quyền cho biết rằng
Án Quyền đă cùng với Duy Chu đem đại quân do cửa biển xuất phát rồi.
Biền lập tức giao việc quân cho Vi Trọng Tể, rồi cùng với hơn trăm
người thủ hạ trở về Bắc. Trước đây, tiểu sứ Vương Tuệ Tán do Trọng
Tể sai phái và tiểu hiệu Tăng Cổn do Cao Biền cắt cử, cùng nhau đem
thư báo tin thắng trận về tâu với vua Đường. Khi đi trên biển, hai
người trông thấy bóng cờ từ phía đông sang, hỏi những thuyền đi biển,
họ cho biết đấy là quan kinh lược mới và quan giám quân sang đấy.
Hai người bàn nhau: Duy Chu thế nào cũng cướp lấy tờ biểu này của ta.
Họ liền cùng nhau trốn vào trong hải đảo, đợi Duy Chu đi khỏi, lập
tức lên đường đi gấp về kinh đô. Vua Đường nhận được sớ biểu, mừng
lắm, thăng chức cho Cao Biền lên kiểm hiệu Công bộ thượng thư, lại
cho trở lại trấn. Bấy giờ, Cao Biền mới đến trấn Hải Môn, lại trở
lại. Án Quyền là người mờ tối biếng nhác, Duy Chu là người tàn ác,
tham lam, các tướng không ai chịu cộng sự với họ, nên đă bỏ lỏng
ṿng vây, quân Man trốn thoát mất quá nửa. Cao Biền khi đến nơi, lại
đốc thúc tướng sĩ đánh và hạ được thành, chém hơn ba vạn thủ cấp,
giết được Tù Thiên và thổ man là Chu Cổ Đạo đă làm người dẫn đường
cho quân Nam Chiếu. Quân Nam Chiếu phải chạy trốn. Cao Biền lại phá
được hai động thổ mán hùa theo Nam Chiếu và giết những tù trưởng của
họ. Các thổ mán khác đem dân chúng đến quy phụ với Cao Bền có tới
một vạn bảy ngh́n người.
Lời chua
- Thiên Xiển: Theo Nam Man truyện trong Đường thư , Thiện Xiển là
một kinh đô của nước Nam Chiếu, ở về phía tây bắc Giao Châu.
Phù Da:
Theo Thanh nhất thống chí , phủ An Nam đô hộ có huyện Phù Da thuộc
châu Vũ Định. Lại theo Vân Nam cổ tích , Vân Nam có thành Phủ Da ở
huyện La Thứ .
Tháng 11,
mùa đông. Giặc Man đă dẹp yên. Nhà Đường đặt Tĩnh hải quân, dùng Cao
Biền làm tiết độ sứ.
Theo sách
Cương mục (Trung Quốc), kể từ khi Lư Trác sách nhiễu nhân dân, dân
các Man nổi lên gần 10 năm; đến nay mới b́nh định xong, nhà Đường
đặt Tĩnh Hải quân ở An Nam, dùng Cao Biền làm tiết độ sứ. Bắt đầu từ
đấy, An Nam đổi tên là Tĩnh Hải quân tiết trấn.
Cao Biền
vào ở phủ lỵ, đắp Đại La thành.
Theo sách
An Nam kỷ yếu, Cao Biền đắp Đại La thành, và làm ra sổ sách chép rơ
bờ cơi, số lính thú trong trấn và các thuế má cống nạp. Người Giao
Châu kính sợ Cao Biền, gọi Biền là Cao vương.
Sử cũ
chép: La Thành của Cao Biền đắp chu vi một ngh́n chín trăm tám mươi
hai trượng linh trăm thước (1982 trượng, 5 thước) ; thân thành cao
hai trượng, sáu thước (2 trượng, 6 thước); chân thành rộng hai
trượng, năm thước (2 trượng, 5 thước); nữ tường bốn mặt cao năm
thước, năm tấc (5 thước 5 tấc); năm mươi nhăm lầu vọng địch; sáu nơi
úng môn199 , ba cái hào nước, ba mươi tư đường đi. Lại c̣n đắp con
đê ṿng quanh ngoài thành dài hai ngh́n một trăm hai mươi nhăm
trượng, tám thước (2125 trượng, 8 thước), đê cao một trượng, năm
thước, chân đê rộng hai trượng, và làm hơn bốn mươi vạn gian nhà.
Cao Biền
đi tuần xem xét đến hai châu Ung, Quảng thấy trên đường biển có
nhiều đá mọc ngầm, làm cho việc vận tải lương thực không được thông
đồng. Biền sai trưởng sử là Lâm Phúng và Hồ Nam tướng quân là Dư Tồn
Cổ đem quân bản bộ và thủy thủ hơn một ngh́n người đi khai đào. Lúc
đi, Biền có dụ bảo họ rằng: "Đạo trời thường giúp lẽ phải, thần linh
hay pḥ người ngay. Bây giờ đi khai đường biển để giúp đời sống cho
nhân dân, nếu ta không vụ lợi riêng th́ việc làm có ǵ là khó?". Lâm
Phúng ra đi, khởi công làm việc khơi đục, giữa vời vấp phải có hai
ḥn đá lớn đằng dăng dài đến mấy trượng, ŕu búa đục măi cũng không
ăn thua ǵ, tự nhiên có sấm sét đánh luôn mấy trăm tiếng: tảng đá
lớn đều bị vỡ tan. Về phía tây lại có hai ḥn đá lớn mọc sừng sững
đối nhau, các thợ đều phải bó tay. Thế rồi lại có sấm sét đánh như
trước, làm tan cả ra. Đường biển do đấy mới được thông đồng. Nhân
thế gọi tên nơi ấy là Thiên Uy cảng (cảng oai trời).
Lời phê -
Nay xét: trong Đường thư, Cao Biền bị liệt vào truyện Bạn thần ; do
v́ Biền ăn ở hai ḷng, nên mắc phải tai vạ, chứ có ǵ đáng khen! C̣n
như việc dẹp yên Nam Chiếu chẳng qua chuyên nhờ oai vơ mà thắng được
chúng đó thôi. Con sông mà Biền đứng đào nay ở vào đâu cũng không
biết rơ. Nếu bảo ở tỉnh Nghệ An bây giờ th́ vẫn c̣n nghẽn tắc, nào
đă thông suốt được đâu? Lời Sử cũ chép đây so với lời truyện Cao
Biền trong Đường thư khen là thần tiên cũng chỉ là một lối hoang
đường tầm bậy giống nhau mà thôi. Vậy mà Sử cũ khen việc Biền đào
cảng là được trời giúp, tưởng cũng là chuyện nghe theo truyền văn mà
vội tin đấy. Lời cẩn án - Đại La ở Long Biên là cái thành do Trương
Bá Nghi nhà Đường đă đắp trước, Triệu Xương, Lư Nguyên Gia tiếp tục
sửa đắp lại, chứ không phải bắt đầu từ Cao Biền. Sử cũ chép rằng Cao
Biền đắp La Thành, làm nhà cửa có tới hơn bốn mươi vạn gian, tưởng
cũng là lời truyền văn không đúng sự thực e khó tin được hết cả. Sử
cũ lại chép: "Cao Biền đi tuần xem xét Ung Châu và Quảng Châu, khơi
thông đường biển, gọi là Thiên Uy cảng". Nay xét Địa lư chí trong
Đường thư, ở huyện Bác Bạch có cái ghềnh Bắc thú (Bắc thú than).
Khoảng giữa niên hiệu Hàm Thông (860-873) nhà Đường, Cao
Biền mộ
người đục phẳng những đá mọc ngầm để cho thuyền bè được thông đồng
qua lại. Theo Thanh nhất thống chí, huyện Bác Bạch nay thuộc châu
Uất Lâm. Vậy th́ nơi mà Cao Biền khơi đục không phải ở địa giới nước
ta. Có người bảo đó là Thiết Cảng ở Nghệ An, v́ nó có tên nữa là
Thiên Uy cảng; nhưng không phải. Việc Sử cũ chép đó e cũng không
đúng. Nay xin lược bớt, ghi phụ sơ qua ở đây để tiện tham khảo. Lời
chua - Đại La Thành: Thành này do Trương Bá Nghi đắp từ năm Đại Lịch
thứ 2 (767) đời Đường; năm Trinh Nguyên thứ 7 (791), Triệu Xương đắp
thêm; năm Nguyên Ḥa thứ 3 (808), Trương Chu lại sửa đắp lại; năm
Trường Khánh thứ 4 (824), Lư Nguyên Gia đời phủ trị tới bên sông Tô
Lịch, đắp một cái thành nhỏ, gọi là La Thành; năm Hàm Thông thứ 7
(866), Cao Biền đắp ngoại thành bao quanh "kim thành" , cũng gọi tên
là La Thành. Theo Thanh nhất thống chí thành Đại La ở ngoài phủ
thành Giao Châu, quận trị Giao Chỉ đời Hán, phủ trị đô hộ đời Đường
đều ở đấy. Lâu ngày đổ nát, vết cũ khó xét thấy. Đó tức là những lũy
đất ở bốn mặt ngoài tỉnh thành Hà Nội ngày nay. Những thành đất mà
các đời Lư, Trần về sau đă sửa đắp nhiều lần, tục cũng gọi là La
Thành. Nếu bảo đấy là vết thành cũ của Cao Biền th́ thật không đúng.
Năm Ất
Mùi (875). (Đường, Hi Tông, năm Kiền Phù thứ 2).
Nhà Đường
đổi Cao Biền đi làm tiết độ sứ Tây Xuyên, dùng Cao Tầm sang thay.
Theo sách
An Nam kỷ yếu , Cao Tầm là cháu họ Cao Biền, đă từng làm tiên phong,
xông pha tên đạn, nêu gương mẫu cho các quân sĩ. Cao Biền tiến cử
Cao Tầm sang thay cho ḿnh. Vua Đường nghe theo. Cao Biền ở phủ đô
hộ tất cả được chín năm.
Năm Canh
Tí (880). (Đường, năm Quảng Minh thứ 1). Tháng 3, mùa xuân. Quân phủ
đô hộ nổi loạn. Tiết độ sứ Tăng Cổn phủ dụ được yên.
Theo sách
An Nam kỷ yếu , trước kia, Tăng Cổn làm chức tiểu hiệu dưới quyền
Cao Biền, Tăng Cổn là người giỏi về chính trị. Khoảng giữa niên hiệu
Kiền Phù (874-879), nhà Đường dùng Tăng Cổn thay Cao Tầm làm tiết độ
sứ. Năm này (880) quân trong phủ nổi loạn, các thuộc hạ xin Tăng Cổn
rút ra ngoài thành để lánh nạn. Cổn không nghe, đem điều uy đức ra
phủ dụ: quân nổi loạn yên ngay, đến quy phụ với Cổn. Cổn không nhắc
hỏi đến lỗi của họ nữa. V́ thế, trong số quân các đạo đi thú ở Ung
Quản hễ ai theo về với Cổn th́ đều được dung nạp cả. Tăng Cổn là
người có tiếng khéo vỗ về cai trị nhân dân, được người Giao Châu gọi
là "ông thượng Tăng" (Tăng thượng thư). Cổn có soạn sách Giao Châu
kư lưu hành ở đời. Cổn làm việc ở trấn 14 năm. Đến đời Đường Chiêu
Tông, năm Cảnh Phúc thứ 1 (892), Chu Toàn Dục mới sang thay Cổn làm
tiết độ sứ.
Lời cẩn
án - Sử cũ chép quân trong phủ nổi loạn, tiết độ sứ Tăng Cổn trốn ra
ngoài thành. Nay xét Tăng Cổn là người có tiếng về chính trị, e Sử
cũ chép lầm chăng, nên nay căn cứ vào sách An Nam kỷ yếu của Cao
Hùng Trưng mà cải chính lại. Năm Bính Dần (906). (Đường, Chiêu Tuyên
đế, năm Thiên Hựu thứ 3).
Tháng
giêng, mùa xuân. Nhà Đường gia phong chức đồng b́nh chương sự cho
quan Tĩnh Hải quân tiết độ sứ là Khúc Thừa Dụ.
Họ Khúc
là một họ lớn lâu đời ở Hồng Châu. Thừa Dụ, tính khoan ḥa, hay
thương người, được dân chúng suy tôn.
Gặp thời
buổi loạn lạc, nhân danh là hào trưởng một xứ, Thừa Dụ tự xưng là
Tiết độ sứ và xin mệnh lệnh với nhà Đường; nhân thế vua Đường cho
làm chức ấy.
Lời chua
- Theo sách Thông giám , tháng giêng năm Thiên Hựu thứ 3 (906), nhà
Đường gia phong cho Thừa Dụ chức đồng b́nh chương sự. Sách Vân Đài
loại ngữ , Lê
Quư Đôn
chép: Thừa Dụ tức là Khúc Tiên chúa. Khúc Hạo và Khúc Thừa Mỹ đều là
con cháu.
Hồng Châu:
Tên đất xưa, đời Lê là hai phủ Thượng Hồng và Hạ Hồng, nay là hai
phủ B́nh Giang và Ninh Giang, đều thuộc tỉnh Hải Dương.
Năm Đinh
Măo (907). (Đường, năm Thiên Hựu thứ 4; Lương, Thái Tổ, năm Khai
B́nh thứ 1).
Khúc Thừa
Dụ mất, con là Hạo giữ Giao Châu, tự xưng là tiết độ sứ.
Khúc Hạo
nhờ vào cơ nghiệp cũ, giữ lấy La Thành, tự xưng là tiết độ sứ, chia
đặt các lộ, phủ, châu, và xă ở các xứ; đặt ra chánh lệnh trưởng và
tá lệnh trưởng , b́nh quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch; lập sổ khai
hộ khẩu, kê rơ họ tên quê quán, giao cho giáp trưởng trông coi.
Chính sự cốt chuộng khoan dung giản dị. Nhân dân đều được yên vui.
Khi đó, nhà Lương dùng tiết độ sứ Quảng Châu là Lưu Ẩn kiêm lĩnh
chức Tĩnh Hải quân tiết độ sứ và phong cho tước Nam B́nh vương. Lưu
Ẩn giữ thành Phiên Ngung. Khúc Hạo giữ Giao Châu, tự xưng là tiết độ
sứ, hai bên chực thôn tính lẫn nhau.
Lời chua
- Khúc Hạo: Theo sách An Nam kỷ yếu , Khúc Hạo người Giao Chỉ. Cuối
đời Đường, Khúc Hạo làm tiết độ sứ thay cho Độc Cô Tổn: đổi các
hương ở các huyện làm giáp, đặt mỗi giáp một quản giáp và một phó
tri giáp để giữ việc đánh thuế. Khúc Hạo giữ chức tiết độ sứ được
bốn năm th́ mất. Nay xét việc chép trong An Nam kỷ yếu có hơi khác
với lời Sử cũ , xin ghi cả hai để tham khảo.
Quảng
Châu: Tên đất, đặt từ đời Ngô. Xem Lương, Đại Đồng năm 7 (Tb.4, 2).
Phiên
Ngung: Xem Triệu Vũ vương, năm thứ nhất (Tb.I, 19).
Năm Đinh
Sửu (917). (Lương, Mạt đế, năm Trinh Minh thứ 3).
Khúc Hạo
sai con là Thừa Mỹ sang thông hảo với nhà Nam Hán.
Khi bấy
giờ Lưu Ẩn đă chết, em là Lưu Nham nối ngôi đặt quốc hiệu là Hán,
niên hiệu là Kiền Hanh. Đó là nhà Nam Hán. Khúc Hạo sai Thừa Mỹ sang
Nam Hán kết mối ḥa hảo. Thực ra, đó là mượn tiếng ḥa hảo để ḍ xét
t́nh h́nh hư thực.
Khúc Hạo
mất, con là Thừa Mỹ lên thay.
Năm Kỷ
Măo (919). (Lương, năm Trinh Minh thứ 5).
Nhà Lương
trao chức tiết độ sứ cho Khúc Thừa Mỹ.
Theo sách
An Nam kỷ yếu, trước kia, Thừa Mỹ sai sứ sang nhà Lương xin lĩnh "tiết
việt"204 ; nhân thế, nhà Lương cho làm tiết độ sứ, coi quản Giao
Châu.
Năm Quư
Mùi (923). (Lương, năm Long Đức thứ 3; Đường, Trang Tông, năm Đồng
Quang thứ 1).
Tháng 7,
mùa thu. Chúa Nam Hán là Lưu Cung sai Lư Khắc Chính sang xâm lấn.
Khúc Thừa Mỹ đánh chống lại, không được, bị bắt.
Theo sách
An Nam kỷ yếu , trước kia, Lưu Cung nghe nói Thừa Mỹ đă nhận "tiết
việt" của nhà Lương, giận lắm, sai tướng giỏi là Lư Khắc Chính đem
quân sang đánh, bắt được Thừa Mỹ đưa về.
Lời chua
- Chúa Nam Hán trước tên là Nham, sau đổi là Cung là v́ có điềm "rồng
trắng" hiện h́nh. Về sau cho tên Cung không lợi, lại đổi là Yêm,
nghĩa là có vẻ cao sáng v́ lấy nghĩa "rồng bay trên trời".
Nha tướng
của Khúc Hạo là Dương Diên Nghệ nổi quân đánh đuổi Lư Khắc Chính.
Theo sách
An Nam kỷ yếu , chúa Nam Hán sau khi bắt được Thừa Mỹ, sai tướng là
Lư Tiến sang làm thứ sử, cùng với Khắc Chính đóng giữ Giao Châu.
Dương Diên Nghệ lấy tư cách là tướng cũ của Khúc Hạo, tập họp quân
sĩ, đánh bại Khắc Chính. Khắc Chính phải chạy về Nam Hán. Chúa Nam
Hán ư muốn chiêu dụ, tạm phong tước vị cho Diên Nghệ. Chúa Nam Hán
bảo những kẻ tả hữu ḿnh rằng: "Dân Giao Châu thích nổi loạn, ta chỉ
có thể cơ mi206 được thôi".
Lời chua
- Dương Diên Nghệ: Người Ái Châu. Sách An Nam kỷ yếu chép là Đ́nh
Nghệ. Nay theo sách Cương mục (Trung Quốc) đổi lại là Diên Nghệ.
Năm Tân
Măo (931). (Hậu Đường, Minh Tông, năm Trường Hưng thứ 2).
Tháng 12,
mùa đông. Dương Diên Nghệ đánh đuổi Lư Tiến, giết Trần Bảo, lấy lại
Giao Châu, tự xưng là tiết độ sứ.
Trước kia,
Diên Nghệ vẫn có chí định khôi phục Giao Châu có nuôi ba ngh́n tráng
sĩ làm nha binh . Lư Tiến biết việc đó, cho người gấp về báo với
chúa Nam Hán. Diên Nghệ liền kéo quân vây đánh Lư Tiến. Chúa Nam Hán
sai thừa chỉ là Trần Bảo đem quân sang cứu. Quân Trần Bảo chưa đến
nơi th́ thành đă bị đánh phá, Lư Tiến phải trốn về. Trần Bảo đến nơi,
cho quân vây thành; Diên Nghệ ra đánh, Trần Bảo bị thua và chết.
Diên Nghệ tự xưng là tiết độ sứ, quản lĩnh công việc Giao Châu.
Năm Đinh
Dậu (937). (Tấn, Cao tổ, năm Thiên Phúc thứ 2).
Tháng 3,
mùa xuân. Nha tướng của Dương Diên Nghệ là Kiểu Công Tiện giết Diên
Nghệ và lên thay Diên Nghệ.
Lời chua
- Kiểu Công Tiện: Theo sách An Nam kỷ yếu , Tiện là người Phong Châu.
Năm Mậu
Tuất (938). (Tấn năm Thiên Phúc thứ 3).
Tháng 9,
mùa thu. Một nha tướng khác của Diên Nghệ là Ngô Quyền khởi binh,
đánh giết Kiểu Công Tiện. Chúa Nam Hán, Lưu Cung sai con là Hoằng
Tháo sang cứu viện. Ngô Quyền đón đánh ở sông Bạch Đằng: quân Nam
Hán bị thua, Hoằng Tháo bị chết đuối.
Ngô Quyền,
người xă Đường Lâm, thuộc ḍng quư tộc đă lâu đời, cha là Mân trước
làm quan mục ngay châu nhà. Khi Ngô Quyền mới sinh, có điềm sáng rực
cả nhà, trạng mạo đặc biệt khác thường, trên lưng có ba nốt ruồi đen.
Người xem tướng lấy làm lạ, bảo rằng sau này có thể làm chúa một
phương. V́ thế mới gọi tên là Quyền. Khi Quyền lớn lên, mặt mũi khôi
ngô, mắt sáng như chớp, chân bước khoan thai như dáng con hổ, có trí
dũng, sức khoẻ cất nổi cái vạc, làm nha tướng của Diên Nghệ. Diên
Nghệ gả con gái cho. Ngô Quyền coi giữ Ái Châu. Khi Công Tiện giết
Diên Nghệ, Ngô Quyền đem quân từ Ái Châu ra đánh, giết được Công
Tiện.
Theo sách
Cương mục (Trung Quốc), Công Tiện sai sứ đem của đút lót cho chúa
Nam Hán để xin cứu viện. Chúa Nam Hán là Lưu Cung định nhân dịp rối
loạn ấy sang lấy Giao Châu, mới cho con là Vạn vương Hoằng Tháo làm
Giao vương, đem quân sang cứu Công Tiện. Lưu Cung có hỏi Sùng Văn sứ
là Tiêu Ích về sách lược; Tiêu Ích trả lời: "Hiện này mưa dầm đă
suốt mấy tuần, đường biển hiểm trở xa khơi; Ngô Quyền lại là người
giỏi lắm, chớ nên coi thường. Đại quân phải nên giữ ǵn thận trọng,
dùng nhiều người đưa đường rồi sau hăy tiến". Lưu Cung không nghe,
sai Hoằng Tháo đem thuyền chiến kéo thẳng sang đánh Giao Châu. Khi
ấy, Ngô Quyền đă giết được Công Tiện, đem quân đón đánh. Trước hết
lấy các cọc gỗ đầu đẽo nhọn và bịt sắt trồng ngầm ở cửa biển, nhân
lúc nước triều lên cho các thuyền nhẹ ra khiêu chiến, rồi giả cách
thua chạy. Hoằng Tháo đuổi đánh, th́nh ĺnh nước triều rút cạn,
thuyền chiến mắc phải cọc bịt sắt, không trở về được: quân Nam Hán
bị thua to, Hoằng Tháo bị chết đuối.
Theo Ngũ
đại sử , tướng cũ của Diên Nghệ là Ngô Quyền đánh Giao Châu, Công
Tiện cho người sang Nam Hán xin quân cứu viện. Lưu Cung phong Hoằng
Tháo làm Giao Vương, xuất quân tới sông Bạch Đằng để đánh Ngô Quyền.
Lưu Cung th́ đem quân đóng ở trấn Hải Môn. Ngô Quyền ra đón đánh,
Hoằng Tháo bị thua và chết, Lưu Cung thu quân kéo về.
Lời bàn
của Ngô [Th́] Sĩ - Trận thắng lợi trên sông Bạch Đằng là cơ sở sau
này cho việc phục lại quốc thống. Những chiến công các đời Đinh, Lê,
Lư, Trần vẫn c̣n nhờ vào uy thanh lẫm liệt để lại ấy. Trận Bạch Đằng
này là vũ công cao cả, vang dội đến ngh́n thu, há phải chỉ lừng lẫy
ở một thời bấy giờ mà thôi đâu? Lời phê - Ngô Quyền gặp được ngụy
triều Nam Hán là một nước nhỏ, Hoằng Tháo là thằng hèn kém, nên mới
có được trận thắng trên sông Bạch Đằng. Đó là một việc may, có ǵ
đáng khen. Nếu gặp phải tay Trần Bá Tiên, mà bảo rằng Ngô Quyền
không phải theo gót Lư Nam Đế, Triệu Việt Vương, th́ ít có lắm! Lời
chua - Đường Lâm: Tên xă xưa. Xem thuộc Đường, năm Trinh Nguyên thứ
7 (Tb.4, 26). Theo sách An Nam kỷ yếu , Ngô Quyền, người Ái Châu.
Vậy rơ sách nào chép đúng.
Sông Bạch
Đằng: Bắt đầu từ sông Lục Đầu thuộc địa hạt tỉnh Bắc Ninh phân lưu
chạy vào địa hạt tỉnh Hải Dương: Một chi theo Mỹ Giang, một chi theo
Châu Cốc Sơn, hai chi hợp lại ở xă Đoan Lễ. Khúc sông hợp lại này
gọi là sông Bạch Đằng. Sông Bạch Đằng phía nam giáp giới huyện Thủy
Đường, tỉnh Hải Dương; phía bắc giáp giới huyện Yên Hưng tỉnh Quảng
Yên; chuyển về phía nam 29 dặm, đổ ra cửa biển Nam Triệu. Theo sách
Địa lư chí208 của Nguyễn Trăi, sông Bạch Đằng có tên gọi nữa là sông
Vân Cừ, rộng hơn 2 dặm, ở đó có nhiều núi cao ngất, nhiều ngành sông
đổ lại, sóng cồn man mác giáp tận chân trời, cây cối um tùm che lấp
bờ bến, thực là một nơi hiểm yếu về đường biển. Ngô vương Quyền đời
Tiền Ngô đánh bại Hoằng Tháo, Hưng Đạo vương đời Trần chiến thắng
quân Nguyên đều ở trên sông Bạch Đằng này.
Năm Kỷ
Hợi (939). (Ngô vương Quyền, năm thứ 1; Tấn, năm Thiên Phúc thứ 4).
Mùa xuân.
Ngô Quyền tự xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa.
