Mục lục
DVSK Ngoại Kỷ Toàn Thư 01
: Kỷ Nhà Triệu ( 207 — 110 TCN )
DVSK Ngoại Kỷ Toàn Thư 02
: Kỷ Thuộc Hán ( 110 TCN — 226 )
DVSK Ngoại Kỷ Toàn Thư 03
: Thuộc Tấn - Tống - Tề - Lương. Lư Nam Đế ( 227 — 602 )
DVSK Ngoại Kỷ Toàn Thư
04:Thuộc Tuỳ-Đường.Nhà Ngô 603 — 967)
DVSK Bản Kỷ Toàn Thư
01 : Nhà Đinh. Nhà Tiền Lê ( 968 — 1009 )
DVSK Bản Kỷ Toàn Thư
02 : Nhà Lư ( 1009 — 1054 )
DVSK Bản Kỷ Toàn Thư 03
: Nhà Lư ( 1054 — 1138 )
DVSK Bản Kỷ Toàn Thư
04 : Nhà Lư ( 1138 — 1225 )
DVSK Bản Kỷ Toàn Thư 05:
Phần 1... Phần 2 Nhà Trần (1225 — 1293)
DVSK Bản Kỷ Toàn Thư
06 : Nhà Trần ( 1294 — 1329 )
DVSK Bản Kỷ Toàn Thư
07 : Nhà Trần ( 1330 — 1377 )
DVSK Bản Kỷ Toàn Thư
08 : Nhà Trần. Nhà Hồ ( 1378 — 1406 )
DVSK Bản Kỷ Toàn Thư
09 : Nhà Hậu Trần ( 1407 — 1417 )
DVSK Bản Kỷ Toàn Thư
10 : Phần 1 ... Phần 2 Khởi nghĩa Lam Sơn. Nhà Hậu Lê ( 1418 —
1433 )
DVSK Bản Kỷ Toàn Thư 1: Phần
1..Phần 2 Nhà Hậu Lê (1433 — 1459)
DVSK Bản Kỷ Thực Lục12: Phần
1..Phần 2 Nhà Hậu Lê (1460 — 1472)
DVSK Bản Kỷ Thực Lục
13 : Phần 1 ... Nhà Hậu Lê ( 1473 — 1497 )
DVSK Bản Kỷ Thực Lục
14 : Nhà Hậu Lê ( 1497 — 1509 )
DVSK Bản Kỷ Thực Lục
15 : Phần 1 ... Phần 2 Nhà Hậu Lê. Nhà Mạc ( 1509 — 1532 )
DVSK Bản Kỷ Thực Lục
16 : Nhà Hậu Lê. Nhà Mạc ( 1533 — 1572 )
DVSK Bản Kỷ Tục Biên
17 : Phần 1 ... Phần 2 Nhà Hậu Lê. Nhà Mạc ( 1573 — 1599 )
DVSK Bản Kỷ Tục Biên
18 : Vua Lê chúa Trịnh ( 1600 — 1662 )
DVSK Bản Kỷ Tục Biên
19 : Vua Lê chúa Trịnh ( 1663 — 1675 )
DVSK Bản Kỷ Tục Biên
20 : Vua Lê chúa Trịnh ( 1600 — 1619 )
DVSK Bản Kỷ Tục Biên
21 : Vua Lê chúa Trịnh ( 1620 — 1643 )
DVSK Bản Kỷ Tục Biên
22 : ( 1655 - 1656 )
DVSK Bản Kỷ Tục Biên
23 :
Đại Việt Sử Kư Toàn Thư
V
Quyển II
Nhà Triệu 38
Vũ Đế
Ở ngôi 71 năm [207 - 136
TCN], thọ 121 tuổi [256 - 136 TCN].
Họ Triệu, nhân lúc nhà
Tần suy loạn, giết trưởng lại Tần, chiếm giữ đất Lĩnh Nam, xưng đế,
đ̣i ngang với nhà Hán, hưởng nước truyền ngôi 100 năm mới mất, cũng
là bậc vua anh hùng.
Họ Triệu, tên húy là Đà,
người huyện Chân Định 39 nước Hán, đóng đô ở Phiên Ngung (nay ở tỉnh
Quảng Đông) 40 .
Giáp Ngọ, năm thứ 1 [207
TCN] , (Tần Nhị Thế năm thứ 3). Vua chiếm lấy đất Lâm Ấp 41 và Tượng
Quận, tự lập làm Nam Việt Vương.
Ất Mùi, năm thứ 2 [206
TCN] , (Tây Sở Bá Vương Hạng Tịch năm thứ 1; Hán Vương Lưu Bang năm
thứ I). Năm ấy nhà Tần mất.
[1b] Đinh Dậu, năm thứ 4
[204 TCN] , (Sở Hạng Tịch năm thứ 3; Hán Lưu Bang năm thứ 3). Mùa
đông, tháng 10, ngày 30, nhật thực. Tháng 11, ngày 30, nhật thực.
Mậu Tuất, năm thứ 5 [203
TCN] , (Sở Hạng Tịch năm thứ 4; Hán Lưu Bang năm thứ 4). Mùa thu,
tháng 7, sao Chổi mọc ở khu vực sao Đại Giác.
Kỷ Hợi, năm thứ 6 [202
TCN] , (Hán Cao Đế năm thứ 5). Mùa xuân, tháng 2, Hán Vương lên ngôi
hoàng đế. Năm ấy Tây Sở mất.
Quư Măo, năm thứ 10 [198
TCN], (Hán Cao Đế năm thứ 9). Vua sai hai sứ coi giữ hai quận Giao
Chỉ và Cửu Chân.
Ất Tỵ, năm thứ 12 [196
TCN], (Hán Cao Đế năm thứ 11) Nhà Hán đă định được thiên hạ, nghe
tin vua cũng đă xưng vương ở nước Việt, mới sai Lục Giả sang phong
vua làm Nam Việt Vương, trao cho ấn thao42 và con so bổ đôi43 ,
thông sứ với nhau, bảo vua giữ yên đất Bách Việt, chớ cướp phá. Khi
sứ
đến, vua ngồi xổm mà tiếp
Lục Giả. Giả nói: "Vương vốn là [2a] người Hán, họ hàng mồ mả đều ở
nước Hán, nay lại làm trái tục nước ḿnh, muốn chiếm đất này làm kẻ
địch chống chọi với nhà Hán, há chẳng lầm hay sao? Vả lại, nhà Tần
mất con hươu44 , thiên hạ đều tranh nhau đuổi, chỉ có Hán Đế khoan
nhân yêu người, dân đều vui theo, khởi quân từ đất Phong Bái mà vào
Quan Trung trước tiên để chiếm giữ Hàm Dương, dẹp trừ hung bạo.
Trong khoảng 5 năm, dẹp yên loạn lạc, b́nh định bốn biển, đó không
phải là sức người làm nổi, tức là trời cho. Hán Đế nghe vương làm
vua ở đất này, từng muốn quyết một phen được thua, nhưng v́ dân
chúng lao khổ vừa xong cho nên phải bỏ ư định, sai sứ mang ấn thao
cho vương, đáng lẽ vương phải ra ngoài giao45 nghênh đón bái yết để
tỏ ḷng tôn kính. Nay đă không làm thế, th́ nên sắm lễ mà tiếp sứ
giả mới phải, sao lại cậy dân Bách Việt đông mà khinh nhờn sứ giả
của thiên tử? Thiên Tử nghe biết, phát binh sang hỏi tội, th́ vương
làm thế nào?". Vua ra dáng sợ hăi, đứng dậy nói: "Tôi ở đất này lâu
ngày [2b] quên mất cả lễ nghĩa". Nhân hỏi Giả rằng: "Tôi với Tiêu Hà,
Tào Tham ai hơn?"46 Giả nói: "Vương hơn chứ". Lại hỏi: "Tôi với vua
Hán ai hơn?". Giả nói: "Hán Đế nối nghiệp của Ngũ Đế Tam Vương,
thống trị người Hán kể hàng ức vạn người, đất rộng hàng muôn dặm,
vật thịnh dân giàu, quyền chính chỉ do một nhà, từ khi trời đất mở
mang đến nay chưa từng có. Nay dân của vương, chẳng qua mười vạn ở,
ở xen khoảng núi biển, chỉ ví như một quận của nhà Hán, ví với Hán
Đế sao được?". Vua cười và nói: "Tôi lấy làm giận không được nổi dậy
ở bên ấy, biết đâu chẳng bằng nhà Hán?" Giả ngồi im lặng, sắc mặt
tiu nghỉu. Bèn giữ Giả ở lại vài tháng. Vua nói: "Ở đất Việt này
không ai đủ để nói chuyện được. Nay ông đến đây hàng ngày tôi được
nghe những chuyện chưa từng nghe." Cho Giả đồ châu báu giá ngh́n
vàng để làm vật bỏ bao. Đến khi Giả về, lại cho thêm ngh́n vàng nữa.
[3a] Bính Ngọ, năm thứ 13
[195 TCN], (Hán Cao Đế năm thứ 12). Mùa hạ, tháng 4, vua Hán băng.
Canh Tuất, năm thứ 17
[191 TCN], (Hán Huệ Đế Doanh năm thứ 4). Mùa hạ, nhà Hán dựng Nguyên
Miếu ở phía bắc sông Vị.
Quư Sửu, năm thứ 20 [188
TCN], (Hán Huệ Đế năm thứ 7) Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng một,
nhật thực. Mùa hạ, tháng 5, nhật thực, mặt trời bị che khuất hết.
Mùa thu, tháng 8, vua Hán băng.
Ất Măo, năm thứ 22 [186
TCN], (Hán Cao Hậu Lữ Trĩ năm thứ 2). Mùa hạ, tháng 6, ngày 30, nhật
thực.
Đinh Tỵ, năm thứ 24 [184
TCN], (Hán Cao Hậu năm thứ 4). Nhà Hán cấm nước Nam Việt mua đồ sắt
ở cửa quan. Vua nói: "Khi Cao Đế lên ngôi, ta cùng thông sứ chung đồ
dùng. Nay Cao Hậu nghe lời gièm pha, phân biệt đồ dùng Hán, Việt.
Việc này tất là mưu kế của Trường Sa Vương47 muốn dựa uy đức của nhà
Hán mưu lấy nước ta mà làm vua cả, tự làm công của ḿnh".
[3b] Mậu Ngọ, năm thứ 25
[183 TCN], (Hán Cao Hậu năm thứ 5). Mùa xuân, vua lên ngôi hoàng đế,
đem quân đánh Trường Sa, đánh bại mấy quận rồi về.
Canh Thân, năm thứ 27
[181 TCN], (Hán Cao Hậu năm thứ 7). Nhà Hán sai Lâm Lư hầu Chu Táo
sang đánh Nam Việt để báo thù việc đánh Trường Sa. Gặp khi nắng to
ẩm thấp, bệnh dịch phát, bèn băi quân. Vua nhân thế dùng binh uy và
của cải để chiêu vỗ Mân Việc và Âu Lạc ở phía tây (tức là Giao Chỉ
và Cửu Chân), các nơi ấy đều theo về, từ đông sang tây rộng hơn vạn
dặm. Vua ngồi xe mui vàng, dùng cờ tả đạo48 , cho là nghi vệ ngang
với nhà Hán.
Tân Dậu, năm thứ 28 [180
TCN], (Hán Cao Hậu năm thứ 8). Mùa thu, tháng 7, Cao Hậu băng, các
đại thần đón Đại vương Hằng lên ngôi, tức là Văn Đế.
Nhâm Tuất, năm thứ 29
[179 TCN], (Hán Văn Đế Hằng năm thứ 1). Vua Hán v́ thấy mồ mả tổ
tiên của vua đều ở Chân Định [4a] mới đặt người thủ ấp để trông coi,
tuế thời cúng tế, gọi các anh em của vua cho làm quan to, ban cho
hậu. Vua Hán hỏi Tể tướng Trần B́nh có thể cử ai sang sứ Nam Việt
được, B́nh nói: "Lục Giả thời Tiên đế đă từng sang sứ Nam Việt". Vua
Hán gọi Giả cho làm Thái trung đại phu, lấy một người yết giả49 làm
phó sứ, đem thư sang cho vua. Thư nói: "Kính hỏi thăm Nam Việt Vương
rất lao tâm khổ ư. Trẫm là con vợ lẽ của Cao Đế, phải đuổi ra ngoài
làm phiên vương ở đất Đại, v́ đường sá xa xôi, kiến thức hẹp ḥi quê
kệch, nên chưa từng gửi thư. Cao Hoàng Đế ĺa bỏ bầy tôi, Hiếu Huệ
Hoàng Đế qua đời, Cao Hậu tự lên trông coi việc nước, không may có
bệnh, người họ Lữ chuyên quyền làm bậy, một ḿnh khống chế ngự được,
mới lấy con người họ khác nối nghiệp Hiếu Huệ Hoàng Đế. Nhờ anh linh
tông miếu và sức lực của các công thần, đă giết hết bọn ấy. Trẫm v́
các vương hầu và quan lại không cho từ chối, không thể không nhận,
nay đă lên ngôi. Mới rồi nghe nói vương có gửi thư cho tướng [4b]
quân Lâm Lư hầu, muốn t́m anh em thân và xin băi chức hai tướng quân
ở Trường Sa. Trẫm theo thư của vương, đă băi chức tướng quân Bác
Dương hầu rồi, c̣n anh em thân của vương hiện ở Chân Định, trẫm đă
sai người đến thăm hỏi và sửa đắp phần mộ tiên nhân của vương rồi.
Ngày trước nghe tin vương đem quân đánh biên giới, cướp phá măi
không thôi, dân Trường Sa khổ sở mà Nam Quận khổ nhất, nước của
vương há được lợi riêng hay sao? Tất phải chết nhiều quân lính, hại
các tướng lại tài giỏi, làm cho vợ góa chồng, con mồ côi, cha mẹ mất
con, được một hại mười, trẫm không nỡ làm thế. Trẫm muốn phân định
đất phong xen kẽ để chế ngự lẫn nhau50 , đem việc ra hỏi, bọn quan
lại đều nói: "Cao Hoàng Đế sở dĩ lấy Trường Sa làm địa giới, v́ [quá
chỗ đó] là đất của vương, không nên tự tiện thay đổi". Nay dù lấy
được đất đai của vương cũng không đủ lớn thêm, lấy được của cải của
vương cũng không đủ giàu thêm, cơi đất từ Ngũ Lĩnh về nam, vương cứ
việc trị lấy. Tuy vậy, vương xưng là [5a] đế, hai đế cùng lập mà
không có xe sứ thông hiếu, thế là tranh nhau. Tranh mà không biết
nhường th́ người có nhân không làm. Trẫm nguyện cùng vương đều bỏ
hiềm trước, từ nay trở đi thông hiếu như xưa. V́ vậy mới sai Lục Giả
sang đưa tờ dụ, để tỏ với vương bản ư của trẫm. Vương cũng nên nghe
theo, chớ làm những việc cướp phá nữa. Nhân gửi biếu vương 50 chiếc
áo bông thượng hạng, 30 chiếc áo bông trung hạng, 20 chiếc áo bông
hạ hạng. Mong rằng Vương hăy nghe nhạc tiêu sầu và thăm hỏi nước
láng giềng".
Khi Giả đến, vua tạ lỗi
nói: "Kính vâng chiếu chỉ, xin làm phiên vương, giữ măi lệ cống".
Rồi đó vua hạ chiếu rằng: "Trẫm nghe: hai người hùng không đứng cùng
nhau, hai người hiền không ở cùng đời. Hoàng Đế nhà Hán là bậc thiên
tử hiền tài, từ nay ta triệt bỏ xe mui vàng và cờ tả đạo là nghi chế
của hoàng đế". Nhân viết thư rằng: "Man Di đại trưởng lăo phu, thần
Đà, mạo muội đáng chết, hai lạy dâng thư lên hoàng đế bệ hạ. Lăo phu
vốn là lại cũ ở đất Việt, Cao Đế ban cho ấn [5b] thao làm Nam Việt
Vương. Hiếu Huệ Hoàng Đế lên ngôi, v́ nghĩa không nỡ tuyệt nên ban
cho lăo phu rất hậu. Cao Hậu lên coi việc nước lại phân biệt Hoa -
Di, ra lệnh không cho Nam Việt những khí cụ làm ruộng bằng sắt và
đồng; ngựa, trâu, dê nếu cho th́ cũng chỉ cho con đực, không cho con
cái. Lăo phu ở đất hẻo lánh, ngựa, trâu, dê đă già. Tự nghĩ nếu
không sắm lễ vật cúng tế, th́ tội thực đáng chết, mới sai nội sử
Phan, trung úy Cao, ngự sử B́nh, ba bọn dâng thư tạ lỗi, nhưng đều
không thấy trở về. Lại nghe đồn rằng, phần mộ của cha mẹ lăo phu bị
đập phá, anh em họ hàng đều bị giết. V́ vậy, bọn lại bàn nhau rằng:
"Nay bên trong không được phấn chấn với nhà Hán, bên ngoài không lấy
ǵ để tự cao khác với nước Ngô". V́ vậy mới đổi xưng hiệu là đế, để
tự làm đế nước ḿnh, không dám làm điều ǵ hại đến thiên hạ. Cao
Hoàng Hậu nghe tin cả giận, tước bỏ sổ sách của Nam Việt, khiến cho
việc sai người đi sứ không thông. Lăo phu trộm ngờ là v́ Trường Sa
Vương gièm [6a] pha, cho nên mới đem quân đến đánh biên giới. Lăo
phu ở đất Việt 49 năm, đến nay đă ẵm cháu rồi, những vẫn phải dậy
sớm, ngủ muộn, nằm không yên chiếu, ăn không biết ngon, mắt không
trông sắc đẹp, tai không nghe tiếng chuông trống, chỉ v́ không được
làm tôi nhà Hán mà thôi. Nay may được bệ hạ có ḷng thương đến,
được khôi phục hiệu cũ,
cho thông sứ như trước, lăo phu dù chết xương cũng không nát. Vậy
xin đổi tước hiệu, không dám xưng đế nữa. Kính cẩn sai sứ giả dâng
một đôi ngọc bích trắng, 1.000 bộ lông chim trả, 10 sừng tên, 500 vỏ
ốc màu tía, 1 giỏ cà cuống, 40 đôi chim trả sống, 2 đôi chim công.
Mạo muội liều chết, hai lạy dâng lên hoàng đế bệ hạ".
Lục Giả đem thư ấy về báo,
vua Hán rất mừng. Từ đấy Nam Bắc giao hảo, thôi việc binh đao, dân
được yên nghỉ.
Quư Hợi, năm thứ 30 [178
TCN], (Hán Văn Đế năm thứ 2). Mùa đông, tháng 10, ngày 30, nhật thực.
[6b] Giáp Tư, năm thứ 31
[177 TCN], (Hán Văn Đế năm thứ 3). Mùa đông, tháng 10, ngày 30 nhật
thực. Tháng 11, ngày 30, nhật thực.
Tân Tỵ, năm thứ 48 [160
TCN], (Hán Văn Đế Hậu Nguyên, năm thứ 4). Mùa hạ, tháng 4, ngày 30,
nhật thực.
Giáp Thân, năm thứ 51
[157 TCN], (Hán Văn Đế năm thứ 7). Mùa hạ, tháng 6, vua Hán băng, có
chiếu dặn để tang ngắn. Mùa thu, tháng 9, sao Chổi mọc ở phương tây.
Ất Dậu, năm thứ 52 [156
TCN], (Hán Cảnh Đế Khải, năm thứ 1). Nhà Hán chiếu sai các quận quốc
dựng miếu Thái Tông.
Bính Tuất, năm thứ 53
[155 TCN], (Hán Cảnh Đế năm thứ 2). Mùa đông, tháng 11, có sao Chổi
mọc ở phương tây.
Đinh Hợi, năm thứ 54 [154
TCN], (Hán Cảnh Đế năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, có sao Chổi
đuôi dài mọc ở phương tây. Tháng ấy, ngày 30, có nhật thực.
[7a] Mậu Tư, năm thứ 55
[153 TCN], (Hán Cảnh Đế năm thứ 4). Mùa đông, tháng 10, ngày 30,
nhật thực.
Quư Tỵ, năm thứ 60 [148
TCN], (Hán Cảnh Đế Trung Nguyên năm thứ 2). Mùa hạ, tháng 4, có sao
Chổi mọc ở phía tây bắc. Mùa thu, tháng 9, ngày 30, có nhật thực.
Giáp Ngọ, năm thứ 61 [147
TCN], (Hán Cảnh Đế năm thứ 3). Mùa thu, tháng 9, có sao Chổi mọc ở
phía tây bắc. Tháng ấy, ngày 30, nhật thực.
Ất Mùi, năm thứ 62 [146
TCN], (Hán Cảnh Đế năm thứ 4). Mùa đông, tháng 10, ngày 30, nhật
thực.
Đinh Dậu, năm thứ 64 [144
TCN], (Hán Cảnh Đế năm thứ 6). Mùa thu, tháng 7, ngày 30, nhật thực.
Bấy giờ vua sai sứ sang nhà Hán th́ xưng là vương, giữ lễ triều yết
cũng như các nước chư hầu, ở trong nước th́ theo hiệu cũ [đế].
[7b] Mậu Tuất, năm thứ 65
[143 TCN], (Hán Cảnh Đế Hậu Nguyên, năm thứ 1). Mùa thu, tháng 7,
ngày 30, nhật thực.
Canh Tư, năm thứ 67 [141
TCN], (Hán Cảnh Đế [Hậu Nguyên] năm thứ 3). Mùa đông51 , tháng 10,
mặt trời, mặt trăng đều sắc đỏ. Tháng 12, sắc mặt trời đỏ tía, năm
sao đi ngược chiều ôm lấy cḥm sao Thái Vi; mặt trăng đi xuyên vào
Thiên Đ́nh (Thiên Đ́nh tức là 10 ngôi sao cung viên Thái Vi ở góc
hữu sao Long Tinh, ở khoảng sao Dực sao Chẩn; ấy là cung của thiên
tử; ṭa của ngũ đế).
Mùa xuân, tháng giêng,
vua Hán băng.
Nhâm Dần, năm thứ 69 [139
TCN], (Hán Vũ Đế Triệt, Kiến Nguyên năm thứ 2). Mùa xuân, tháng
giêng, ngày 30, nhật thực. Mùa hạ, tháng 4, có sao to bằng mặt trời
mọc ban đêm.
Quư Măo, năm thứ 70 [138
TCN], (Hán Kiến Nguyên năm thứ 3). Mùa thu, tháng 7, sao Chổi mọc ở
phía tây bắc. Tháng 9, ngày 30, nhật thực.
Giáp Th́n, năm thứ 71
[137 TCN], (Hán Kiến Nguyên, năm thứ 4). Vua băng, thụy là Vũ Đế.
Cháu là Hồ lên nối ngôi. (Về sau, nhà Trần [8a] phong là Khai Thiên
Thể Đạo Thánh Vũ Thần Triết Hoàng Đế).
Lê Văn Hưu nói: Đất Liêu
Đông không có Cơ Tử th́ không thành phong tục mặc áo đội mũ [như
Trung Hoa], đất Ngô Cối không có Thái Bá th́ không thể lên cái mạnh
của bá vương. Đại Thuấn là người Đông Di nhưng là bậc vua giỏi trong
Ngũ Đế. Văn Vương là người Tây Di mà là bậc vua hiền trong Tam Đại.
Thế mới biết người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người
Hoa hay Di, chỉ xem ở đức mà thôi. Triệu Vũ Đế khai thác đất Việt ta
mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là "lăo
phu", mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta, công ấy có thể nói
là to lắm vậy. Người làm vua nước Việt sau này nếu biết bắt chước Vũ
Đế mà giữ vững bờ cơi, thiết lập việc quân quốc, giao thiệp với láng
giềng phải đạo, giữ ngôi bằng nhân, th́ ǵn giữ bờ cơi được lâu dài,
người phương Bắc không thể [8b] lại ngấp nghé được.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
Truyện [Trung Dung] có câu: "Người có đức lớn th́ ắt có ngôi, ắt có
danh, ắt được sống lâu". [Vũ] Đế làm ǵ mà được như thế? Cũng chỉ v́
có đức mà thôi. Xem câu trả lời Lục Giả th́ oai anh vũ kém ǵ Hán
Cao. Đến khi nghe tin Văn Đế đặt thủ ấp trông coi phần mộ tổ tiên,
tuế thời cúng tế, lại ban thưởng ưu hậu cho anh em, th́ bấy giờ vua
lại khuất phục nhà Hán, do đó tông miếu được cúng tế, con cháu được
bảo tồn, thế chẳng phải là nhờ đức ư? Kinh Dịch nói: "Biêt khiêm
nhường th́ ngôi tôn mà đức sáng, ngôi thấp mà không ai dám vượt
qua". Vua chính hợp câu ấy.
Văn Vương
Ở ngôi 12 năm, thọ 52
tuổi.
Vua lấy nghĩa để cảm nước
láng giềng, đánh lui địch, yên biên cảnh, cũng gọi là bậc vua có ư
muốn thịnh trị vậy.
[9a] Tên húy là Hồ, con
trai Trọng Thủy, cháu Vũ Đế.
Bính Ngọ, năm thứ 2 [135
TCN], (Hán Kiến Nguyên năm thứ 6). Mùa thu, tháng 8, có sao Chổi mọc
ở phương đông, đuôi dài hết trời.
Mân Việt Vương Sính xâm
lấn biên ấp nước ta. Vua giữ ước với nhà Hán, không tự tiện dấy quân,
sai người đem thư nói việc đó với nhà Hán. Nhà Hán khen là nghĩa, v́
vua mà phát đại binh, sai Vương Khôi xuất quân từ Dự Chương, Hàn An
Quốc xuất quân từ Cối Kê, để đánh Mân Việt.
Hoài Nam
Vương [Lưu] An dâng thư can rằng:
"Việt là đất ở ngoài cơi.
Dân cắt tóc vẽ ḿnh, không thể lấy pháp độ của nước đội mũ mang đai
mà trị được. Từ thời Tam đại thịnh trị, người Hồ, người Việt đă
không nhận chính sóc, không phải là v́ mạnh mà không hàng phục được,
uy không chế ngự được, mà v́ đất ấy không thể ở được, dân ấy không
thể chăn được, không bơ làm phiền đến Trung Quốc vậy. Nay họ đánh
lẫn nhau mà bệ hạ phát quân đến cứu, thế là trái lại đem Trung Quốc
mà [9b] phục dịch di dịch vậy.
Vả người Việt khinh bạc,
tráo trở, không theo pháp độ, không phải mới có một ngày. Nay mới
không vâng chiếu mà cất quân đi đánh giết, thần sợ sau này việc binh
cách không biết đến lúc nào thôi. Vừa rồi mấy năm liền không được
mùa, sinh kế của dân chưa lại như cũ, nay phát binh lấy lương, đi
mấy ngh́n dặm lại thêm rừng sâu tre rậm, nhiều rắn độc thú dữ, tháng
hè mùa nắng, các bệnh thổ tả hoặc loạn phát ra luôn, tuy chưa từng
ra quân đọ kiếm mà chết chóc tất đă nhiều rồi. Thần nghe rằng sau
việc quân lữ, tất là mất mùa, là bởi cái khí sầu khổ phá sự điều ḥa
của khí âm dương, cảm đến tinh khí
của trời đất, tai biến do
đấy mà sinh ra. Bệ hạ đức sánh trời đất, ơn đến cỏ cây, một người
đói rét không được hưởng trọn tuổi trời mà chết, bệ hạ cũng lấy làm
thương xót trong ḷng. Hiện nay trong nước không có tiếng chó sủa
báo động mà khiến quân lính phải dăi dầu [10a] ở đồng nội, ngấm ướt
ở núi hang, khiến dân ở biên cương phải đóng cửa sớm mở cửa muộn,
bữa mai không kịp bữa hôm, thần An trộm xin bệ hạ thận trọng việc đó.
Vả người Việt nhân tài
vật lực yếu mỏng không biết đánh bộ, lại không biết dùng xe ngựa
cung nỏ, thế mà không thể đem quân vào được, là v́ họ giữ được đất
hiểm, mà người Trung Quốc th́ không quen thủy thổ.
Thần nghe ở đường sá
người ta nói rằng: Mân Việt Vương bị em là Giáp giết chết, Giáp cũng
đă bị giết rồi, dân nước ấy chưa thuộc về ai. Nếu bệ hạ sai trọng
thần đến nơi thăm hỏi, ban đức cấp thưởng để chiêu dụ họ, thế tất họ
sẽ dắt trẻ d́u già theo về thánh đức. Nếu [bệ hạ] không dùng đất ấy
làm ǵ, th́ nước đă mất làm cho c̣n, ḍng đă tuyệt khiến nối lại,
phong làm vương hầu, như thế tất họ phải đem ḿnh làm tôi, đời đời
nộp cống. Bệ hạ chỉ dùng cái ấn vuông một tấc, dây thao một trượng
hai, mà trấn vỗ được đất ngoài, không phải nhọc mệt tên lính nào,
không phải cùn một chiếc giáo nào, mà uy đức đều được cả. Nay đem
quân [10b] vào đất họ, họ tất sợ hăi, trốn vào rừng núi; nếu ta bỏ
về, th́ họ lại họp đàn tụ lũ, nếu ta ở để giữ, th́ hết năm này sang
năm khác, quân lính mệt mỏi, lương thực thiếu hết, một phương có
việc gấp, th́ bốn mặt đều sợ. Thần sợ rằng biến cố sẽ sinh, gian tà
sẽ nổi, đều là bắt đầu từ đấy cả.
Thần nghĩ rằng: quân của
thiên tử chỉ đi đánh kẻ dưới phạm lỗi, chứ không đi đánh nhau để
tranh giành, v́ là không ai dám đọ sức. Nếu người Việt làm liều
chống lại quan chấp sự mà trong quân kiếm củi đẩy xe có kẻ nào không
về đủ th́ dù có chém được đầu của Việt Vương, thần cũng lấy làm xấu
hổ52 . Bệ hạ lấy chín châu làm nhà, sinh dân đều là thần thiếp cả,
đất của di địch nào có đủ làm nhàn hạ được một ngày mà phải phiền
đến ngựa đổ mồ hôi mệt nhọc? Kinh Thi có câu: "Đạo vương tin thực,
đất Từ theo về". Ư nói vương đạo rất lớn mà phương xa mến phục. Thần
An trộm lo rằng tướng lại đem 10 vạn quân đi chỉ làm cái trách nhiệm
của một người [11a] sứ giả mà thôi."
Khi ấy quân nhà Hán chưa
qua đèo, Mân Việt Vương đă phát binh giữ chỗ hiểm để chống cự. Em
Mân Việt Vương là Dư Thiện cùng với người trong họ bàn nhau rằng: "V́
vương tự tiện đem quân đánh Nam Việt không xin phép nhà Hán, cho nên
nhà Hán đem quân đến đánh. Quân Hán nhiều và mạnh, dù may mà ḿnh có
đánh được chăng nữa sau họ lại kéo sang nhiều hơn, chung quy nước
cũng bị diệt, chi bằng giết vương để tạ lỗi với nhà Hán mà xin băi
binh". Bèn giết Sính, sai sứ đem đầu nộp cho Vương Khôi. Khôi liền
cho đóng quân lại, bảo cho Hàn An Quốc, rồi sai sứ mang đầu Sính
chạy về báo. Vua Hán sai Trang Trợ sang tỏ ư cho vua biết. Vua rập
đầu nói: "Thiên tử v́ quả nhân đem quân giết vua Mân Việt, quả nhân
dù chết cũng không báo đáp được ân đức ấy". Mới sai thái tử là Anh
Tề sang nhà Hán làm con tin. Nhân bảo Trợ rằng: "Nước tôi mới bị
cướp, sứ giả cứ về trước, quả nhân đang ngày đêm sắm sửa hành trang
để vào triều kiến thiên tử". Trợ về rồi, bầy tôi đều can [11b] vua
rằng: "Quân nhà Hán giết [Mân Việt Vương] Sính là có ư muốn cảnh cáo
nước Việt ta. Vả lại tiên đế đă nói thờ nhà Hán cốt không thất lễ
th́ thôi. Tóm lại chớ nên tin lời nói khéo, vào chầu vua Hán th́
không về được nữa, đó là thế mất nước đấy." Vua bèn nói thác là có
bệnh rồi không sang yết kiến nữa.
Đinh Mùi, năm thứ 3 [134
TCN], (Hán Nguyên Quang, năm thứ 1). Mùa thu, tháng 7, ngày 30, nhật
thực.
Giáp Dần, năm thứ 10 [127
TCN], (Hán Nguyên Sóc năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 3, ngày 30, nhật
thực.
Ất Măo, năm thứ 11 [126
TCN], (Hán Nguyên Sóc năm thứ 3). Vua ốm nặng, Thái tử Anh Tề ở Hán
về.
Bính Th́n, năm thứ 12
[125 TCN], (Hán Nguyên Sóc năm thứ 4). Vua mất, thụy là Văn Vương.
Con là Anh Tề nối ngôi.
[12a] Sử thần Ngô Sĩ Liên
nói: Văn Vương giao thiệp với nước láng giềng phải đạo, nhà Hán khen
là có nghĩa, đến mức dấy binh đánh giúp kẻ thù; lại biết nghe lời
can, thác bệnh không sang chầu nhà Hán, giữ phép nhà để mưu cho con
cháu, có thể gọi là không xấu hổ với ông nội.
Minh Vương
Ở ngôi 12 năm.
Vua không cẩn thận mối vợ
chồng, gây thành loạn cho quốc gia, không có ǵ đáng khen.
Tên húy là Anh Tề, con
trưởng của Văn Vương.
Đinh Tỵ, năm thứ 1 [124
TCN], (Hán Nguyên Sóc năm thứ 5). Lấy Lữ Gia làm Thái phó.
Kỷ Mùi, năm thứ 3 [122
TCN], (Hán Nguyên Thú năm thứ 1). Mùa hạ, tháng 5, ngày 30, nhật
thực.
Nhâm Tuất, năm thứ 6 [119
TCN], (Hán Nguyên Thú năm thứ 4). Mùa xuân, sao Chổi mọc ở phía đông
bắc. Mùa hạ, sao Chổi dài mọc [12b] ở phương tây.
Ất Sửu, năm thứ 9 [116
TCN], (Hán Nguyên Đỉnh năm thứ 1).
Mậu Th́n, năm thứ 12 [113
TCN], (Hán Nguyên Đỉnh năm thứ 4). Trước kia vua làm thế tử, sang
làm con tin cho nhà Hán ở Trường An, lấy con gái người họ Cù ở Hàm
Đan, sinh con tên là Hưng. Đến khi lên ngôi, giấu ấn của tiên đế đi,
dâng thư sang nhà Hán xin lập Cù thị làm hoàng hậu, Hưng làm thế tử.
Nhà Hán mấy lần sai sứ giả sang khuyên vua vào chầu. Vua sợ vào yết
kiến phải theo pháp độ nhà Hán ngang với các chư hầu ở trong, cố ư
cáo ốm không đi, bèn sai con là Thứ công vào làm con tin. Năm ấy vua
mất, thụy là Minh Vương. Con là Hưng nối ngôi.
Ai Vương
Ở ngôi 1 năm [112 TCN].
[13a] Mẫu hậu ngang nhiên
dâm loạn, quyền thần chuyên chính, vua hèn tuổi trẻ, giữ nổi thế nào
được.
Tên húy là Hưng, con thứ
của Minh Vương.
Năm ấy, vua đă lên ngôi,
tôn mẹ là Cù thị là thái hậu.