Lời tán
tụng của Ngô [Th́] Sĩ - Vua Ngô Quyền giết giặc nội phản để trả thù
cho chúa, đuổi quân ngoại xâm để cứu nạn cho nước, xây dựng quốc gia,
đem lại chính thống, công nghiệp thực là vĩ đại. Lời chua - Cổ Loa:
Xem An Dương vương năm thứ 3 (Tb.I, 9).
Lập Dương
thị làm hoàng hậu.
Dương Hậu
là con gái Diên Nghệ. Trước kia, Ngô Quyền làm nha tướng của Diên
Nghệ, Diên Nghệ gả con gái cho; đến đây lập Dương thị làm hoàng hậu.
Đặt trăm
quan, dựng nghi lễ trong triều, định màu sắc các đồ mặc.
Năm Giáp
Th́n (944). (Ngô vương năm thứ 6; Tấn, Tề vương, năm Khai Vận thứ
1).
Ngô vương
Quyền mất.
Lời bàn
của Ngô Sĩ Liên - Nhà Tiền Ngô khởi lên, không những có công đánh
giặc thắng lợi, lại c̣n đặt ra trăm quan, dựng ra nghi lễ trong
triều, định màu sắc các đồ mặc, ta cũng đă thấy sơ qua về quy mô đế
vương; thế mà hưởng ngôi vua không được lâu dài, chưa thấy có kết
quả ǵ về chính trị, thật là đáng tiếc! Năm Ất Tị (945). (Tấn, năm
Khai Vận thứ 2).
Tam Kha,
em Dương hậu, tự xưng là B́nh Vương.
Lời chua
- Dương Tam Kha: Theo lời chua trong Sử kư của Ngô [Th́] Sĩ, Tam Kha
người làng Dương Xá, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Con cả
Ngô vương Quyền là Xương Ngập chạy đến Nam Sách, nương nhờ Phạm Lệnh
Công.
Trước kia,
Ngô vương Quyền, khi bệnh kịch, có trối trăng dặn Tam Kha giúp con
ḿnh là Xương Ngập. Tam Kha liền cướp lấy ngôi, tiếm xưng là B́nh
vương. Xương Ngập sợ, chạy đến Nam Sách Giang, ẩn náu tại nhà Phạm
Lệnh Công ở Trà Hương. Tam Kha nuôi con thứ hai của Ngô vương Quyền
là Xương Văn làm con ḿnh. Các con vợ thứ của Ngô vương là Nam Hưng,
Kiền Hưng c̣n nhỏ, đều theo Dương hậu. Tam Kha sai Dương Cát Lợi và
Đỗ Cảnh Thạch đem quân đi lùng Xương Ngập: trước sau đến ba lần đều
không bắt được. Phạm Lệnh Công đem Xương Ngập giấu vào trong động
núi. Tam Kha biết tin, lại cho sục sạo, cuối cùng vẫn không t́m thấy.
Lời bàn
của Ngô Sĩ Liên - Việc làm của Phạm Lệnh Công thật là trung nghĩa.
Tam Kha là kẻ bầy tôi, đuổi con cả của vua đi mà cướp lấy ngôi, thế
mà Phạm Lệnh Công dám giấu Xương Ngập một chỗ, là có ư muốn bảo toàn
lấy ḍng dơi họ Ngô. Tại đây ta thấy việc Chử Cữu và Tŕnh Anh lại
tái diễn. Ai dám bảo trong cả một nước to lớn mà không có trung thần
nghĩa sĩ hay sao? Lời chua - Nam Sách Giang: Nay là phủ Nam Sách
thuộc tỉnh Hải Dương.
Trà Hương:
Tức là huyện Kim Thành, xưa gọi là Trà Hương, đều thuộc tỉnh Hải
Dương.
Đỗ Cảnh
Thạc: Người huyện Thuận Đức thuộc Quảng Đông.
Tŕnh Anh,
Chử Cữu: Theo Sử kư của Tư Mă Thiên, về đời Cảnh Công nước Tấn năm
thứ 3, Đồ Ngạn Giả (quan tư khấu nước Tấn) giết con Triệu Thuẫn là
Triệu Sóc và diệt cả họ Triệu, Tŕnh Anh và Chử Cữu, là bạn của
Triệu Sóc, cùng nhau liều chết đem giấu con Triệu Sóc là Triệu Vũ để
bảo tồn lấy ḍng dơi họ Triệu.
Năm Canh
Tuất (950). (Hán, Ân đế, năm Kiền Hựu thứ 3).
Ngô Xương
Văn đánh Tam Kha truất bỏ đi.
Tam Kha
sai Xương Văn cùng hai quan sứ là Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc đem
quân đi đánh hai thôn ở Thái B́nh. Khi đi đến huyện Từ Liêm, Xương
Văn bảo hai quan sứ rằng: "Đức trạch của Tiên vương ta thấm khắp
ḷng dân, tất cả các chính lệnh thi hành không ai là không vui ḷng
theo cả. Chẳng may Tiên vương ta mất đi. Bây giờ B́nh vương là kẻ
bất nghĩa, tự cướp lấy ngôi, c̣n tội ǵ hơn nữa! Nay lại sai chúng
ta đi đánh các ấp vô tội kia, may mà được đă vậy, nếu họ không phục
th́ làm thế nào?". Hai quan sứ trả lời: "Tướng quân bảo sao chúng
tôi cũng xin vâng mệnh". Xương Văn bảo: "Ư tôi muốn đem quân quay về
đánh úp B́nh Vương để phục lại cơ nghiệp của tiền nhân, có nên không?".
Hai quan sứ đều lấy làm phải. Bấy giờ mới trở về đánh úp Tam Kha.
Mọi người muốn giết đi, nhưng Xương Văn bảo rằng: "B́nh vương đối
với ta cũng có ơn, nỡ nào đem giết?". Rồi giáng Tam Kha xuống làm
Trương Dương công, nhân chỗ ở ấy cho làm thực ấp . Tam Kha tiếm ngôi
được 6 năm.
Lời chua
- Hai thôn Thái B́nh: Sử cũ chép là hai thôn Đường, Nguyễn thuộc
Thái B́nh.
Thái B́nh:
Xem Triệu Việt vương năm thứ 9 (Tb.4, II).
Trương
Dương: Sử cũ chua: tức là bến đ̣ Chương Dương, bây giờ ở huyện
Thượng Phúc.
Năm Tân
Hợi (951). (Ngô, Nam Tấn vương Xương Văn, năm thứ 1; Chu, Thái tổ,
năm Quảng Thuận thứ 1).
Ngô Xương
Văn lên ngôi xưng là Nam Tấn vương.
Xương Văn,
là con thứ Ngô Vương Quyền, sau khi truất bỏ Tam Kha, lên ngôi vua.
Ấy là nhà Hậu Ngô.
Sai sứ
giả đón anh là Xương Ngập về. Xương Ngập xưng là Thiên Sách vương.
Đón Xương
Ngập ở Trà Hương về kinh đô, cùng nhau trông coi việc nước.
Đinh Bộ
Lĩnh khởi binh ở Hoa Lư. Vua Nam Tấn đánh không được.
Bộ Lĩnh,
người Hoa Lư, từ bé đă có chí khí lớn. Bấy giờ trong nước rối loạn,
Bộ Lĩnh cùng với con là Đinh Liễn đi theo sứ quân Trần Minh Công.
Minh Công thấy Bộ Lĩnh là người khôi ngô, khác thường, và có độ
lượng, nên giao cho binh quyền. Sau khi Minh Công mất, Bộ Lĩnh thống
lĩnh cả các quân, về giữ Hoa Lư. Nam Tấn vương cùng với Thiên Sách
vương đem quân đến đánh, Bộ Lĩnh sợ, sai con là Liễn vào làm con tin
để hoăn binh. Khi Đinh Liễn đến, hai vương liền bắt cả Đinh Liễn đem
đi đánh, hơn một tháng cũng chưa đánh được, mới treo Liễn lên đầu
ngọn sào, sai người bảo Bộ Lĩnh: "Nếu không hàng th́ sẽ giết Liễn!".
Bộ Lĩnh giận, nói: "Tài trai đă quyết chí công danh, khi nào lại
chịu bắt chước như đàn bà con trẻ!". Rồi sai hơn mười tay nỏ cùng
nhằm chực bắn vào Liễn. Hai vương thấy thế, kinh hăi bảo nhau: "Ta
treo con hắn là cốt muốn cho hắn đầu hàng ngay, nay hắn tàn nhẫn như
vậy, th́ dẫu giết con hắn đi cũng chẳng ích ǵ". Hai vương bèn không
giết Đinh Liễn nữa, rút quân về. Sau, Đinh Liễn lại trở về Hoa Lư.
Lời cẩn
án - Hoa Lư ở về sơn phận hai xă Uy Viễn và Uy Tế thuộc Ninh B́nh.
Nơi đây bốn mặt đều có núi đá đứng thẳng như bức vách, trong có một
chỗ hơi bằng phẳng rộng răi, người xứ ấy gọi là động Hoa Lư. Theo
sách An Nam kỷ yếu, Hoa Lư ở về huyện Lê B́nh. Lê B́nh bây giờ là
Gia Viễn, trong ḷng động rộng hàng hai trượng có một cái lạch nước
quanh co khuất khúc chảy đến phía nam thành Hoa Lư. Thành Hoa Lư
cũng ở huyện Lê B́nh. Họ Đinh nhân thế núi đắp thành ấy chu vi năm
trăm trượng. Vết thành cũ vẫn c̣n. Như thế th́ động Hoa Lư là chỗ
Đinh Tiên Hoàng khởi binh; Thành Hoa Lư ở Trường Yên là nơi đóng đô
của họ Đinh. Có thuyết cho rằng hai phủ Yên Khánh và Thiên Quan xưa
kia đều gọi là Hoa Lư cả; nếu bảo động Hoa Lư ở trong núi Trường Yên
th́ lầm. Năm Giáp Dần (954). (Ngô, Nam Tấn vương năm thứ 4; Chu, Thế
tông, năm Hiển Đức thứ 1).
Xương
Ngập mất. Nam Tấn vương sai sứ sang Nam Hán.
Trước kia,
Thiên Sách vương Xương Ngập chuyên quyền, Nam Tấn vương không tham
dự chính sự nữa. Hai bên do đấy có sự xích mích. Đến nay, Xương Ngập
mất, Nam Tấn vương mới chính ḿnh cầm chính quyền, sai sứ sang xin
mệnh lệnh chúa Nam Hán là Lưu Thạnh. Nam Hán phong cho Nam Tấn vương
chức Tĩnh Hải quân tiết độ sứ kiêm đô hộ.
Theo Ngũ
đại sử (Nam Hán thế gia) có chép về Ngô Xương Tấn, người Giao Châu:
Xương Tấn là con Ngô Quyền. Ngô Quyền giữ Giao Châu, khi mất rồi,
Xương Ngập lên thay. Xương Ngập mất, em là Xương Tấn lên thay, sai
sứ đến Lưu Thạnh xin "tiết việt" Lưu Thạnh sai cấp sự trung là Lư Dư
đem cờ "tinh" sang để chiêu dụ. Lư Dư đi đến Bạch Châu, Xương Tấn
sai người đến ngăn lại, bảo rằng: "Giặc biển làm loạn, đường sá khó
đi", thành thử Lư Dư không sang được tới nơi.
Lời cẩn
án - Sử cũ chép Nam Tấn vương Xương Văn xin mệnh lệnh chúa Nam Hán;
c̣n Ngũ đại sử chép tên là Xương Tấn: sự việc hơi giống nhau, nhưng
tên gọi mỗi đằng một khác. Có lẽ bấy giờ Xương Văn đổi tên là Xương
Tấn để giao thiệp với nhà Nam Hán, mà người chép Ngũ đại sử ở đương
thời không biết được rành mạch tường
tận nên
mới trái ngược nhau như thế. Việc này thuộc về nước ta, nên theo Sử
cũ là phải. Đến như Sử cũ chép chúa Nam Hán bấy giờ là Lưu Xưởng, có
lẽ v́ chưa khảo kỹ chăng. V́ xét: Lưu Xưởng nối ngôi nhằm đời Chu
Thế Tông năm Hiển Đức thứ 5 (958), th́ năm Hiển Đức thứ 1 (954) Lưu
Thạnh vẫn c̣n làm chúa Nam Hán. Năm Ất Sửu (965). (Ngô, Nam Tấn
vương năm thứ 15; Tống, Thái tổ; năm Kiền Đức thứ 3).
Nam Tấn
vương Xương Văn đi đánh Thái B́nh, mất tại trận.
Nam Tấn
vương đem quân đi đánh hai thôn ở Thái B́nh. Quân đến nơi, cắm
thuyền, lên bộ đánh nhau. Nam Tấn vương bị trúng tên nỏ mai phục bắn
chết! Trị v́ được 15 năm.
Theo Sử
kư của Ngô [Th́] Sĩ, khi bấy giờ có người quận Thao Giang là Chu
Thái quật cường không thần phục. Nam Tấn vương thân đi đánh, chém
được Chu Thái. Do trận thắng ấy, Nam Tấn vương quen mui sinh kiêu,
nên mới mắc nạn về việc đi đánh hai thôn này.
Lời bàn
của Ngô Sĩ Liên - Nam Tấn nhà Ngô dùng chính nghĩa trừ kẻ tàn bạo,
lấy lại được cơ nghiệp cũ. Công việc ấy cũng đă yên ủi vong linh
tiên tổ ḿnh, làm nguôi ḷng bực tức của quỷ thần, của nhân dân. Thế
mà, chỉ v́ hiền lành nhù nhờ, đă không trừng trị Tam Kha về tội cướp
nước, lại c̣n gây ra chiến tranh bẩn thỉu ở Thái B́nh, cuối cùng tự
rước lấy tai nạn, thật đáng tiếc! Nhà Ngô mất. Ngô vương Quyền khởi
lên năm Kỷ Hợi, mất năm Giáp Th́n, được 6 năm (939- 944); Nam Tấn
Xương Văn từ năm Tân Hợi đến năm Ất Sửu, được 15 năm (951-965). Cộng
tất cả là 21 năm
Năm Bính
Dần (966). (Tống, năm Kiền Đức thứ 4).
Ngô Xương
Xí giữ B́nh Kiều, Đỗ Cảnh Thạc giữ Đỗ Động, cùng với thổ hào các
huyện ấp tụ tập quân đánh lẫn nhau.
Từ khi
Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô, thổ hào các nơi đua nhau nổi dậy. Xương
Văn tuy lấy lại được nước, nhưng chính sự cẩu thả, không thể thống
nhất được; đến khi đi đánh Thái B́nh, không được, bị chết trận, từ
đó trong nước rối loạn. Một viên tướng người họ Ngô là Ngô Xương Xí
tụ tập quân giữ B́nh Kiều. Nha tướng nhà Ngô là Đỗ Cảnh Thạc giữ Đỗ
Động Giang. Thổ hào các nơi khác cũng nổi lên mỗi người giữ một nơi,
ai cũng xưng hùng trưởng. Sau Tiên Hoàng nhà Đinh nổi lên, dẹp yên
được cả, từ đấy giang sơn mới thống nhất.
Trước kia,
thổ hào các nơi nổi lên như sau:
− Trần
Lăm, tự xưng là Trần Minh Công, giữ Bố Hải khẩu;
− Kiểu
Công Hăn tự xưng là Kiểu Tam Chế, giữ Phong Châu;
− Nguyễn
Khoan tự xưng là Nguyễn Thái B́nh, giữ Nguyễn Gia Loan ở Tam Đái;
− Ngô
Nhật Khánh tự xưng là Ngô Lăm Công, giữ Đường Lâm (có chỗ chép là
Giao Thủy).
− Lư Khuê
tự xưng là Lư Lăng Công, giữ Siêu Loại;
− Nguyễn
Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh công, giữ Tiên Du;
− Lữ
Đường tự xưng là Lữ Tá Công, giữ Tế Giang;
− Nguyễn
Siêu tự xưng là Nguyễn Hữu Công, giữ Tây Phù Liệt;
− Kiểu
Thuận tự xưng là Kiểu Lệnh Công, giữ Hồi Hồ;
− Phạm
Bạch Hổ tự xưng là Phạm Pḥng Át, giữ Đằng Châu.
Các thổ
hào ấy thôn tính lẫn nhau. Đến đây, bọn Ngô Xương Xí và Đỗ Cảnh Thạc
lại chiếm giữ B́nh Kiều và Đỗ Động, trước sau tất cả 12 sứ quân.
Lời cẩn
án - Sử cũ chép "Ngô sứ quân1 gồm 2 năm", để kế tiếp vào thế thứ Nam
Tấn vương, v́ Sử cũ nhận rằng sứ quân Ngô Xương Xí là con Ngô Xương
Ngập. Nhưng nay xét: sau khi Nam Tấn vương mất, Xương Xí chiếm giữ
B́nh Kiều, thế lực rất yếu ớt, không khác ǵ các sứ quân ở các nơi
khác; cho nên đem liệt cả vào một hàng sứ quân. Lại xét: Sử cũ chép
Nam Tấn mất rồi, mười hai sứ quân đua nhau nổi lên, bắt đầu chép Ngô
Xương Xí, cuối cùng chép Trần Minh Công; dưới đoạn ấy chép tiếp Đinh
Bộ Lĩnh tự xưng Vạn Thắng vương rồi kể lại chuyện Bộ Lĩnh đi theo
Trần Minh Công, khi Minh Công mất mới đứng quản lĩnh quân đội thay.
Xét kỹ ra, th́ ngay từ năm thứ nhất đời Nam Tấn, đă thấy có chép "Bộ
Lĩnh giữ Hoa Lư, Nam Tấn vương và Thiên Sách vương đến đánh không
được". Vậy th́ Trần Minh Công khởi binh phải ở vào trước khi Xương
Văn chưa lấy lại được nước. Cứ thế mà suy ra, mười hai sứ quân chiếm
giữ các huyện ấy phải có kẻ trước kẻ sau, không giống nhau, chứ
không phải đến khi Nam Tấn vương mất rồi, mười hai sứ quân mới đồng
thời nổi dậy. Nhưng Sử cũ v́ không biết rơ năm tháng của từng sứ
quân, nên mới nói tổng hợp ở cả một chỗ ấy đấy thôi. Nay không có
văn kiện chép rơ có thể chứng thực được, nên hăy xin ghi để xét sau.
Lời chua - Ngô Xương Xí: Con Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập.
B́nh Kiều:
Chưa rơ ở đâu.
Đỗ Động
Giang: Sông Đỗ Động, phát nguyên từ các đầm lớn ở xă Đàn Viên thuộc
huyện Thanh Oai, chảy qua các xă Sinh Quả, Ức Lư, đi khuất khúc đến
xă Thượng Cung, huyện Thượng Phúc, th́ hợp với sông Nhuệ. Sử kư của
Ngô [Th́] Sĩ chua: "Bây giờ ở làng Bảo Đà huyện Thanh Oai c̣n có vết
cũ thành của sứ quân"214 . Có thuyết cho rằng Đỗ Động Giang là một
tên khác của Nhuệ Giang, thế là lầm.
Bố Hải
Khẩu: Tên đất. Năm Thiên Thành thứ 3, đời Lư Thái Tông, nhà vua đi
Bố Hải Khẩu, cày ruộng tịch điền. Theo Nam Định tỉnh sách215 , xă Kỳ
Bố, thuộc huyện Vũ Tiên, phủ Kiến Xương, là nơi trước kia sứ quân
Trần Lăm tụ tập quân đóng giữ. Bấy giờ chỗ ấy c̣n là cửa biển, nên
gọi là Bố Hải Khẩu.
Phong
Châu: Xem đời Hùng Vương (Tb.I, 1-2). Sơn Tây tỉnh sách216 có chép ở
xă Phù Lập, huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, có vết thành sứ quân,
tức là thành của Kiểu Tam Chế đă đắp.
Tam Đái:
Tên Châu. Bây giờ là phủ Vĩnh Tường, xưa thuộc Phong Châu.
Nguyễn
Gia Loan: Tên núi. Theo Sổ địa danh tỉnh Sơn Tây217 , núi ấy c̣n có
tên gọi là núi Độc Nhĩ và tên gọi nữa là Biện Sơn, ở xă Vĩnh Mỗ
huyện Yên Lạc là nơi trị sở của sứ quân Nguyễn Khoan khi giữ Tam Đái
v́ thế gọi là Nguyễn Gia Loan.
Đường Lâm:
Tên xă. Xem thuộc Đường, năm Trinh Nguyên thứ 7 (Tb.IV, 26).
Nhật
Khánh: Người họ Ngô Quyền, bị Đinh Tiên Hoàng dẹp yên được. Việc này
xem năm Thái B́nh thứ 10, đời Đinh Tiên Hoàng (Chb.I, 11).
Thủ Tiệp:
C̣n một tên hiệu nữa là Ba An quân, ḿnh dài tiếng to, ai nghe thấy
tiếng nói cũng phải giật ḿnh, người ta gọi là ông Sấm (Lôi Công).
Đến khi khởi binh, Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh công, đóng giữ
huyện Tiên Du, sau lấy cả Vũ Ninh, tự xưng là Vũ Ninh vương, không
rơ là người ở xứ nào.
Tiên Du:
Tên huyện. Bây giờ thuộc phủ Từ Sơn218 , tỉnh Bắc Ninh.
Siêu Loại:
Tên huyện.
Tế Giang:
Tên huyện xưa, bây giờ là Văn Giang219 , đều thuộc phủ Thuận An,
tỉnh Bắc Ninh.
Tây Phù
Liệt: Tên đất. Bây giờ là xă Tây Phù Liệt thuộc huyện Thanh Tŕ, Hà
Nội.
Hồi Hồ:
Thuộc huyện Cẩm Khê, tỉnh Sơn Tây. Cẩm Khê xưa là Hoa Khê. Theo Sổ
địa danh tỉnh Sơn Tây , ở xă Trương Xá thuộc Cẩm Khê, có vết cũ
thành của sứ quân Kiểu Công.
Đằng Châu:
Tên đất. Nhà Trần gọi là Khoái Lộ, nhà Lê gọi là Khoái Châu, đều là
đất này cả. Bây giờ ở xă Đằng Châu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên,
c̣n có đền thờ Phạm sứ quân.
Trần Lăm,
Kiểu Công Hăn, Nguyễn Khoan, Lư Khuê, Lữ Đường, Nguyễn Siêu, Kiểu
Thuận, Phạm Bạch Hổ: Đều không rơ người ở đâu.
Năm Đinh
Măo (967). (Tống, năm Kiền Đức thứ 5).
Đinh Bộ
Lĩnh ở Hoa Lư đánh và dẹp yên được sứ quân các bộ, tự xưng là Vạn
Thắng vương.
Thế lực
quân đội của Bộ Lĩnh mỗi ngày một mạnh, đánh đâu được đấy. Lại phá
được đám giặc ở Đỗ Động Giang. Các bộ đều dẹp yên được cả. Quan lại
và nhân dân các châu các phủ không ai không quy phục.
Theo Ngũ
đại sử, năm Đại Bảo thứ 8 đời Lưu Xưởng , Xương Văn ở Giao Châu mất
(965), người giúp việc là Lữ Xử B́nh cùng với thứ sử Phong Châu là
Kiều Tri Hựu tranh nhau lên làm vua. Đinh Liễn đem quân đánh phá
được. Lưu Xưởng cho Đinh Liễn làm tiết độ sứ Giao Châu.
Theo sách
Thập quốc Xuân thu của Ngô Nhậm Thần nhà Thanh, th́ năm Đại Bảo thứ
3 đời Hậu Chúa Nam Hán Lưu Xưởng, Đinh Bộ Lĩnh giữ công việc Giao
Chỉ, hiệu là Đại Thắng vương. Trước kia, Ngô Xương Văn mất, tướng tá
của Xương Văn là Lă Xử B́nh cùng với thứ sử Phong Châu là Kiều Tri
Hựu gây loạn, Bộ Lĩnh cùng với con là Đinh Liễn đánh bại Xử B́nh,
được dân chúng suy tôn làm vua.
Lời bàn
của Ngô Sĩ Liên - Theo khí vận (tuần hoàn) của trời đất, bĩ tắc măi
tất có lúc hanh thông. Xem như ở Trung Quốc, sau những loạn lạc về
thời Ngũ Đại (907- 959) th́ có Thái tổ nhà Tống nổi lên; ở nước Nam
ta, sau những cuộc tranh giành của Mười hai sứ quân th́ có Đinh Tiên
Hoàng trỗi dậy. Những việc đó không phải là ngẫu nhiên, mà chính là
khí vận do trời định đoạt. Lời cẩn án - Nay xét: Đem việc chép về
nhà Đinh trong Ngũ đại sử và Thập quốc Xuân thu so với Sử cũ của ta
th́ thấy hơi khác: năm Đại Bảo thứ 8 đời Lưu Xưởng (965) tức là năm
Kiền Đức thứ 3 nhà Tống (965), những cũng xin chép cả, để giúp việc
tra cứu. Đây trở lên, từ năm Nhâm Ngọ, thuộc Đường, năm Hàm Thông
thứ 3 (862) đến năm Đinh Măo, ngang với nà Tống năm Kiền Đức thứ 5
(967), cộng một trăm linh sáu năm.
(Hết phần
Tiền biên)
Chính
Biên
Quyển
thứ I
Từ Mậu
Th́n (968), Đinh Tiên Hoàng năm thứ 1 đến hết Đinh Mùi (1007), Lê
Long Đĩnh năm Ứng Thiên thứ 14, gồm 40 năm (968-1007).
Mậu Th́n
(968), Đinh Tiên Hoàng năm thứ 1 (Tống, Thái tổ, năm Khai Bảo thứ
1).
Vạn Thắng
vương lên ngôi Hoàng đế, quốc hiệu là Đại Cồ Việt (không rơ tháng
nào).
Ngài,
người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng, cha là Công Trứ, mẹ là Đàm thị.
Công Trứ, trước kia, làm nha tướng của Dương Diên Nghệ, quyền tạm
chức Thứ sử Hoan Châu , sau theo Ngô Vương, vẫn làm chức cũ. Khi
Công Trứ mất rồi, ngài hăy c̣n nhỏ, Đàm thị đưa về ở động núi. Chăn
trâu ngoài nội, chơi với đám trẻ con, ngài được chúng chịu phục cả.
Hễ ngài đi đâu, chúng cứ phải tréo tay làm kiệu rước đi, giống như
kiệu thật; lại lấy bông lau làm cờ rước kèm hai bên làm như nghi vệ
thiên tử. Kéo nhau đi đánh trẻ con thôn khác: đi đến đâu, ở đấy cũng
phải phục tùng. Đám th́ kiếm củi, thổi cơm; đám th́ nộp lương, giúp
việc. Mẹ thấy thế, mừng lắm, giết lợn nhà để khao chúng. Khi đă hơi
lớn, ngài sai bảo được những người ở ấp lân cận. Phụ lăo trong các
sách đều bảo nhau rằng: "Chú bé này có độ lượng khác thường, chắc
rồi làm nên sự nghiệp kia khác". Họ liền đem con em theo ngài, lập
ngài làm trùm, đóng ở sách Đào Úc, ngày ngày đi đánh những sách khác
chưa chịu phục.
Bấy giờ
có Thúc Dự giữ sách Bông, chống nhau với ngài. Ngài v́ quân ít,
không địch nổi, thua chạy, qua cầu Đàm Gia. Cầu gẫy, ngài sa lầy. Dự
đuổi theo, toan đâm. Bỗng thấy rồng vàng che phủ hai bên, Dự sợ, rút
lui. Ngài thu lượm quân gia c̣n sót, lại đánh: Dự phải hàng.
Hồi ấy
phương Nam, phương Bắc đương rối ren. Sứ quân các bộ thay nhau nổi
lên, mỗi người xưng hùng một nơi, chia cắt đất nước. Nghe biết Trần
Minh Công là người có đức, ngài đến nương tựa, Minh Công sai giữ
binh quyền. Khi Minh Công mất, ngài sẵn có quân ấy, giữ luôn Hoa Lư,
chiêu mộ thu dùng hào kiệt, thủ hiểm một nơi. Hai vua Nam Tấn và
Thiên Sách nhà Ngô đánh măi không được. Kịp khi nhà Ngô mất, ngài
hàng phục được Phạm Pḥng Át, phá được Đỗ Động, hạ thành, đánh ấp,
đến đâu thắng đấy, được tôn gọi là Vạn Thắng Vương. Dẹp tan mười hai
Sứ quân, tự lập làm hoàng đế.
Lời chua
- Đại Hoàng: Tên châu, bây giờ là huyện Gia Viễn tỉnh Ninh B́nh.
Đàm Gia:
Tên thôn, bây giờ là xă Điềm Xá, huyện Gia Viễn.
Động Hoa
Lư: Xem Nam Tấn Ngô Xương Văn năm thứ 1 (Tb.V, 24-25).
Mười hai
Sứ quân: Xem ngang với Tống, năm Kiến Đức thứ 4 (Tb.V, 27-28).
Đỗ Động
Giang: Xem ngang với Tống, năm Kiến Đức thứ 4 (Tb.V, 29).
Đóng đô ở
Hoa Lư.
Nhà vua
muốn đóng kinh đô ở thôn Đàm, nhưng v́ ở đấy, đất đă chật hẹp, lại
không có thế hiểm trở, nên mới dựng kinh đô mới ở Hoa Lư: đắp thành,
đào hào, làm cung điện, đặt nghi lễ trong triều.
Bầy tôi
dâng tôn hiệu .
Tôn hiệu
nhà vua là Đại Thắng Minh hoàng đế.
Đặt vạc,
nuôi cọp để ra oai với người có tội.
Nhà vua
muốn dùng oai lực để chế trị thiên hạ, mới đặt vạc lớn ở sân, nuôi
hổ dữ ở cũi, hạ lệnh rằng: "Hễ kẻ nào vi phạm th́ bắt bỏ vào nấu
trong vạc, hay cho hổ ăn thịt". Ai nấy sợ hăi, không dám phạm pháp.
Lời phê -
Đạo trời ưa kẻ khiêm nhường, đạo người răn người tự măn. Tiên Hoàng
nhà Đinh là người vô học, không có mưu mô ǵ, chỉ quan dữ tợn, kiêu
căng, đến nỗi cuối cùng cả hai cha con đều bất đắc kỳ tử, mới được
hai đời đă mất! Nhân đức và tàn bạo thật khác nhau hẳn: đáng làm
gương chung. Đinh kêu là Vạn Thắng, Tần mong được vạn thế, xe trước
xe sau cùng đi một vết, thương thay! Kỷ Tị, năm thứ 2 (969). (Tống,
năm Khai Bảo thứ 2).
Tháng 5,
mùa hạ. Lập con là Liễn làm Nam Việt vương.
Canh Ngọ,
năm Thái B́nh thứ 1 (970). (Tống, năm Khai Bảo thứ 3).
Tháng
giêng, mùa xuân. Đặt niên hiệu sai sứ sang nhà Tống.
Bấy giờ
chúa Nam Hán là Sưởng chống lại nhà Tống. Tống sai đại tướng Phan Mỹ
đi đánh. Nhà vua nghe tin, sợ, mới sai sứ sang giao hảo với Tống.
Lập năm
Hoàng hậu.
Năm Hoàng
hậu: 1) Đan Gia; 2) Trinh Minh; 3) Kiểu Quốc; 4) Cồ Quốc; 5) Ca Ông.
Lời bàn
của Lê Văn Hưu - Đinh Tiên Hoàng đă không kê cứu cổ học, bầy tôi lại
không ai biết sửa chữa cho, đến nỗi say đắm t́nh riêng, lập nên một
loạt cả năm Hoàng hậu! Sau này, Lê, Lư, nhiều vua cũng bắt chước,
làm theo, là do Đinh Tiên Hoàng đầu têu ra đó. Tân Mùi, năm thứ 2
(971). (Tống, năm Khai Bảo thứ 4).
Đặt phẩm
cấp cho quan văn, quan vơ: Nguyễn Bặc làm Định quốc công; Lưu Cơ làm
Đô hộ phủ sĩ sư ; Lê Hoàn làm Thập Đạo tướng quân.
Lời chua
- Đô hộ phủ: Theo Địa lư chí trong Đường thư , nhà Đường đặt Đô hộ
phủ, trị sở ở Long Biên; nhà Đinh vẫn để tên cũ ấy đặt quan cai trị.
Sĩ sư:
Tên chức quan. Có lẽ phỏng theo tên chức quan coi việc h́nh phạt của
đời Đường, Ngu xưa.
Nguyễn
Bặc, Lưu Cơ: Đều là người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng.
Lê Hoàn:
Người xă Bảo Thái huyện Thanh Liêm .
Ban hiệu
Khuông Việt thái sư cho Tăng thống Ngô Chân Lưu.
Nhà vua
tôn sùng đạo Phật, mới đặt phẩm cấp cho tăng nhân và đạo sĩ: ban
hiệu Thái sư cho Chân Lưu, lại cho Trương Ma Ni làm Tăng lục đạo sĩ
, Đặng Huyền Quang làm Sùng chân uy nghi .
Nhâm Thân,
năm thứ 3 (972). (Tống, năm Khai Bảo thứ 5).
Sai Nam
Việt vương Liễn sang nhà Tống.
Đem biếu
sản vật địa phương.
Quư Dậu,
năm thứ 4, (973). (Tống, năm Khai Bảo thứ 6).
Sứ nhà
Tống sang.
Bấy giờ
Nam Việt vương Liễn đi sứ về, nhà Tống sai sứ sang phong nhà vua làm
Giao Chỉ quận vương, Đinh Liễn làm Kiểm hiệu Thái sư Tĩnh Hải quân
tiết độ sứ An Nam đô hộ. Bài chế văn đại lược nói: "Họ Đinh vốn ḍng
họ đàn anh, giữ được đất xa, có ḷng hâm mộ phong thói văn minh,
thường tỏ ư muốn phụ thuộc với Trung Quốc. Nay gặp buổi chín châu đă
về một mối, Ngũ Lĩnh đă phẳng lặng thanh b́nh, họ Đinh sai sứ trèo
non vượt bể tới nơi, dâng đồ tiến cống. Đáng khen con biết giữ lễ
phiên thần, nên ban cho cha theo lối cắt đất phong tước. Theo cấp
bậc, cho được cầm binh quyền, tự chủ trong việc đánh dẹp ở phương xa
. C̣n về công phú th́ sắp xếp vào ngạch "tỉnh phú" . Thế là để khen
thưởng người già cả mà có đức hạnh, chứ há có hạn chế trong điển
chương pháp độ thường đâu?".
Giáp Tuất,
năm thứ 5 (974). (Tống, năm Khai Bảo thứ 7).
Tháng 2,
mùa xuân. Tổ chức quân đội trong mười đạo.
Chia
trong nước làm mười đạo. Tổ chức quân đội: mỗi đạo mười quân, mỗi
quân mười lữ, mỗi lữ mười tốt, mỗi tốt mười ngũ, mỗi ngũ mười người,
đều đội mũ "tứ phương b́nh đính".
Lời chua
- Mũ "B́nh đính": Làm bằng da, bốn bề khâu giáp lại với nha: trên
hẹp, dưới rộng, chóp phẳng.
Mười đạo:
Chia đặt thế nào không rơ.
Ất Hợi,
năm thứ 6 (975). (Tống, năm Khai Bảo thứ 8).
Mùa xuân.
Quy định mũ áo quan văn, quan vơ.
Mùa thu.
Sứ Tống lại sang.
Bấy giờ
nhà vua sai Trịnh Tú đem sản vật địa phương sang biếu nhà Tống. Tống
sai hồng lô tự khanh Cao Bảo Tự cùng với Vương Ngạn Phù đem chế văn
sang gia phong cho Nam Việt vương Liễn làm Khai phủ nghi đồng tam ti
Kiểm hiệu Thái sư, Giao Chỉ quận vương. Từ đây, hễ sai sứ sang Tống
đều cử Đinh Liễn đứng đầu.
Lời phê -
Sự thực bấy giờ thế nào thật không rơ được, hoặc giả có điều ǵ giấu
giếm mà như thế chăng? Lời cẩn án - Sử Cương mục tục biên (Trung
Quốc) chép rằng: Bộ Lĩnh đề cử con là Liễm làm Tiết độ sứ, rồi lại
nhường ngôi cho con. Khi Nam Hán mất, Đinh Liễn vào cống. Sách Đông
Đô sự lược chép: Đinh Liễn nối ngôi cha. Lúc nhà Tống b́nh được đất
Lĩnh Nam, Liễn sai sứ xin nội phụ. Có lẽ bấy giờ Tiên Hoàng cầm
quyền trị v́ trong nước, c̣n việc bang giao trọng đại th́ giao cả
cho Đinh Liễn, nhà Tống phong vương cho Đinh Liễn, chừng có ư để
Liễn nối ngôi cha; về phần Tiên Hoàng, v́ đă xưng Hoàng đế ở trong
nước rồi, nên cũng không thắc mắc về chuyện đó chăng? Lời chua -
Trịnh Tú: Người châu Đại Hoàng.
Bính Tí,
năm thứ 7 (976). (Tống, Thái Tông năm Thái B́nh hưng quốc thứ 1).
Mùa xuân.
Sai sứ sang nhà Tống.
Sai Trần
Nguyên Thái đem biếu sản vật địa phương.
Đinh Sửu,
năm thứ 8 (977). (Tống, năm Thái B́nh hưng quốc thứ 2).
Sai sứ
sang Tống.
Mừng việc
Tống Thái Tông (976-997) lên ngôi.
Mậu Dần,
năm thứ 9 (978). (Tống, năm Thái B́nh hưng quốc thứ 3).
Tháng
giêng, mùa xuân. Động đất.
Lập con
nhỏ là Hạng Lang làm Thái tử, phong con thứ là Toàn làm Vệ vương.
Tháng hai.
Mưa đá.
Lời chua
- Mưa đá: Mưa thành băng; bởi v́ khí dương bị khí âm lấn lướt, không
dung nạp được nhau, nên tan ra thành mưa đá.
Tháng 6,
mùa hạ. Hạn hán.
Lời bàn
của Nguyễn Nghiễm, người làng Tiên Điền: Về việc Tiên Hoàng lập Hạng
Lang, trước đó th́ có động đất, sau đó th́ có mưa đá, có hạn hán.
Trời kia răn bảo trờ trờ ra đấy; thế mà cứ coi làm thường, không sớm
tỉnh ngộ! Vậy, muốn không mất, phỏng được chăng? Kỷ Măo, năm thứ 10
(979). (Tống, năm Thái B́nh hưng quốc thứ 4).
Mùa xuân.
Nam Việt vương Liễn giết Thái tử Hạng Lang.
Liễn là
con trưởng, khó nhọc mà có công to; khi nhà vua đă được nước, Liễn
được phong là Nam Việt vương lại từng nhận tước phong của Tống. Khi
có Hạng Lang, nhà vua tư vị cưng chiều, lập làm thái tử. V́ thế,
Liễn bất b́nh, sai người ngầm giết Hạng Lang.
Tháng 10
mùa đông. Chi hậu nội nhân Đỗ Thích giết nhà vua và Nam Việt vương
Liễn. Bọn Định quốc công Nguyễn Bặc bắt được Đỗ Thích giết đi, rước
Vệ vương Toàn lên ngôi.
Trước kia,
Đỗ Thích làm chức lại ở Đồng Quan, đêm nằm ở trên cầu, bỗng thấy sao
sa vào miệng, tự phụ là điềm lạ, manh tâm làm điều vượt phận ḿnh.
Đến đây, nhân dịp nhà vua đêm ăn yến, say rượu, nằm ở trong sân cung
cấm, bèn giết nhà vua luôn với Nam Việt vương Liễn. Bấy giờ sự lùng
bắt giặc gắt gao quá. Đỗ Thích nằm núp ở ḷng máng trong cung, đă
hơn ba ngày, khát lắm, gặp trời mưa, tḥ tay ra hứng nước uống. Cung
nữ trông thấy, chạy báo Nguyễn Bặc. Nguyễn Bặc bắt lấy Thích, chém
chết. Rồi cùng bọn Đinh Điền, Lê Hoàn rước Vệ vương Toàn lên ngôi;
truy tôn nhà vua là Tiên Hoàng đế.
Đinh Tiên
Hoàng ở ngôi 12 năm, thọ 56 tuổi.
Lời chua
- Đỗ Thích: Người Đại Đê thuộc Thiên Bản .
Đồng (mộc
bên chữ "đồng" là cùng) Quan: Sử của Ngô [Th́] Sĩ chép là Đồng (chấm
thủy bên chữ "đồng" là trẻ con) Quan. Bây giờ không biết ở đâu.
Táng ở
sơn lăng Hoa Lư.
Lời cẩn
án - Về việc an táng Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành . Sử cũ đều chép
táng ở sơn lăng Trường Yên. Nay theo Ninh B́nh sách lăng Tiên Hoàng
ở núi Mă Yên thuộc xă Trường Yên Thượng, lăng Đại Hành ở núi Phẩm
Sơn thuộc xă Trường Yên Hạ. Thế th́ hai xă Trường Yên tức là đất Hoa
Lư, cố đô nhà Đinh, nhà Lê; đến niên hiệu Thuận Thiên thứ 1 (1010),
nhà Lư mới đổi Hoa Lư làm phủ Trường Yên. Vậy tên gọi "Trường Yên" ở
thời Đinh, Lê chưa có . Sử cũ chép thế th́ lầm, nay xin đính chính.
Tôn mẹ là Dương thị làm Hoàng thái hậu.
Thập đạo
tướng quân Lê Hoàn tự xưng là Phó vương. Bọn Định quốc công Nguyễn
Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền và Phạm Hạp dấy quân đánh Lê Hoàn, không
được, đều tử tiết.
Nhà vua
nối ngôi, mới lên sáu tuổi. Bọn Nguyễn Bặc đều là đại thần phụ chính;
c̣n Lê Hoàn trong tay giữ cả binh quyền, tự do ra vào nơi cung cấm.
Thái hậu phải ḷng Hoàn, rồi cùng nhau tư thông, cho Hoàn quyền tạm
làm công việc thay vua như Chu Công khi trước. Lê Hoàn cậy có Thái
hậu cưng yêu, không kiêng sợ chi cả. Bọn Nguyễn Bặc bàn với nhau: "Lê
Hoàn sẽ bất lợi cho "nhụ tử" ; chúng ta chịu ơn dày của nước, nếu
không tính tước đi, giữ cho xă tắc được yên th́ c̣n mặt mũi nào
trông thấy Tiên đế ở suối vàng nữa?". Họ liền cùng nhau khởi binh,
chia hai đường thủy bộ cùng tiến,
định kéo
thẳng đến kinh đô để giết Lê Hoàn. Thái hậu nghe tin, bảo Lê Hoàn: "Bọn
Bặc nổi loạn, quan gia hăy c̣n thơ ấu, cáng đáng sao nổi giữa lúc
quốc gia lắm nạn này! Ông nên tính đi". Lê Hoàn thưa: "Tôi đây làm
phó vương, quyền giữ việc nước, dù sống chết cũng xin gánh lấy trách
nhiệm". Hoàn liền sắp xếp quân đội, đánh nhau với Nguyễn Bặc, Đinh
Điền ở Ái Châu. Bặc, Điền thua rồi, lại đem quân thủy ra đánh. Lê
Hoàn theo chiều gió, phóng lửa đốt cả thuyền chiến: Đinh Điền bị
chết tại trận; Hoàn bắt được Nguyễn Bặc, đưa về kinh đô. Trước mặt
Nguyễn Bặc, Hoàn kể tội: "Đấng Tiên đế mắc nạn, thần và người đều
căm giận, ngươi lại nhân lúc tang tóc rối ren, đứng đầu làm giặc!
Đạo tôi con đâu có như thế?". Rồi Hoàn giết hại Bặc. Nguyễn Bặc,
Đinh Điền đă chết rồi, quân của Phạm Hạp mất tinh thần, chạy lên Bắc
Giang; Lê Hoàn đem quân đuổi theo, bắt đưa về kinh đô, giết chết.
Lời cẩn
án - Sử cũ chép Nguyễn Bặc, Đinh Điền cùng nhau dấy quân, đinh kéo
đến thẳng kinh đô để giết Lê Hoàn, nhưng địa điểm dấy quân ở đâu th́
bỏ qua không chép. Nay xét: Lê Hoàn với Bặc, Điền đánh nhau ở Tây Đô,
Tây Đô tức là Ái Châu. Hoặc giả khi đă bàn định về việc giết Hoàn,
họ liền đến Ái Châu khởi binh, mà Sử cũ bỏ sót chăng? Vậy hăy để lại,
đợi khảo sau . Lời chua - Ngoại giáp: Tên chức quan.
Đinh Điền:
Người động Hoa Lư , châu Đại Hoàng.
Phạm Hạp:
Người Nam Sách : bây giờ là phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
Bắc
Giang255 : Tức Kinh Bắc. Xem Lê Thánh Tông năm Quang Thuận thứ 10 (Chb.XXI,
28-29).
Ngô Nhật
Khánh đem người Chiêm Thành vào cướp.
Nhật
Khánh là ḍng dơi Tiên chúa Ngô Quyền, trước kia xưng là An Vương,
cùng với mười hai Sứ quân giữ đất, tranh hùng. Đinh Tiên Hàng đánh
dẹp được Nhật Khánh rồi, lập mẹ y làm hoàng hậu, lấy em gái y cho
Nam Việt vương Liễn, lại gả công chúa cho y. Nhưng Nhật Khánh vẫn
không hết oán giận, bèn đem vợ trốn đi. Khi đến cửa biển Nam Giới,
Khánh rút dao đeo bên ḿnh ra rạch vào mặt vợ mà kể: "Cha mày lừa
gạt hiếp tróc mẹ con ta. Ta đây há v́ cớ mày mà quên được tội ác cha
mày sao? Thôi, mày trở về, một ḿnh ta đi, ta cầu người nào cứu được
ta đây!". Đoạn, Nhật Khánh chạy sang Chiêm Thành. Đến đây, nghe tin
Tiên Hoàng mất rồi, Nhật Khánh dẫn người Chiêm đi đường biển vào
cướp. Khi qua cửa Đại Nha và cửa Tiểu Khang, gặp cơn phong ba,
thuyền ch́m đắm mất cả. Nhật Khánh chết đuối. Chúa Chàm (Chiêm Thành)
may được thoát nạn, bèn thu thập những quân c̣n lại, rút về.
Lời chua
- Nhật Khánh: Người xă Đường Lâm ; bây giờ là xă Cam Lâm thuộc huyện
Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây.
Chiêm
Thành: Tức Lâm Ấp. Xem thuộc Tấn, Mục đế, năm Vĩnh Ḥa thứ 9 (Tb.III,
20-21).
Cửa biển
Nam Giới: Ở chổ giáp giới hai huyện Thiên Lộc257 và Thạch Hà.
Cửa Đại
Nha: ( á bên chữ điểu ): Tức cửa Đại Nha ( nha bên chữ điểu ). Xem
Lư Hậu đế năm thứ 1 (Tb.IV, 13).
Cửa Tiểu
Khang: Ở địa phận huyện Yên Mô, tỉnh Ninh B́nh; bây giờ là cửa Kiền
(cũng gọi cửa Cờn hoặc cửa Quèn).
Canh Th́n
năm thứ 11 (980). (Đế Toàn, vẫn theo niên hiệu Thái B́nh. Từ tháng 7
năm Thái B́nh thứ 11 trở về sau là triều Lê, Đại Hành hoàng đế, năm
Thiên Phúc thứ 1. - Tống, năm Thái B́nh hưng quốc thứ 5).
Tháng 7,
mùa thu. Dương thị sai Lê Hoàn đem quân ra chống quân Tống. Lê Hoàn
liền tự xưng là Hoàng đế, truất bỏ Đế Toàn lại làm Vệ vương. Nhà
Đinh (968-980) mất.
Trước đây,
viên quan giữ Ung Châu nhà Tống là Hầu Nhân Bảo dâng thư nói bên
Giao Châu đương có nội loạn, ta có thể đem một ít quân sang cũng đủ
lấy được, xin cho ḿnh về triều đ́nh để tŕnh bày về t́nh h́nh này.
Vua Tống mừng lắm, toan cho chạy ngựa trạm triệu Nhân Bảo về ngay.
Lư Đa Tốn nói: "Nước kia bên trong rối loạn, đó là cơ trời làm mất.
Ta nên xuất kỳ bất ư mà đánh úp. Thế gọi là "tiếng sét đánh mau, che
tai không kịp". Nếu vời Nhân Bảo về trước, mưu sẽ tất lộ; kẻ kia
biết trước, chuẩn bị đề pḥng, th́ ta chưa dễ đă lấy được. Chi bằng
mật sai Nhân Bảo lo liệu việc ấy, rồi sẽ xuất quân đánh tràn sang,
thế tất ăn chắc mười mươi". Vua Tống cho là pải, liền cho Nhân Bảo
làm chức Giao Châu thủy lục chuyển vận sứ, bọn Tôn Toàn Hưng, Trần
Khâm Tộ, Lưu Trừng, Giả Thực đều cho làm chức Binh mă đô bộ thự, hẹn
ngày cùng kéo quân sang xâm.
Viên quan
giữ Lạng Châu đem sự đó tâu lên, Dương hậu sai Lê Hoàn lựa tuyển
dũng sĩ để kháng chiến: cho Phạm Cự Lạng làm Đại tướng quân, bày mưu
kế đem quân ra đánh. Cự Lạng và các tướng đều mặc quân phục, vào
thẳng điện đ́nh, bảo mọi người rằng: "Nay, thưởng người có công mà
phạt kẻ không vâng mạng, đó là phép hành binh. Bây giờ chúa thượng
hăy c̣n thơ ấu, bọn ta dẫu hết sức liều chết, may mà có chút công
lao, th́ ta biết cho? Chi bằng trước hăy tôn ngay Thập đạo tướng
quân lên làm thiên tử, sau sẽ ra quân?". Quân sĩ đều tung hô "vạn
tuế". Dương hậu thấy ai cũng một ḷng hả hê mến phục, liền sai lấy
áo long cổn khoác lên ḿnh Lê Hoàn rồi chính Dương hậu khuyên mời Lê
Hoàn làm vua. Hoàn bấy giờ mới lên ngôi, đổi niên hiệu, giáng chức
Đế Toàn xuống làm Vệ vương như cũ.
Lời phê -
Bờ cơi Bắc Nam tuy có khác, nhưng vận hội vẫn như nhau: nhà Lê th́
có chuyện khoác áo long cổn, nhà Lư th́ lời sấm truyền ghi trên thân
cây, sao mà giống chuyện với bên Tống thế! Hay là người làm sử thấy
thế, g̣ ép gán gẩm vào với nhau để cho thần dị câu chuyện, chứ trời
kia có ư làm ra như thế đâu? Lời cẩn án - Sử Cương mục (Trung Quốc)
nêu lệ chép năm tháng: Khi thiên tử nối đời nhau, th́ cứ ở dưới ḍng
viết tên thụy và tên hiệu bằng chữ đỏ. Chỗ "lời chua" trong Sử ấy
nói rằng: "Về sau, nếu vua nào bị phế, không có thụy hiệu, th́ chỉ
chép là "Đế mỗ", chứ không dùng đến cái tước do người sau đă biếm
truất mà đặt cho. Thí dụ như Hải Tây Công nhà Tấn bị Hoàn Ôn phế
truất Cương mục chép chữ lớn là "Đế Dịch".