Trước kia, thái hậu chưa
lấy Minh Vương, đă từng thông dâm với An Quốc Thiếu Quư người Bá
Lăng. An Quốc là họ, Thiếu Quư là tên. Năm ấy nhà Hán sai An Quốc
Thiếu Quư sang dụ vua và thái hậu vào chầu, như đối với các chư hầu
ở trong, lại sai biện sĩ là bọn Gián nghị đại phu Chung Quân tuyên
dụ, dũng sĩ là bọn Ngụy Thần giúp việc, vệ úy Lộ Bác Đức đem quân
đóng ở Quế Dương để đợi sứ giả. Khi ấy vua c̣n ít tuổi, Cù hậu là
người Hán, Thiếu Quư đến, lại tư thông. Người nước biết, phần nhiều
không theo thái hậu. Thái hậu sợ loạn nổi, muốn dựa uy nhà Hán,
nhiều lần khuyên vua và các quan xin nội phụ nhà Hán. [13b] Bèn nhờ
sứ nhà Hán dâng thư, xin theo như các chư hầu ở trong, cứ 3 năm một
lần vào chầu, triệt bỏ cửa quan ở biên giới. Vua Hán bằng ḷng, ban
cho vua và Thừa tướng Lữ Gia ấn
bằng bạc và các ấn nội sử,
trung úy, thái phó, c̣n các chức khác được tự đặt lấy. Bỏ h́nh phạt
cũ thích chữ, cắt mũi, dùng pháp luật nhà Hán như các chư hầu ở
trong. Các sứ giả đều ở lại để trấn giữ vỗ về53 .
Kỷ Tỵ, năm thứ 1 [112 TCN],
(Hán Nguyên Đỉnh năm thứ 5). Vua và thái hậu đă sửa soạn hành trang
lễ vật quư giá để vào chầu. Bấy giờ Tể Tướng Lữ Gia tuổi đă nhiều,
làm tướng trải ba triều, người trong họ làm trưởng lại đến hơn 7
chục người, con trai đều lấy con gái vua, con gái đều gả cho con em
vua và người tôn thất, cùng thông gia với Tần Vương ở quận Thương
Ngô, trong nước rất được ḷng dân hơn cả vua. Gia nhiều lần dâng thư
can vua, vua không nghe, nhân thế có ḷng muốn làm phản, thường cáo
ốm không tiếp [14a] sứ giả nhà Hán. Các sứ giả nhà Hán đều chú ư đến
Gia, nhưng thế chưa thể giết được. Vua và thái hậu cũng sợ bọn Gia
khởi sự trước, muốn nhờ sứ giả nhà Hán trù mưu giết bọn Gia. Bèn đặt
tiệc rượu mời sứ giả đến dự, các đại thần đều ngồi hầu rượu. Em Gia
làm tướng, đem quân đóng ở ngoài cung. Tiệc rượu mới bắt đầu, thái
hậu bảo Gia rằng: "Nam Việt nội thuộc [Trung Quốc] là điều lợi cho
nước, thế mà tướng quân lại cho là bất tiện là tại sao?", cốt để
chọc tức sứ giả. Sứ giả c̣n đương hồ nghi, chần chừ chưa dám làm ǵ.
Gia thấy tai mắt họ có vẻ khác thường, lập tức đứng dậy đi ra. Thái
hậu giận, muốn lấy giáo đâm Gia, vua ngăn lại. Gia bèn ra chia lấy
quân lính của em dẫn về nhà, cáo ốm không chịu gặp vua và sứ giả,
ngầm cùng các đại thần mưu làm loạn. Vua vốn không có ư giết Gia,
Gia cũng biết thế, v́ vậy đến mấy tháng không hành động ǵ. Thái hậu
muốn một ḿnh giết Gia nhưng sức không làm nổi. [14b] Vua Hán nghe
tin Gia không nghe mệnh, mà vua và thái hậu th́ cô lập, yếu ớt không
chế ngự nổi, sứ giả th́ nhút nhát không quyết đoán, lại thấy vua và
thái hậu đă nội phụ rồi, chỉ một ḿnh Lữ Gia làm loạn, không đáng
dấy quân, muốn sai Trang Sâm đem 2 ngh́n người sang sứ. Trang Sâm
nói: "Lấy sự ḥa hiếu mà sang, th́ vài người cũng đủ, lấy vũ lực mà
sang, th́ 2 ngh́n người không làm ǵ được". Sâm từ chối không nhận.
Vua Hán bèn băi chức Sâm. Tướng Tế Bắc cũ là Hàn Thiên Thu hăng hái
nói: "Một nước Việt cỏn con, lại có vương và thái hậu làm nội ứng,
chỉ một ḿnh thừa tướng Lữ Gia làm loạn, xin cấp cho 3 trăm dũng sĩ,
thế nào cũng chém được Gia về báo". Bấy giờ nhà Hán sai Thiên Thu và
em Cù thái hậu là Cù Lạc đem 2 ngh́n người tiến vào đất Việt. Lữ Gia
bèn hạ lệnh cho trong nước rằng: "Vua c̣n nhỏ tuổi, thái hậu vốn là
người Hán, lại cùng với sứ giả nhà Hán dâm loạn, chuyên ư muốn nội
phụ với nhà Hán, đem hết [15a] đồ châu báu của Tiên Vương dâng cho
nhà Hán để nịnh bợ, đem theo nhiều người đến Trường An rồi bắt bán
cho người ta làm đầy tớ, chỉ nghĩ mối lợi một thời, không đoái ǵ
đến xă tắc họ Triệu và lo kế muôn đời". Bèn cùng với em đem quân
đánh, giết vua và thái hậu, cùng tất cả bọn sứ giả nhà Hán, rồi sai
người đi báo cho Tần Vương ở Thương Ngô và các quận ấp, lập con
trưởng của Minh Vương là Thuật Dương hầu Kiến Đức làm vua. Vua bị
giết, tên thụy là Ai Vương.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
Tai họa của Ai Vương, tuy bởi ở Lữ Gia mà sự thực th́ gây mầm từ Cù
Hậu. Kể ra sắc đẹp đàn bà có thể làm nghiêng đổ nước nhà người ta
th́ có nhiều manh mối, mà cái triệu của nó th́ không thể biết trước
được. Cho nên các tiên vương tất phải đặt ra lễ đại hôn54 , tất phải
cẩn thận quan hệ vợ chồng, tất phải phân biệt hiềm nghi, hiểu những
điều nhỏ nhặt, tất phải chính vị trong ngoài, tất phải ngăn ngừa
việc ra vào, tất phải dạy đạo [15b] tam ṭng, th́ sau đó mối họa mới
không do đâu mà đến được. Ai Vương ít tuổi không thể ngăn giữ được
mẹ, Lữ Gia coi việc nước, việc trong việc ngoài lại không dự biết
hay sao? Khách của nước lớn đến, th́ việc đón tiếp có lễ nghi, chỗ ở
có thứ tự, cung ứng có số, thừa tiếp có người, sao đến nỗI để thông
dâm với mẫu hậu? Mẫu hậu ở thẳm trong cung, không dự việc ngoài: khi
nào có việc ra ngoài, th́ có xe da cá, có màn đuôi trĩ, cung tần
theo hầu, sao để đến nỗi thông dâm với sứ khách được? Bọn Gia toan
dập tắt lửa cháy đồng khi đang cháy rực, sao bằng ngăn ngay cái cơ
họa loạn từ khi chưa có triệu chứng ǵ có hơn không? Cho nên nói:
Làm vua mà không biết nghĩa Xuân Thu tất phải chịu cái tiếng cầm đầu
tội ác; làm tôi không biết nghĩa Xuân Thu tất mắc phải tội cướp ngôi
giết vua, tức như là Minh Vương, Ai Vương và Lữ Gia vậy.
Thuật Dương Vương
[16a] Ở ngôi 1 năm [111
TCN].
Xă tắc họ Triệu, Cù hậu
làm cho nghiêng, gốc đă nhổ trước rồi, ngọn cũng theo mà đổ.
Tên húy là Kiến Đức, con
trưởng của Minh Vương và người vợ Việt.
Bấy giờ, mùa đông, tháng
11, Tể tướng Lữ Gia đă lập vua lên ngôi, mà quân của Hàn Thiên Thu
đă vào cơi, đánh phá một vài ấp nhỏ. Gia bèn mở một đường thẳng để
cấp lương cho quân, [khi quân nhà Hán] đến c̣n cách Phiên Ngung 40
dặm, th́ Gia xuất quân đánh, giết được bọn Thiên Thu. Sai người đem
sứ tiết của nhà Hán cho vào trong ḥm để trên núi Tái Thượng (tức là
đèo Đại Dũ) dùng lời khéo để tạ tội, [một mặt] phát binh giữ chỗ
hiểm yếu. Vua Hán nghe tin, sai Phục ba tướng quân Lộ Bác Đức xuất
phát từ Quế Dương, Lâu thuyền tướng quân Dương Bộc xuất phát từ Dự
Chương, Qua Thuyền tướng quân55 Nghiêm (sử chép thiếu họ) xuất phát
từ Linh Lăng, Hạ lại tướng quân Giáp [16b] (sử chép thiếu họ) đem
quân xuống Thương Ngô, Tŕ Nghĩa hầu Quư56 (sử chép thiếu họ) đem
quân Dạ Lang xuống sông Tường Kha, đều hội cả ở Phiên Ngung.
Canh Ngọ, năm thứ 1 [111
TCN], (Hán Nguyên Đỉnh năm thứ 6). Mùa đông, Dương Bộc nhà Hán đem 9
ngh́n tinh binh hăm Tầm Hiệp, phá Thạch Môn (Lữ Gia chất đá giữa
sông gọi là Thạch Môn) lấy được thuyền thóc của ta kéo luôn cả các
thuyền ấy đi, đem mấy vạn người đợi Phục ba tướng quân Lộ Bác Đức.
Bác Đức nói v́ đường xa nên chậm, rồi cùng với Lâu thuyền tướng quân
hội quân tiến đến Phiên Ngung. Bấy giờ [Lộ Bác Đức] có hơn 1 ngh́n
người cùng tiến [với quân Dương Bộc]. Dương Bộc đi trước đến Phiên
Ngung. Vua và Lữ Gia cùng giữ thành. Dương Bộc tự chọn chỗ thuận
tiện đóng ở mặt đông nam; Lộ Bác Đức đóng ở mặt tây bắc. Vừa chập
tối, Dương Bộc đánh bại [quân Triệu], phóng lửa đốt thành. Bác Đức
không biết quân trong thành nhiều hay ít bèn đóng doanh, sai sứ
chiêu dụ. Kẻ nào ra hàng đều cho ấn thao và tha cho về để chiêu dụ
nhau. Lâu thuyền57 [17a] tướng quân Dương Bộc cố sức đánh, đuổi [quân
Triệu] chạy ngược vào dinh quân của Lộ Bác Đức. Đến tờ mờ sáng th́
trong thành đầu hàng. Vua và Gia cùng với vài trăm người, đang đêm
chạy ra biển. Bác Đức lại hỏi những người đầu hàng biết chỗ ở của
Gia, bèn sai người đuổi theo. Hiệu úy tư mă là Tô Hoằng bắt được vua,
quan lang Việt là Đô Kê (có bản chép là Tôn Đô) bắt được Gia. Bấy
giờ quân của Hạ lại và Qua thuyền tướng quân, cùng quân Dạ Lang của
Tŕ Nghĩa hầu chưa đến mà nước Việt ta đă bị Lộ Bác Đức và Dương Bộc
dẹp yên rồi. (Bấy giờ nước Việt ta sai ba quan sứ58 đem 300 con trâu,
1.000 chung rượu và sổ hộ của 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam
đến xin hàng; Lộ Bác Đức nhân đó cho ba người ấy làm thái thú ở 3
quận để trị dân như cũ). Từ đó [nhà Hán] lấy đất chia làm 9 quận là:
Nam Hải (quận của nhà Tần, nay là đất Quảng Đông nhà Minh), Thương
Ngô (nhà Đường gọi là Ích Châu59 , xưa là Âu Lạc, đất của nước Việt
ta), Uất Lâm (nhà Tần là quận Quế Lâm, Hán Vũ Đế đổi làm tên này),
Hợp Phố (nhà Tần là Tượng Quận, nay thuộc Liêm Châu), Giao Chỉ, Cửu
Chân, Nhật Nam (đều là Tượng Quận thời Tần)60 , Châu Nhai, Đạm Nhĩ (đều
ở trong biển lớn). Từ đấy nhà Hán bắt đầu [17b] đặt Thứ sử, Thái thú.
Chế độ nhà Hán đặt Thứ sử cai trị một châu, Thái thú cai trị một
quận (quận là cấp dưới của châu) ....
Lê Văn Hưu nói: Lữ Gia
can ngăn Ai Vương và Cù thái hậu không nên xin làm chư hầu nhà Hán,
đừng triệt bỏ cửa quan ở biên giới, có thể gọi là biết trọng nước
Việt vậy. Song can mà không nghe, th́ nghĩa đáng đem hết bầy tôi đến
triều đ́nh, trước mặt vua tŕnh bày lợi hại về việc nước Hán, nước
Việt đều xưng đế cả, có lẽ Ai Vương và thái hậu cũng nghe ra mà tỉnh
ngộ Nếu lại vẫn không nghe theo, th́ nên tự trách ḿnh mà lánh ngôi
[tể tướng], nếu không thế th́ dùng việc cũ họ Y61 , họ Hoắc, chọn
một người khác trong hàng con của Minh Vương để thay ngôi, cho Ai
Vương được như Thái Giáp62 và Xương Ấp mà giữ toàn tính mệnh, như
thế th́ không lỗi đường tiến thoái. Nay lại giết vua để hả ḷng oán,
lại không biết cố chết để giữ lấy nước, khiến cho nước Việt bị chia
cắt, phải làm tôi nhà Hán, tội của Lữ Gia đáng chết không dung.
[18a] Sử thần Ngô Sĩ Liên
nói: Ngũ Lĩnh đối với nước Việt ta là ải hiểm cửa ngơ của nước cũng
như Hổ Lao của nước Trịnh, Hạ Dương của nước Quắc. Làm vua nước Việt
tất phải đặt quân chỗ hiểm để giữ nước, không thể để cho mất được.
Họ Triệu một khi đă không giữ được đất hiểm ấy th́ nước mất ḍng
tuyệt, bờ cơi bị chia cắt. Nước Việt ta lại bị phân chia, thành ra
cái thế Nam-Bắc vậy. Sau này các bậc Đế Vương nổi dậy, chỗ đất hiểm
đă mất rồi, khôi phục lại tất nhiên là khó. Cho nên Trưng Nữ Vương
tuy đánh lấy được đất Lĩnh Nam, nhưng không giữ được nơi hiểm yếu ở
Ngũ Lĩnh, rốt cuộc đến bại vong. Sĩ Vương tuy khôi phục toàn thịnh,
nhưng bấy giờ c̣n là chư hầu, chưa chính vị hiệu, sau khi chết lại
mất hết; mà các nhà Đinh, Lê, Lư, Trần chỉ có đất từ Giao Châu trở
về Nam thôi, không khôi phục được đất cũ của Triệu Vũ Đế, cái thế
khiến nên như vậy.
Trở lên là. họ Triệu, từ
Vũ Đế năm Giáp Ngọ đến Thuật Dương Vương năm Canh Ngọ là hết, gồm 5
đời, cộng 97 năm [207 - 111 TCN].
38 Toàn thư, cũng như
nhiều bộ sử thời phong kiến, quan niệm nhà Triệu là một triều đại
chính thống của nước ta, và viết thành Kỷ Nhà Triệu. Quan niệm đó,
từ thế kỷ XVIII đă bị phê phán, mà người bác bỏ đầu tiên là Ngô Th́
Sĩ, tác giả Việt Sử Tiêu Án.
39 Nay là huyện Chinh
Định, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc.
40 Tức Quảng Châu ngày
nay. Ở Quảng Đông vẫn c̣n huyện Phiên Ngung.
41 Theo Sử Kư (q. 113:
Nam Việt Liệt Truyện): "Khi nhà Tần đă bị diệt, Đà lập tức đánh lấy
Quế Lâm, Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vương". Ở đây, văn bản của
Toàn Thư, do sao chép hoặc khắc in, đă nhầm lẫn từ Quế Lâm thành Lâm
Ấp.
42 NGuyên văn: "Tỉ thụ" =
quả ấn và dây thao để buộc (và trang sức) quả ấn.
43 Nguyên văn: "Phẫu phù"
= vật bằng vàng bạc, ngọc đá, v.v.... cấp cho người được phong quan
tước, khi cần xác định th́ khớp hai nửa với nhau; tác dụng cũng như
phù tiết, nhưng phù tiết thường là h́nh ống làm bằng tre gỗ, để cấp
cho các viên quan đi thi hành mệnh lệnh.
44 Dùng ai từ đồng âm (lộc
là con hươu, và lộc là phúc lộc) để nói bóng việc nhà Tần mất nước.
45 Giao: vùng ngoại ô đô
thành.
46 Tiêu Hà, Tạ Tham: hai
người có công đầu trong việc pḥ tá Hán Cao Tổ, nối tiếp giữ chức
thừa tướng nhà Hán.
47 Tước của Ngô Nhuế đời
Hán Cao Tổ được phong làm phiên vương ở Trường Sa (nay là phần đất
phía đông tỉnh Hồ Nam).
48 Tả đạo: loại cờ lớn
trang sức bằng lông đuôi cừu, dựng trên xe nhà vua.
49 Yết giả: chức quan đời
Tần, Hán, giữ việc giao thiệp với nước ngoài.
50 Nguyên văn: "định địa
khuyển nha chi tương chế" (phân định đất đai theo kiểu xen kẻ như
răng chó để chế ngự lẫn nhau). Nhà Hán cắt đất phong kiểu cho xen
lọt phần đất của phiên quốc nọ với phiên quốc kia để dễ bề chế ngự.
51 Sự việc ghi trong năm
Canh Tư này (141 TCN), trước đă nói mùa đông, sau lại ghi việc mùa
xuân, hẳn là việc ở hai năm khác nhau. Hán Cảnh Đế ở ngôi 16 năm,
chết năm Canh Tư (xem: Lịch đại đế cương miếu thụy niên húy phả)
đúng như Toàn Thư ghi tại đây. V́ vậy, điều ghi "mùa đông, tháng 10
..." ở trên là ghi lại sự việc trong mùa đông năm trước. Hoặc cũng
có thể coi là văn bản Toàn thư bỏ sót tiêu mục về năm Kỷ Hợi (142
TCN) mà sự việc về mùa đông đă ghi nhầm vị trí như trên.