Phép chép
thẳng tên húy như thế là v́ thấy không có tên thụy. Đó là lệ ngoại
của Cương mục. Thế mà Sử cũ (của ta), đối với Đinh Toàn chép là "Phế
đế", nay xin sửa lại, chép là Đế Toàn, cho hợp ư nghĩa và thể lệ
trong sử Cương mục trên . Lời chua - Ung Châu: Theo Thanh Nhất thống
chí , Ung Châu thuộc về Quảng Tây thống bộ.
Hầu Nhân
Bảo: Sử Cương mục tục biên (Trung Quốc) chép Nhân Bảo là chồng em
gái Triệu Phổ. Lư Đa Tốn có hiềm khích với Triệu Phổ, bèn bẩy Nhân
Bảo ra làm Tri châu Ung Châu, chín năm không được đổi đi nơi khác.
Nhân Bảo sợ rằng nay lần mai lữa sẽ chết già ở đất Lĩnh Ngoại, bấy
giờ mới dâng thư nói việc Giao Châu, xin về tận triều đ́nh tỏ bày sự
trạng.
Giao Châu:
Xem thuộc Đường, Cao Tông, năm Điều Lộ thứ 1 (Tb.IV, 19).
Lạng Châu:
Nhà Lê, nhà Lư đặt làm lộ; nhà Trần gọi là Lạng Giang lộ; bây giờ là
tỉnh Lạng Sơn.
Phạm Cự
Lạng: Em Phạm Hạp.
Đây trở
lên, nhà Đinh từ Tiên Hoàng, Mậu Th́n, năm thứ một (đến năm thứ ba
mới đặt niên hiệu là Thái B́nh) đến Đế Toàn, Canh Th́n, vẫn gọi là
niên hiệu Thái B́nh năm thứ 11, cộng hai đời vua, 13 năm (968-980).
Truy tôn
cha là Mịch là Trưởng Hưng vương, mẹ là Đặng thị làm Hoàng thái hậu.
Trước kia,
mẹ ngài là Đặng thị đang có thai, chiêm bao thấy bụng nở ra hoa sen,
rồi kết thành nhân sen ngay. Đặng thị đem chia cho mọi người, riêng
ḿnh lại không ăn. Lúc tỉnh dậy, lấy làm lạ lắm. Kịp khi sinh con,
thấy con mặt mũi h́nh dáng khác thường, Đặng thị nói với người ta
rằng: "Thằng cháu này mai sau chắc sẽ làm nên sang cả, chỉ hiềm tôi
không kịp hưởng lộc thôi!". Được vài năm, mẹ mất, rồi cha cũng chết.
Viên quan sát họ Lê (không rơ tên) ở Ái Châu thấy ngài, cho là khác
thường, nuôi làm con. Gặp tiết trời đông rét mướt, ngài nằm phục như
h́nh cối úp: đang đêm, sáng rực cả nhà, có con rồng vàng ấp ở trên.
Viên quan sát họ Lê, tỏ ra lấy làm lạ. Lớn lên, ngài giúp việc Nam
Việt vương Liễn, càng tỏ ra lỗi lạc, có chí lớn. Tiên Hoàng khen là
người có mưu trí và sức mạnh, giao cho cai quản hai ngh́n quân, dần
thăng đến chức Thập đạo tướng quân, Điện tiền chỉ huy sứ. Đến bấy
giờ cướp ngôi nhà Đinh, truy tôn cha mẹ.
Lời cẩn
án - Chu Vũ vương dấy nghiệp vương th́ truy tôn Thái vương, Vương
Quư và Văn vương làm bậc vương. Tống Thái Tổ xưng hoàng đế th́ tôn
Hi Tổ và Dực Tổ làm bậc đế. Lê Đại Hành đă xưng đế, thế mà chỉ tôn
cha làm vương, c̣n từ ông tổ giở lên đều không được dự: thực trái
thờng quá lắm! Huống chi tôn cha làm vương mà mẹ lại làm Hoàng thái
hậu: đảo ngược đến như thế! Về sau, Lư Thái Tổ tôn cha làm Hiển
Khánh vương, mẹ là Minh Đức thái hậu, cũng là do Lê Đại Hành nêu ra
trước. Lời chua - Ái Châu: Tức Thanh Hóa. Xem Lê Thánh Tông, năm
Quang Thuận thứ 10 (Chb.XXI, 20-21).
Tháng 10,
mùa đông, sai sứ sang nhà Tống.
Bấy giờ
vua Tống hạ chiếu xuất quân sai Lư Đa Tốn đưa thư sang ta khuyên dụ,
đại lược nói: "Rừng rực xứ nóng, khói tỏa, mù hun, ta hóa ra áng mây
của vua Nghiêu, tưới cơn mưa ngọt. Sùng sục chướng khí, mây đốt, đá
nung, ta gảy khúc đàn của vua Thuấn, nổi cơn gió mát" . Lại nói: "Hiện
nay ta
đă sửa
sang binh xa và bộ tốt, hiệu lệnh chiêng trống rất nghiêm minh; nếu
vâng theo giáo hóa th́ được tha; nếu chống lại mệnh lệnh th́ sẽ bị
trị tội".
Nhà vua
tiếp được thư ấy, sai nha hiệu Giang Cự Vọng và Vương Thiệu Tộ đem
thư sang nhà Tống, nói trá là tờ biểu của Đinh Toàn cầu nối ngôi
cha, xin ban cho mệnh lệnh chính thức. Làm vậy, cốt để ḥa hoăn t́nh
thế.
Bấy giờ
Tống đă dấy quân, nên không ưng thuận. Tống sai Trương Tôn Quyền đem
thư sang dụ rằng: "Họ Đinh truyền nối đă được ba đời, trẫm muốn cho
Đinh Toàn làm thống súy, khanh th́ làm phó. Nếu Đinh Toàn không đáng
tướng tài, hăy c̣n tính khí trẻ con th́ nên cho ngay mẹ con và thân
thuộc y sang đây. Đợi khi vào chầu, tất sẽ được ban điển lể ưu hậu.
Khanh sẽ được trao cờ tiết và cây việt. Có hai đường đấy, khanh nên
xét kỹ mà chọn lấy một". Nhà vua đều ỉm đi, không trả lời.
Tân Tị
(981). Lê Đại Hành hoàng đế năm Thiên Phúc thứ 2 (Tống, năm Thái
B́nh hưng quốc thứ 6).
Tháng 3,
mùa xuân. Quân Tống sang xâm lược. Nhà vua tự làm tướng, đánh bại
quân địch.
Bấy giờ
quân Tống chia đường sang xâm lấn: Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng kéo
đến Lạng Sơn; Trần Khâm Tộ kéo đến Tây Kết, Lưu Trừng kéo đến sông
Bạch Đằng. Nhà vua tự làm tướng, ra kháng chiến: sai quân sĩ đóng
cọc ở sông Bạch Đằng để ngăn cản địch. Quan quân Tống đông lắm. Quan
quân ta đánh bất lợi: hai trăm thuyền chiến đều bị địch lấy mất cả.
Hầu Nhân Bảo đem tiền quân tiến lên trước. Tôn Toàn Hưng đóng quân
lại, không đi; Nhân Bảo thường phải thúc giục. Khi quân Tống kéo đến
sông Chi Lăng, nhà vua sai người trá hàng, dụ bắt được Nhân Bảo, đem
chém. Bọn Lưu Trừng rút lui. Khâm Tộ nghe tin, trút quân quay về.
Nhà vua lại đem các tướng truy kích: quân Khâm Tộ thua to, chết mất
quá nửa. Bên ta bắt được bộ tướng của địch là bọn Quách Quân Biện và
Triệu Phụng Huân, điệu về kinh đô. Chuyển vận sứ nhà Tống là Hứa
Trọng Tuyên đem t́nh h́nh thua trận tâu bày về triều, vua Tống xuống
chiếu rút quân về.
Lời chua
- Lạng Sơn: Xưa là bộ Lục Hải; đời Hán thuộc về Giao Chỉ; đời Đường
thuộc về Giao Châu; Đinh chia làm Lạng Sơn đạo, lại gọi là Lạng Châu;
Lê, Lư đặt làm lộ; Trần gọi là Lạng Giang lộ; Lê gọi là Lạng Sơn
thừa tuyên. Bây giờ là tỉnh Lạng Sơn.
Sông Bạch
Đằng: X. thuộc Tấn, Cao Tổ, năm Thiên Phúc thứ 3 (Tb.5, 19).
Chi Lăng:
Tên xă, thuộc châu Ôn, phủ Trường Khánh, ở đầu địa giới Lạng Sơn.
Sông Chi
Lăng: Con sông ở xă Chi Lăng.
Tây Kết:
Không rơ ở đâu.
Bầy tôi
dâng tôn hiệu .
Nhà vua
đă thắng được quân Tống, trong nước đâu đấy yên ổn. Bầy tôi dâng tôn
hiệu là Minh Kiền ứng vận thần vũ thăng b́nh chí nhân quảng hiếu
hoàng đế.
Nhâm Ngọ,
năm thứ 3 (982). (Tống, năm Thái B́nh hưng quốc thứ 7).
Lập Đinh
thái hậu là Dương thị làm Đại thắng minh hoàng hậu.
Dương thị,
trước kia lấy Đinh Tiên Hoàng, sinh ra Vệ vương Toàn. Toàn nối ngôi,
hăy c̣n nhỏ tuổi. Thái hậu tư thông với nhà vua, mưu việc chuyển dời
ngôi nhà Đinh. Đến đây lập Dương thị làm Đại thắng minh hoàng hậu.
Lại lập Phụng Kiền chí lư hoàng hậu, Thuận Thánh minh đạo hoàng hậu,
Trịnh quốc hoàng hậu và Phạm hoàng hậu, cộng năm Hoàng hậu.
Lời bàn
của Ngô [Th́] Sĩ - Đại thắng minh là tên hiệu của Đinh Tiên Hoàng.
Đại Hành lấy hiệu vua cũ đặt cho vợ ḿnh: Thật là không c̣n kiêng nể
chút ǵ cả! Sử sách ghi chép, để cười ngh́n thu! Sai sứ sang nhà
Tống.
Nhà vua
sai sứ đi cống, nói thác là sứ giả của Đinh Toàn, v́ sợ quân Tống
lại sang.
Nhà vua
tự ḿnh cầm quân đi đánh nước Chiêm Thành: cả phá được quân địch.
Trước đây,
nhà vua sai Từ Mục và Ngô Tử Canh sang sứ Chiêm Thành, bị người
Chiêm Thành giam giữ. Nhà vua nổi giận; bèn sửa sang thuyền chiến và
đồ giáp binh, tự làm tướng, đi đánh, chém được tướng nước ấy là Bề
Mi Thuế tại trận và bắt được tù binh rất nhiều. Chúa Chàm bỏ thành
chạy. Ta bắt được trăm người cung nữ và vàng bạc châu báu kể có háng
vạn, san phẳng cả thành tŕ , phá hủy cả tông miếu ; vừa đầy một năm
mới về kinh đô.
Lời chua
- Chiêm Thành: Tức nước Lâm Ấp. Xem Tiền biên, thuộc Tấn, Mục đế,
năm Vĩnh Ḥa thứ 9 (Tb III, 20-21).
Đói to.
Quư Mùi,
năm thứ 4 (983). (Tống, năm Thái B́nh hưng quốc thứ 8).
Mùa xuân.
Sai sứ sang Tống.
Sai sứ
sang giao hảo với nhà Tống, báo cáo về tin đánh thắng Chiêm Thành.
Sông mới
đă đào xong.
Khi nhà
vua đi đánh Chiêm Thành, từ núi Đồng Cổ đến sông Bà Ḥa: đường núi
hiểm trở, khó đi, người ngựa đều nhọc mệt, bèn sai đào con sông mới;
đến bấy giờ hoàn thành, công và tư đều được tiện lợi.
Lời chua
- Núi Đồng Cổ: Ở xă Đan Nê, huyện An Định, tỉnh Thanh Hóa.
Sông Bà
Ḥa: Ở huyện Ngọc Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Bây giờ là sông xă Đồng Ḥa.
Giáp Thân,
năm thứ 5 (984). (Tống, năm Ung Hi thứ 1).
Tháng 2,
mùa xuân. Đúc tiền Thiên Phúc.
Xây điện
Bách bảo thiên tuế.
Làm điện
ở núi Đại Vân, trang sức bằng vàng bạc, dùng làm nơi vua coi chầu.
Phía đông là điện Phong Lưu; phía tây là điện Tử Hoa; bên tả là điện
Bồng Lai; bên hữu là điện Cực Lạc. Lại làm lầu Đại Vân và điện
Trường Xuân làm chổ ngự tẩm . Bên điện Trường Xuân dựng điện Long
Lộc, lợp bằng ngói bạc.
Lời chua
- Núi Đại Vân: Ở thành Hoa Lư; bây giờ là núi xă Trường Yên.
Ất Dậu,
năm thứ 6 (985). (Tống, năm Ung Hi thứ 2).
Tháng 7,
mùa thu. Ngày sinh nhật hoàng đế, đua thuyền.
Lấy tre
làm thành núi giả ở trong thuyền gọi là núi "nam sơn", tổ chức cuộc
bơi thuyền thi. Từ đấy, năm nào cũng giữ làm lệ thường.
Sai sứ
sang Tống.
Bấy giờ
nhân dịp có sứ nhà Tống đến nhà vua sai sứ ta đem vàng và ngà voi
sang biếu nhà Tống để thỉnh cầu lănh chức Tiết trấn.
Bính Tuất,
năm thứ 7 (986). (Tống, năm Ung Hi thứ 3).
Tháng 8,
mùa thu. Tuyển lính thân quân.
Tuyển
những người khoẻ mạnh, nhanh nhẹn bổ làm túc vệ gọi là thân quân:
đều thích vào trán ba chữ "Thiên tử quân".
Tháng 10,
mùa đông. Sứ nhà Tống sang.
Nhà Tống
sai tả bổ khuyết là Lư Nhược Chuyết và quốc tử giám bác sĩ là Lư
Giác đem bài chế văn sang phong nhà vua làm kim tử quang lộc đại phu,
kiểm hiệu thái uư, An nam đô hộ Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, Kinh Triệu
quận khai quốc hầu. Bài chế văn ấy đại lược nói: "...Trước kia Sĩ
Nhiếp là người cứng cáp sáng suốt, biến đổi thói tục đất Việt khiến
hết thảy đều vào khuôn phép. Úy Đà hết ḷng cung kính mềm dẻo, vâng
theo chiếu chỉ nhà Hán, không dám trái nghịch. Bây giờ khanh phải vỗ
yên bộ lạc man di, để tuyên dương ơn đức của thiên tử". Nhà vua tiếp
nhận chế văn ấy với vẻ rất cung kính, thiết đăi sứ giả với lễ rất
hậu. Rồi giao trả Tống bọn Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân trước
đây ta đă bắt được. Nhà vua lại bảo Nhược Chuyết và Lư Giác: "Chỗ
chúng tôi là một nước nhỏ mọn, núi sông khơi diễn, hẻo lánh một nơi,
cách thiên triều hàng muôn dặm. Sứ giả đi lại, trèo non vượt suối,
chẳng cũng nhọc mệt lắm ru?". Lư Giác thưa: "Bản triều phân phong
chư hầu, đất hàng muôn dặm, quận hàng bốn trăm, có chỗ bằng phẳng,
cũng có nơi hiểm trở, chứ như một phương này, đă lấy ǵ làm xa?".
Dùng Từ
Mục là Tổng quản giữ việc quân và dân, ban cho tước hầu; Phạm Cự
Lạng làm Thái úy.
Lời chua
- Tổng quản: Tên chức quan nhà Đường, chuyên giữ quân sự. Nhà Lê
phỏng theo phép nhà Đường, đặt chức quan này, lại cho kiêm giữ cả
dân sự.
Sai sứ
sang Tống.
Sai Ngô
Quốc Ân đem sản vật địa phương sang biếu và nói về việc người Chàm
là Bồ La Át đem hơn trăm người trong họ sang xin quy phụ nhà Tống.
Lời cẩn
án - Sử của Ngô [Th́] Sĩ chép: "Bấy giờ nhà vua mới b́nh được Chiêm
Thành, người Chiêm Thành sợ bị lấn lướt bức bách, nên đem hơn trăm
người trong họ cầu xin quy phụ nhà Tống. Nhà đương cục ở Đam Châu
đem việc ấy tâu lên triều Tống. Việc này nhà làm sử nhận lầm là do
sứ thần nước ta sang Tống tâu bày". Xét chỗ sử của Ngô [Th́] Sĩ này
không giống với Sử cũ, nay xin chép cả để làm tài liệu tham khảo.
Lời chua - Đam Châu: Tức Đam Nhĩ. Xem Triệu Vương, năm Kiến Đức thứ
1 (Tb.II, 6).
Đinh Hợi,
năm thứ 8 (987). (Tống, năm Ung Hi thứ 4).
Mùa xuân.
Nhà vua cày ruộng tịch điền .
Ban đầu,
nhà vua cày ruộng ở Đội Sơn , được một lọ vàng; sau lại cày ở núi
Bàn Hải, được một lọ bạc; do đó đặt tên là "ruộng Vàng, ruộng Bạc".
Lời chua
- Đội Sơn: Tên khác gọi là núi Long Đội, ở xă Đội Sơn, huyện Duy
Tiên, tỉnh Hà Nội .
Núi Bàn
Hải: Không rơ ở đâu.
Đâu đấy
được mùa cả.
Mậu Tí,
năm thứ 9 (988). (Tống, năm Đoan Củng thứ 1).
Sứ nhà
Tống sang.
Năm ấy,
vua Tống đổi niên hiệu, sai viên ngoại lang bộ Hộ là Nguỵ Tường,
trực sử quán là Lư Độ đem bài chế văn sang tiến phong nhà vua tước
Khai quốc công. Nhà vua sai sứ sang Tống biếu sản vật địa phương để
đáp lễ.
Lời cẩn
án - Theo sách An Nam chí của Cao Hùng Trưng và sách Giao Chỉ di
biên, năm Ung Hi thứ 3 (986), Tống phong nhà vua làm kiểm hiệu thái
uư Kinh Triệu quận Khai Quốc hầu; đến năm Đoan Củng thứ 1 (988),
tiến phong làm Khai Quốc công. Thế là có theo thứ tự từ thấp lên cao.
Sử cũ trước th́ chép phong Kinh Triệu Quận hầu, ở đây th́ chép phong
Kiểm hiệu thái uư: Như vậy là lầm. Nay đính chính lại. Kỷ Sửu, năm
Hưng Thống thứ 1 (989). (Tống, năm Đoan Củng thứ 2).
Tháng
giêng, mùa xuân. Đại xá.
Ban ơn
đại xá v́ cớ đổi niên hiệu là Hưng Thống.
Lập con
là Long Việt làm Nam Phong vương.
Phong con
trưởng là Long Thâu làm Ḱnh Thiên đại vương con thứ hai là Ngân
Tích làm Đông Thành vương; lập con thứ ba là Long Việt làm Nam Phong
vương .
Dương
Tiến Lộc đem dân châu Hoan và châu Ái nổi lên làm phản, bị bắt và bị
giết chết.
Tiến Lộc,
làm chức Quản giáp, vâng mệnh đi thu thuế ở châu Hoan và châu Ái.
Nhân đó, Lộc cầm đầu hai châu ấy nổi lên làm phản, rồi xin theo về
với nước Chiêm Thành; nhưng người Chiêm Thành không nhận. Nhà vua
đem quân đi đánh bắt giết được Tiến Lộc và giết người hai châu ấy
không biết bao nhiêu mà kể.
Lời chua
- Hoan Châu: Tức Nghệ An.
Ái Châu:
Tức Thanh Hóa. Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chb. XXI,
20-21).
Chiêm
Thành: Tức Lâm Ấp. Xem thuộc Tấn, Mục đế, năm Vĩnh Ḥa thứ 9 (Tb.
III, 20-21).
Quản giáp:
Tên chức quan.
Canh Dần,
năm thứ 2 (990). (Tống, năm Thuần Hóa thứ 1).
Sứ nhà
Tống sang.
Nhà Tống
sai Tả chính ngôn là Tống Cảo và Hữu chính ngôn là Vương Thế Tấc đem
bài chế văn sang gia phong nhà vua lên chức vị "đặc tiến" . Nhà vua
sai chỉ huy sứ Đinh Thừa Chinh đem chu sư sang Thái B́nh quân đón sứ
nhà Tống, ṛng ră nửa tháng trời đến sông Bạch Đằng, cứ theo nước
thuỷ
triều mà
đi. Khi đến Trường Châu nhà vua ra đón sứ giả ở phía ngoài đô thành,
cùng nhau giong cương ngựa đi song song. Đến cửa Minh Đức, nhà vua
đón lấy bài chế văn nhưng không lạy, nói v́ năm mới rồi, đi đánh
giặc Mán, ngă ngựa đau chân. Bọn Tống Cảo tin là thực. Ngày hôm sau,
đặt tiệc đăi sứ, nhà vua bảo Tống Cảo rằng: "Đường sá xa khơi, núi
sông hiểm trở, sau này nếu có quốc thư, xin cứ giao nhận ở đầu biên
giới, khỏi phiền sứ giả đến đây". Tống Cảo đem việc này về tâu, vua
Tống ưng thuận.
Theo lời
chú giải trong sách Đông tây dương khảo của Trương Nhiếp nhà Minh,
Tống Cảo đi sứ về, nói với vua Tống rằng: năm ngoái, đến Giao Châu,
Lê Hoàn đem quân và dân bơi thuyền, gióng trống, ḥ reo; những núi ở
gần đô thành th́ hư trưng thanh thế: cắm rặt cờ trắng, làm như dáng
vẻ bày binh bố trận. Kịp khi đến cửa kinh đô, Lê Hoàn nhận lấy tờ
chiếu, nhưng không lạy. Có đưa đến sứ quán con rắn lớn và nói: nếu
sứ giả ăn được th́ sẽ làm thịt để thết. Lại trói hai con hổ đem đến
sứ quán. Sứ giả đều từ chối, không nhận. Ba ngh́n quân sĩ của Lê
Hoàn đều có thích ở trán ba chữ "Thiên tử quân".
Lời chua
- Thái B́nh quân: Theo sách Thanh Nhất thống chí , Thái B́nh quận,
đời Tần, là đất Tượng Quận; đời Hán là huyện Hợp phố; nhà Đường đổi
là Liêm Châu; đến Tống, khoảng niên hiệu Thái b́nh hưng quốc đặt làm
Thái B́nh quân, qua niên hiệu Hàm B́nh lại đặt là Liêm Châu. Bây giờ
nhà Thanh vẫn theo tên cũ, cho thuộc Quảng Đông thống bộ.
Bạch Đằng
Giang: Xem thuộc Tấn, Cao tổ, năm Thiên Phúc thứ 3 (Tb. V, 19-20).
Trường
Châu: Xem thuộc Đường, Cao tông, năm Điều Lộ thứ 1 (Tb. IV, 19).
Tân Măo,
năm thứ 3 (991). (Tống, năm Thuần Hóa thứ 2).
Tháng 2,
mùa xuân. Sai sứ sang nhà Tống.
Sai Đào
Cần đem biếu sản vật địa phương.
Nhâm Th́n,
năm thứ 4 (992). (Tống, năm Thuần Hóa thứ 3).
Tháng
giêng, mùa xuân. Nhà vua ngự điện Kiền Nguyên xem đèn.
Lập con
là Long Đĩnh làm Khai Minh vương.
Bấy giờ
các con nhà vua đều theo thứ tự thụ phong, chia ở các châu quận:
Khai Minh vương Long Đĩnh ở Đằng Châu; Ngự Man vương Long Đinh ở
Phong Châu; Ngự Bắc vương Long Ngận ở Phù Lan; Định Phiên vương Long
Tung ở Ngũ huyện giang, Tư Doanh Thành phó vương Long Tương ở Đỗ
Động; Trung Quốc vương Long Kính ở Mạt Liên; Nam Quốc vương Long
Mang ở Vũ Lũng; Hành quân vương Long Đề ở Cổ Lăm; Phù Đới vưoơng (không
rơ tên), con nuôi nhà vua, ở Phù Đái.
Lời chua
- Long Đĩnh: Con thứ 5.
Long Đinh:
Con thứ 4.
Long Ngận:
Con thứ 6.
Long
Tung: Con thứ 7.
Long
Tương: Con thứ 8.
Long Kính:
Con thứ 9.
Long Mang:
Con thứ 10.
Long Đề:
Con thứ 11.
Đằng Châu:
Xem thuộc Tống, năm Kiền Đức thứ 4 (Tb. V, 31).
Phong
Châu: Xem Hùng vương (Tb. I, 1).
Phù Lan:
Tên trại; nay là xă Phù Vệ thuộc huyện Đường Hào tỉnh Hải Dương.
Ngũ huyện
giang: Ở phía nam huyện Yên Lăng , tỉnh Sơn Tây, sông Ngũ huyện chảy
qua huyện Kim Anh và huyện Đông Ngàn , ṿng quanh đến huyện Yên
Phong và huyện Tiên Du , rồi đổ vào sông Nguyệt Đức .
Tư Doanh
Thành: Không khảo được.
Đỗ Động:
Xem ngang với nhà Tống năm Kiền Đức thứ 4 (Tb. V, 29).
Mạt Liên:
Tên huyện, bây giờ là huyện Tiên Lữ thuộc phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng
Yên.
Vũ Lũng:
Tên châu, thuộc tỉnh Thanh Hóa; nhiều lần phân chia ra sao và lệ
thuộc vào đâu, bây giờ không khảo được.
Cổ Lăm:
Tên châu; bây giờ là huyện Đông Ngàn thuộc phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Phù Đái:
Tên làng; bây giờ là xă Phù Tải thuộc huyện Vĩnh Lại , tỉnh Hải
Dương.
Tháng 6,
mùa hạ. Thả những người Chiêm Thành bị bắt từ trước về nước.
Thả những
người Chiêm ở thành cũ châu Địa Lư cho về châu Ô Lư, tất cả hơn ba
trăm sáu mươi người.
Lời chua
- Địa Lư: Xem Lư Thánh Tông, năm Thần Vũ thứ 1 (Chb. III, 29).
Ô Lư: Xưa
là đất Việt Thường; đời Tần, thuộc Tượng quận; đời Hán, thuộc Nhật
nam; đời Đường, là Cảnh Châu; thời Tống, phía bắc Chiêm Thành gọi là
châu Ô Lư. Nhà Trần, khoảng niên hiệu Hưng Long (1293-1313) được
chúa Chàm dâng đất này, đổi là Thuận Châu và Hóa Châu. Hồi thuộc
Minh, đặt là phủ Thuận Hóa, cho Thuận Châu và Hóa Châu lệ thuộc vào.
Nhà Lê đặt làm Thuận Hóa thừa tuyên. Bây giờ huyện Đăng Xương, huyện
Hải Lăng thuộc tỉnh Quảng Trị, và huyện Phong Điền, huyện Quảng Điền,
huyện Hương Trà thuộc tỉnh Thừa Thiên, ấy là đất Thuận Châu xưa.
Huyện Phú Lộc, huyện Phú Vinh thuộc tỉnh Thừa Thiên và huyện Diên
Phước (phúc), huyện Ḥa Vinh thuộc tỉnh Quảng Nam, ấy là đất Hóa
Châu xưa.
Tháng 8,
mùa thu. Sai mở đường bộ thông đến châu Địa Lư.
Sai phụ
quốc Ngô Tử An đem ba vạn người mở đường bộ từ cửa biển Nam Giới đến
châu Địa Lư nước Chiêm Thành.
Lời chua
- Phụ quốc: Tên chức quan.
Cửa biển
Nam Giới: Xem nhà Đinh, năm Thái B́nh thứ 10 (Chb. 1, 12).
Quư Tị,
năm thứ 5 (993). (Tống, năm Thuần Hóa thứ 4).
Mồng 1
tháng 2, mùa xuân. Nhật thực.
Sứ nhà
Tống sang.
Bấy giờ
nhà vua sai sứ sang cống và dâng tờ biển Đinh Toàn nhường ngôi. V́
sờn về nỗi Tôn Toàn Hưng đă bại trận, vua Tống cũng ưng thuận, mới
sai Vương Thế Tắc và Lư Cư Giản đem bài chế văn sang phong nhà vua
làm Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, Giao Chỉ quận vương.
Sử Cương
mục tục biên (Trung Quốc) chép: Năm Thuần Hóa thứ 4 (993), Lê Hoàn
đưa lễ sang cống, phong cho Lê Hoàn làm Giao Chỉ quận vương. Bài "Phát
minh" trong sử trên bàn rằng: Thiên tử sở dĩ được quư, là chỉ v́
vâng mệnh trời, đánh giết kẻ phản nghịch. Giao Châu là đất đă do họ
Đinh giữ trước. Năm Khai Bảo thứ 6 (973), Đinh Liễn vào cống, vâng
mạng chịu phong vương. Vậy th́ con cháu nối nghiệp, là theo đúng lễ.
Đinh Liễn mất rồi, em là Đinh Toàn nối ngôi. Bộ tướng là Lê Hoàn lừa
gạt kiềm chế chủ ḿnh, giành nắm quyền chính. Đó thực là kẻ loạn
thần, tặc tử. Đối với pháp luật của vương giả, tất phải tru diệt.
Nay vua Tống thấy Lê Hoàn cho sang tiến cống, cũng gia phong cho
tước vương. Thế là tước vương ở Giao Chỉ có thể cứ dùng thế lực mà
chiếm được, chứ có phải nhận lấy bằng lễ nghĩa đâu! Nếu sau này bầy
tôi của Lê Hoàn cũng bắt chước làm theo thói xấu ấy, th́ vua Tống
lấy ǵ mà chế trị được? Than ôi! Làm vua mà không nắm được quyền
đánh dẹp, th́ kẻ loạn thần lấy ǵ để làm răn chừa! Sử Cương mục (tục
biên) , ở trên, chép Lê Hoàn đưa lễ vào cống, đến dưới, chép ban
chiếu phong cho tước vương. Th́ ra hai bên đều trọng về lợi, chứ
không trọng về nghĩa nữa. Công đạo bởi đâu mà giăi tỏ được ru?
Giáp Ngọ,
năm Ứng Thiên thứ 1 (994). (Tống, năm Thuần Hóa thứ 5).
Tháng
giêng, mùa xuân. Sai sứ sang nhà Tống.
Sai nha
hiệu Phí Sùng Đức đem biếu sản vật địa phương.
Chế Cai
nước Chiêm Thành vào chầu.
Trước đây,
chúa Chàm sai Chế Đông đến dâng sản vật địa phương. Nhà vua trách là
vô lễ, gạt đi không nhận, chúa Chàm289 sợ, sai cháu là Chế Cai vào
chầu.
Ất Mùi,
năm thứ 2 (995). (Tống, năm Chí Đạo thứ 1).
Bính Thân,
năm thứ 3 (996). (Tống, năm Chí Đạo thứ 2).
Tháng 2,
mùa xuân. Sai sứ sang nhà Tống.
Bấy giờ
nhà vua dong túng dân nơi biên giới lấn cướp bờ cơi nhà Tống. Chuyển
vận sứ Quảng Tây lộ là Trương Quan, và binh mă giám áp ở trấn Như
Hồng là Vệ Chiêu Mỹ đem việc đó tâu về triều, vua Tống ư muốn vỗ về
cho yên, nên cũng bỏ qua không hỏi đến. Trương Quan lại dâng thư nói
rằng nhà vua bị họ Đinh xua đuổi, thu nhặt đám quân c̣n sót, ra ở
nơi hải đảo, cướp bóc để độ thân, nay đă mất rồi. Vua Tống sai thái
thường thừa là Trần Sĩ Long làm Thái phóng sứ, sang ḍ hư thực, mới
biết những lời Trương Quan đều dối trá cả, bèn xuống chiếu nghị tội
bọn Trương Quang. Lại bổ Trần Nghiêu Tẩu làm Quảng Tây Chuyển vận sứ,
và sai Hải khang úy là Lư Kiến Trung đem chiếu thư sang ta.
Trước đây,
bọn Văn Dũng, dân trấn Triều Dương, phạm tội , trốn sang trấn Như
Tích thuộc Khâm Châu bên Tống, được trấn tướng nhà Tống là Hoàng
Lệnh Đức chứa chấp. Nha vua sai trấn tướng ta ở Triều Dương là Hoàng
Thành Nhă đuổi bắt không được. Đến đây, Nghiêu Tẩu (người Tống) đến
trấn
Như Tích,
hỏi biết rơ đầu đuôi về việc chứa giấu phạm nhân, mới đem giao trả
ta tất cả trai, gái, già trẻ hơn trăm người mà trước đây Hoàng Lệnh
Đức đă chứa chấp. Nhà vua lại bắt hai mươi bảy người Đăn không biết
tiếng Trung Quốc đưa sang Quảng Tây giao cho Tống. Nhân tiện sai sứ
sang tạ ơn Tống và nói đến việc đă bắt được giặc biển đưa sang rồi.
Lại hứa hẹn sẽ răn cấm dân các miền khê động không được khuấy rối
nữa.
Lời chua
- Như Hồng và Như Tích: Sách Thanh Nhất thống chí chép: trấn Như
Hồng và trấn Như Tích đều ở về phía tây Khâm Châu, thuộc phủ Liêm
Châu, tỉnh Quảng Đông.
Triều
Dương: Tên trấn. Xem Lư Thái Tổ năm Thuận Thiên thứ 14 (Chb. II,
23).
Người Đăn
(Hồ di Đăn Man): Theo sách Lĩnh Ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi, người
Đăn là giống người lấy thuyền làm nhà, coi ở nước như ở trên cạn,
lênh đênh sống trên sông biển.
Sứ nhà
Tống sang ban sắc mệnh.
Nhà Tống
lại sai Lư Nhược Chuyết đem tờ chiếu và đai ngọc sang ban cho. Khi
sứ thần đă đến nơi, nhà vua ra đón ở ngoài đô thành, có ư ngạo mạn
coi thường, không thi lễ, bảo Nhược Chuyết rằng: "Trước đây xảy việc
cướp trấn Như Hồng là do giặc ở ngoài biên giới, chẳng hay hoàng đế
có biết cho không? Giả sử Giao Châu chúng tôi nổi lên chống lại, th́
trước hết kéo sang Quảng Châu, rồi vào mọi quận ở Mân Châu, chứ có
khi nào chỉ nhằm một trấn Như Hồng mà thôi?". Nhược Chuyết ung dung
nói: "Túc hạ xuất thân từ một nha tướng, được hoàng đế trao cho tiết
việt, hết ḷng cung thuận, hợp với lễ nghĩa, tất không có ư ǵ khác.
Các đại thần bên tôi đều cho rằng giặc biển khuấy rối, một ḿnh Giao
Châu không thể trị nổi, xin đem quân ra hội tiễu, để dứt hẳng mối lo
về sau. Nhưng hoàng đế lại lo Giao Châu không biết rơ được ư chí
triều đ́nh, lỡ sinh ra sợ hăi chăng, cho nên không đem quân sang hội
tiễu nữa". Nhà vua ngạc nhiên nói: "Giặc biển xâm phạm biên giới, đó
là lỗi tại người bầy tôi có trách nhiệm giữ biên cương. Từ nay xin
kính theo giáo hóa triều đ́nh, quét sạch chướng khí ngoài biển" .
Nói đoạn, cúi đầu tạ lỗi.
Lời chua
- Giao Châu: Xem thuộc Đường, Cao tông, năm Điều Lộ thứ 1 (Tb. IV,
18).
Quảng
Châu: Xem Lương, năm Đại Đồng thứ 7 (Tb. IV, 2).
Mân Châu:
Bây giờ thuộc Phúc Kiến thống bộ.
Đinh Dậu,
năm thứ 4 (997). (Tống, năm Chí Đạo thứ 3).
Tháng 4,
mùa hạ. Nhà Tống gia phong nhà vua tước Nam B́nh vương.
Tống Chân
tông lên ngôi, gia phong nhà vua tước Nam B́nh vương. Trước đây, sứ
Tống đến, thường nói về việc cống muối rồi dây dưa đến cả việc thuế
khóa. Chân Tông nghe biết chuyện ấy, nên đến đây, chỉ sai viên quan
ở biên cương triệu người sang để trao cho sắc chỉ, chứ không chuyên
sai sứ thần mang sang như trước nữa.
Sai sứ sang nhà Tống.
Năm ấy (Đinh Dậu, 997),
nước Chiêm Thành cướp nơi biên giới. Nhà vua đi đánh, quân Chiêm
thua chạy, mới đem sản vật địa phương sang biếu nhà Tống, nhân tiện
dâng biểu đại lược nói: "Giao Châu chúng tôi giáp giới với Chiêm
Thành, trong một hai năm nay, Chiêm Thành thường khuấy rối miền lân
cận, cướp nhà thuế hộ, xâm lấn lương dân; nước tôi thường phải dùng
đến binh khí để ngăn cản chúng, nên mới đến nỗi trễ việc triều cống,
thật là trái phép tắc của triều đ́nh". Nhà Tống đáp lại một cách ưu
hậu, ban cho đai ngọc, áo giáp và ngựa.
Tháng 7, mùa thu. Nhà vua
đi đánh giặc ở Đỗ Động, bắt được đồ dđảng nó đem về.
Có thủy tai lớn.
Mậu Tuất, năm thứ 5
(998). (Tống, Chân Tông, năm Hàm B́nh thứ 1).
Tháng 3, mùa xuân. Động
đất.
Mồng 1, tháng 5, mùa hạ.
Nhật thực. Suốt từ tháng này đến tháng 6, không mưa.
Mồng 1, tháng 10, mùa
đông. Nhật thực.
Kỷ Hợi, năm thứ 6 (999).
(Tống, năm Hàm B́nh thứ 2).
Nhà vua thân đi đánh và
dẹp yên được Hà Động.
Bốn mươi chín động vùng
Hà Động đều dẹp yên cả. Từ đấy các châu, các động đâu đấy đều quy
phục.
Lời chua - Hà Động: tức
động Hà Man; bây giờ là đất huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa.
Canh Tí, năm thứ 7
(1000). (Tống, năm Hàm B́nh thứ 3).
Bọn Trịnh Hàng ở Phong
Châu làm loạn. Nhà vua xuống chiếu sai đi đánh.
Bọn Trịnh Hàng làm loạn,
nhà vua điều khiển quân sĩ đi đánh. Trịnh Hàng chạy sang núi Tản
Viên.
Lời chua
- Phong Châu: X. Hùng Vương (Tb. I, 1).
Tản Viên:
Tên núi. Ở huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây. H́nh thế núi cao vọi như cái
tán, nên gọi là Tản Viên.
Sai tướng
chia nhau đi tuần các nơi biên thùy.
Sai Từ
Mục đi tuần cơi Hà Tây, Ngô Tử An đi tuần cơi phía bắc, để ḍ xét
t́nh h́nh biên giới.
Tân Sửu,
năm thứ 8 (1001). (Tống, năm Hàm B́nh thứ 4). Vua nhà Đinh trước là
Toàn mất ở Cử Long.
Nhà vua
đi đánh Cử Long: Vệ vương Toàn theo đi. Bấy giờ quân giặc thấy nhà
vua, chúng giương cung, chĩa tên, toan bắn, chiếc tên rơi xuống;
chúng lại giương cung, dây cung đứt. Chúng sợ, rút lui. Nhà vua đi
thuyền ven sông đuổi theo. Quân giặc ở hai bên bờ đánh khép lại.
Quan quân bị hăm ở sông. Vệ vương Toàn trúng phải mũi tên bay, mất
tại trận. Nhà vua kêu trời ba tiếng, rồi thân ra đốc chiến: quân
giặc thua.
Lời phê -
Lê Hoàn lợi dụng cơ hội, đă cướp lấy nước người ta, lại không khéo
đối đăi chúa cũ, đẩy vào chỗ chết, thế nào mà Toàn chẳng đến tử vong?
C̣n việc cất tiếng kêu trời, gieo ḿnh xuống đất, chỉ là một ngón
giả trá. Thật khó che đậy được công luận ngh́n thu. Lời chua - Cử
Long: Tên dân tộc Mán. Nhà Đinh, nhà Tiền Lê gọi là mán Cử Long, đến
nhà Lư diệt được. Năm Thuận Thiên (1428-1433), nhà Lê đặt là huyện
Lạc Thủy; năm Quang Thuận (1460-1469), đổi lại Cẩm Thủy. Bây giờ vẫn
theo tên cũ, thuộc phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Nhâm Dần,
năm thứ 9 (1002). (Tống, năm Hàm B́nh thứ 5).
Tháng 3,
mùa xuân. Đặt luật lệ pháp lệnh.
Lựa tuyển
chư quân.
Lựa tuyển
trong dân đinh lấy những người khỏe mạnh sung bổ vào các đội ngũ.
Chia tướng hiệu làm hai ban. Chế mấy ngh́n chiếc mũ đâu mâu, ban
phát cho sáu quận.
Lời chua
- Lộ, phủ, châu: Thay đổi và xếp đặt thế nào không rơ.
Quư Măo,
năm thứ 10 (1003). (Tống, năm Hàm B́nh thứ 6).
Nhà vua
đi Hoan Châu, đào sông Đa Cái293 .
Bấy giờ
đào sông Đa Cái, có kẻ ta oán nổi lên làm phản, nhà vua sai bắt chém
đem rao đi khắp nơi để mọi người biết. Đầu mục dân thành Nhật Hiệu
là bọn Hoàng Khánh Tập đem gia quyến của chúng hơn bốn trăm năm mươi
người trốn sang Khâm Châu bên Tống. Người Tống yên ủi và bảo trở về.
Bọn Khánh Tập sợ tội, không dám về, cứ trú ở nơi bờ biển.
Lời chua
- Hoan Châu: Tức Nghệ An. Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10
(Chb. XXI, 21).
Đa Cái:
Tên xă. Bây giờ là xă Hương Cái, huyện Hưng Nguyên. Theo sách Nghệ
An chí, Hương Cái cảng ở phía tây nam huyện Hưng Nguyên.
Thành
Nhật Hiệu: Sách An nam chí chép là trường Hiệu Thành. Nay không khảo
được.
Khâm Châu:
Bây giờ thuộc phủ Liêm Châu, tỉnh Quảng Đông nhà Thanh. Theo sách
Giao Chỉ di biên , Hoàng Khánh Tập vào ở tại thôn Ô Thổ bên sông
Dũng bộ thuộc địa phận Khâm Châu.
Giáp Th́n,
năm thứ 11 (1004). (Tống, năm Cảnh Đức thứ 1).
Tháng
giêng, mùa xuân. Lập Nam Phong vương Long Việt làm Thái tử.
Trước đây,
con trưởng là Ḱnh Thiên đại vương Long Thâu mất, Ngân Tích, theo
thứ tự, đáng được lập. Bấy giờ Long Đĩnh cầu xin làm Thái tử, ư nhà
vua muốn cho; đ́nh thần bàn rằng không lập con trưởng mà lập con thứ
th́ không hợp lễ; thành thử lại thôi. Đến đây, lập Long Việt làm
Thái tử, gia phong Đông Thành vương Ngân Tích và Khai Minh vương
Long Đĩnh làm đại vương.
Sai Hành
quân vương Minh Đề sang bên Tống.
Nhà vua
sai Minh Đề, lấy tư cách là quyền chức Thứ sử Hoan Châu đi thăm hỏi
nhà Tống. Minh Đề đến Biện Kinh , khẩn cầu ban cho ân điển. Vua Tống
y cho, vời vào tiện điện vỗ về hỏi han, ban thưởng rất hậu, và phong
làm Kim tử vinh lộc đại phu Kiểm hiệu Thái úy Hoan Châu thứ sử.
Lời chua
- Minh Đề: Tức là Long Đề, con thứ hai Lê Đại Hành.
Xem đánh
cá ở sông Đại Hoàng.
Lời chua
- Sông Đại Hoàng: Bây giờ là con sông xă Đại Hữu huyện Gia Viễn (Ninh
B́nh).
Ất Tị,
năm thứ 12 (1005). (Tống, năm Cảnh Đức thứ 2).
Tháng 3,
mùa xuân. Nhà vua mất.
Nhà vua
khi mới mất, gọi là Đại Hành hoàng đế, rồi cứ để làm miếu hiệu,
không đổi lại; ở ngôi 24 năm, thọ 65 tuổi.
Lời chua
- Hán thư chép: Cao đế (nhà Hán) mới mất, triều thần gọi là Đại Hành
hoàng đế. Tôn Dục nhà Nguỵ nói: "Phép đặt tên thuỵ, lúc sinh thời
làm được sự nghiệp to tát hay là nhỏ mọn th́ lúc mất tên thuỵ cũng
theo như vậy. Khi tiên quân chưa có tên thuỵ, mà tự quân (vua nối
ngôi) đă lên ngôi, kẻ thần hạ xưng hô nên có phân biệt; v́ vậy gọi
là Đại Hành". Hiệu gọi: "Đại Hành" có lẽ gốc từ đấy.
Táng ở
Sơn Lăng Hoa Lư.
Tháng 10,
mùa đông. Thái tử Long Việt lên ngôi.
Trước đó,
Đông Thành vương Ngân Tích, Trung Quốc vương Long Kính và Khai Minh
vương Long Đĩnh đều làm loạn; Thái tử không lên ngôi được, cầm cự
nhau đến 8 tháng, trong nước không ai làm chủ. Đến đây, Long Việt
mới lên ngôi; Ngân Tích phải chạy, bị người châu Thạch Hà giết chết.
Lời chua
- Thạch Hà: Tên Châu. Nhà Đinh, nhà Lê gọi là châu Thạch Hà; nhà Lư
đổi làm huyện Thạch Hà; nhà Trần đổi gọi châu Nhật Nam; hồi thuộc
Minh gọi là châu Nam Tỉnh. Về sau, Lê lại gọi là huyện Thạch Hà. Bây
giờ là huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Khai Minh
vương Long Đĩnh giết vua Long Việt mà tự lập.
Vua Long
Việt lên ngôi được 3 ngày; Long Đĩnh sai kẻ trộm trèo tường vào
trong cung, giết chết, rồi cướp ngôi, tự lập làm vua; truy đặt tên
thuỵ vua Long Việt là Trung Tông hoàng đế.
Dùng Lư
Công Uẩn làm Tứ Sương quân phó chỉ huy sứ.
Khi vua
Long Việt bị giết, bầy tôi đều chạy trốn cả, chỉ có điện tiền quân
là Lư Công Uẩn ôm thây nhà vua mà khóc. Long Đĩnh cho là trung nghĩa,
cất lên làm chức này.
Truy tôn
mẹ làm Hưng Quốc quảng thánh Hoàng thái hậu.
Nhà vua
đă cướp được ngôi, xưng tôn hiệu là Khai Thiên ứng vận thánh văn
thần vũ tắc thiên sùng đạo đại thắng minh quang hiếu hoàng đế: truy
tôn mẹ làm Hoàng thái hậu.
Lời chua
- Thái Hậu: Con gái quan Chi hậu tên là Diệu, không rơ họ là ǵ.
Lập bốn
Hoàng hậu.
Nhà vua
tự cầm quân đi đánh Ngự bắc vương Long Ngận và Trung Quốc vương Long
Kính, dẹp yên được cả.
Bấy giờ
nhà vua đă lên ngôi, Long Ngận và Long Kính giữ xă Phù Lan để chống
lại. Nhà vua thân đi đánh: hai vương ấy đóng chặt thành cố thủ. Vây
đến vài tháng, trong thành cạn lương; Long Ngận bắt Long Kính đem
dâng nộp. Nhà vua sai chém Long Kính và tha tội cho Long Ngận. Nhân
tiện, đem quân đi đánh Ngự Man vương Long Đinh ở Phong Châu; Long
Đinh phải đầu hàng. Từ đó các vương đều chịu phục cả.
Lời chua
- Phù Lan: Xem năm Hưng thống thứ 4 (Chb. I, 27).
Phong
Châu: Xem Hùng Vương (Tb. I, 1).
Đặt Đằng
Châu lên làm phủ Thái B́nh.
Nhân dịp
đem quân về đến Đằng Châu, nhà vua sai đặt Đằng Châu lên làm phủ.
Lời chua
- Đằng Châu: Xem ngang với Tống, Thái tổ, năm Kiền Đức thứ 4 (Tb. V,
28).
Thân đi
đánh mán Cử Long.
Trước đây,
nhà vua đóng ở xă Phù Lan, có tin chạy trạm đến tâu rằng mán Cử Long
vào cướp, đă kéo đến cửa biển Thần Đầu. Khi đă dẹp yên Phong Châu,
rút quân về đến sông Tham, nhà vua liền vào Ái Châu để đánh giặc mán
Cử Long.
Lời chua
- Cử Long: Tên một dân tộc Mán. Xem Lê Đại Hành năm Ứng Thiên thứ 8
(Chb. I, 34).
Cửa Thần
Đầu: Ở địa giới huyện Yên Mô, tỉnh Ninh B́nh. Nhà Lê đổi là Thần Phù;
bây giờ là cửa Chính Đại.
Tham: Tên
sông, chưa rơ ở đâu.
Ái Châu:
Tức Thanh Hóa. Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chb. XXI,
20).
Bính Ngọ,
năm thứ 13 (1006). (Đế Long Đĩnh vẫn theo niên hiệu cũ: năm Ứng
Thiên thứ 13. - Tống, năm Cảnh Đức thứ 3).
Tháng 2,
mùa xuân. Lập con là Sạ làm Khai phong vương; con nuôi là Thiệu Lư
làm Sở vương, Thiệu Hưng làm Hán vương.
Lời cẩn
án - Long Đĩnh giết anh mà tự lập, hoang dâm thành bệnh, nằm mà coi
chầu, nhân gọi là Ngọa Triều. Sử cũ chép là "Ngọa Triều hoàng đế",
có lẽ là theo tên gọi thời bấy giờ, chứ không phải là tên thuỵ. Chép
vậy thật là trái thường quá lắm! Này, đă không có tên thuỵ, th́ cứ
chép thẳng tên thực, đó là biến lệ của sử Cương mục (Trung Quốc).
Nay đổi lại, chép là "Đế Long Đĩnh" để cho hợp với ư nghĩa và thể lệ
của Cương mục dẫn trên. Đặt lại quan chế và triều phục.
Đặt lại
quan chế văn vũ và triều phục, đều theo như kiểu mẫu của nhà Tống.
Lời chua
- Triều phục nhà Tống thế này: có ba hạng mũ: 1) Mũ tiến hiền, là
phẩm phục hàng nhất phẩm và nhị phẩm; 2) Mũ điêu thiền là phẩm phục
hàng tam phẩm các ti, hàng tam phẩm ngự sử đài, và hàng ngũ phẩm hai
sảnh; 3) Mũ giải trăi, là phẩm phục từ tứ phẩm đến lục phẩm. Công
khanh trở lên mặc màu tía; ngũ phẩm trở lên mặc màu đỏ; thất phẩm
trở lên mặc màu lục ; cửu phẩm trở lên mặc màu xanh.
Tháng 6,
mùa hạ. Sứ nhà Tống sang.
Trước đây,
các vương tranh nhau nối ngôi, trong nước rối loạn. Vua Tống nghe
tin, sai Tri châu ở Quảng Châu là Lăng Sách cùng với An phủ sứ nơi
duyên biên là Thiệu Việp tùy tiện liệu tính công việc rồi tâu bày.