52 Câu này có khác vài
chữ so với nguyên văn bức thư của Lưu An: " .... thần do thiết vị
Đại Hán tu chi": thần cũng trộm xấu hổ cho nhà Đại Hán (Hán thư,
Hoài Nam Vương truyện).
53 Nguyên bản in là: "dụng
Hán pháp, tỷ nội chư hầu giả giai trấn phủ chi", cú pháp và ư nghĩa
đều không ổn. Ở Sử Kư (q.113 Nam Việt liệt truyện) câu này viết rơ
là: " .... dụng Hán pháp, tỷ nội chư hầu. Sứ giả giai lưu trấn phủ
chi". Như vậy, văn bản của Toàn Thư ở câu trên đây bỏ sót hai chữ:
sứ và lưu. Chúng tôi dịch theo câu đă chỉnh lư.
54 Đại hôn: là hôn lễ của
hoàng đế.
55 Phục ba tướng quân,
Lâu thuyền tướng quân, Qua thuyền tướng quân, Hạ lại tướng quân đều
là danh hiệu cấp tướng quân đời Hán Vũ Đế (phục ba: dẹp sóng, lâu
thuyền: thuyền lầu, hạ lại: xuống thác). Riêng về tên hiệu Qua
thuyền tướng quân, Trương An chú giải Sử Kư viết: "Người Việt thường
lặn dưới nước để lật úp thuyền, lại thường có thuồng luồng làm hại
cho nên phải cắm qua ở dưới thuyền, nhân đó mà đặt tên" (qua là một
loại vũ khí).
56 Từ Quảng chú giải Sử
Kư ghi Tŕ Nghĩa hầu tên là Di.
57 Nguyên bản thiếu tờ 17
a-b và đóng nhầm tờ 17 a-b của BK2, chúng tôi theo bản in khác để bổ
sung tờ thiếu này.
58 Ở năm Quư Măo (198 TCN),
Toàn thư đă ghi Triệu Vũ Đế sai hai sứ coi giữ hai quận Giao Chỉ và
Cửu Chân; ở đây lại nói sai ba quan sứ đem sổ hộ của 3 quận Giao Chỉ,
Cửu Chân và Nhật Nam. Lời cẩn án của Cương mục (TB2,2b) dẫn sách
Thủy Kinh chú của Lịch Đào Nguyên cũng chép việc tương tự để đính
chính điều ghi trên đây: chỉ có hai sứ ở hai quận Giao Chỉ và Cửu
Chân, không nói đến quận Nhật Nam.
59 Thương Ngô là tên quận
đặt thời Hán, nhà Đường đổi gọi là Ngô Châu (nay là huyện Thương Ngô,
tỉnh Quảng Tây), chứ không phải là Ích Châu (nay là Tứ Xuyên) như
người chú thích nguyên bản đă nhầm.
60 Xem chú thích 3
tr.138.
61 Họ Y: tức Y Doăn, quan
phụ chính của nhà Thương; sau khi vua Thang chết, cháu nội là Thái
Giáp đáng được nối ngôi, nhưng Giáp kém đạo đức. Y Doăn bèn đày Giáp
đến đất Đồng, sau 3 năm, Thái Giáp hối cải, Y Doăn lại đón về cho
làm vua. Họ Hoắc: là Hoắc Quang, quan phụ chính của nhà Hán. Sau khi
Hán Chiêu Đế chết, theo di chiếu, Quang rước lập Xương Ấp Vương lên
nối ngôi, nhưng Xương Ấp Vương dâm loạn, Quang phế đi mà lập Tuyên
Đế.
62 Xem
chú thích NK1, 8b.
Quyển III
Kỷ Thuộc Tây Hán
Tân Mùi, [110 TCN], (Hán
Nguyên Phong năm thứ 1). Nước Việt ta đă thuộc về nhà Hán. Nhà Hán
cho Thạch Đái làm Thái Thú 9 quận. (Chế độ nhà Hán lấy châu lănh
quận, trừ hai quận Châu Nhai, Đạm Nhĩ đều ở giữa biển, c̣n 7 quận
thuộc về Giao Châu, Đái làm châu Thái thú63 . Thời Tây
Hán, trị sở của Thái Thú đặt tại Long Uyên, tức là Long Biên, thời
Đông Hán đặt tại Mê Linh tức là Yên Lăng64 . Đến khi Đái
chết, Hán Chiêu Đế lấy Chu Chương thay. Đến cuối đời Vương Măng,
châu mục Giao Châu là Đặng Nhượng cùng các quận đóng chặn bờ cơi để
tự giữ. Tướng nhà Hán là Sầm Bành vốn quen thân với Nhượng, gửi thư
cho Nhượng bày tỏ uy đức của nhà Hán. Thế rồi [Nhượng] bảo Thái thú
Giao Chỉ là Tích Quang và Thái thú các quận là bọn Đỗ Mục sai sứ
sang cống hiến nhà Hán. Nhà Hán đều phong cho những người ấy tước
hầu. Bấy giờ là năm Kỷ Sửu thời Hán Quang Vũ năm Kiến Vũ thứ 5 [29].
Tích Quang người quận Hán Trung, khi ở [1b] Giao Chỉ, lấy lễ nghĩa
dạy dân. Lại lấy Nhâm Diên làm Thái thú Cửu Chân. Diên là người Uyển
[huyện]. Tục người Cửu Chân chỉ làm nghề đánh cá, đi săn, không biết
cày cấy. Diên mới dạy dân khai khẩn ruộng đất, hàng năm cày trồng,
trăm họ no đủ. Dân nghèo không có sính lễ cưới vợ, Diên bảo các
trưởng lại trở xuống bớt bổng lộc ra để giúp đỡ, cùng một lúc lấy vợ
có đến 2.000 người. Diên coi việc được 4 năm th́ bị gọi về. Người
Cửu Chân làm đền thờ. Những người đẻ con đều đặt tên là Nhâm. Phong
tục văn minh của đất Lĩnh Nam bắt đầu từ hai thái thú ấy.
Kỷ Hợi, [39], (Hán Quang
Vũ Lưu Tú, Kiến Vũ năm thứ 15) . Thái thú Giao Chỉ là Tô Định chính
sự tham lam tàn bạo, Trưng Nữ Vương dấy binh đánh.
Trở lên là [kỷ] thuộc nhà
Hán, từ năm Tân Mùi đến năm Kỷ Hợi, cộng 149 năm [110 TCN - 39].
[2a]
Kỷ Trưng
Nữ Vương
Trưng
Vương
Ở ngôi 3
năm.
Vua rất
hùng dũng, đuổi Tô Định, dựng nước xưng vương, nhưng v́ là vua đàn
bà, không thể làm nên công tái tạo.
Tên húy
là Trắc, họ Trưng. Nguyên là họ Lạc, con gái của Lạc tướng huyện Mê
Linh65 , Phong Châu, vợ của Thi Sách ở huyện Chu Diên66
. (Thi Sách cũng là con Lạc tướng, con hai nhà tướng kết hôn với
nhau. Sách Cương mục tập lăm lấy Lạc làm họ là lầm). Đóng đô ở Mê
Linh.
Canh Tư,
năm thứ 1 [40], (Hán Kiến Vũ năm thứ 16). Mùa xuân, tháng 2, vua khổ
v́ Thái thú Tô Định dùng pháp luật trói buộc, lại thù Định giết
chồng ḿnh, mới cùng với em gái là Nhị nổi binh đánh hăm trị sở ở
châu. Định chạy về nước. Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp
Phố đều hưởng ứng, lấy được [2b] 65 thành ở Lĩnh Nam, tự lập làm vua,
mới xưng là họ Trưng.
Tân Sửu,
năm thứ 2 [41], (Hán Kiến Vũ năm thứ 17). Mùa xuân, tháng 2, ngày
30, nhật thực. Nhà Hán thấy họ Trưng xưng vương, dấy quân đánh lấy
các thành ấp, các quận biên thùy bị khổ, mới hạ lệnh cho Trường Sa,
Hợp Phố và Giao Châu ta sắp sẵn xe thuyền, sửa sang cầu đường, thông
các núi khe, chứa thóc lương, cho Mă Viện làm Phục Ba tướng quân,
Phù Lạc hầu Lưu Long làm phó sang xâm lược.
Nhâm Dần,
năm thứ 3 [42], (Hán Kiến Vũ năm thứ 18). Mùa xuân, tháng giêng, Mă
Viện theo ven biển mà tiến, san núi làm đường hơn ngh́n dặm, đến
Lăng Bạc (ở phía tây Tây Nhai của La Thành, gọi là Lăng Bạc)67
đánh nhau với vua. Vua thấy thế giặc mạnh lắm, tự nghĩ quân ḿnh ô
hợp, sợ không chống nổi, lui quân về giữ Cấm Khê (Cấm Khê, sử chép
là Kim Khê). Quân cũng cho vua là đàn bà, sợ không đánh nổi địch,
bèn tan chạy. Quốc thống lại mất.
[3a] Lê
Văn Hưu nói: Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các
quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều
hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy
h́nh thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau
họ Triệu cho đến trước họ Ngô, trong khoảng hơn ngh́n năm, bọn đàn
ông chỉ cúi đầu bó tay, làm tôi tớ cho người phương Bắc, há chẳng
xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao? Ôi ! Có thể gọi là
tự vứt bỏ ḿnh vậy.
Trở lên
là Trưng Nữ Vương, bắt đầu từ năm Canh Tư đến năm Nhâm Dần th́ hết,
tất cả 3 năm [40-42].
Kỷ T huộc
Đông Hán
Quư Măo,
[Trưng Vương, năm thứ 4], [43], (Hán Kiến Vũ năm thứ 19). Mùa xuân,
tháng giêng, Trưng Nữ Vương cùng em gái là Nhị chống cự lại với quân
nhà Hán, [3b] thế cô, đều thua chết. Mă Viện đuổi theo đánh quân c̣n
sót là bọn Đô Dương. Đến huyện Cư Phong th́ [bọn Đô Dương] đầu hàng,
[Viện] bèn dựng cột đồng làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán. (Cột
đồng tương truyền ở trên động Cổ Lâu68 châu Khâm. Viện có
câu thề: "Cột đồng găy th́ Giao Châu diệt". Người Việt ta đi qua
dưới cột ấy, thường lấy đá chất vào, thành như g̣ đống, v́ sợ cột ấy
găy. Mă Tổng nhà Đường lại dựng hai cột đồng ở chỗ cũ của nhà Hán
ghi công đức của Mă Viện để tỏ ra ḿnh là ḍng dơi của Phục Ba, nay
chưa rơ ở chỗ nào. Hai sông Tả Giang, Hữu Giang mỗi nơi có một cột).
Viện thấy huyện Tây Vu có 3 vạn 3 ngh́n hộ, xin chia làm hai huyện
Phong Kê và Vọng Hải, vua Hán nghe theo. Viện lại đắp thành Kiển
Giang ở huyện Phong Khê. Thành đắp tṛn như h́nh cái kén, cho nên
lấy [chữ Kiển]69 làm tên. Nước Việt ta lại thuộc vào nhà
Hán. Ba năm sau, Viện trở về. Người địa phương thương mến Trưng Nữ
Vương, làm đền thờ phụng (đền ở xă Hát Giang, huyện Phúc Lộc70
, ở đất cũ thành Phiên Ngung cũng có).
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Họ Trưng giận thái thú nhà Hán bạo ngược, vung tay
hô một tiếng mà [4a] quốc thống nước ta cơ hồ được khôi phục, khí
khái anh hùng há chỉ lúc sống dựng nước xưng vương, mà sau khi chết
c̣n có thể chống ngăn tai họa. Phàm gặp những việc tai ương hạn lụt,
đến cầu đảo không việc ǵ là không linh ứng. Cả bà Trưng em cũng thế.
V́ là đàn bà mà có đức hạnh kẻ sĩ, cái khí hùng dũng trong khoảng
trời đất không v́ thân chết mà kém đi. Bọn đại trượng phu há chẳng
nên nuôi lấy cái khí phách cương trực chính đại ấy ư ?
Giáp Th́n,
[44], (Hán Kiến Vũ năm thứ 20). Từ đây về sau, trải các đời Hán Minh
Đế, Chương Đế, Ḥa Đế, Thượng Đế, An Đế, gồm 5 đời, cộng 82 năm, duy
thời Minh Đế có Lư Thiện người huyện Nam Dương làm Tháu thú Nhật
Nam, làm việc chính sự có ân huệ yên dân, khiến cho người khác phong
tục cũng mến chuộng t́m đến. Sau Thiện đổi làm Thái thú Cửu Chân.
Bính Tư,
[136], (Hán Thuận Đế Bảo, Vĩnh Ḥa năm thứ 1). Thái thú Chu Xưởng
cho là Giao Châu ở ngoài chín châu [4b], ở ŕa Bách Việt, dâng biểu
xin đặt phương bá71 . Vua Hán để cho Xưởng làm Thứ sử72
, cai quản các quận huyện.
Đinh Sửu,
[137], (Hán Vĩnh Ḥa năm thứ 2). Người man ở huyện Tượng Lâm, quận
Nhật Nam (ở địa giới nước Việt Thường xưa), là bọn Khu Liên đánh phá
quận huyện, giết trưởng lại. Thứ sử Giao Châu là Phàn Diễn đem quân
châu và quân Cửu Chân hơn vạn người đi cứu ứng, nhưng quân lính ngại
đi xa. Mùa thu, tháng 7, quân hai quận làm phản đánh phủ trị, thế
chuyển thành mạnh.
Mậu Dần,
[138], (Hán Vĩnh Ḥa năm thứ 3). Mùa hạ, tháng 5, Thị ngự sử Giả
Xương cùng với các châu quận hợp sức đánh bọn Khu Liên không được,
bị Khu Liên vây đánh hơn một năm, binh lương không thể tiếp tế được.
Vua Hán gọi các công khanh và thuộc lại bốn phủ để hỏi phương lược,
các quan đều bàn nên sai tướng phát 4 vạn quân của bốn châu Kinh,
Dương, [5a] Duyện, Dự đi đánh. Lư Cổ bác đi, nói rằng: "Các châu
Kinh, Dương giặc cướp tụ họp chưa tan; Trường Sa, Quế Dương đă nhiều
lần bị thu thuế bắt lính, nay lại làm rối động, ắt lại sinh họa nữa.
Người các châu Duyện, Dự phải đi xa muôn dặm, chiếu thư thúc bách,
tất phải bỏ trốn. Nam Châu73 th́ trời nắng nực, ẩm thấp
lại thêm lam chướng dịch lệ, 10 phần phải chết đến 4, 5 phần. Đường
xa muôn dặm, quân lính mỏi mệt, đến lúc tới Lĩnh Nam th́ đă không
kham nổi chiến đấu. Quân đi mỗI ngày 30 dặm mà Duyện, Dự cách quận
Nhật Nam hơn 9
ngh́n dặm,
phải 3 trăm ngày mới đến. Tính lương một người ăn mỗI ngày 5 thăng,
th́ phải dùng đến 60 vạn hộc gạo, đó là không kể lương thực của
tướng lại và lừa ngựa. Đặt quân ở đấy, chết chóc tất nhiều, đă không
đủ quân chống giặc, lại phải bắt thêm. Thế là xẻo cắt ḷng bụng để
chắp vá cho chân tay. Cửu Chân và Nhật Nam chỉ cách nhau 1 ngh́n dặm,
lại dân ở đó đi đánh c̣n không kham nổi, huống chi lại làm khổ quân
lính ở bốn châu [5b] để cứu nạn xa muôn dặm? Trước đây Trung lang
tướng Doăn Tựu đánh người Khương làm phản ở Ích Châu, người Ích Châu
có ngạn ngữ rằng: "Lỗ lai thượng khả, Doăn lai sát ngă" (Giặc đến
c̣n khá, Doăn đến chết ta). Sau Tựu bị đ̣i về, đem quân giao cho
Phán châu là Trương Kiều, Kiều vẫn dùng tướng lại của Tựu, chỉ trong
khoảng mười hôm, diệt hết giặc cướp. Thế là bằng chứng tỏ rằng sai
tướng đi là vô ích, mà châu quận có thể dùng được. Nay nên chọn
người nào có dũng lược nhân huệ, có thể làm tướng súy được, cho làm
Thứ sử, Thái thú, dời lại dân ở Nhật Nam đến nương dựa vào quận Giao
Chỉ ở Bắc, trở lại chiêu mộ người Man Di, khiến họ đánh lẫn nhau,
chuyển vận hàng lụa đến để cấp cho, kẻ nào có thể phản gián dụ hàng
th́ cắt đất phong cho. Thứ sử Tính Châu trước là Chúc Lương dũng
mănh quyết đoán, Trương Kiều trước ở Ích Châu có công phá giặc, đều
có thể dùng được. Bốn phủ đều theo lời bàn của Cố. Bèn cho Lương làm
Thái thú Cửu Chân, Kiều làm Thứ sử Giao Châu. [6a] Kiều đến nơi, lấy
ḷng thành thật dỗ bảo, dân chúng đều hàng phục. Lương đi một xe đến
Cửu Chân, tỏ rơ uy tín, người ra hàng đến vài vạn.
Giáp Thân,
[144], (Hán Kiến Khang năm thứ 1). Mùa thu, tháng 8, vua Hán mất.
Mùa đông, tháng 10, người Nhật Nam lại đánh đốt quận ấp. Thứ sử Cửu
Chân là Hạ Phương gọi những kẻ ra hàng dỗ bảo họ. Sau Phương đổi làm
Thái thú Quế Dương, lấy Lưu Tảo thay.