Bọn Lăng Sách dâng thư nói rằng:
Quyển thứ
II
Từ Mậu
Thân (1008). Lê đế Long Đĩnh, năm Cảnh Thuỵ thứ 1 đến hết Kỷ Măo
(1039), Lư Thái Tông, năm Kiền Phù hữu đạo thứ 1, gồm 32 năm
(1008-1039).
Mậu Thân
(1008), Lê đế Long Đĩnh năm Cảnh Thuỵ thứ 1 (Tống, năm Đại Trung
tường phù thứ 1).
Lập con
nuôi của Hoàng hậu là Lê Ốc Thuyên làm Tam Nguyên vương.
Lời chua
- Hoàng hậu: Cảm thánh hoàng hậu.
Tam
Nguyên: Sử cũ chua "có chỗ chép là Nhị Nguyên".
Kỷ Dậu,
năm thứ 2 (1009). (Tống, năm Đại Trung tường phù thứ 2. Năm này nhà
Lê mất).
Đào sông
ở Ái Châu.
Đô đốc
Kiểu Hành Hiến xin đào sông, đắp đường và lập đồn dựng mốc ở Ái Châu.
Nhà vua nghe theo, xuống chiếu cho quân và dân châu ấy đào sông từ
cửa ải Chi Long qua núi Đính Sơn đến sông Vũ Lũng.
Lời chua
- Ái Châu: Tức Thanh Hóa. Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10
(Chb. XXI, 20).
Cửa ải
Chi Long: Theo Thiên hạ quận quốc lợi bệnh toàn thư , cửa ải Chi
Long ở huyện Chi Nga, Chi Nga bây giờ là huyện Nga Sơn.
Vũ Lũng:
Tên châu. Xem Lê Đại Hành, năm Hưng Thống thứ 4 (Chb. I, 27).
Nhà vua
đi Ái Châu, đến sông Vũ Lũng.
Tục
truyền: Ai bơi lội qua sông Vũ Lũng thường hay bị hại, nhà vua sai
đóng thuyền để chở người qua lại.
Tháng 7,
mùa thu. Nhà vua thân đi đánh châu Hoan Đường và châu Thạch Hà.
Nhà vua
đến sông Hoàn Giang, sai pḥng át sứ Hồ Thủ Ích đem hơn năm ngh́n
quân sửa sang mở mang đường sá, từ sông Châu Giáp đến cửa Nam Giới.
Nhà vua đi thuyền ra ngoài biển bỗng dưng sóng gió sôi nổi, mây mưa
mờ mịt, bèn sai quay thuyền trở lại, đi đường bộ về kinh đô.
Lời chua
- Hoan Đường: Thuộc đất Hoan Châu. Nhà Đinh, nhà Lê (Lê Đại Hành)
gọi là châu Hoan Đường; khi thuộc Minh đổi là Thạch Đường; về sau,
nhà Lê đổi là huyện Nam Đường. Nay vẫn theo như tên cũ, thuộc phủ
Anh Sơn tỉnh Nghệ An.
Thạch Hà:
Xem Lê Đại Hành năm Ứng Thiên thứ 12 (Chb. I, 38).
Cửa biển
Nam Giới: Xem Đinh Tiên Hàng, năm Thái B́nh thứ 10 (Chb. I, 12).
Sông Hoàn
Giang: Không khảo được.
Tháng 10,
mùa đông. Lê đế Long Đĩnh mất.
Nhà vua
có tính hiếu sát: Những súc vật dùng làm món ăn, tất phải chính tay
ḿnh đâm chết trước. Dùng nhiều h́nh phạt tàn ngược để giết người:
hoặc quấn cỏ vào thân người rồi lấy lửa đốt; hoặc sai Liêu Thủ Tâm,
tên phường chèo người Tống, cầm con dao cùn lóc thịt người để cho
không chết ngay được, thấy người bị hành h́nh ấy đau đớn kêu gào,
Thủ Tâm nói khôi hài rằng nó không quen chịu chết, th́ nhà vua ha hả
cười. Đi đánh dẹp, bắt được tù binh, đều tống vào cái "thủy lao" để
cho nước triều dâng lên th́ sặc nước, há mồm mà chết; có khi bắt họ
trèo lên ngọn cây rồi ở dưới chặt cây, cây đổ, người ngă chết, th́
khanh khách cười, lấy làm vui thích. Hồi đi đánh Án Động, bắt được
tù binh người Mán, nhà vua sai đánh bằng gậy; người Mán đau đớn gào,
nhiều lần xúc phạm đến tên húy vua Đại Hành, th́ lấy làm hả hê lắm.
Lại tự làm tướng đi đánh Hoan Châu, bắt được người Mán, đem nhốt vào
cái vựa mà đốt.
Mỗi khi
coi chầu, thể nào nhà vua cũng sai những kẻ khôi hài đứng hầu ở hai
bên, nếu có ai nói ǵ th́ chúng liến láu nói theo mà cười ồ, để làm
át và đánh lạc những tiếng tâu bày việc nước của các quan.
Minh
Sưởng từ bên Tống về, dụ được này Tiêu thị, người Tống, đem dâng,
nhà vua cho vào cung làm cung nhân.
Nhà vua
hoang dâm tửu sắc, dần mắc bệnh trĩ, nằm mà coi chầu, nên người ta
gọi là "Ngoạ Triều". Ở ngôi 4 năm, thọ 24 tuổi.
Lời cẩn
án - Thể lệ chép sử Cương mục (Trung Quốc): đối với những vua chính
thống, lúc mất, lúc táng đều có chép cả. Sử cũ (của ta) không chép
táng Lê đế Long Đĩnh; nay không khảo được. Lời chua - Hoan Châu: Tức
là Nghệ An. Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chb. XXI,
21).
Đây trở
lên, nhà Lê từ Đại Hành niên hiệu Thiên Phúc thứ 2, năm Tân Tị
(981), đến Long Đĩnh niên hiệu Cảnh Thuỵ thứ 2, năm Kỷ Dậu (1009),
cộng 3 vua, 29 năm (981-1009).
Tả thân
Điện tiền chỉ huy sứ Lư Công Uẩn tự lập làm vua.
Công Uẩn,
người làng Cổ Pháp, thuộc Bắc Giang, tư chất thông sáng, h́nh dạng
tuấn tú khác đời. Khi c̣n nhỏ, thường học nhà sư Vạn Hạnh. Sư Vạn
Hạnh lấy làm lạ, nói rằng: "Người này không phải tầm thường, mai sau
tất làm chúa cả nước". Kịp khi lớn lên, Công Uẩn khảng khái có chí
lớn. Khoảng giữa niên hiệu Ứng Thiên nhà Lê, làm cấm quân dưới triều
Trung Tông. Ngoạ Triều khi đă cướp ngôi làm vua, thăng Công Uẩn lên
điện tiền chỉ huy sứ. Trước đó, sét đánh vào cây gạo làng Diên Uẩn,
vết hằn có bài thế này.
"Thụ căn
diểu diểu, Mộc biểu thanh thanh Ḥa đao mộc lạc Thập bát tử thành,
Đông A nhập địa, Dị mộc tái sinh, Chấn cung hiện nhật, Đoài cung ẩn
tinh, Lục, thất niên gian, Thiên hạ thái b́nh" .
Sư Vạn
Hạnh tán riêng rằng: "Ḥa đao mộc" là chữ Lê. "Thập bát tử" là chữ
Lư. "Đông A" là họ Trần. "Nhập địa" là giặc Bắc phương vào lấn cướp.
"Dị mộc tái sinh" là họ Lê lại nổi lên. Ư nói họ Lê đổ, họ Lư lên,
trong khoảng sáu bảy năm, thiên hạ thái b́nh". Rồi Vạn Hạnh bảo Công
Uẩn: "Gần đây suy đoán lời sấm, th́ họ Lư chắc khởi nghiệp lớn". Sợ
lời đó lộ liễu, Công Uẩn sai người giấu sư Vạn Hạnh đi; nhưng cũng
lấy thế làm tự phụ. Ngoại Triều thường ăn quả khế, thấy có hạt mận ,
lại ngẫm nghĩ đến lời sấm nên ngầm t́m ḍng dơi họ Lư mà giết đi:
nhưng Công Uẩn ở ngay bên ḿnh, thế mà không biết. Kịp khi Ngoại
Triều mất, vua kế tự c̣n thơ ấu; Công Uẩn vào túc trực ở trong cung,
chi hậu Đào Cam Mộc nhân dịp, nói: "Mới đây, chúa thượng là người mờ
tối, tàn bạo, ḷng trời ghét bỏ. Con kế tự hăy c̣n trẻ thơ, không
cáng đáng nổi lúc nước nhà lắm nỗi hoạn nạn. Dân t́nh đâu đấy nhao
nhao, cũng muốn kiếm được một vị chân chúa. Quan thân vệ sao không
nhân lúc này, nghĩ ra mưu cao, quyết đoán sáng suốt, trông gương
Thang, Vũ ngày xưa, theo lối Đinh, Lê gần đó, trên thuận ḷng trời,
dưới theo nguyện vọng của dân, c̣n khư khư giữ tiểu tiết làm chi nữa?".
Công Uẩn thấy nói, trong bụng bằng ḷng, nhưng bề ngoài vẫn cứ giả
vờ trách móc Cam Mộc. Hôm sau, Cam Mộc lại nói: "Người trong nước
bây giờ đều biết họ Lư chắc khởi nghiệp, lời sấm đă rơ rệt rồi,
không c̣n che giấu được nữa. Đổi vạ ra phúc, chỉ ở chốc lát bây giờ.
Quan thân vệ lại c̣n ngờ ǵ nữa?". Công Uẩn nói: Tôi biết ư ông
không khác ư thày Vạn Hạnh. Nếu quả như lời, th́ mưu tính sao?". Cam
Mộc nói: "Quan thân vệ là người công bằng, rộng lượng và nhân đức,
được ḷng mọi người. Hiện nay trăm họ kiệt quệ, mệt mỏi không chịu
đựng nổi chính lệnh triều đ́nh. Quan thân vệ nhân dịp này, đem ân
đức vỗ về họ, chắc họ sẽ đổ xô theo về như nước chảy chỗ trũng, c̣n
ai ngăn cản được?". Cam Mộc sợ việc chậm lại, sẽ sinh biến chăng,
mới đem việc đó nói với khanh sĩ và các quan, th́ không ai dám có ư
ǵ khác cả. Ngay hôm ấy, mọi người hội họp ở nhà triều đường, cùng
nhau bàn rằng: Ngày nay, đối với nhà Lê, ức triệu người đều khác
ḷng, quan và dân đều ĺa bỏ. Nếu không nhân dịp này, tôn quan thân
vệ lên làm thiên tử, lỡ có biến cố ǵ xảy ra, th́ bọn ta liệu có giữ
được khỏi mất đầu không?
Bấy giờ
các quan mới cùng nhau pḥ Công Uẩn đến nhà chính điện lên ngôi
hoàng đế. Trăm quan thụp lạy, đâu đấy tung hô "vạn tuế". Công Uẩn
đại xá cho cả nước, lấy sang năm làm năm đầu một niên hiệu mới. Đốt
hết ḷ lưới , xóa bỏ việc tù ngục và kiện tụng; xuống chiếu cho phép
từ nay hễ ai có việc tranh giành thưa kiện, được đến tận triều đ́nh
mà tâu bày, nhà vua sẽ thân ra phân xử.
Bầy tôi
dâng tôn hiệu.
Bầy tôi
dâng tôn hiệu đặt cho nhà vua là Phụng Thiên chí lư ứng vận tự tại
thánh minh long hiện duệ văn anh vũ sùng nhân quảng hiếu thiên hạ
thái b́nh khâm minh quang trạch chương minh vạn bang hiểu ứng phù
cảm uy chấn phiên man duệ mưu thần trợ thánh trị tắc thiên đạo chính
hoàng đế.
"Thập bát"
(thập = mười; bát = tám) mọc thành cây.
Họ "Đông
A" (Trần: một nửa là chữ "đông", một nửa là chữ "A") vào đất.
Cây khác
lại mọc lên.
Cung đằng
đông (Chấn, một quẻ trong bát quái (kinh Dịch), thuộc về phương đông)
có mặt trời mọc.
Cung đằng
tây (Đoài: như trên, phương tây) có sao lờ mờ.
Sáu bảy
năm đây
Cả nước
thái b́nh.
Lời phê -
Nhà Lư được nước, cũng không phải chính nghĩa cho lắm, nhưng đương
buổi Lê Ngoạ triều, ḷng người ĺa tan, sinh dân vô củ, không về với
Công Uẩn c̣n biết theo ai? Cho nên, nhà Lư th́ dường như được trời
tựa, người theo; nhà Lê th́ rơ là thoán đoạt. C̣n việc làm của hai
nhà ấy, đằng nhân nghĩa, đằng bạo ngược, rơ rệt khác nhau; mà các
vua kế tự, bên hiền tài, bên hư hỏng, cũng sai biệt hẳn. V́ thế, một
nhà th́ ngắn ngủi, một nhà th́ lâu dài: phải lắm! Lời phê - Tôn hiệu
phiền phức dài ḍng quá lắm! Rất trái với lẽ thường, cũng rất tỏ rơ
cái thói bợ đỡ. Lời chua - Bắc Giang: Tức Kinh Bắc. Xem Lê Thánh
Tông, Quang Thuận năm thứ 100 (Chb. XXI, 28).
Cổ Pháp:
Tên châu. Từ Đinh về trước gọi là châu Cổ Lăm; nhà Lê đổi là Cổ Pháp;
nhà Lư đặt lên làm phủ Thiên Đức; nhà Trần đổi là huyện Đông Ngàn.
Về sau, nhà Lê vẫn theo tên cũ. Bây giờ là huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc
Ninh.
Diên Uẩn:
Tên làng, thuộc châu Cổ Pháp.
Truy tôn
cha làm Hiển Khánh vương, mẹ là Phạm thị làm Minh Đức hoàng thái hậu.
Mẹ ngài
là Phạm thị, đi chùa Tiêu Sơn, gặp thần nhân giao cấu, do đấy có
thai, sinh ngài năm Giáp Tuất, Thái B́nh thứ 5 (974) đời Đinh. Khi
ngài lên ba tuổi, sư chùa Cổ Pháp là Lư Khánh Văn nuôi làm con, nhân
đấy lấy theo họ Lư.
Lời cẩn
án - Lư Thái Tổ làm con nuôi sư Lư Khánh Văn, c̣n bố đẻ không biết
là ai. Sử cũ ở đây chép truy tôn cha mà không chép tên, lại không
nói rơ là bố đẻ hay là bố nuôi, về sau chép phong cho anh, phong cho
chú, lại không thấy nói họ tên. Vậy hăy tạm để lại, sẽ khảo sau. Lời
chua - Chùa Tiêu Sơn: Tức chùa Trường Liêu, ở xă Tiêu Sơn, huyện Yên
Phong, tỉnh Bắc Ninh.
Chùa Cổ
Pháp: Ở xă Đ́nh Bảng, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh.
Lập sáu
Hoàng hậu.
Riêng
người vợ cả gọi là Lập Giáo hoàng hậu. Những đồ ăn mặc và xe đi đều
khác với các bà hậu kia.
Lập con
là Phật Mă làm thái tử.
Phật Mă
là con trưởng, thiên tư đĩnh ngộ, tinh thông Lục nghệ và Lược thao .
Khi c̣n nhỏ, chơi với trẻ con, Phật Mă hay tập làm nghi vệ bách quan
rước xách. Nhà vua nói bỡn rằng: "Con nhà tướng nên tập quân sự, chứ
chơi tṛ rước xách làm ǵ?". Phật Mă thưa: "Họ Lê lên thay họ Đinh,
chẳng phải là nhà tướng đấy dư? Chẳng qua là tự trời cho đó mà thôi!".
Nhà vua lấy làm lạ. Đến đây lập làm thái tử.
Bấy giờ,
các con đều phong tước hầu, 13 người con gái đều phong công chúa. Và
phong anh làm Vũ Uy vương, phong chú làm Vũ Đạo vương. Lại phong
Trưng Hiển, con Vũ Uy vương làm thái uư, và phong Phó, con Dực Thánh
vương, làm tổng quản.
Lời chua
- Vũ Uy vương, Vũ Đạo vương, Dực Thánh vương: đều không rơ tên là ǵ.
Theo sách Thiên Nam trung nghĩa lục của Phạm Phi Hiển, Dực Thánh
vương là con thứ hai Lư Thái Tổ.
Phong Đào
Cam Mộc làm Nghĩa tín hầu.
Cam Mộc
có công pḥ giúp lên ngôi, nhà vua phong cho tước hầu và gả cho công
chúa An Quốc.
Ban áo
mặc cho hàng tăng đạo.
Năm Canh
Tuất (1010), Lư Thái Tổ hoàng đế năm Thuận Thiên thứ 1. (Tống, năm
Đại Trung tường phù thứ 3).
Tháng 2,
mùa xuân, sang chơi châu Cổ Pháp, ban tiền và lụa cho các kỳ lăo có
thứ bậc khác nhau.
Xa giá
nhà vua đến châu Cổ Pháp, yết lăng Thái hậu, sai các quan đo đất vài
mươi dặm đặt làm cấm địa thuộc sơn lăng; nhân dịp ấy ban tiền và lụa
cho các kỳ lăo.
Lời chua
- Cổ Pháp: Tên châu. Xem Lê Long Đĩnh năm Cảnh Thuỵ thứ 2 (Chb. II,
7).
Sai sứ
sang nhà Tống.
Sai viên
ngoại lang là Lương [Nhậm] Văn và Lê Tái Nghiêm đem sản vật địa
phương sang biếu nhà Tống. Các quan nhà Tống muốn từ chối, nhưng vua
Tống nói: "Họ Lê thay nhà Đinh, họ Lư cũng bắt chước làm theo. Ta
đối với Lê hay Lư, nào có khác ǵ!". Bèn nhận lễ sính.
Tháng 7,
mùa thu, dời kinh đô đến thành Thăng Long.
Nhà vua
cho rằng thành Hoa Lư trũng thấp, chật hẹp, nên muốn dời kinh đô đi
chỗ khác, dụ bầy tôi rằng: "Xưa kia, nhà Thương năm lần thiên kinh
đô, nhà Chu ba lần thiên kinh đô, thảy đều trên kính vâng mạng trời,
dưới thuận theo ḷng dân, để làm chước lâu dài hàng muôn đời. Gần
đây, nhà Đinh, nhà Lê theo ư riêng ḿnh, ở đâu yên đấy, không biết
lo xa, nên hưởng nước không được lâu dài; trẫm lấy làm đau ḷng lắm!
Trẫm nay mở xem địa đồ, Đại La thành, kinh đô cũ của Cao Biền, ở
trung tâm đất nước, có h́nh thế hiểm yếu như rồng ḅ hổ phục, bốn
phương sum họp, người và vật đông nhiều, thực là chỗ kinh đô quư
nhất của đế vương. Trẫm muốn nhân chỗ địa lợi ấy đóng làm kinh đô. Ư
các khanh nghĩ thế nào?". Bầy tôi đều thưa: "Bệ hạ nói đến việc ấy
thực là lợi cho thiên hạ muôn đời".
Nhà vua
bằng ḷng lắm, mới từ Hoa Lư dời kinh đô đến Đại La thành. Thuyền
ngự đến bên thành, có con rồng hiện ra. Nhà vua sai đổi tên là thành
Thăng Long .
Ở trong
thành, khởi công xây dựng cung điện: phía trước là điện Kiền Nguyên,
dùng làm chỗ coi chầu, hai bên tả, hữu làm điện Tập Hiền và điện
Giảng Vũ, đều có thềm rồng. Lại mở ba cửa: cửa Phi Long thông với
cung Nghinh Xuân; cửa Đan Phụng thông với cửa Uy Viễn. Đằng sau điện
Kiền Nguyên có điện Long An và điện Long Thuỵ, làm chỗ nhà vua nghỉ
ngơi. Hai cung Thúy Hoa và Long Thuỵ để cho các phi tần ở. Lại lập
kho đụn, xây thành, đào hào. Mở bốn cửa thành: phía Đông là cửa
Tường Phù, phía Tây là cửa Quảng Phúc, phía Nam là cửa Đại Hưng,
phía Bắc là cửa Diệu Đức.
Lời chua
- Hoa Lư thành: Xem Nam tấn, Ngô Xương Văn, năm thứ 1 (Tb. V, 24).
Đại La
thành: Xem thuộc Đường, Ư Tông, năm Hàm Thông thứ 7 (Tb. V, 10).
Thăng
Long thành: Theo Hà Nội sách , nhà Lư gọi là thành Thăng Long; nhà
Trần đổi làm Đông Đô, khi thuộc Minh gọi là Đông Quan thành; nhà Lê
gọi là Đông Kinh, năm Gia Long thứ 4, đổi là Thăng Long. Bây giờ là
tỉnh thành Hà Nội.
Đổi thành
Hoa Lư làm phủ Trường Yên. Đặt châu Cổ Pháp lên làm phủ Thiên Đức.
Đặt châu
Cổ Pháp lên làm phủ Thiên Đức, lại đổi sông Bắc Giang làm sông Thiên
Đức.
Lời chua
- Phủ Trường Yên: Nhà Lư đặt làm phủ, nhà Trần, nhà Lê đều để theo
tên cũ. Bây giờ là phủ Yên Khánh tỉnh Ninh B́nh.
Châu Cổ
Pháp: Xem Lê đế Long Đĩnh, năm Cảnh Thuỵ thứ 2 (Chb. II, 6).
Sông
Thiên Đức: Có tên nữa là sông Diên Uẩn hoặc sông Đông Ngàn. Đó là
ḍng sông do sông Nhị Hà tách ra, chảy qua huyện Đông Ngàn và huyện
Quế Dương đổ vào sông Lục Đầu. Bây giờ là sông Chiêm Đức, tỉnh Bắc
Ninh.
Dựng chùa
ở phủ Thiên Đức.
Phát hai
vạn quan tiền, dựng tám cảnh chùa, đều lập bia ghi công đức. Lại ở
trong thành Thăng Long, dựng chùa Hưng Thiên ngự tự, cung Thái Thanh
và chùa Vạn Tuế; ở ngoài thành dựng chùa Thắng Nghiêm, chùa Thiên
Vương, chùa Cẩm Y, chùa Long Hưng, chùa Thái Thọ, chùa Thiên Quang
và chùa Thiên Đức, những đền chùa ở các làng mạc, có ngôi nào đổ nát,
đều sai sửa chữa lại cả.
Lời phê -
Nịnh Phật quá chừng, gây nên mối tệ về sau, hay là Lư Thái Tổ mê
hoặc là ḿnh xuất thân từ cửa Phật chăng? Dầu sao cũng không phải là
chính đạo. Tháng 12, mùa đông. Cung Thúy Hoa làm xong. Đại xá.
Xá thuế
ba năm cho cả nước. Phàm những thuế các năm trước c̣n thiếu đều xóa
bỏ cho cả. Những người Mán bị bắt làm tù binh từ năm Cảnh Thuỵ nhà
Lê, đều phát quần áo, tha cho về.
Sứ nhà
Tống sang.
Từ Đinh,
Lê đến nay, sứ Tống sang sách phong, trước phong chức Kiểm hiệu Thái
uư, rồi đến chức Tiết độ, đô hộ, sau mới phong là Quận vương. Đến
đây, bắt đầu phong ngay là Giao Chỉ quận vương, lĩnh Tĩnh Hải quân
tiết độ sứ. Việc này về sau trở thành lệ thường.
Đổi mười
đạo làm hai mươi bốn lộ; Ái Châu và Hoan Châu làm trại.
Lại lập
trại Định Phiên ở Hoan Châu nam giới, dùng Lư Thai Giai làm chủ trại.
Lời cẩn
án - Nhà Đinh đặt thập đạo quân; nhà Lê chia mười đạo làm lộ, phủ,
châu; đến nay nhà Lư lại chia mười đạo làm hai mươi bốn lộ. Tên đạo
và tên lộ ra sao, Sử cũ đều không chép rơ. Vả, ở đây chép đổi mười
đạo làm hai mươi bốn lộ, đặt Hoan Châu và Ái Châu làm trại, th́ bấy
giờ các châu đều gọi là châu, hoặc giả đặt châu làm lộ, c̣n Hoan
Châu và Ái Châu là đất biên viễn, nên lại gọi là trại để phân biệt
đó chăng? Lời chua - Ái Châu: Tức Thanh Hóa.
Hoan Châu:
Tức Nghệ An. Cả hai đều xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chb.
XXI, 20-21).
Hoan Châu
nam giới: Theo Nghệ An phong thổ kư của Bùi Dương Lịch, Hoan Châu
nam giới là ở đất huyện Kỳ Hoa. Bây giờ Kỳ Hoa là huyện Kỳ Anh, tỉnh
Hà Tĩnh.
Tân Hợi,
năm thứ 2 (1011). (Tống, năm Đại Trung tường phù thứ 4).
Tháng 2,
mùa xuân. Nhà vua tự làm tướng đi đánh và diệt được mán Cử Long.
Mán Cử
Long giữ nơi hiểm yếu, cậy sức kiên cố, từ Đinh, Lê đến nay vẫn
không chinh phục được. Đến Lư bây giờ, Cử Long ngày càng quá rông rỡ,
nhà vua thống suất sáu quân đi đánh: bắt được tên đầu sỏ của chúng,
rồi rút về. Từ đó Cử Long mới bị diệt hẳn.
Lời chua
- Cử Long: Xem Lê Đại Hành, năm Ứng Thiên thứ 8 (Chb. I, 34-35).
Tháng 4,
mùa hạ. Sai sứ sang nhà Tống.
Sai Viên
ngoại lang là Lư Nhân Nghĩa và Đào Khánh Văn sang Tống biếu sản vật
địa phương. Khánh Văn lẩn trốn ở lại bên Tống; người Tống bắt, giao
trả lại. Nhà vua sai đánh bằng trượng giết chết.