Canh Tư,
[160] (Hán Hoàn Đế Chí, Nguyên Gia năm thứ 2). Mùa đông, tháng 11,
người quận Cửu Chân lại đóng giữ quận Nhật Nam, quân chúng trở nên
mạnh hơn. Khi ấy Hạ Phương đă đổi làm Thái thú Quế Dương, lại giao
cho làm Thứ sử. Phương vốn có tiếng về uy đức, khi đến Nhật Nam, dân
chúng tụ họp hơn vạn người đem nhau đến đầu hàng Phương.
Mậu Ngọ,
[178], (Hán Linh Đế Hoành, Quang Ḥa năm thứ 1). Mùa hạ, tháng 4,
người trong châu và bọn Man Ô Hử74 làm loạn đă lâu, mục
[6b] thú là Chu Ngung không ngăn được, người châu là bọn Lương Long
nhân đấy dấy binh đánh phá quận huyện, quân đến vài vạn người.
Tân Dậu,
[181], (Hán Quang Ḥa năm thứ 4). Vua Hán sai Huyện lệnh Lan Lăng là
Chu Tuấn, người Thượng Ngu quận Cối Kê, sang cứu Ngung. Đường đi qua
quê nhà, Tuấn mộ thêm gia binh cùng với binh đem đi theo cộng 5
ngh́n người, theo hai đường tiến vào. Trước hết sai xem xét hư thực,
tuyên dương uy đức để lay động ḷng người rồi quân bảy quận75
tiến bức, giết được Lương Long, kẻ đầu hàng đến vài vạn người.
Giáp Tư,
[183], (Hán Trung B́nh năm thứ 1). Đồn binh người châu bắt Thứ sử
Chu Ngung giết đi, sai người đến cửa khuyết kể tội trạng của Ngung.
Vua Hán nghe tâu, xuống chiếu chọn kỹ quan lại có tài. Hữu ty tiến
cử Giả Tông là người Liêu thành Đông Quận làm Thứ sử (Tông trước làm
Ngự sử). Trước đây những người làm Thứ sử thấy [7a] đất châu có các
thứ ngọc trai, lông trả, tê, voi, đồi mồi, hương lạ, gỗ tốt, nhiều
người không liêm khiết, vơ vét của cải cho đầy, rồi lại xin đổi đi,
cho nên lại dân đều làm phản cả. Kịp khi Tông đến bộ76 ,
xét hỏi t́nh trạng làm phản, người ta đều nói rằng chính lệnh trước
thuế má nặng quá, trăm họ không ai không khốn khổ túng thiếu, Kinh
sư th́ xa, không biết tố cáo vào đâu, dân không sống nổi, nên tụ họp
nhau để chống, chứ không thực sự làm phản. Tông mới sai người chia
đi các nơi để khuyên dỗ, khiến đều yên nghiệp làm ăn, dụ dỗ những kẻ
lưu vong, tha bớt thuế khóa. Rồi giết kẻ bạo ngược đầu sỏ, chọn quan
lại tốt cho giữ quận huyện. Trăm họ được yên, trên đường ngơ người
ta có câu rằng: "Giả phụ lai văn, sử ngă tiên phản. Kim kiến thanh
b́nh, bất cảm phục bạn". (Bố Giả đến muộn, khiến ta phản trước; Nay
thấy thanh b́nh, không dám phản nữa). Tông coi việc 3 năm, được gọi
về làm chức Nghị Lan. Lư Tiến thay. (Lư Tiến là người Giao Châu ta).
[7b] Bính
Dần , [186], (Hán Trung B́nh năm thứ 3)77
Lê Văn
Hưu nói: Xem sử đến thời nước Việt ta không có vua, bị bọn thứ sử
người Bắc tham tàn làm khổ. Bắc Kinh đường xa, không biết kêu vào
đâu, bất giác xen lẫn cảm thương hổ thẹn, muốn tỏ ḷng thành như
Minh Tông nhà Hậu Đường, thường thắp hương khấn trời: xin trời v́
nước Việt ta sớm sinh thánh nhân, tự làm đế nước nhà, để khỏi bị
người phương Bắc cướp vét.
Trở lên
là thời thuộc Hán, từ năm Quư Măo đến năm Bính Dần, tất cả 144 năm
[43- 186].
Kỷ Sĩ
Vươn g
Sĩ Vương78
Ở ngôi 40
năm, thọ 90 tuổi.
Vương là
người khoan hậu khiêm tốn, ḷng người yêu quư, giữ vẹn đất Việt để
đương đầu với sức mạnh của Tam quốc, đă sáng suốt lại mưu trí, đáng
gọi là người hiền.
[8a] Họ
Sĩ, tên húy là Nhiếp79 , tự là Ngạn Uy, người huyện Quảng
Tín, quận Thương Ngô. Tổ tiên người Vấn Dương nước Lỗ, hồi loạn
Vương Măng ở Bắc triều, tránh sang ở đất Việt ta, đến vương là sáu
đời. Cha là Tứ, thời Hán Hoàn Đế làm Thái thú Nhật Nam. Khi c̣n ít
tuổi, vương du học ở kinh đô nhà Hán, theo học Lưu Tử Kỳ người Dĩnh
Xuyên, chuyên trị sách Tả thị Xuân Thu, có làm chú giải: được cử
hiếu liêm, bổ làm Thượng thư lang, v́ việc công bị miễn chức; hết
tang cha, lại được cử mậu tài, bổ làm Huyện lệnh Vu Dương, đổi làm
Thái thú Giao Châu, được tước Long Độ Đ́nh hầu, đóng đô ở Liên Lâu (tức
là Long Biên)80 . Sau nhà Trần truy phong làm Thiên Cảm
Gia Ứng Vũ Đại Vương.
Đinh Măo,
năm thứ 1 [187], (Hán Trung B́nh năm thứ 4). Vương có ba em trai tên
là Nhất, Vĩ81 và Vũ. Bấy giờ Thứ sử Chu [8b] Phù bị giặc
Di giết chết, châu quận rối loạn, vương bèn dâng biểu cử Nhất làm
Thái thú Hợp Phố, Vĩ làm Thái thú Cửu Chân, Vũ làm Thái thú Nam Hải.
Vương độ lượng khoan hậu, khiêm tốn, kính trọng kẻ sĩ, người trong
nước yêu mến, đều gọi là vương. Danh sĩ nhà Hán tránh nạn sang nương
tựa có hàng trăm người.
Canh Th́n,
năm thứ 14 [200], (Hán Hiến Đế Hiệp, Kiến An năm thứ 5). Thứ sử Lư
Tiến dâng lời tâu lên vua Hán rằng: "Khắp cả thiên hạ đều là bề tôi
của vua, thế mà nay làm quan ở triều đ́nh đều là sĩ phu ở Trung Châu82
cả, chưa từng khuyến khích người xa". Lời lẽ thiết tha cảm động, lại
viện dẫn nhiều bằng chứng. Vua Hán xuống chiếu cho người châu ta ai
được cử hiếu liêm mậu tài th́ cho phép được bổ trưởng lại trong châu,
không được bổ ở Trung châu. Tiến lại dâng sớ nói: "Người được cử làm
hiếu liêm xin cho được như bác sĩ ở mười hai châu, căn cứ theo nhân
tài mà đối xử". [9a] Nhưng hữu ty sợ rằng người phương xa khoác lác
mà chê bai bắt bẻ triều đ́nh, nên không chuẩn cho. Bấy giờ người
nước Việt ta là Lư Cầm làm túc vệ ở đài, bèn rủ người đồng hương là
bọn Bốc Long 5, 6 người, giữa ngày đầu năm các nước triều hội, đến
quỳ lạy ở sân điện tâu rằng: "Ơn vua ban không đều". Hữu ty hỏi v́
cớ ǵ? Cầm nói: "Nam Việt ở xa không được trời che, đất chở, cho nên
mưa ngọt không xuống, gió mát không đến". Lời ư khẩn thiết đau đớn.
Vua Hán xuống chiếu an ủi, lấy một người mậu tài nước ta làm Huyện
lệnh Hạ Dương, một người hiếu liêm làm Huyện lệnh Lục Hợp (Cầm là
người Giao Châu). Sau Lư Cầm làm quan đến Tư lệ hiệu úy, Trương
Trọng làm Thái thú Kim Thành. Như thế nhân tài nước Việt ta được
cùng tuyển dụng như người Hán là mở đầu từ Lư Cầm, Lư Tiến vậy. (Trọng
người quận Nhật Nam,
khi trước
đến Lạc Dương, gặp hội lớn tết Nguyên Đán, Tấn Minh Đế83
hỏi: "Ở quận Nhật Nam hướng về phía bắc để trông mặt trời phải không?"
Trọng đáp rằng: "Nay trong các quận, có quận gọi là Vân Trung (trong
mây), là Kim Thành (thành vàng), không hẳn phải có thật. C̣n như
phong khí ấm áp, mặt trời đứng bóng trên đầu sinh dân [9b] th́ vẫn
có thế". Xét: Khoảng niên hiệu Nguyên Gia [424-454] đời Tống Văn Đế,
[quân Tống] đi đánh Lâm Ấp ở phương nam, tháng năm, dựng nêu để đo
bóng, thấy mặt trời ở về phía bắc cây nêu 9 tấc 1 phân84
Giao Châu th́ bóng ở về phía nam cây nêu 3 tấc 3 phân. Giao Châu
cách Lạc Thủy hơn 6,7 ngh́n dặm. Chỗ dựng nêu tính đường dây thẳng
th́ nên bớt đi ngh́n dặm. Năm Khai Nguyên thứ 12 [724] thời Đường,
đo ở Giao Châu vào ngày hạ chí, bóng ở phía nam cây nêu 3 tấc 3 phân,
cũng giống số đo năm Nguyên Gia. Sách Luận Hành của Vương Sung nói:
"Quận Nhật Nam ở cách Lạc [Dương] gần vạn dặm về phía nam mặt trời."
Lư Thuyên nói: "Từ phủ An Nam đến Trường An cách 7.250 dặm". Mạnh
Quán nói: "Lấy bốn phương mà đo th́ An Nam đứng vào đất cuối cùng
của Trung Quốc").
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Người quân tử đối với lời nói không thể cho qua
được. Ngày xưa Tông Miệt85 nếu không có lời nói th́ cùng
với cỏ cây mục nát mà thôi. Lư Cầm không có lời nói th́ sao được
dùng ở đời, mà người tài giỏi của nước Việt ta, người phương bắc làm
sao biết được? Lời nói không thể cho qua là v́ vậy. Tuy nhiên, đây
chỉ nói riêng về nhân tài thôi, c̣n như Nhan [Hồi], Mẫn [Tử Khiên]
th́ không nói thế được.
[10a]
Đinh Hợi, năm thứ 21 [207], (Hán Kiến An năm thứ 12). Viên Huy nhà
Hán gửi thư cho Thượng thư lệnh là Tuân Úc rằng: "Giao Châu Sĩ phủ
quân86 đă học vấn sâu rộng lại thông hiểu chính trị,
trong thời buổi đại loạn, giữ vẹn được một quận hơn 20 năm, bờ cơi
không xảy ra việc ǵ, dân không mất nghiệp, những bọn khách xa đến
trú chân87 đều được nhờ ơn, dẫu Đậu Dung giữ đất Hà Tây
cũng không hơn được. Khi việc quan có chút nhàn rỗi th́ chăm xem các
sách thư, truyện. Phàm những chỗ biên chép không rơ ràng trong sách
Xuân Thu Tả thị truyện, [tôi] đem hỏi, đều được ông giảng giải cho
những chỗ nghi ngờ, đều có kiến giải của bậc thầy, ư tứ rơ ràng,
chặt chẽ. Lại như sách Thượng thư, cả cổ văn và kim văn, những ư
nghĩa to lớn, ông đều hiểu biết tường tận, đầy đủ. Anh em ông làm
quan coi quận, hùng trưởng một châu, ở lánh ngoài muôn dặm, uy tín
không ai hơn. Khi ra vào th́ đánh chuông khánh, uy nghi đủ hết; kèn
sáo thổi vang, xe ngựa đầy đường, người Hồ88 đi sát bánh
xe để đốt hương thường có đến mấy mươi người; vợ cả, vợ lẽ đi xe che
kín, bọn con em cưỡi ngựa dẫn quân theo [10b] hầu, người đương thời
ai cũng quư trọng, các man di đều sợ phục, dẫu Úy Đà cũng không hơn
được". (Huy bấy giờ ngụ ở Giao Châu). Sau vua Hán sai Trương Tân làm
Thứ sử. (Tân nhận chức năm Kiến An thứ 6 [221] thời Hán). Tân thích
việc quỷ thần, thường đội khăn đỏ, gảy đàn, đốt hương, đọc sách Đạo
giáo, nói rằng có thể giúp việc giáo hóa, [sau] bị tướng là Khu Cảnh
giết, châu mục Kinh Châu là Lưu Biểu sai Huyện lệnh Linh Lăng là Lại
Cung thay Tân. Vua Hán nghe tin Tân chết, gửi cho vương [Sĩ Nhiếp]
bức thư có đóng dấu ấn nói rằng: "Giao Châu ở cơi xa, một dải sông
biển ở phía nam, ơn trên không truyền đến, nghĩa dưới bị nghẽn tắc,
thế mà nghịch tặc Lưu Biểu lại sai Lại Cung ḍm ngó đất
Nam89
, nay cho khanh làm Tuy Nam trung lang tướng trông coi bảy quận,
lĩnh Thái thú Giao Châu như cũ". Vương sai thuộc lại là Trương Mân
mang đồ cống sang kinh đô nhà Hán. Bây giờ thiên hạ loạn lạc, đường
sá đứt nghẽn, nhưng vương vẫn không bỏ việc nộp cống. Vua Hán lại
xuống chiếu cho làm An Viễn [11a] tướng quân, phong tước Long Độ
Đ́nh hầu. Sau Thái thú Thương Ngô là Ngô Cự bất ḥa với Cung, đem
binh đánh đuổi, Cung chạy về Linh Lăng.
Canh Dần,
năm thứ 24 [210], (Hán Kiến An năm thứ 15). Ngô Vương là Tôn Quyền
sai Bộ Chất làm Thứ sử Giao Châu. Khi Chất đến, vương đem anh em đến
vâng theo mệnh lệnh. Ngô Vương cho vương làm Tả tướng quân. Sau
vương sai con là Ngẩm90 làm con tin ở nước Ngô, Ngô Vương
cho làm Thái thú Vũ Xương. Các con của vương ở Nam đều cho làm Trung
lang tướng. Vương lại dỗ bảo thổ hào ở Ích Châu là bọn Ung Khải đem
dân chúng trong quận phụ thuộc xa với nước Ngô ở miền đông. Ngô
Vương càng khen, thăng làm Vệ tướng quân, tước Long Biên hầu. Vương
thường sai sứ sang nước Ngô dâng các thứ hương liệu, vải mịn, kể số
hàng ngh́n. Các thứ quư lạ như ngọc trai, ốc lớn, lưu ly, lông trả,
đồi mồi, sừng tê, ngà voi [11b] cùng các thứ quả lạ như chuối, dừa,
long nhăn, không năm nào không tiến, lại cống ngựa hàng mấy trăm
con. Ngô Vương viết thư ban cho rất hậu để yên ủi và đáp lại.
Lê Văn
Hưu nói: Sĩ Vương biết lấy khoan hậu khiêm tốn để kính trọng kẻ sĩ,
được người thân yêu mà đạt đến quư thịnh một thời. Lại hiểu nghĩa,
thức thời, tuy tài và dũng không bằng Triệu Vũ Đế, nhưng chịu nhún
ḿnh thờ nước lớn, để giữ vẹn bờ cơi, có thể gọi là người trí. Tiếc
rằng con nối không gánh vác nổi cơ nghiệp của cha, để cho bờ cơi
nước Việt đă toàn thịnh mà lại bị chia cắt, đáng buồn thay !
Bính Ngọ,
năm thứ 40 [226], (Hán Hậu Chúa Thiện, Kiến Hưng năm thứ 4; Ngô Tôn
Quyền, Hoàng Vũ năm thứ 5). Vương mất. Trước vương ốm, đă chết đi 3
ngày, người tiên là Đổng Phụng cho một viên thuốc ḥa vào nước ngậm,
rồi đỡ lấy đầu mà lay [12a] động, mộc chốc lát mở mắt động tay, sắc
mặt b́nh phục dần dần, ngày hôm sau ngồi dậy được, 4 ngày lại nói
được, rồi trở lại b́nh thường. (Phụng tên tự là Xương Dị, người
huyện Hầu Quan, sự tích có chép trong Liệt tiên truyện. Hầu Quan là
tên huyện, thuộc Phúc Châu).
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Nước ta thông thi thư, học lễ nhạc, làm một nước
văn hiến, là bắt đầu từ Sĩ Vương, công đức ấy không những chỉ ở
đương thời mà c̣n truyền măi đời sau, há chẳng lớn sao? Con không
hiền là tội của con thôi. Tục truyền rằng sau khi vương chết đă chôn,
đến cuối thời nhà Tấn đă hơn 160 năm, người Lâm Ấp vào cướp, đào mộ
của vương, thấy ḿnh mặt vẫn như sống, cả sợ lại đắp lại, người địa
phương cho là thần, làm miếu để thờ gọi là "Tiên Sĩ Vương". Có lẽ là
khí tinh anh không nát, cho nên thành thần vậy. (Đền thờ tại thành
cũ Long Biên 91 )
[12b] Trở
lên là [kỷ] Sĩ Vương, từ năm Đinh Măo đến năm Bính Ngọ, tất cả 40
năm [187-226].
63 Thạch
Đái: làm thái thú 9 quận, Cương mục (TB2, 6b) sửa là thứ sử bộ Giao
Chỉ. Nhưng thứ sử là chức quan được đặt vào năm Nguyên Phong thứ 5
(106 TCN) đời Hán Vũ Đế.
64 Yên
Lăng: nay thuộc tỉnh Vĩnh Phú.
65 Huyện
Mê Linh: thời thuộc Hán bao gồm phần đất tỉnh Vĩnh Phú và một số
huyện thuộc ngoại thành Hà Nội ngày nay.
66 Huyện
Chu Diên: thời thuộc Hán ở miền lưu vực sông Đáy (thuộc một phần đất
Hà Tây và Hà Nam Ninh).
67 Ở đây,
Toàn thư cho Lăng Bạc là Hồ Tây (Hà Nội), nhưng như vậy là lầm.
Nhiều nhà nghiên cứu đă đoán định Lăng Bạc ở vùng huyện Tiên Sơn,
tỉnh Hà Bắc ngày nay.
68 Chuyện
cột đồng Mă Viện được chép trong một số tài liệu của Trung Quốc,
nhưng đều không ăn khớp với nhau. Cho cột đồng ở Cổ Lâu (Khâm Châu)
chỉ là một thuyết, CMTB2, 13b chép là Cổ Sâm (theo Nhất Thống Chí
của nhà Thanh).
69 Kiển:
ổ kén.
70 Nay ở
Hát Môn, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây.
71 Phương
bá: gọi chung quan đứng đầu địa phương, nhưng thường chỉ quan đứng
đầu một châu như Thứ sử, Quan sát sứ thời Hán, Bồ chính sứ thời Minh
- Thanh, v.v...
72 Về
việc Chu Xưởng dâng biểu, Cương mục ghi rơ: "Khoảng thời Hán Thuận
Đế, Thái thú Giao Chỉ là Chu Xưởng xin lập đất Giao Chỉ làm một châu,
triều đ́nh bàn định không cho, nhưng phong cho Chu Xưởng làm Thứ sử
Giao Chỉ" (CMTB2, 17b, dẫn Tấn Chí). Như vậy nhà Hán chỉ cho Xưởng
làm Thứ sử là chức quan chính thức của người cai quản một châu, c̣n
việc lập riêng một châu (lĩnh các quận) th́ măi đến năm Kiến An thứ
8 (203) mới thực hiện.
73 Nam
Châu: châu ở phương Nam, chỉ Giao Châu.
74 Ô Hử:
tên tộc thiểu số ở vùng núi Ô Hử thuộc huyện Hoành, tỉnh Quảng Tây
(CMTB2, 24a dẫn Hậu Hán Thư và Nam Châu Dị Vật Chí cũng ghi Ô Hử ở
phía nam Quảng Châu, phía bắc Giao Châu). Nguyên bản in nhầm là Điểu
Hử, chữ Ô dễ nhầm với chữ Điểu.
75 Nguyên
bản in nhầm là: "thổ quận binh", đúng ra là "thất quận binh" (theo
Hậu Hán Thư q.71, Chu Tuấn truyện), chữ thất dễ nhầm với chữ thổ.
76 Tức là
bộ Giao Chỉ.
77 Năm này chỉ ghi tên
năm Can Chi và niên hiệu nhà Hán, không thấy ghi việc.
78 Tác giả Toàn Thư theo
quan điểm chính thống đương thời đề cao nho học, coi Sĩ Nhiếp là
người có công đầu trong việc truyền dạy chữ Hán ở nước ta. Cương mục
(phàm lệ) có nhận xét: "Sĩ Nhiếp theo lệnh triều đ́nh Trung Quốc
phái sang làm Thái thú, không từng xưng vương bao giờ, thế mà sử cũ
cũng chép riêng thành một kỷ, nay tước bỏ đi, chỉ chép thẳng công
việc thời ấy để ghi lấy sự thực ...". Để tôn trọng tác giả, chúng
tôi vẫn giữ đúng nguyên bản, nhưng chỉ phiên âm chữ "vương" chứ
không dịch là vua như đối với các đế vương khác: hết kỷ Sĩ Vương th́
dịch thẳng là Sĩ Nhiếp.
79 Nguyên bản in chữ theo
Khang Hy tự điển, đó là lối viết không chính thức (tục tự) của chữ.
Các tự điển cổ dẫn trong tự điển nói trên đều chua âm đọc hai chữ ấy
là Tiếp (hoặc phiên: tô hiệp thiết; hoặc phiên: tất hiệp thiết)
CMTB2, 29a cũng chua âm là Tiếp (tô thiếp thiết). Nhưng ở đây chúng
tôi vẫn phiên là Nhiếp theo thói quen lâu nay.
80 Liên Lâu: cũng thường
đọc là Luy Lâu, ở Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc, nay c̣n di tích thành,
theo nhiều nhà khoa học, thành Liên Lâu không phải là Long Biên.
81 Sĩ VĨ, Toàn thư chép
với chữ; theo Tam quốc chí [Sĩ Nhiếp truyện] tên đúng là chữ (đều âm
Vĩ).
82 Tức nội địa Trung Quốc.
83 Về việc Trương Trọng
giải thích tên gọi quận Nhật Nam, lời chú thích của Toàn Thư ở đây
ghi là trả lời câu hỏi của Tấn Minh Đế (323-326). Cương mục căn cứ
theo Lĩnh Nam di thư ghi là Trọng trả lời câu hỏi của Hán Minh Đến
(58-76) chứ không phải Tấn Minh Đế. Do đó, nếu kể nhân tài nước ta
được tuyển dụng như người Hán th́ phải kể Trương Trọng là người mở
đầu (CMTB2, 27).
84 Nguyên văn trong Toàn
thư: "Nhật tại biểu bắc cửu thốn nhất phân". Câu này vô nghĩa v́ mặt
trời không thể ở phía Bắc nêu 9 tấc 1 phân. Tân Đường thư, q.31,
Thiên văn chỉ chép rơ là: "Mặt trời ở phía bắc, bóng ở Giao Châu ở
về phía nam là 3 tấc, ở Lâm Ấp là 9 tấc 1 phân". Như vậy các số đo ở
đây là của bóng cây nêu. Ở Lâm Ấp cũng như ở Giao Châu, trong tháng
năm, mặt trời đều ở phía bắc và bóng cây nêu đều đổ về phía nam. Nếu
cây nêu dùng để đo cùng một kích thước th́ càng ở xa về phía nam,
như Lâm Ấp, bóng càng dài hơn.
85 Tông Miệt: tự Nhiên
Minh, người nước Trịnh, thời Xuân Thu, có tiếng là người hiền nhưng
tướng mạo xấu xí. Khi Thúc Hướng nước Tấn sang Trịnh, Miệt đứng hầu
dưới sân, chỉ nghe một lời bàn việc. Thúc Hướng liền biết đó là Tông
Miệt, bèn xuống thềm dắt tay mời lên.
86 Phủ quân: tức Thái thú.
Thời Hán, dinh Thái thú gọi là phủ, do đó gọi Thái thú là phủ quân.
87 Nguyên văn: "ky lữ",
chỉ người Hán tránh loạn ở Trung Quốc chạy sang nước ta.
88 Hồ nhân: chỉ các nhà
sư Ấn Độ, Trung Á đến truyền đạo ở Liên Lâu, trị sở của bộ Giao Chỉ
thời bấy giờ.
89 Cuối đời Hán Hiến Đế,
Lưu Biểu làm Thứ sử Kinh Châu, không thần phục nhà Hán.
90 Lời chú của Cương mục
nói: Con Sĩ Nhiếp là Hàm, sử cũ (tức Toàn Thư) chép sai là Ngẩm.
91 Đền Sĩ Nhiếp ở thành
Liên Lâu và Tam Á gần đó. Toàn thư cho Liên Lâu là Long Biên nên chú
như vậy.
Quyển IV
Kỷ Thuộc Ngô , Tấn , Tống
, Tề , Lương
Đinh Mùi, [227], (Hán
Kiến Hưng năm thứ 5; Ngô Hoàng Vũ năm thứ 6), Vua Ngô nghe tin Sĩ
Nhiếp mất, thấy Giao Châu ở xa cách, mới chia từ quận Hợp Phố trở về
bắc thuộc vào Quảng Châu, cho Lữ Đại làm Thứ sử; từ quận Hợp Phố trở
về nam thuộc vào Giao Châu, cho Đái Lương làm Thứ sử. Lại sai Trần
Th́ làm Thái thú thay Sĩ Nhiếp. Đại ở lại Nam Hải. Lương và Th́ cùng
lên đường. Đến Hợp Phố nghe tin ở Giao Châu con Sĩ Nhiếp là Huy đă
tự làm Thái thú, đem tông binh ra chống cự. (Cuối thời nhà Hán, tôn
thất nổi loạn, người Nam cũng tụ họp họ hàng làm binh để tự vệ, cho
nên gọi là tông binh). Lương ở lại Hợp Phố. Thuộc lại của Sĩ Nhiếp
là Hoàn Lân cúi đầu can Huy, xin đón Lương, Huy giận đánh chết Lân.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
Từ xưa hễ giết bề tôi can ngăn th́ chưa từng không mất nước. Nước
Trần giết [1b] Tiết Dă, nước Tề giết Cô Huyên, việc nước Trần, nước
Tề đáng làm gương soi, lấy đó làm răn. Thế mà c̣n có người giết bề
tôi căn ngăn như Sĩ Huy, nối nghiệp chưa kịp quay gót mà đă phải
chết là đáng lắm.
Anh của Lân là Trị và con
là Phát lại họp tông binh đánh Huy. Huy đóng cửa thành để giữ. Bọn
Trị đánh mấy tháng không hạ được thành, bèn giảng ḥa và đều băi
binh. Kế đó Lữ Đại vâng chiếu nước Ngô đánh Huy, đem quân từ Quảng
Châu, ngày đêm đi gấp đến Hợp Phố, cùng với Lương đều tiến, dụ con
của Sĩ Nhiếp là Trung Lang Tướng Khuông92 bảo Huy ra chịu tội, tuy
mất chức quận thú, nhưng bảo đảm không có lo ngại ǵ khác. Đại theo
Khuông đến sau. Anh Huy là Chi, em Huy là bọn Cán, Tụng sáu người
cởi trần93 đón Đại. Đại mặc áo thường94 đi thẳng đến quận trị. Sáng
hôm sau, Đại bày màn trướng, mời anh em Huy theo thứ tự đi vào. Tân
khách đầy nhà, Đại đứng dậy cầm phù tiết đọc tờ chiếu kể tội Huy, tả
hữu trói quặt [2a] [anh em Huy] đưa ra ngoài, đem chém cả, lấy đầu
đưa về Vũ Xương.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
Sĩ Huy cha mất không xin mệnh mà đă tự lập, lại đem quân chống mệnh,
theo nghĩa th́ phải đánh. Nhưng Lữ Đại đă dụ [Huy] ra hàng mà lại
giết đi là trái lẽ. Giữ điều tin là báu của nước. Huy đă hàng cứ
trói giải về Vũ Xương, khiến cho việc sinh sát được quyết ở trên, mà
uy tín lan xuống kẻ dưới, há chẳng hay hơn ư? Tôn Thịnh nói: "Ḥa
với người phương xa, được ḷng người ở gần, không ǵ hay hơn chữ Tín".
Lữ Đại giết kể đầu hàng để cầu công, người quân tử lấy làm chê cười,
xem thế mới biết họ Lữ không được lâu là phải lắm.
Nhất, Vĩ và Khuông sau
mới ra hàng, được Ngô Vương tha tội, cùng với con tin của Sĩ Nhiếp
là Ngẩm, đều giáng làm thứ nhân. Được vài năm, Nhất và Vĩ có tội bị
giết, duy có Khuông ốm chết trước. Đến khi Ngẩm chết, đại [2b] tướng
của Huy là Cam Lễ và Hoàn Trị đem lại dân đánh Đại, Đại đánh tan
được. Bấy giờ mới bỏ
Quảng Châu, đặt lại Giao Châu như cũ. Đại tiến đánh quận Cửu Chân,
chém và bắt được kể hàng vạn người.
Tân Hợi, [231], (Hán Kiến
Hưng năm thứ 9; Ngô Hoàng Vũ năm thứ 3). Người man Ngũ Khê ở Vũ Lăng
nước Ngô làm phản. Ngô Vương cho là đất miền Nam đă dẹp yên, gọi Thứ
sử Lữ Đại về. Thái thú Hợp Phố là Tiết Tống95 dâng sớ nói: "Ngày xưa
vua Thuấn đi tuần phương nam, mất ở Thương Ngô, nhà Tần đặt các quận
Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận, thế th́ bốn quận96 ấy nội thuộc đă lâu
rồi. Triệu Đà nổi dậy ở Phiên Ngung, vỗ về thần phục được vua Bách
Việt, đó là miền đất về phía nam quận Châu Nhai, Hiếu Vũ (nhà Hán)
giết Lữ Gia, mở 9 quận, đặt chức Thứ sử ở Giao Chỉ, dời những người
phạm tội ở Trung Quốc sang ở lẫn vào các nơi ấy, cho học sách ít
nhiều, hơi thông hiểu lễ hóa. Đến khi Tích Quang làm Thái thú Giao
Chỉ, Nhâm Diên làm Thái thú Cửu Chân, dựng nhà học, dẫn dắt bằng lễ
nghĩa. Từ đấy trở đi, hơn 400 [3a] năm, dân tựa hồ đă có quy củ.
Nhưng đất rộng người đông, núi rừng hiểm trở, dễ làm loạn. Thần từng
thấy Hoàng Cái ở Nam Hải làm Thái thú Nhật Nam, khi đến nơi thấy đồ
cung đốn, trần thiết không đủ, đánh chết người chủ bạ, nhưng rồi
cũng bị đánh đuổi. Thái thú Cửu Chân là Đam Manh v́ bố vợ là Chu
Kinh mà bày tiệc mời các quan to. Khi rượu say cho cử nhạc, công tào
Phan Hâm đứng dậy múa, rồi mời Kinh. Kinh không chịu đứng lên, Hâm
cứ thúc ép măi. Manh nổi giận giết Hâm. Em của Hâm đem quân đến đánh
Manh. Thái thú Giao Chỉ trước là Sĩ Nhiếp sai quân đến đánh dẹp
không được. Bấy giờ Thứ sử Chu Phù phần nhiều cho người làng như bọn
Ngu Bao, Lưu Ngạn chia nhau làm trưởng lại, vơ vét của dân, một con
cá vàng thu thóc mộc hộc. Trăm họ oán ghét làm phản, kéo đi đánh phá
châu quận, Phù phải chạy ra biển. Bộ Chất đă lần lượt làm cỏ, kỷ
cương mới được chấn chỉnh lại. Sau Lữ Đại b́nh được loạn Sĩ Huy, đổi
đặt các trưởng lại, làm sáng tỏ kỷ cương của nhà vua, uy [3b] danh
khắp muôn dặm, lớn nhỏ đều theo. Do đó mà xem th́ giữ yên biên giới,
vỗ về dân xa quả thật là ở tại người. Bổ nhiệm các chức bá mục nên
chọn người thanh liêm. Ngoài cơi hoang phục th́ họa phúc lại càng hệ
trọng lắm. Nay Giao Châu tuy rằng tạm yên, nhưng c̣n bọn giặc lâu
nay ở Cao Lương97 bốn quận Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Châu Nhai
cũng chưa yên, trộm cướp thường tụ họp. Nếu Đại không trở lại phương
Nam nữa th́ Thứ sử mới nên chọn người nào cẩn thận chu đáo, có
phương lược mưu kế để vỗ về, mới có thể trị yên được. C̣n như hạng
người thường, chỉ biết giữ phép thường, không có mưu kỳ chước lạ th́
lũ ác nghịch98 ngày thêm nảy nở 99 ". Ngô Vương lại cho Đại làm Trấn
Nam tướng quân, phong tước Phiên Ngung hầu (có sách chép là phong
Ngụy quận Lăng Lệ Công).
Mậu Th́n, [284], (Hán
Diên Hy năm thứ 11; Ngô Vĩnh An năm thứ 1) 100 . Người Cửu Chân lại
đánh hăm thành ấp, châu quận rối động. Ngô Vương cho Hành Dương đốc
quân đô úy Lục Dận (có sách chép là Lục Thương) làm Thứ sử kiêm hiệu
úy. [4a] Dận đến nơi, lấy ân đức tín nghĩa hiểu dụ, dân ra hàng phục
đến hơn 3 vạn nhà, trong châu lại yên. Sau, người con gái ở quận Cửu
Chân là Triệu Ẩu tập họp dân chúng đánh chiếm các quận huyện (Ẩu vú
dài 3 thước, vắt ra sau lưng, thường ngồi trên đầu voi đánh nhau với
giặc). Dận dẹp yên được. (Sách Giao Chỉ chí chép: Trong núi ở quận
Cửu Chân có người con gái họ Triệu, vú dài 3 thước, không lấy chồng,
họp đảng cướp bóc các quận, huyện, thường mặc áo ngắn màu vàng, chân
đi giày mũi cong 101 , ngồi đầu voi mà chiến đấu, sau chết làm thần)
102 .
Quư Mùi, [263], (Hán Viêm
Hưng năm thứ 1, Ngô Vĩnh An năm thứ 16)103 . Mùa xuân, tháng 3, lúc
trước nhà Ngô lấy Tôn Tư làm Thái thú Giao Châu, Tư là người tham
bạo, làm hại dân chúng. Đến đây vua Ngô sai Đặng Tuân đến quận. Tuân
lại tự tiện bắt dân nộp 30 con công đưa về Kiến Nghiệp. Dân sợ phải
đi phục dịch đường xa, mới mưu làm loạn. Mùa hạ, tháng 4, quận lại
là Lữ Hưng giết Tư và Tuân, xin nhà Tấn đặt Thái thú và cho binh. (Xét
sách Cương mục chép là xin nhà Ngụy đặt quan, nhưng đến năm sau.
Ngụy nhường ngôi cho Tấn, th́ Ngụy cũng tức là Tấn). Các quận Cửu
Chân, Nhật Nam đều hưởng ứng. Năm ấy [4b] nhà Hán mất.
Giáp Thân, [264], (Ngụy
Tào Hoán Hàm Hy năm thứ 1, Ngô Tôn Hạo Nguyên Hưng năm thứ 1). Mùa
thu, tháng 7, nhà Ngô tách Giao Châu, đặt Quảng Châu. Bấy giờ Ngô đă
phụ vào Tấn. Nhà Tấn cho Lữ Hưng làm An Nam tướng quân đô đốc Giao
Châu chư quân sự, cho Nam Trung giáp quân là Hoắc Dặc xa lĩnh 104
Thứ sử Giao Châu, cho được tùy nghi tuyển dụng trưởng lại. Dặc dâng
biểu tiến cử Thoán Cốc (có sách chép là Phần Cốc) làm Thái thú, đem
thuộc lại là bọn Đổng Nguyên, Vương Tố đem quân sang giúp Hưng,
nhưng chưa đến nơi th́ Hưng đă bị công tào là Lư Thống giết. Cốc
cũng chết (có sách chép Cốc ốm chết).