Dựng điện
Hàm Quang ở bến sông Phú Lương.
Làm điện
ở bên sông Phú Lương là để dùng trong những lúc đi chơi, văn cảnh.
Lời chua
- Sông Phú Lương: Sông này trên liền với sông Bạch Hạc tỉnh Sơn Tây,
dưới thông với sông Đại Hoàng tỉnh Nam Định chảy suốt ra biển. Bây
giờ là sông Nhị Hà thuộc Hà Nội.
Nhâm Tí,
năm thứ 3 (1012). (Tống, năm Đại Trung tường phù thứ 5).
Tháng 4,
mùa hạ. Sụa lại hai điện Long An và Long Thuỵ.
Hai điện
này làm từ năm Thuận Thiên thứ 1 (1010); đến đây sửa lại.
Lập thái
tử Phật Mă làm Khai Thiên vương.
Nhà vua
thấy thái tử sinh trưởng ở nơi cung cấm, chưa am hiểu việc dân, nay
phong cho tước vương và làm cung Long Đức ở ngoài thành để cho ở.
Lời cẩn
án - Thái tử là vị hoàng tử trong nước. Lư Thái Tổ lập Phật Mă làm
thái tử thế là người trù bị nối ngôi đă định rơ rồi. Nếu muốn cho
Thái tử biết khắp mọi việc dân gian th́ nên chọn lấy những bậc sư
phó có hiền đức mà dạy bảo chỉ dẫn cho th́ hơn. Nay lại phong tước
vương, cho ở ngoài thành, không khác ǵ các vương khác, như thế
không phải đạo tôn trọng người nối dơi tông đường và thống nhất ḷng
dân. Về sau, Lư Thái Tông lập Thái tử Nhật Tôn làm Khai Hoàng vương,
cũng bắt chước làm như thế, thực là trái thường lắm . Tháng 7, mùa
thu. Nhà vua đi xem bơi trải.
Bơi
thuyền thi ở sông Phú Lương, nhà vua ngự điện Hàm Quang để xem. Suốt
đời nhà Lư, việc xem bơi trải trở thành lệ thường.
Tháng 12,
mùa đông. Nước Chân Lạp sang cống.
Nước Chân
Lạp ở phía nam nước Chiêm Thành, khoảng niên hiệu Thuận Thiên
(1010-1026), tất cả bốn lần sang triều cống nước ta.
Lời chua
- Nước Chân Lạp: Xem thuộc Đường, Tuyên Tông, năm Đại Trung thứ 12
(Tb. IV, 39).
Nhà vua
thân đi đánh và dẹp được Diễn Châu.
Người
Diễn Châu chống lại mệnh lệnh triều đ́nh, nhà vua tự cầm quân đi
đánh. Khi quân về đến cửa Biện, gặp cơn gió mưa mờ mịt, sấm chớp ầm
ầm, mọi người đều sợ có sự bất trắc. Nhà vua đốt hương, khấn trời
rằng: "Tôi là người ít đức, đứng đầu quan và dân, vẫn nơm nớp sợ hăi,
như lo lỡ sa xuống vực sâu. Chỉ v́ người Diễn Châu ngang ngạnh,
không theo giáo hóa, nên bất đắc dĩ phải đi đánh dẹp. Trong ṿng
gươm giáo, chắc không khỏi có sự oan uổng tới dân lành, đến nỗi làm
cho hoàng thiên nổi giận; một ḿnh tôi đây dù phải chịu nạn cũng
không dám ân hận ǵ, nhưng c̣n sáu quân vô tội th́ sao? Kính xin
ḷng trời soi xét cho". Khấn vừa dứt lời, sấm gió yên ngay.
Lời phê -
Lời Lư Thái Tổ khấn trời, tỏ ra rất có đức độ đế vương; thật chẳng
khác Thành Thang nhà Thương đem sáu việc , trách ḿnh trong khi gặp
nạn bảy năm hạn hán: thảo nào giữa người và trời có sự cảm ứng không
sai.
Lời chua
- Diễn Châu: Tên phủ. Xem thuộc Đường, Cao Tông, năm Điều Lộ thứ 1
(Tb. IV, 20).
Cửa Biện:
Ở địa phận huyện Ngọc Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Bây giờ vẫn là cửa Biện.
Quư Sửu,
năm thứ 4 (1013). (Tống, năm Đại Trung tường phù thứ 6).
Tháng 2
mùa xuân. Đặt thể lệ thuế khóa.
1) Thuế
đầm, ao, ruộng đất; 2) Thuế tiền băi dâu; 3) Thuế sản vật ở núi rừng;
4) Thuế mắm muối dưới sự kiểm soát của các nơi quan ải; 5) Thuế sừng
tê, ngà voi và hương liệu ở nơi thổ mán; 6) Thuế gỗ lạt, hoa quả ở
miền núi. Thảy đều đặt rơ lệ ngạch để đánh thuế. Cho các vương, hầu
và công chúa được quản lĩnh các thuế có từng thứ bậc khác nhau.
Tháng 6,
mùa hạ. Lập con là Bồ làm Khai Quốc vương.
Tháng 10,
mùa đông. Châu mục Vị Long là Hà Trắc Tuấn làm phản. Nhà vua tự cầm
quân đi đánh, Trắc Tuấn chạy trốn.
Trước đó,
người Mán đến châu Vị Long đổi chác, mua bán; nhà vua sai người đến
bắt, tước được hơn một vạn con ngựa. Đến đây, Trắc Tuấn làm phản,
lại ngả theo người Mán. Nhà vua thân đi đánh: Trắc Tuấn sợ, chạy
trốn.
Bấy giờ
tàu ngựa của vua có một con ngựa, hễ ngự giá sắp đi đâu th́ nó thể
nào cũng hí lên. Nhà vua đặt tên cho là Bạch Long thần mă.
Lời chua - Vị Long: Tên
châu. Nhà Đinh, nhà Lê gọi là Vị Long; nhà Lư, nhà Trần vẫn theo tên
như thế. Khi thuộc Minh đổi là Đại Man. Về sau, nhà Lê vẫn để tên ấy.
Bây giờ là đất châu Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang.
Người Mán: Tức là mán Hạc
Thác. Xem năm Thuận Thiên, thứ 5 (Chb. II, 17). Theo Ngu Hành chí
của Phạm Thành Đại nhà Tống, đất Nam Chiếu liền với rợ Tây Nhung, có
sản nhiều ngựa; ngựa ở đây là giống tốt nhất của tây nam phiên. Sách
Vân đài loại ngữ của Lê Quư Đôn cũng chép: Về miền Nam Chiếu sản
nhiều ngựa tốt, nhân dân mua bán trao đổi với nhau lan tràn cả sang
xứ lân cận.
Giáp Dần, năm thứ 5
(1014). (Tống, năm Đại Trung tường phù thứ 7).
Tháng giêng, mùa xuân.
Quân Mán vào cướp. Nhà vua sai Dực Thánh vương đi đánh, phá được
giặc.
Tướng mán Hạc Thác là
Dương Trường Huệ và Đoàn Kính Chí đem 20 vạn người vào cướp, đóng ở
bến Kim Hoa, cắm dinh dàn đồn, gọi là trại Ngũ Hoa. Châu mục B́nh
Lâm là Hoàng Ân Vinh tâu việc ấy về triều. Nhà vua sai Dực Thánh
vương (không rơ tên) đi đánh, phá được giặc, chém hàng vạn thủ cấp,
bắt được quân và ngựa của địch, rồi rút về. Nhà vua sai bọn viên
ngoại lang Phùng Chân đem một trăm con trong số ngựa đă bắt được ấy
đưa biếu nhà Tống. Vua Tống hậu đăi họ, ban cho họ mũ, đai, đồ dùng
và lụa có từng thứ bậc khác nhau.
Lời cẩn án - Sử cũ ở đây
chỉ chép là "người Mán" chứ không nói rơ là Mán nào. Nay theo sách
An Nam chí của Cao Hùng Trưng, chép là mán Hạc Thác . Lời chua - Hạc
Thác: Theo Minh sử , Nam Chiếu cũng có tên gọi nữa là Hạc Thác.
B́nh Lâm: Theo Độc sử
phương dư kỷ yếu của Cố Tổ Vũ, nhà Đường đặt châu B́nh Lâm, rồi lại
chia ra cho lệ thuộc vào các châu khác. Bây giờ là đất các huyện
Quảng Uyên tỉnh Cao Bằng.
Tháng 10, mùa đông. Đắp
thành đất ở Thăng Long.
Bốn bề xung quanh ngoài
kinh thành đều sai đắp thành đất cả.
Đổi phủ Ứng Thiên làm Nam
Kinh.
Lời chua - Phủ Ứng Thiên:
Thuộc tỉnh Hà Nội. Nhà Lư gọi là Ứng Thiên; khi thuộc Minh gọi là
Ứng B́nh; nhà Lê lại gọi là Ứng Thiên. Bây giờ là phủ Ứng Ḥa323 .
Ất Măo, năm thứ 6 (1015).
(Tống, năm Đại Trung tường phù thứ 8).
Tháng giêng, mùa xuân.
Đào Cam Mộc mất.
Cam Mộc có công giúp Thái
tổ lên ngôi, được phong tước hầu, đến đây mất, tặng phong thái sư.
Tháng 2. Hà Trắc Tuấn lại
làm phản. Nhà vua sai đi đánh giết được Trắc Tuấn.
Trắc Tuấn lại nổi lên làm
phản ở các châu Vị Long, Đô Kim, Thường Tân và B́nh Nguyên. Nhà vua
sai Dực thánh vương và Vũ Đức vương đi đánh, bắt được Trắc Tuấn điệu
về kinh đô, chém đầu, bêu ở chợ Cửa Đông.
Lời chua - Đô Kim: theo
Đường thư Địa lư chí , nhà Đường đặt châu Đô Kim, rồi lại chia ra,
cho lệ thuộc vào các châu khác. Bây giờ là đất tổng Đô Kim, huyện
Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang.
B́nh Nguyên: Từ khi thuộc
Minh trở về trước gọi là châu B́nh Nguyên. Nhà Lê ban đầu vẫn để tên
cũ, rồi đổi là Vị Xuyên. Bây giờ là châu Vị Xuyên, tỉnh Tuyên Quang.
Châu Thường Tân: Không
khảo được.
Bính Th́n, năm thứ 7
(1016). (Tống, năm Đại Trung tường phù thứ 9). Tháng 3, mùa xuân.
Lại lập ba hoàng hậu.
Ba hoàng hậu là: Tá quốc,
Lập nguyên và Lập giáo.
Lời cẩn án - Sử cũ chép
Lư Thái Tổ trước đây đă lập sáu hoàng hậu. Lập Giáo hoàng hậu đứng
đầu: đồ mặc và xe đi đều khác với các hoàng hậu kia. Đến đây lại
chép lập ba hoàng hậu, mà Lập Giáo th́ ở sau cùng. Điều này Sử cũ
chắc có lầm lẫn; nhưng hăy cứ chép lại đó, sẽ khảo sau. Động đất.
Sứ nhà Tống sang.
Gia phong nhà vua làm Nam
B́nh vương.
Đâu đấy được mùa cả.
Tha tô thuế 3 năm cho cả
nước.
Đinh Tị, năm thứ 8
(1017). (Tống, năm Thiên Hi thứ 1).
Tháng 3, mùa xuân. Điện
Kiền Nguyên bị sét đánh.
V́ điện Kiền Nguyên bị
sét đánh, nhà vua coi chầu ở điện phía đông.
Lời chua - Điện phía đông:
Tức điện Tập Hiền.
Mậu Ngọ, năm thứ 9
(1018). (Tống, năm Thiên Hi thứ 2).
Tháng 2, mùa xuân. Mới
truy tôn và đặt tên thuỵ cho bà của nhà vua.
Lời phê - Gốc tích họ Lư
lờ mờ không khảo được, c̣n làm thế nào được việc truy tôn? Nhưng ư
trời chung đúc cho th́ có khi người thường không thể lường biết được.
Lời cẩn án - Những đời trước của vua Lư Thái Tổ, thế thứ ra sao, tên
và hiệu là ǵ đều không rơ cả. Ở đây chép truy tôn bà mà không nói
đến ông. Ngô [Th́] Sĩ bảo "bà"
đây là mẹ của thái hậu.
Đối với những điều không lấy ǵ làm bằng cứ được, xin hăy chép lại
để sẽ khảo sau. Tháng 6, mùa hạ. Sai sứ sang nhà Tống xin kinh Tam
tạng.
Sai viên ngoại lang
Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc Như sang nhà Tống dâng biểu xin kinh
Tam tạng; vua Tống ưng cho. Kịp khi sứ bộ quay về, nhà vua xuống
chiếu cho Phí Trí sang tỉnh Quảng Tây đón kinh về để kho ở Đại Hưng.
Lời chua - Kinh Tam Tạng:
Kinh Phật. Tam tạng của nhà chùa gồm có Kinh tạng, Luật tạng và Luận
tạng.
Tháng 10, mùa đông. Lập
con là Lực làm Đông Chinh vương.
Tha một nửa tô ruộng cho
cả nước.
Kỷ Mùi, năm thứ 10
(1019). (Tống, năm Thiên Hi thứ 3).
Tháng giêng, mùa xuân.
Dựng nhà thái miếu ở lăng Thiên Đức.
Lời cẩn án - Cổ giả lập
kinh đô phía trước là triều đ́nh, phía sau là đô thị1, bên tả là
miếu thờ tổ, bên hữu là nền tế xă. Tổ miếu sở dĩ ở bên tả quốc đô,
là cốt để hết ḷng tôn kính về việc tế lễ thờ cúng. Đời sau, như Hán,
Đường, Tống, nhà thái miếu đều dựng ở kinh đô, chứ chưa có đời nào
lập thái miếu ở chỗ lăng tẩm. Lư Thái Tổ được nước ta mười năm rồi
mà không thấy sử chép xây dựng nhà thái miếu ở kinh thành; đến đây,
mới thấy chép lập nhà thái miếu ở lăng Thiên Đức. Có lẽ v́ bấy giờ
những người bàn định lễ nghi chưa khảo kỹ được pháp chế đời xưa, hay
là Sử cũ bỏ sót không chép việc dựng thái miếu ở kinh đô, mà lại
nhận lầm tẩm miếu ở lăng Thiên Đức là thái miếu chăng? Nay hăy chép
lại đó để sẽ khảo sau. Lời chua - Thiên Đức: Tên phủ, Lư Thái Tổ năm
Thuận Thiên thứ 1 (1010) đặt châu Cổ Pháp lên làm phủ; bây giờ là
huyện Đông Ngàn325 . Sử của Ngô [Th́] Sĩ chua rằng các vua triều Lư
đưa về táng ở phủ Thiên Đức đều gọi là Thọ Lăng.
Độ dân trong nước làm
thày chùa.
Trước đó, độ dân ở kinh
đô; đến đây, lại độ dân trong cả nước, lập đàn giới ở chùa Vạn Thọ,
sai các tăng đồ đến thụ giới. Phát vàng đúc chuông lớn để ở các chùa
Hưng Thiên, Đại Giáo và Thắng Nghiêm.
Canh Thân, năm thứ 11
(1020). (Tống, năm Thiên Hi thứ 4).
Tháng 12 mùa đông. Sai
Khai Thiên vương Phật Mă đi đánh và phá được nước Chiêm Thành.
Nhà vua sai Khai Thiên
vương và Đào Thạc Phụ đem quân đi đánh Chiêm Thành ở trại Bố Chính,
tiến thẳng đến núi Long Tị, chém được tướng Chiêm là Bố Lệnh tại
trận; người Chiêm chết mất quá nửa.
Lời chua - Chiêm Thành:
Tức nước Lâm Ấp. Xem thuộc Tấn, Mục đế, năm Vĩnh Ḥa thứ 9 (Tb. III,
20-21).
Bố Chính: Xem Lư Thánh
Tông, năm Thần Vũ thứ 1 (Chb. III, 29).
Long Tị: Ở địa phận xă
Thuần Chất, huyện B́nh Chính, tỉnh Quảng B́nh. H́nh thế núi này nhô
lên như ṿi rồng, nên gọi là "Long Tị".
Điện phía đông bị sét
đánh.
V́ điện phía đông bị sét
đánh, nhà vua coi chầu ở điện phía tây. Lại dựng lên ba ngôi điện:
điện ở đằng trước dùng làm nơi để coi chầu, hai điện ở đằng sau dùng
để làm việc chính trị.
Lời chua - Điện phía tây:
Tức là điện Giảng Vũ.
Điện phía đông: Xem năm
Thuận Thiên thứ 8 (Chb. II, 19).
Tân Dậu, năm thứ 12
(1021).
(Tống,
năm Thiên Hi thứ 5).
Tháng 2,
mùa xân. Ngày tiết Thiên Thành, thết yến tiệc các bầy tôi.
Đặt ngày
sinh nhật nhà vua làm tiết Thiên Thành. Ngoài cửa Quảng Phúc kết
trúc làm núi, gọi là Vạn Thọ nam sơn; trên núi làm nhiều h́nh trạng
chim bay, thú chạy, lắm vẻ ly kỳ. Nhân đó ban yến cho bầy tôi để mua
vui.
Lời chua
- Cửa Quảng Phúc: Cửa Tây kinh thành Thăng Long.
Nhâm Tuất,
năm thứ 13 (1022). (Tống, năm Kiền Hưng thứ 1).
Tháng 2,
mùa xuân. Bỏ việc kết trúc làm núi giả.
Nhà vua
thấy việc kết trúc làm núi, nhọc sức nhân dân nên băi bỏ. Ngày tiết
Thiên Thành chỉ đặt tiệc thôi.
Sai Dực
Thánh vương đi đánh và phá được mán Đại Nguyên Lịch.
Mán Đại
Nguyên Lịch khuấy nhiễu nơi biên giới, nhà vua sai Dực Thánh vương
đi đánh, phá được giặc. Quan quân ta vượt bờ cơi, tràn sang đất Tống,
đến trại Như Hồng, thiêu đốt kho đụn ở đấy rồi rút về.
Lời chua
- Đại Nguyên Lịch: Sử cũ chua là tên một dân tộc Mán, ở khoảng giữa
trại Như Hồng và trấn Triều Dương. Theo sách Khâm Châu chí nhà Thanh,
trại Như Hồng ở về phía tây Khâm Châu, giáp giới với trấn Như Tích,
cách châu Vĩnh An thuộc Giao Chỉ 20 dặm.
Quư Hợi,
năm thứ 14 (1023). (Tống, Nhân Tông, năm Thiên Thánh thứ 1).
Tháng 9,
mùa thu. Đổi trấn Triều Dương làm châu Vĩnh An.
Lời chua
- Triều Dương: Xưa là bộ Ninh Hải; nhà Đinh, nhà Lê gọi là trấn
Triều Dương; nhà Lư đổi làm châu Vĩnh An; nhà Trần đổi làm lộ Hải
Đông; khi thuộc Minh gọi là châu Tĩnh An; nhà Lê cho lệ thuộc vào An
Bang. Bây giờ là đất các châu Tiên Yên và Vạn Ninh, tỉnh Quảng Yên.
Giáp Tư,
năm thứ 15 (1024). (Tống, năm Thiên Thánh thứ 2).
Mùa xuân.
Xuống chiếu sai Khai Thiên vương Phật Mă đi đánh Phong Châu. Khai
Quốc vương đi đánh châu Đô Kim.
Lời chua
- Phong Châu: Xem Hùng Vương (Tb. I, 1-2).
Đô Kim:
Xem năm Thuận Thiên thứ 6 (Chb. II, 18).
Sửa sang
kinh thành Thăng Long.
Thành
Thăng Long khởi đắp từ năm Thuận Thiên thứ 1 (1010) đến đây sửa lại.
Tháng 9,
mùa thu. Dựng chùa Chân Giáo.
Làm chùa
Chân Giáo ở trong thành, sai thày chùa tụng kinh, nhà vua ngự đến
văn cảnh.
Lời bàn
của Ngô [Th́] Sĩ - Lư Thái Tổ xây dựng chùa này và sai tụng kinh ở
đây; Lư Huệ Tông xuất gia đi tu cũng ở chùa này. Sách Tả truyện có
câu rằng: "Quân dĩ thử thủy, diệc dĩ thử chung", nghĩa là lúc bắt
đầu xuất phát từ việc ǵ, th́ lúc cuối cùng lại kết quả bằng việc ấy.
Câu này thật đáng tin lắm. Ất Sửu, năm thứ 16 (1025). (Tống, năm
Thiên Thánh thứ 3).
Tháng 8,
mùa thu. Định danh hiệu binh làm giáp, đổi chức hỏa đầu làm chánh
thủ.
Mỗi giáp
15 người, dùng một người làm quản giáp. Lại đặt các sắc mục quản
giáp. Con hát cũng gọi là quản giáp.
Lời chua
- Hỏa Đầu: Sách Kiến văn lục của Lê Quư Đôn chép rằng: Hỏa đầu cũng
như đội trưởng đời Lê. Không rơ đặt ra từ đời nào.
Bính Dần,
năm thứ 17 (1026). (Tống, năm Thiên Thánh thứ 4).
Tháng
giêng, mùa xuân. Sửa Ngọc Điệp .
Tháng 11,
mùa đông. Xuống chiếu cho Khai Thiên vương Phật Mă đi đánh Diễn Châu.
Đinh Măo,
năm thứ 18 (1027). (Tống, năm Thiên Thánh thứ 5).
Tháng 6,
mùa hạ. Hạn hán.
Tháng 8,
mùa thu. Xuống chiếu cho Khai Thiên vương Phật Mă đi đánh châu Thất
Nguyên, Đông Chinh vương Lực đi đánh Văn Châu.
Lời chua
- Châu Thất Nguyên: Thuộc tỉnh Lạng Sơn. Nhà Lư gọi là Thất Nguyên;
nhà Lê gọi là Thất Tuyền. Nay là huyện Thất Khê.
Văn Châu:
Thuộc tỉnh Lạng Sơn. Nhà Lư gọi là Văn Châu; khi thuộc Minh gọi là
châu Thượng Văn và châu Hạ Văn; nhà Lê gọi là châu Văn Uyên. Nay vẫn
là châu Văn Uyên.
Mậu Th́n,
năm thứ 19 (1028): (Từ tháng 3 trở đi là niên hiệu của Lư Thái Tông
hoàng đế năm Thiên Thành thứ 1). (Tống, năm Thiên Thánh thứ 6).
Mồng 1,
tháng 3, mùa xuân. Nhật thực.
Lư Thái
Tổ mất.
Nhà vua ở
ngôi 19 năm, thọ 55 tuổi.
Đông
Chinh vương Lực cùng Dực Thánh vương và Vũ Đức vương làm loạn. Bọn
nội thị Viên ngoại lang là Lư Nhân Nghĩa và Vũ vệ tướng quân là Lê
Phụng Hiểu đánh dẹp được yên: Vũ Đức vương phải chịu giết chết.
Khi Lư
Thái Tổ mới mất, bầy tôi đều đến cung Long Đức đón Thái tử Phật Mă,
vâng theo lời di chếu, lên ngôi. Hay tin ấy, Đông Chinh vương Lực
cùng Dực Thánh vương và Vũ Đức vương đều kéo quân của phủ ḿnh vào
Cấm Thành. Đông Chinh vương Lực phục quân ở phía trong Long Thành,
Dực Thánh vương và Vũ Đức vương phục quân ở phía trong cửa Quảng
Phúc, đợi Thái tử đến th́ đổ ra tập kích. Một lát, Thái tử từ cửa
Tường Phù vào, đến điện Kiền Nguyên, thấy động, cho đóng các cửa
điện lại, sai các vệ sĩ bố trí pḥng bị. Thái tử bảo những người ở
bên ḿnh rằng: "Ta đây ở với anh em không phụ ai một tí nào, thế mà
bây giờ các vương ấy làm sự bất nghĩa để nguy hại đến xă tắc! Vậy ư
các khanh nghĩ sao?". Lư Nhân Nghĩa thưa: "T́nh nghĩa anh em là ở
chỗ trong có thể hiệp mưu với nhau, ngoài có thể cùng nhau chống kẻ
khinh thường nhà ḿnh. Nay các vương ấy như thế th́ c̣n gọi là anh
em được nữa không? Tôi xin được phép ra đánh một trận để quyết định
sự được thua". Thái tử nói: "Tiên đế mới nằm xuống, chưa kịp táng;
mà bây giờ anh em ruột thịt hại lẫn nhau, để thiên hạ và đời sau chê
cười th́ sao?". Nhân Nghĩa thưa lại rằng: "Tôi nghe nói, người lo
việc xa th́ phải bỏ sự gần, kẻ giữ đạo công th́ phải cắt đứt t́nh
riêng. Xưa kia Chu Công giết Quản, Thái để yên nhà Chu; Đường Thái
Tông giết Kiến Thành và Nguyên Cát để giữ vững nhà Đường. Nay điện
hạ nếu làm được như Chu Công và Đường Thái Tông ngày trước để yên xă
tắc, th́ người ta khen ngợi c̣n không ngớt, chứ c̣n chê cười nỗi ǵ?".
Thái tử hăy c̣n chần chừ chưa quyết định, Nhân Nghĩa lại nói thêm: "Tiên
đế thấy điện hạ là người hiền có thể nối được chí, tài có thể làm
nên được việc lớn, cho nên phó thác thiên hạ cho điện hạ, nay giặc
đă đến sát cửa cung, mà điện hạ c̣n trùng tŕnh lặng thinh hồi lâu
rồi nói: "Ta đây không phải không nghĩ đến thế đâu, nhưng chỉ muốn
cho các vương ấy tự ư rút lui, khỏi lộ tội lỗi, để cho vẹn toàn ân
t́nh máu mủ anh em đó thôi".