Ất Dậu, [265], (Tấn Vũ Đế
Tư Mă Viêm, Thái Thủy năm thứ 1, Ngô Cam Lộ năm thứ 1), Vua Tấn sai
Mă Dung người Ba Tây thay Hưng. Dung ốm chết. Dặc lại sai Dương Tắc
người Kiện Vi thay Dung làm Thái thú.
[5a] Mậu Tư, [268], (Tấn
Thái Thủy năm thứ 4, Ngô Bảo Đỉnh năm thứ 3). Nhà Ngô lấy Lưu Tuấn
làm Thứ sử. Tuấn cùng với Đại đô đốc Tu Tắc105 và Tướng quân Cố Dung
trước sau 3 lần đánh Giao Châu. [Dương] Tắc đều chống cự và đánh tan
được cả. Các quận Uất Lâm, Cửu Chân đều theo về Tắc. Tắc sai tướng
quân là Mao Linh106 và Đổng Nguyên đánh quận Hợp Phố, giao chiến ở
Cổ Thành (tức là thành quận Hợp Phố), đánh tan quân Ngô, giết Lưu
Tuấn và Tu Tắc, dư binh tan chạy về Hợp Phố, Dương Tắc nhân đó dâng
biểu cử Mao Linh làm thái thú Uất Lâm, Đổng Nguyên làm Thái thú Cửu
Chân.
Kỷ Sửu, [269], (Tấn Thái
Thủy năm thứ 5, Ngô Kiến Hành năm thứ 1). Mùa đông, tháng 10, nhà
Ngô sai Giám quân Nhu Phiếm, Uy Nam tướng quân Tiết Hủ và Thái thú
quận Thương Ngô người Đan Dương là Đào Hoàng theo đường Kinh Châu
sang; Giám quân Lư Đỉnh, Đốc quân Từ Tồn theo đường biển Kiến An
sang, đều hội ở Hợp Phố để đánh [Dương] Tắc (Lư Đỉnh có sách chép là
Lư Húc).
Tân Măo, [271], (Tấn Thái
Thủy năm thứ 7, Ngô Kiến Hành năm thứ 3). Mùa hạ, tháng 4, Ngu Phiếm,
Tiết Hủ, Đào Hoàng chống nhau với Tắc, đánh nhau [5b] ở sông Phần107
Đào Hoàng thua, lui về giữ Hợp Phố, chết hai tướng. Hủ giận bảo
Hoàng: "Ngươi tự dâng biểu xin đi đánh giặc mà để chết mất hai tướng
th́ trách nhiệm ở đâu?" Hoàng nói: "Hạ quan không được làm theo ư
ḿnh, quân sĩ không ḥa thuận, cho nên đến nỗi thua như thế". Hũ
chưa nguôi giận, muốn đem quân trở về. Đêm ấy, Hoàng đem mấy trăm
quân đánh úp Đổng Nguyên, lấy được của báu, chở thuyền đem về. Hủ
bèn tạ lỗi, cho Hoàng lĩnh chức Tiền bộ đô đốc Giao Châu. Hoàng lại
theo đường biển, nhân khi bất ngờ, tiến thẳng đến châu. Nguyên chống
cự. Các tướng muốn đánh, Hoàng ngờ bên trong chỗ cầu găy có phục
binh, bèn dàn riêng một đội quân giáo dài ở đằng sau. Quân hai bên
vừa mới giao chiến, Nguyên giả cách lui, Hoàng đuổi theo, phục binh
quả nhiên kéo ra. Quân giáo dài quay lại đánh, phá tan bọn Nguyên,
giết Nguyên [tại trận], lấy những thuyền chở hàng hóa báu vật và mấy
ngh́n tấm thổ cẩm cướp được trước đây đem cho tướng giặc Phù Nghiêm
là Lương Tề108 . Tề đem [6a] hơn vạn người đến giúp Hoàng. Bấy
giờ Dương Tắc lấy tướng
của ḿnh là Vương Tố thay Nguyên. Dũng tướng của Nguyên là Giải Hệ
cùng ở trong thành. Hoàng sai em [của Hệ] là Tượng viết thư gửi cho
Hệ, lại sai Tượng ngồi xe ngựa, đánh trống thổi sáp, dẫn đường cho
ḿnh đi theo. Bọn Tố bảo nhau rằng: "Tượng như thế, Hệ tất có ư bỏ
bọn ta để đi theo". Bèn giết Hệ. Bọn Hủ và Hoàng bèn đánh lấy châu.
Nhà Ngô nhân đó dùng Đào Hoàng làm Thứ sử. Hoàng là người có mưu
lược, chu cấp kẻ nghèo khốn, ưa bố thí, được ḷng người, ai ai cũng
vui ḷng giúp việc, đến đâu cũng có công trạng. Trước đây vua Tấn
cho Dương Tắc làm Thứ sử Giao Châu, Mao Miện109 làm Thái thú, ấn
thao chưa gửi đến mà Tắc và Miện đă thua chết rồi. Nhân đó vua Tấn
truy tặng Tắc, Miện, Tùng, Năng (Tùng, Năng không kê cứu được110 )
tước Quan nội hầu. Công tào quận Cửu Chân là Lư Tộ giữ quận mà phụ
theo nhà Tấn, Hoàng sai tướng đi đánh, không được. Cậu của Tộ là Lê
Hoàn (có sách chép là Lê Minh) theo quân [của Hoàng], khuyên Tộ hàng,
Tộ gay gắt trả lời: "Cậu [6b] là tướng nước Ngô, Tộ là bề tôi nước
Tấn, chỉ có thể dùng sức mà đối xử với nhau thôi". Quân của Hoàng
phải đánh, giờ lâu mới hạ được thành.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
Bề tôi giữ đất, nếu ai cũng có ḷng như ḷng Lư Tộ th́ có thể gọi là
trung với chúa ḿnh thờ.
Vua Ngô cho Đào Hoàng làm
Thứ sử tŕ tiết đô đốc Giao Châu chư quân sự. Dưới thời các tướng
quân châu mục trước kia, các quận Vũ B́nh, Cửu Đức, Tân Xương, địa
thế hiểm trở, người Di Lăo hung tợn, đă mấy đời không chịu thần phục,
Hoàng đi đánh, dẹp yên được, mở thêm đất, đặt 3 quận, và hơn 30
huyện ở các nước phụ thuộc với quận Cửu Chân111 . Sau vua Ngô lấy
Hoàng làm Đô đốc Vũ Xương, cho Thái thú Hợp Phố là Tu Nguyên112 thay.
Dân địa phương đến hàng ngh́n người xin lưu Hoàng lại, bởi thế cho
Hoàng trở về nhiệm sở cũ. Sau vua Ngô hàng nhà Tấn, tự tay viết thư
sai Mă Tức Dung113 khuyên Hoàng quy thuận [nhà Tấn]. Hoàng khóc mấy
ngày, rồi sai sứ mang ấn [7a] thao về Lạc Dương. Vua Tấn xuống chiếu
cho phục chức, phong cho Hoàng tước Uyển Lăng hầu, lại đổi làm Quán
quân tướng quân. Hoàng ở châu 30 năm, tỏ ra người có ân có uy, được
người địa phương yêu mến. Đến khi chết, cả châu khóc thương như mất
cha mẹ hiền. Vua Tấn lấy Viên ngoại lang tán kỵ thường thị là Ngô
Ngạn làm Đô đốc thứ sử. Khi Hoàng mới mất, các thú binh ở Cửu Chân
làm loạn, đuổi Thái thú, người cầm đầu là Triệu Chỉ vây quận trị,
Ngạn dẹp yên cả. Ngạn giữ chức 25 năm, ân uy rơ rệt, dân trong châu
yên ổn, sau dâng biểu xin cho người thay. Vua Tấn cho Viên ngoại
lang tán kỵ thường thị là Cố Bí thay. Bí là người ôn ḥa, nhă nhặn,
cả châu yêu mến, không được bao lâu th́ mất. Người trong châu cố ép
con của Bí là Tham trông coi việc châu. Sau Tham chết, em là Thọ
trông coi việc châu, người châu không nghe. Thọ cố nài, bèn được coi
việc châu. Rồi giết trưởng lại là bọn Hồ Triệu, lại toan giết đốc
quân dưới trướng [7b] là Lương Thạc. Thạc chạy thoát được, dấy binh
đánh, bắt được Thọ. Mẹ Thọ sai lấy thuốc độc giết chết. Thạc bèn
chuyên quyền (có sách chép là cả mẹ của Thọ cũng bị giết bằng thuốc
độc), nhưng sợ dân t́nh không theo, bèn cho con trai của Hoàng là Uy
[đang làm] Thái thú Thương Ngô về lĩnh chức Thứ sử [Giao Châu]. Uy ở
chức rất được ḷng dân, được 30 năm114 th́ chết. Em trai Uy là Thục,
con trai [của Uy] là Tuy115 nối nhau làm thứ sử. Từ Cơ đến Tuy bốn
đời đều làm Thứ sử. Cơ là ông nội của Hoàng116 .
Mậu Dần, [318], (Đông Tấn
Nguyên Đế Tư Mă Duệ, Đại Hưng117 năm thứ 1). Mùa đông, tháng 10, vua
Tấn xuống chiếu cho Thứ sử Quảng Châu là Đào Khản làm Đô đốc Giao
Châu chư quân sự.
Nhâm Ngọ, [322], (Tấn
Vĩnh Xương năm thứ 1). Vương Đôn nhà Tấn lấy Vương Lượng làm Thứ sử,
sai đánh Lương Thạc. Thạc đem quân vây Lượng ở Long Biên.
[8a] Quư Mùi, [323], (Tấn
Minh Đế Thiệu, Thái Ninh năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 2, Đào Khản sai
quân đi cứu Vương Lượng, chưa đến nơi th́ Lương Thạc đă lấy được
Long Biên rồi. Thạc đoạt lấy cờ tiết của Lượng, Lượng không cho,
Thạc bèn chặt tay trái của Lượng, Lượng nói: "Chết c̣n không tránh,
chặt cánh tay th́ làm ǵ?". Được hơn 10 ngày th́ Lượng chết. Thạc
chiếm châu, hung bạo mất ḷng dân. Đào Khản sai tham quân là Cao Bảo
sang đánh, chém chết Thạc. Vua Tấn cho Khản lĩnh chức Thứ sử Giao
Châu, thăng hiệu là Chinh Nam đại tướng quân, được mở phủ riêng nghi
thức như tam ti. Không bao lâu, Thị lang Lại bộ là Nguyễn Phóng xin
làm Thứ sử, vua Tấn bằng ḷng. Phóng đến Ninh Phố gặp Cao Bảo, mời
Bảo đến dự cơm, đặt phục binh muốn giết Bảo. Bảo biết chuyện, liền
đem quân đánh Phóng (Phong là cháu họ của Hàm). Phóng chạy thoát,
đến châu được chốc lát th́ khát nước quá mà chết.
Quư Sửu, [353], (Tấn Mục
Đế San, Vĩnh Ḥa năm thứ 9). Mùa xuân, tháng 3, Nguyễn Phu nhà Tấn
làm Thứ sử Giao Châu. Phu đánh [8b] nước Lâm Ấp118 , phá được hơn 50
lũy. (Trước đây nhà Tấn khi đă b́nh được nhà Ngô, trưng binh ở Giao
Châu119 , Thứ sử Giao Châu là Đào Hoàng dâng thư nói: "Giao Châu
ngoài cách Lâm Ấp chỉ vài ngh́n dặm120 . Tướng Di [Lâm Ấp] là Phạm
Hùng đời đời trốn tránh làm giặc, tự xưng vương, nhiều lần đánh phá
trăm họ. Vả lại [nước ấy] liền với nước Phù Nam, rất nhiều chủng
người, bè đảng dựa nhau, cậy thế đất hiểm không chịu thần phục. Khi
trước c̣n thuộc nước Ngô th́ nhiều lần cướp bóc dân lành, phá quận
huyện, giết hại trưởng lại. Thần trước kia được nước cũ [Ngô] dùng,
cho đóng giữ phương Nam hơn 10 năm, tuy đă trừ được những tên đầu sỏ,
nhưng ở chốn núi sâu hang cùng vẫn c̣n có kẻ trốn tránh. Lúc đầu số
quân của thần trông coi là 8 ngh́n. V́ đất Nam ẩm thấp, có nhiều khí
độc, liền năm đánh dẹp, ốm chết hao hụt, hiện nay chỉ c̣n 2.400
người. Nay bốn biển thống nhất, không c̣n lo kẻ nào không thần phục,
đáng lẽ nên cuốn giáp hủy gươm [...]121 . Phàm việc phong trần, biến
đổi thường xảy ra th́nh ĺnh. Thần là người sót thừa của nước đă mất,
lời bàn không có ǵ khả thủ". Tấn Vũ Đế nghe theo, đến nay c̣n thấy
hiệu nghiệm).
Canh Th́n, [380], (Tấn Vũ
Đế 122 , Xương Minh, Thái Nguyên năm thứ 5). Mùa đông, tháng 10,
Thái thú Cửu Chân là Lư Tốn chiếm châu làm phản.
Tân Tỵ, [381], (Tấn Thái
Nguyên năm thứ 6). Thái thú Giao Châu là Đỗ Viện chém được Lư Tốn,
trong cơi lại được yên, thăng cho Viện làm thứ sử Giao Châu 117 . (Viện
người Chu Diên nước ta. Sách Giao Chỉ chí chép vào mục nhân vật nước
ta, xếp sau Sĩ Nhiếp).
[9a] Kỷ
Hợi, [399], (Tấn An Đế Đức Tông, Long An năm thứ 3). Mùa xuân, tháng
3, vua nước Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt đánh lấy Nhật Nam và Cửu Chân, rồi
vào cướp Giao Châu. Đỗ Viện đánh tan được.
Tân Hợi,
[411], (Tấn Nghĩa Hy năm thứ 7). Mùa hạ, tháng 4, Thái thú quận Vĩnh
Gia là Lư Tuần chạy sang [Giao Châu]. Trước đó, khi Thứ sử Đỗ Viện
chết (có sách nói Viện vốn người Kinh Triệu, ông là Nguyên, làm Thái
thú Hợp Phố, nhân đó Viện mới đến ở Giao Chỉ), vua Tấn cho con là
Tuệ Độ thay làm Thứ sử. Chiếu thư chưa đến nơi, Tuần đă đánh phá Hợp
Phố, tiến thẳng đến Giao Châu. Tuệ Độ đem các quan văn vơ ở châu phủ
chống nhau với Tuần ở Thạch Kỳ124 , đánh tan được. Quân của Tuần
sống sót khoảng 2 ngh́n người. Dư đảng của Lư Tốn là bọn Lư Thoát
kết tụ với dân Lư, Lạo hơn 5 ngh́n người để ứng theo Lư Tuần, ngày
Canh Tư kéo đến bờ nam Long Biên. Tuệ Độ bỏ hết gia tài để thưởng
quân sĩ, cùng Tuần giao chiến, ném đuốc đuôi trĩ đốt thuyền bè của
Tuần, cho bộ binh áp bờ sông bắn xuống. Thuyền của Tuần cháy hết,
[9b] bèn tan vỡ. Tuần biết thế nào cũng chết, bỏ thuốc độc cho vợ
con chết trước rồi gọi các nàng hầu con hát hỏi rằng: "Ai có thể
theo ta?" Phần nhiều đều trả lời: "Con sẻ, con chuột c̣n tham sống,
chết theo th́ khó lắm". Cũng có người nói: "Quan c̣n phải chết,
chúng tôi há lại muốn sống". Tuần bèn giết hết những kẻ không chịu
chết theo, rồi gieo ḿnh xuống sông mà chết. Tuệ Độ sai nhặt xác đem
chém đầu, cùng với vợ con của Tuần và bọn Thoát, đều lấy đầu đóng
ḥm đưa về Kiến Khang125 .
Quư Sửu,
[413], (Tấn Nghĩa Hy năm thứ 9). Mùa xuân, tháng 2, vua nước Lâm Ấp
là Phạm Hồ Đạt cướp quận Cửu Chân. Tuệ Độ đánh chém được.
Ất Măo,
[415], (Tấn Nghĩa Hy năm thứ 11). Mùa đông, tháng 12, quân Lâm Ấp
cướp Giao Châu. Tướng châu đánh bại được.
Canh Thân
, [420], (Tấn Cung Đế Đức Văn, Nguyên Hy năm thứ 2; Tống Vũ Đế Lưu
Dụ, Vĩnh Sơ năm thứ 1). Mùa thu, tháng 7, Tuệ Độ đánh Lâm Ấp, phá
được, chém giết đến quá nửa. Lâm Ấp xin hàng, Tuệ Độ cho. Những
người trước sau bị [Lâm Ấp] cướp bắt [10a] đều được trả về cả. Tuệ
Độ ở Giao Châu, mặc áo vải, ăn cơm rau, cấm thờ nhảm, sửa nhà học,
năm đói kém th́ lấy lộc riêng để chẩn cấp, làm việc cẩn thận chu đáo
cũng như việc nhà, lại dân sợ mà yêu. Cửa thành đêm vẫn mở, ngoài
đường không ai nhặt của rơi. Khi Tuệ Độ chết, tặng chức Tả tướng
quân, cho con là Hoằng Văn làm Thứ sử. Năm ấy nhà Tấn mất.