Bấy giờ
quân ba phủ các vương hành động đă gấp rút. Thái tử liệu thế không
thể ḱm lại được nữa, mới bảo bọn Nhân Nghĩa: "Bây giờ sự thể đă đến
thế này, ta đây chỉ biết thờ phụng Tiên đế, c̣n ngoài ra phó mặc các
khanh, ta không biết đến". Bọn Nhân Nghĩa lạy hai lạy, nói: "Chết v́
hoạn nạn của vua, là phận sự của chúng tôi; ngày nay nếu được chết
cũng là chết đúng chỗ".
Nói đoạn,
liền mở cửa thành, kéo ra đánh, ai nấy hăng hái sẵn sàng hy sinh:
một người có thể địch được trăm người. Lê Phụng Hiểu tuốt gươm thẳng
xông đến cửa Quảng Phúc, hô to lên rằng: "Bọn Vũ Đức vương trong
bụng ngấm ngầm làm điều phản trắc, trên quên ơn Tiên đế, dưới trái
nghĩa tôi con; Phụng Hiểu đây xin dâng lưỡi gươm này". Đoạn, xông
thẳng đến bên ngựa Vũ Đức vương: ngựa bị đánh quỵ, bắt sống được Vũ
Đức vương, giết chết tại trận. Quân của ba vương phủ thua chạy. Quan
quân đuổi chém hầu không c̣n sót một mống nào. Riêng Đông Chinh
vương và Dực Thánh vương chạy được thoát thân thôi.
Phụng
Hiểu quay về báo tin với Thái tử. Thái tử yên ủi rằng: "Ta sở dĩ
gánh vác được cơ nghiệp của Tiên đế, là nhờ sức của các khanh đấy.
Ta xem sử nhà Đường thấy có Uất Tŕ Kính Đức giúp vua qua cơn hoạn
nạn, vẫn nghĩ bụng rằng người làm tôi đời sau không c̣n ai sánh bằng.
Thế mà Phụng Hiểu ngày nay lại c̣n trung dũng hơn Uất Tŕ Kính Đức".
Phụng Hiểu lạy hai lạy, nói: "Đức độ điện hạ cảm động được đến trời
đất, hễ kẻ nào dám manh tâm toan tính ǵ khác th́ các vị thần linh
trong thiên hạ đều làm hết chức phận mà tru diệt đi, chứ như lũ tôi
nào có công ǵ!".
Lời phê -
Lúc nối ngôi vua mà gặp chỗ phải đối xử với anh em ruột thịt khó
khăn như thế này, thật rất rầy rà! Bấy giờ danh vị của thái tử đă
được ổn định từ lâu, mà công đức thái tử trước đây vốn đă rơ rệt,
vậy mà c̣n xảy ra biến loạn đến như thế; huống chi những đám khác ư?
Lời b́nh luận của Sử cũ chỉ là câu nệ ở việc phong vương mà không
xét kỹ.
Lời chua - Phụng Hiểu:
Người làng Băng Sơn, thuộc Ái Châu, có sức khỏe; Lư Thái Tổ nghe
tiếng vời ra làm tướng, thăng đến Vũ Vệ tướng quân: đến đây v́ có
công dẹp loạn, được phong Đô thống thượng tướng quân, tước hầu. Làng
Băng Sơn bây giờ là xă Dương Sơn thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh
Hóa.
Cung Long Đức: Ở ngoài
kinh thành Thăng Long, dựng lên từ năm Thuận Thiên thứ 3 (1012).
Cửa Quảng Phúc1: Xem năm
Thuận Thiên thứ 12 (Chb. II, 23).
Cửa Tường Phù: Cửa Đông
Kinh thành Thăng Long.
Thái tử Phật Mă lên ngôi.
Đổi niên hiệu. Đại xá.
Ngày Mậu Tuất, Lư Thái Tổ
mất; ngày Kỷ Hợi, Thái tử Phật Mă lên ngôi, bầy tôi dâng tôn hiệu:
Khai Thiên thống vận tôn đạo quư đức thánh văn quảng vũ sùng nhân
thượng thiện chính lư dân an thần phù long hiện thể nguyên ngự cực
ức tải công cao ứng chân bảo lịch thông huyền chí ảo hưng long đại
định thông minh từ hiếu hoàng đế (tức là Lư Thái Tông).
Tôn mẹ là Lê thị là Linh
Hiển hoàng thái hậu.
Tha tội cho Đông Chinh
vương và Dực Thánh vương, lại cho khai phục vương tước.
Hai vương đến cửa cung
khuyết xin chịu tội.
Nhà vua
xuống chiếu tha cho.
Ban tiền
và lụa cho thiên hạ.
Nhà vua
v́ mới lên ngôi, muốn ra ơn cho thiên hạ, nên xuống chiếu ban phát
tiền và lụa trong kho Nội phủ cho trong nước.
Hội họp
bầy tôi tuyên thệ ở miếu thần Đồng Cổ.
Trước đây,
các vương âm mưu làm loạn, triều đ́nh không ai biết cả, nhà vua đêm
chiêm bao thấy thần núi Đồng Cổ báo mộng rằng: Các vương Vũ Đức Đông
Chinh và Dực Thánh nổi loạn đấ, nên kíp điều khiển quân lính để đánh
dẹp! Lúc tỉnh dậy, nhà vua sai người bố trí pḥng bị; quả đúng như
thế. Đến đây, xuống chiếu lập miếu thờ Đồng Cổ ở bên hữu thành Thăng
Long, xây đàn ở giữa miếu, hội họp bầy tôi, giết con sinh vật, cùng
nhau uống máu ăn thề, tuyên thệ rằng: "Làm con mà bất hiếu, làm tôi
mà bất trung, th́ Thần linh chu diệt" . Từ đấy về sau, năm nào cũng
đặt làm lệ thường. Người nào lẩn tránh không đến dự lễ tuyên thệ th́
phải phạt 50 trượng.
Lời phê - Đế vương đă có
mạng trời xếp đặt, bách thần cũng phải đem hết anh linh ra giúp đỡ.
Việc biến loạn ở triều Lư, nếu bảo rằng Thái tử nhân chiêm bao mà
biết trước, th́ sao khi đă vào đến cung điện mới nghe biết tin biến
động. Vậy việc lập miếu thờ đă là bậy rồi, đến việc hội họp thề
nguyền lại càng hỏng nữa! Lời chua - Núi Đồng Cổ: Xem Lê Đại Hành,
năm Thiên Phúc thứ 4 (Chb. I, 20).
Miếu thần Đồng Cổ: Ở thôn
Đông, phường Yên Thái341 , huyện Vĩnh Thuận, bây giờ vẫn c̣n.
Khai Quốc vương Bồ làm
phản. Tháng 4, mùa hạ nhà vua thân đi đánh: Khai Quốc vương ra hàng.
Trước đây, Bồ ở phủ
Trường Yên, cậy đó là nơi hiểm trở kiên cố, chiêu nạp những kẻ vong
mạng, đi cướp bóc dân; người xung quanh không ai dám nói ǵ cả. Kịp
khi Vũ Đức vương đă bị giết. Bồ có ư bất b́nh, mới đem quân trong
phủ ḿnh nổi dậy làm phản. Nhà vua giao Lư Nhân Nghĩa giữ kinh đô,
ra nối ngôi. Chế độ như thế không rơ dụng ư thế nào, nhưng danh vị
của ngôi hoàng tử không định rơ từ trước, đến lúc vội vàng mới chọn
người nối ngôi, th́ khó có thể giữ cho khỏi xảy biến loạn (Toàn thư
quyển 3, tờ 13). Tự cầm quân đi đánh. Khi quân kéo đến phủ Trường
Yên, Bồ xin hàng, nhà vua ưng thuận, ra lệnh: "Hễ kẻ nào cướp bóc
của nả của dân th́ chém!". Quân sĩ răm rắp nghiêm giữ kỷ luật, không
dám tơ hào của dân. Khi vào trong thành, dân chúng ganh nhau dâng ḅ,
biếu rượu; nhà vua vỗ về yên ủi, dân rất hả hê. Rồi rút quân về,
xuống chiếu đổi bọn Bồ và liêu thuộc của hắn về kinh thành Thăng
Long.
Nhà vua từ Trường Yên về
triều, tha tội cho Khai Quốc vương Bồ và cho khai phục lại vương
tước.
Tháng 5. Lập con là Nhật
Tôn làm Thái tử.
Bầy tôi xin với nhà vua
rằng: Thái tử là căn bản của nước, nên sớm lập người con có thánh
đức chính vị đông cung để yên ḷng mong muốn của thiên hạ. Nhà vua
theo lời, lập Nhật Tôn làm Thái tử.
Lập bảy hoàng hậu.
Cho những thân phụ các
Hoàng hậu là bọn Mai Hựu, Vương Đỗ, Đinh Ngô Thượng làm Thượng tướng
.
Thân phụ bà Mai hậu là
Hựu làm An quốc thượng tướng; thân phụ bà Vương hậu là Đỗ làm Phụ
quốc thượng tướng, thân phụ bà Đinh hậu là Ngô Thượng làm Khuông
quốc thượng tướng.
Lời chua - Mai Hựu, Vương
Đỗ, Đinh Ngô Thượng: Đều không rơ lư lịch ra sao.
Dùng Đàm Toái Trạng làm
Đô thống, Nguyễn Khánh làm Định thắng đại tướng.
Đặt mười vệ cấm quân.
Một là vệ Quảng Thánh,
hai là vệ Quảng Vũ, ba là vệ Ngự Long, bốn là vệ Phủng Nhật, năm là
vệ Trừng Hải: mỗi vệ đều chia ra tả và hữu, để bảo vệ cấm thành.
Tháng 6. Gặp tiết Thiên
Thánh, ban yến cho bầy tôi.
Đặt ngày sinh nhật nhà
vua làm tiết Thiên Thánh. Kết trúc làm núi Vạn Thọ nam sơn, núi có 5
ngọn: ngọn giữa gọi là núi Trường Thọ, c̣n 4 ngọn bên gọi là núi
Bạch Hạc, làm nhiều h́nh trạng chim bay muông chạy. Sườn núi cắm đầy
cờ xí, treo xen vàng ngọc; cho phường chèo đến trong núi, thổi kèn,
thổi sáo, múa hát để mua vui. Ban yến cho bầy tôi. Lối chơi núi 5
ngọn bắt đầu từ đấy.
Lời phê - Chưa an táng
cha, c̣n đang có trở đă vội yến tiệc vui chơi như thế, thật thất lễ
quá! Tháng 10, mùa đông. An táng Lư Thái Tổ ở Thọ lăng, phủ Thiên
Đức.
Đặt tên Thụy là Thần Vũ
hoàng đế, miếu hiệu là Thái Tổ (1010-1028).
Năm Kỷ Tị (1029). Lư
Thánh Tông hoàng đế năm Thiên Thánh thứ 2. (Tống, năm Thiên Thánh
thứ 7).
Tháng 2, mùa xuân. Làm
xong miếu thờ Lư Thái Tổ.
Tháng 3. Gả công chúa
B́nh Dương cho Châu mục Lạng châu là Thân Thiệu Thái.
Thời bấy giờ không đặt
tiết trấn; các việc quân sự và dân sự ở các châu đều do châu mục coi
quản. Các châu miền thượng du lại giao cho bọn tù trưởng địa phương
quản lĩnh. Nhà vua sợ khó khống chế được họ, nên mới kết mốt giao
hảo bằng cuộc hôn nhân để ràng buộc họ. Lại gả công chúa Kim Thành
cho châu mục Phong Châu là Lê Tông Thuận, và gả công chúa Trường
Ninh cho châu mục Thượng Oai là Hà Thiện Lăm. Từ đó việc gả công
chúa cho châu mục trở thành lệ thường của nhà Lư.
Lời chua - Lạng Châu: Xem
Đinh Toàn, năm Thái B́nh thứ 11 (Chb.
I, 14).
Phong
Châu: Xem Hùng Vương (Tb. I, 1-2).
Châu
Thượng Oai: Không khảo được.
Giáp Đăn
Năi thuộc Ái Châu nổi loạn. Tháng 4, mùa hạ, nhà vua thân đi đánh,
dẹp yên được.
Nhà vua sai Thái tử coi
việc nước, tự cầm quân đi đánh, phá tan được giáp Đăn Năi. Rồi sai
Trung sứ đôn đốc nhân dân trong giáp ấy đào sông, gọi là sông Đăn
Năi, nhà vua kéo quân về.
Lời chua - Ái Châu: Tức
Thanh Hoá. Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chb. XXI,
20-21).
Đăn Năi: Tên một giáp,
không rơ nay ở đâu.
Tháng 6.
Dựng điện Thiên An.
Bấy giờ
điện Kiền Nguyên đă bỏ, bỗng có con rồng hiện ở nền điện; nhà vua
bảo những người ở xung quanh rằng: "Nền điện đă bỏ mà nay có rồng
hiện, ư chừng đất ấy là nơi quư địa dựng lên cơ nghiệp đế vương
chăng?". Rồi sai ở chổ đó dựng điện Thiên An, hai bên tả hữu làm
điện Tuyên Đức và điện Diên Phúc. Sân đằng trước gọi là sân rồng;
phía đông và phía tây sân rồng làm điện Văn Minh và điện Quảng Vũ;
hai bên tả hữu sân rồng dựng gác chuông; bốn xung quanh sân rồng đều
làm hành lang và giải vũ. Phía trước làm điện Phụng Tiên, trên điện
có lầu Chính Dương, người giữ thẻ đồng hồ và báo canh, báo khắc ở
tại đó. Phía sau làm điện Trường Xuân, trên điện có gác Long Đồ.
Ngoài đó đắp một lần thành bao xung quanh gọi là Long Thành.
Lời phê -
Bậy (Kô hiểu từ này ư nói ǵ đây ???) . Mồng 1, tháng 10, mùa đông.
Trời mưa ra gạo.
Trước
chùa Vạn Tuế, mưa xuống thành đống gạo trắng.
Lời chua
- Chùa Vạn Tuế: Ở trong thành Thăng Long.
Sứ nhà
Tống sang.
Sứ Tống
là Chương Dĩnh sang làm lễ tế viếng Lư Thái Tổ, sách phong nhà vua (Lư
Thái Tông) làm Giao Chỉ quận vương.
Canh Ngọ,
năm thứ 3 (1030). (Tống, năm Thiên Thánh thứ 8).
Tháng 2,
mùa xuân. Dựng điện Thiên Khánh.
Dựng điện
Thiên Khánh ở phía trước điện Trường Xuân làm nơi làm việc chính trị.
Điện này làm kiểu bát giác; phía trước và phía sau điện đều bắc cầu,
gọi là cầu Phượng Hoàng.
Tháng 4,
mùa hạ. Sai sứ sang nhà Tống.
Nhà vua sai đại liêu ban
là Lê Ốc Thuyên và Viên ngoại lang là Nguyễn Viết Thân đem sản vật
địa phương sang biếu nhà Tống.
Lời chua - Đại liêu ban:
Sử của Ngô [Th́] Sĩ chua là tên một tước phong.
Đặt ra các kiểu áo mũ
tước công, tước hầu, quan văn, quan vơ.
Tháng 10, mùa đông. Đâu
đấy được mùa cả.
Nhà vua đi thăm đồng Ô Lộ,
xem xét việc gặt, nhân đó đổi tên xứ đồng ấy là Vĩnh Hưng.
Lời chua - Ô Lộ, Vĩnh
Hưng: Chưa rơ đích xác ở đâu, nhưng xét huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên,
có tổng Vĩnh Hưng, có lẽ là đấy chăng.
Tân Mùi, năm thứ 4
(1031). (Tống, năm Thiên Thánh thứ 9).
Tháng giêng, mùa xuân.
Người Hoan Châu làm phản. Tháng 2, nhà vua thân đi đánh và hàng phục
được họ.
Giao cho Thái tử trông
coi việc nước, nhà vua tự làm tướng đi đánh. Quân kéo đến Hoan Châu:
người Hoan Châu xin hàng. Ban chiếu tha tội cho các viên thú mục ở
châu ấy, sai sứ đi vỗ về hiểu dụ nhân dân, rồi trở về.
Lời chua - Hoan Châu: Tức
Nghệ An. Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chb. XXI,
21-23).
Tháng 8, mùa thu. Các đền,
chùa làm xong. Đại xá.
Trước đó, nhà vua từ Hoan
Châu về, sai làm chín trăm năm mươi cảnh chùa và đền. Đến đây làm
xong, mở hội chùa. Đại xá cho cả nước.
Tháng 10, mùa đông. Cho
các đạo sĩ nhận kư lục ở cung Thái Thanh.
Đó là theo lời đạo sĩ
Trịnh Trí Không.
Lời chua
- Cung Thái Thanh: Ở trong thành Thăng Long.
Nhâm Thân, năm thứ 5
(1032). (Tống, năm Minh Đạo thứ 1).
Tháng 4, mùa hạ. Nhà vua
chính ḿnh đi cày ruộng tịch điền.
Nhà vua đi Đỗ Động Giang,
cày ruộng tịch điền. Có người nông dân dâng lúa có điềm lạ: một ṛ
được chín bông. Nhà vua hạ chiếu đổi gọi ruộng ấy là Ứng Thiên.
Lời chú - Đỗ Động Giang:
Xem ngang với Tống, Thái Tổ, năm Kiến Đức thứ 4 (Tb. V, 29). Tháng
9, mùa thu. Nhà vua đi Lạng châu xem bắt voi.
Lời chua - Lạng Châu: Xem
Đinh Toàn, năm Thái B́nh thứ 11 (Chb. I, 14).
Tháng 11, mùa đông.
Ban yến cho bầy tôi ở điện Thiên An.
Quư Dậu, năm thứ 6
(1033). (Tống, năm Minh Đạo thứ 2).
Tháng giêng, mùa xuân.
Nước Chân Lạp sai sứ đến triều cống.
Lời chua - Chân Lạp: Xem
thuộc Đường, Tuyên tông, năm Thái Trung thứ 12 (Tb. IV, 39).
Châu Định Nguyên làm phản.
Tháng 2, nhà vua thân đi đánh dẹp yên.
Nhà vua giao cho thái tử
trông coi việc nước, tự làm tướng đi đánh, dẹp yên được châu Định
Nguyên, rồi kéo quân về. Lúc mới ra quân từ kinh đô, đóng ở châu
Chân Đăng, có Đào thị đem con gái ḿnh dâng tiến, nhà vua nhận lấy
làm cung phi.
Lời bàn của Ngô [Th́] Sĩ
- Đem quân đi, đem gái về, binh uy vũ lực như thế thành ra nhảm nhí!
Lời chua - Châu Chân Đăng: Thuộc tỉnh Sơn Tây, tức là phủ Lâm Thao
bây giờ.
Châu Định Nguyên: không
khảo được.
Tháng 7, mùa thu. Sai sứ
đi t́m ngọc trai.
Châu mục châu Vĩnh An là
Sư Dụng Ḥa nói ở châu ấy có vực sản ngọc trai; nhà vua sai sứ giả
kiếm và lấy được.
Lời chua - Vĩnh Yên: Tức
là trấn Triều Dương. Xem Lư Thái Tổ, năm Thuận Thiên thứ 14 (Chb.
II, 23-24).
Vực sản ngọc trai: Theo
Minh Nhất thống chí , trong biển thuộc châu Vĩnh An ở An Nam sản
ngọc trai. Những người lái buôn ngoài biển nói rằng hễ năm nào trăng
rằm tháng tám mà sáng tỏ th́ năm ấy nhiều ngọc trai.
Tháng 8. Lập thái tử Nhật
Tôn làm Khai Hoàng vương.
Tháng 9. Châu Trệ Nguyên
làm phản. Tháng 10, mùa đông nhà vua thân đi đánh, dẹp yên.
Nhà vua giao cho Khai
Hoàng vương trông coi việc nước, tự làm tướng đi đánh, dẹp yên được
châu Trệ Nguyên rồi kéo quân về.
Lời chua - Châu Trệ
Nguyên: Bây giờ ở đâu, không khảo được.
Giáp Tuất, năm Thông Thụy
thứ 1 (1034). (Tống, năm Cảnh Hựu thứ 1).
Tháng 4, mùa hạ. Xuống
chiếu cho bầy tôi tâu việc phải gọi vua là "Triều đ́nh".
Phàm ai tâu việc ǵ ở
trước vua th́ phải gọi vua là "Triều đ́nh".
Lời bàn của Lê Văn Hưu -
Bầy tôi gọi vua là "Bệ hạ" lấy nghĩa rằng do người thấp đề đạt lên
người cao. Lư Thái Tông bắt bày tôi gọi là "Triều đ́nh", sau này, Lư
Thánh Tông tự xưng là "Vạn thặng" , Lư Cao Tông bắt người ta gọi
ḿnh là "Phật", đều không có phép tắc ở Kinh điển nào cả, thực lầm
lẫn quá! Tháng 8, mùa thu. Sai sứ sang nhà Tống.
Nhà vua sai Viên ngoại
lang là bọn Hà Thụ và Đỗ Khoan đem biếu nhà Tống con voi đă thuần
thục. Nhà Tống tặng bộ kinh Đại tạng để đáp lễ lại.
Bấy giờ có sư Nghiêm Bảo
Tính và sư Phạm Minh Tâm đều làm lễ thiêu ḿnh: xá lị thành thất bảo
. Nhà vua cho thế là điềm tốt lành, sai đem thất bảo ấy để thờ ở
chùa Trường Thánh; nhân đó đổi niên hiệu là Thông Thụy.
Lời phê - Lầm lỗi quá lắm!
Lời chua - Kinh Đại tạng: Xem Lê Long Đĩnh, năm Ứng Thiên thứ 14
(Chb. I, 43).
Ất Hợi, năm thứ 2 (1035).
(Tống, năm Cảnh Hựu thứ 2).
Tháng 7, mùa thu. Làm lễ
sách lập354 bà Thiên Cảm hoàng hậu.
Hoàng hậu này là người vợ
lẽ yêu của nhà vua, không rơ họ ǵ. Bấy giờ phong 13 người làm hậu
phi, 18 người làm ngự nữ, hơn 100 người làm ca nữ.
Lập con là Nhật Trung làm
Phụng Kiền vương.
Nhật Trung được phong
tước vương, c̣n các con khác đều phong tước hầu.
Tháng 9. Ái Châu làm phản.
Tháng 10, mùa đông, nhà vua thân đi đánh, dẹp yên.
Cho Phụng Kiền vương Nhật
Trung làm kinh sư lưu thủ, nhà vua tự làm tướng đi đánh, dẹp yên
được Ái Châu; trị tội các mục trưởng châu ấy, sai sứ phủ dụ nhân dân
rồi về.
Lời chua - Ái Châu: Tức
Thanh Hóa. Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chb. XI,
20-21).
Tháng 11. Nhà vua từ Ái
Châu về, đặt tiệc linh đ́nh khao các tướng sĩ.
Bọn tướng quân Nguyễn
Khánh mưu làm phản, đều bị giết.
Trước đó, Khánh cùng với
em nuôi là Đô thống Đàm Toái Trạng, nhà sư là họ Hồ và em vua là bọn
Thắng Kiền, Thái Phúc mưu làm phản. Kịp khi nhà vua đi đánh Ái Châu,
Khánh bấy giờ là Định thắng đại tướng cũng theo đi. Việc mưu phản bị
phát giác. Phụng Kiền vương Nhật Trung đem t́nh trạng việc ấy tâu
lên, nhà vua xuống chiếu bắt bọn Nguyễn Khánh, đóng cũi đưa về kinh
đô. Đến đây, nhà vua ngự ở điện Thiên Khánh, tra xét, bọn Nguyễn
Khánh, Toái Trạng và nhà sư họ Hồ đều bị giết, c̣n th́ xử phạt có
khác nhau thùy theo tội nặng hay nhẹ. Trước đây, nhà vua đi đến hành
doanh ở Ái Châu, mở tiệc khao tướng sĩ, Nguyễn Khánh có dự. Nhà vua
ngầm trỏ Nguyễn Khánh mà bảo các phi tần: "Nguyễn Khánh, trong ḷng
xao xuyến, trông thấy trẫm, y có vẻ thẹn, cử động thất thố, thế nào
y cũng làm phản đấy". Kịp khi có tin báo đế, các phi tần đều lạy hai
lạy mà tâu: "Thiếp nghe danh ngôn xưa có câu: "Bậc thánh nhân ngầm
thấy được việc từ lúc chưa bộc lộ, đoán trước được việc từ lúc chưa
nảy ra". Ngày nay chính mắt bọn thiếp được thấy rơ nghĩa câu nói ấy".
Bính Tí, năm thứ 3
(1036). (Tống, năm Cảnh Hựu thứ 3). Tháng giêng, mùa xuân. Tượng
Phật làm xong. Đại xá.
Pho tượng Phật Đại nguyện
đă tô xong, mở hội ăn mừng ở sân rồng; đại xá cho cả nước.
Tháng 4, mùa hạ. Đổi Hoan
Châu làm Nghệ An châu trại.
Nhà Tùy đặt là Hoan Châu;
nhà Đinh, nhà Lê vẫn theo như trước. Đến đây, v́ đặt hành doanh, nên
đổi tên như vậy. Lại đặt ra những kho như Tư Thành, Lợi Nhân và Vĩnh
Phong tất cả 50 sở.
Lời chua - Hoan Châu: Xem
Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chb. XXI, 21-23).
Đinh Sửu, năm thứ 4
(1037). (Tống, năm Cảnh Hựu thứ 4).
Tháng 2, mùa xuân. Nhà
vua thân đi đánh Lâm Tây, dẹp yên được. Tháng 3, trở về cung.
Trước đây, đạo Lâm Tây
cùng với các châu Đô Kim, Thường Tân và B́nh Nguyên làm phản, xâm
lấn châu Tư Lăng nhà Tống, cướp lấy trâu ngựa của dân sở tại đem về.
Đến đây, nhà vua sai Phụng Kiền vương Nhật Trung coi giữ kinh đô .
Hết |