Đinh Măo,
[427], (Tống Văn Đế Nghĩa Long, Nguyên Gia năm thứ 4). Mùa hạ, tháng
4, ngày Canh Tuất, vua Tống gọi Hoằng Văn về làm Đ́nh Úy, cho Vương
Huy Chi làm Thứ sử. Bấy giờ Hoằng Văn đang ốm, cố ngồi xe lên đường,
có người khuyên chờ khỏi ốm hăy đi. Hoằng Văn nói: "Nhà ta ba đời
cầm phù tiết, thường muốn đem ḿnh sang chầu sân vua, huống chi nay
lại được gọi về". Bèn cứ đi, chết ở Quảng Châu.
Tân Mùi,
[431], (Tống Nguyên Gia năm thứ 8). Vua nước Lâm Ấp là Phạm Dương
Mại cướp phá quận Cửu Chân, bị quân châu đánh lui.
[10b]
Nhâm Thân, [432], (Tống Nguyên Gia năm thứ 9). Mùa hạ, tháng 5, vua
Lâm Ấp là Phạm Dương Mại sai sứ sang cống nước Tống, xin lĩnh Giao
Châu. Vua Tống xuống chiếu trả lời v́ đường xa không cho.
Lê Văn
Hưu nói: [Dù khỏe như] Bôn và Dục126 mà lúc c̣n thơ ấu cũng không
thể chống nổi người què, người thọt đă tráng niên. Nước Lâm Ấp thừa
lúc nước Việt ta
không có
vua, đến cướp Nhật Nam và Cửu Chân rồi xin quản lĩnh cả [Giao Châu],
có phải bấy giờ nước Việt ta không thể chống nổi nước Lâm Ấp ấy đâu!
Chỉ v́ không có người thống suất mà thôi ! Thời không bĩ măi, tất có
lúc thái. Thế không khuất măi, tất có lúc duỗi. Lư Thái Tông chém
đầu vua nước ấy là Sạ Đẩu, Lư Thánh Tông bắt vua nước ấy là Chế Củ,
bắt làm tù dân nước ấy 5 vạn người, đến nay vẫn c̣n phải chịu làm
tôi tớ, cũng đủ để rửa được mối hận thù hổ thẹn của mấy năm ô nhục
này.
[11a]
Bính Tư, [436], (Tống Nguyên Gia thứ 13)127 . Mùa xuân, tháng 2, vua
Tống sai Thứ sử Giao Châu là Đàn Ḥa Chi đánh Lâm Ấp. Trước kia, vua
Lâm Ấp là Phạm Dương Mại tuy sai sứ sang cống, nhưng vẫn không thôi
việc cướp bóc, cho nên vua Tống sai Ḥa Chi đi đánh. Bấy giờ người
quận Nam Dương là Tông Xác, nếp nhà đời đời Nho học, riêng Xác thích
việc vơ, thường nói: "Muốn cưỡi gió lớn mà phá sóng muôn dặm". Đến
khi Ḥa Chi đi đánh Lâm Ấp, Xác hăng hái xin đi theo quân. Vua Tống
cho Xác làm Chấn vũ tướng quân. Ḥa Chi sai Xác làm tiên phong.
Dương Mại nghe tin quân Tống sang, sai sứ dâng biểu xin trả lại
những người dân Nhật Nam bị bắt và nộp một vạn cân vàng, mười vạn
cân bạc. Vua Tống xuống chiếu bảo Ḥa Chi: "Nếu Dương Mại thực có
ḷng thành, cũng cho quy thuận". Ḥa Chi đến đóng ở đồn Chu Ngô (huyện
Chu Ngô từ thời Hán đến giờ thuộc quận Nhật Nam, bấy giờ đặt đồn thú
ở đấy), sai Hộ tào tham quân của phủ là bọn Khương Trọng Cơ (phủ là
phủ thứ sử Giao Châu) đi trước [11b] đến gặp Dương Mại, bị Dương Mại
bắt giữ. Ḥa Chi giận, tiến vây tướng của Lâm Ấp là Phạm Phù Long ở
thành Khu Túc 128 . Dương Mại sai tướng là Phạm Côn Sa Đạt đến cứu.
Xác lén đem quân đón đánh [Phạm] Con Sa Đạt, phá tan được. Tháng 5,
bọn Ḥa Chi hạ thành Khu Túc, chém Phù Long, thừa thắng tiến vào
Tượng Phố 129 . Dương Mại dốc sức cả nước ra đánh, lấy các vật che
bọc ḿnh voi, trước sau không hở. Xác nói: "Ta nghe nước ngoài có
giống sư tử, oai phục được trăm loài thú". Bèn làm h́nh sư tử để
chống lại voi, voi quả nhiên sợ chạy. Quân Lâm Ấp thua to. Ḥa Chi
thắng được Lâm Ấp, Dương Mại cùng với con đều chỉ chạy thoát thân,
thu được đồ châu báu lạ không biết bao nhiêu mà kể. Riêng Tông Xác
không lấy một thứ ǵ, ngày về nhà cũng chỉ có khăn áo xác xơ.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Có tài hữu dụng th́ không thể không đem ra thi thố,
há câu nệ v́ thói đời [12a] 130 hay sao? Người ta lập chí mỗi người
một khác. Người có chí về đạo đức th́ công danh không thể động được
ḷng, người có chí về công danh th́ phú quư không thể động được ḷng.
Chí của Tông Xác có lẽ ở công danh chăng ? Ngày trở về nhà, tài vật
không lấy một thứ ǵ, đó thực sự là phú quư không thể động được ḷng.
So với người có chí về đạo đức, cố nhiên không thể kịp, nhưng so với
người có chí về phú quư th́ hạng ấy c̣n kém xa.
Đinh Sửu,
[437], (Tống Nguyên Gia năm thứ 14). Mùa đông, tháng 10, ngày Nhâm
Ngọ, Đàn Ḥa Chi bỏ quan về.
Mậu Thân,
[468], (Tống Minh Đế Úc 131 , Thái Thủy năm thứ 4). Mùa xuân, tháng
3, Thứ sử Lưu Mục ốm chết. Người châu là Lư Trường Nhân giết những
bộ thuộc của châu mục đem từ Trung Quốc sang rồi chiếm giữ châu làm
phản, tự xưng là Thứ sử.
Mùa thu,
tháng 8, vua Tống lấy Nam Khang tướng là Lưu Bột làm Thứ sử Giao
Châu. Bột đến, bị Trường Nhân [12b] chống cự, không bao lâu th́ chết.
Tháng 11, Lư Trường Nhân sai sứ xin hàng và tự hạ xuống chức Hành
Châu sự127 . Vua Tống y cho.
Kỷ Mùi,
[479], (Tống Thuận Đế Chuẩn, Thăng Minh năm thứ 3; Tề Cao Đế Tiêu
Đạo Thành, Kiến Nguyên năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 3, ngày mồng 1,
có nhật thực.
Mùa thu,
tháng 7, vua Tề lấy Lư Thúc Hiến làm Thứ sử Giao Châu. Thúc Hiến là
em con chú con bác của Trường Nhân. Trước đó khi Thứ sử Trường Nhân
chết, Thúc Hiến thay lĩnh việc châu, v́ thấy hiệu lệnh chưa được thi
hành cho nên sai sứ sang xin nhà Tống cho giữ chức Thứ sử. Nhà Tống
lấy Thái thú Nam Hải là Thẩm Hoán làm Thứ sử Giao Châu, cho Thúc
Hiến làm Ninh Viễn quân tư mă, giữ chức Thái thú hai quận Vũ B́nh và
Tân Xương133 . Thúc Hiến đă được mệnh lệnh của triều đ́nh [nhà Tống],
ḷng người phục theo, bèn đem quân giữ nơi hiểm, không chịu thu nạp
Thẩm Hoán. Hoán lưu lại ở Uất Lâm, rồi chết. Vua Tề bèn cho Thúc
Hiến làm Thứ sử, vỗ yên đất phương Nam. Năm ấy nhà Tống mất.
[13a]
Giáp Tư, [484], (Tề Vũ Đế Di, Vĩnh Minh năm thứ 2). Lư Thúc Hiến
nhận mệnh xong liền cắt đứt việc cống hiến. Vua Tề muốn đánh.
Ất Sửu,
[485], (Tề Vĩnh Minh năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, ngày Bính
Th́n, vua Tề lấy Đại tư nông Lưu Khải làm Thứ sử, phát binh các quận
Nam Khang, Lư Lăng, Thủy Hưng đi đánh Lư Thúc Hiến. Thúc Hiến sai sứ
xin băi binh, dâng 20 cỗ mũ đâu mâu toàn bằng bạc cùng dải tua bằng
lông công. Vua Tề không cho. Thúc Hiến sợ bị Khải đánh úp, mới đi
đường tắt từ Tương Châu sang chầu vua Tề, Khải bèn vào trấn.
Canh Ngọ,
[490], (Tề Vĩnh Minh năm thứ 8). Mùa đông, tháng 10, Thứ sử là Pḥng
Pháp Thặng (thay Lưu Khải) chỉ thích đọc sách, thường cáo ốm không
làm việc, v́ thế trưởng lại134 là Phục Đăng Chi được chuyên quyền
[13b] thay đổi các tướng lại mà không cho Pháp Thặng biết. Lục sự là
Pḥng Tú Văn mách với Pháp Thặng. Pháp Thặng cả giận, giam Đăng Chi
vào ngục hơn 10 ngày. Đăng Chi hối lộ nhiều cho Thôi Cảnh Thúc, là
chồng của em gái Pháp Thặng, nên được thả ra, rồi đem bộ khúc đánh
úp châu trị, bắt Pháp Thặng, bảo Thặng rằng: "Sứ quân đă có bệnh,
th́ không nên khó nhọc", rồi giam ở một nhà riêng. Pháp Thặng không
có việc ǵ, lại gặp Đăng Chi xin đọc sách. Đăng Chi nói: "Sứ quân ở
yên c̣n sợ phát bệnh, há lại c̣n xem sách?", bèn không cho, rồi tâu
[với vua Tề] là Pháp Thặng bị bệnh động tim, không thể coi việc được.
Tháng 11, ngày Ất Măo, vua Tề cho Đăng Chi làm Thứ sử. Pháp Thặng về
đến Ngũ Lĩnh th́ chết.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Pḥng Pháp Thặng ham đọc sách mà bỏ việc quan đến
nỗi kẻ trưởng lại nhân đó chuyên quyên, thay đổi tướng lại, đó là
cái lỗi nghiện sách quá. C̣n như giam [Đặng Chi] vào ngục mà [14a]
trừng trị, thế là biết sửa lỗi rồi. Đến như nghe lời thỉnh thác [của
em rể] mà bỏ qua không hỏi đến nữa, th́ lỗi ấy to lắm, bị [Đặng Chi]
đánh úp lại là đáng, không chết là may. Cho nên phàm việc ǵ quá mức
trung th́ chưa từng không tai hại vậy.
Nhâm Ngọ,
[502], (Lương Vũ Đế Tiêu Diễn, Thiên Giám năm thứ 1). Năm ấy nhà Tề
mất.
Ất Dậu,
[505], (Lương Thiên Giám năm thứ 4). Mùa xuân, tháng 2, Thứ sử Giao
Châu là Lư Nguyên Khải chiếm châu làm phản, Trưởng sử là Lư Tắc dẹp
được (trước Nguyên Khải thay Đăng Chi làm Thứ sử, cho là nhà Lương
được nhà Tề nhường ngôi, chưa có ân uy ǵ, nhân đó giữ châu làm phản.
Đến đây Tắc đem tông binh đánh Nguyên Khải, giết được).
Bính Thân,
[516], (Lương Thiên Giám năm thứ 15). Mùa đông, tháng 11, [vua Lương]
xuống chiếu cho Lư Tắc làm Thứ sử, Tắc lại chém Lư Tông Lăo là dư
đảng của Nguyên Khải, lấy đầu chuyển về Kiến Khang, châu lại yên.
[14b],
Trở lên thuộc Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, từ năm Đinh Mùi đến năm
Canh Thân, cộng 314 năm [227 - 540].
Kỷ Nhà
Tiền Lư
Tiền Lư
Nam Đế
Ở ngôi 7
năm [541-547].
Vua có
chí diệt giặc cứu dân, không may bị Trần Bá Tiên sang đánh chiếm,
nuốt hận mà chết. Tiếc thay !
Vua họ Lư,
tên húy là Bí135 , người Thái B́nh [phủ] Long Hưng136 . Tổ tiên là
người Bắc, cuối thời Tây Hán khổ về việc đánh dẹp, mới tránh sang ở
đất phương Nam, được 7 đời th́ thành người Nam. Vua có tài văn vơ,
trước làm quan với nhà Lương, gặp loạn, trở về Thái B́nh. Bấy giờ
bọn thú lệnh tàn bạo hà khắc, Lâm Ấp cướp phá ngoài biên, vua dấy
binh đánh đuổi được, xưng là Nam Đế, đặt quốc [15a] hiệu là Vạn Xuân,
đóng đô ở Long Biên137 .
Tân Dậu,
năm thứ 1 [541], (Lương Đại Đồng năm thứ 7). Thứ sử Giao Châu là Vũ
Lâm hầu Tiêu Tư, v́ hà khắc tàn bạo, mất ḷng người. Vua vốn con nhà
hào trưởng, thiên tư lỗi lạc, làm quan không được vừa ư. Lại có
người là Tinh Thiều giỏi từ chương từng đến [kinh đô nhà Lương] xin
được chọn làm quan. Thượng thư bộ Lại nhà Lương là Sái Tôn cho rằng
họ Tinh trước không có ai hiển đạt, nên chỉ bổ cho chức Quảng Dương
môn lang. Thiều lấy làm nhục, trở về làng, theo vua mưu việc dấy
binh. Vua bấy giờ làm chức Giám quân ở châu Cửu Đức138 , nhân liên
kết với hào kiệt mấy châu, đều hưởng ứng. Có Triệu Túc tù trưởng ở
Chu Diên139 phục tài đức của vua, bèn dẫn đầu đem quân theo về. Tiêu
Tư biết việc, đem của đến hối lộ cho vua, rồi chạy về Quảng Châu.
Vua ra chiếm giữ châu thành (tức là Long Biên).
Nhâm Tuất,
năm thứ 2 [542], (Lương Đại Đồng năm thứ 8). Mùa đông, tháng 12, vua
Lương sai Tôn Quưnh, Lư Tử Hùng [15b] sang xâm chiếm. Quưnh lấy cớ
là chướng khí mùa xuân đương bốc, xin đợi đến mùa thu. Bấy giờ Thứ
sử Quảng Châu là Tân Dụ hầu Hoán140 không cho, Vũ Lâm hầu cũng thúc
giục. Bọn Tử Hùng đi đến Hợp Phố, 10 phần chết đến 6, 7 phần, quân
tan ră mà về. Tiêu Tư tâu vu [với vua Lương] rằng Quưnh và Tử Hùng
dùng dằng không chịu đi, đều bị buộc phải tự tử.
Quư Hợi,
năm thứ 3 [543], (Lương Đại Đồng năm thứ 9). Mùa hạ, tháng 4, vua
Lâm Ấp cướp quận Nhật Nam, vua sai tướng là Phạm Tu đánh tan ở Cửu
Đức.
Giáp Tư,
[Thiên Đức] năm thứ 1 [544], (Lương Đại Đồng năm thứ 10). Mùa xuân,
tháng giêng, vua nhân thắng giặc, tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi,
đặt niên hiệu, lập trăm quan, dựng quốc hiệu là
Vạn Xuân,
ư mong cho xă tắc truyền đến muôn đời vậy. Dựng điện Vạn Thọ làm nơi
triều hội. Lấy Triệu Túc làm Thái Phó, bọn Tinh Thiều, Phạm Tu đều
làm tướng văn, tướng vơ.
[16a] Ất
Sửu, [Thiên Đức] năm thứ 2 [545], (Lương Đại Đồng năm thứ 11). Mùa
hạ, tháng 6, nhà Lương cho Dương Thiêu 141 làm Thứ sử Giao Châu,
Trần Bá Tiên làm Tư mă, đem quân sang xâm, sai Thứ sử Định Châu là
Tiêu Bột hội với bọn Thiêu ở Giang Tây142 . Bột biết các quân lính
sợ đi đánh xa, nhân đó nói dối để giữ Thiêu ở lại. Thiêu học các
tướng để hỏi kế. Bá Tiên nói: "Giao Châu làm phản, tội do người tông
thất143 để mấy châu hỗn loạn, trốn tội đă nhiều năm nay. [Thứ sử]
Định Châu chỉ muốn trộm yên trước mắt, không nghĩ đến kế lớn. Tiết
hạ144 vâng chiếu đi đánh kẻ có tội, phải nên liều sống chết, há nên
dùng dằng không tiến để nuôi cho thế giặc thêm mạnh mà làm ngăn trở
quân ḿnh hay sao?" Rồi Bá Tiên đem quân đi trước, Thiêu cho Bá Tiên
làm tiên phong. Khi [quân của Bá Tiên] đến Giao Châu, vua đem 3 vạn
quân ra chống cự, bị thua ở Chu Diên, lại thua ở cửa sông Tô Lịch,
vua chạy về thành Gia Ninh145 . Quân Lương đuổi theo vây đánh.
[16b]
Bính Dần, [Thiên Đức] năm thứ 3 [546], (Lương Đại Đồng năm thứ 1).
Mùa xuân, tháng giêng, bọn Bá Tiên đánh lấy được thành Gia Ninh. Vua
chạy vào đất người Lạo ở Tân Xương. Quân Lương đóng ở cửa sông Gia
Ninh. Mùa thu, tháng 8, vua lại đem 2 vạn quân từ trong đất Lạo ra
đóng ở hồ Điển Triệt146 , đóng nhiều thuyền đậu chật cả mặt hồ. Quân
Lương sợ, cứ đóng lại ở cửa hồ không dám tiến vào. Trần Bá Tiên bảo
các tướng rằng: "Quân ta ở đây đă lâu, tướng sĩ mỏi mệt, vả lại thế
cô không có tiếp viện. Tiến sâu vào trong ḷng [nước] người, nếu một
đánh mà không thắng, th́ đừng mong sống sót. Nay nhân lúc bọ họ vừa
thua luôn mấy trận, ḷng người chưa vững, mà người Di Lạo ô hợp, dễ
đánh giết, chính nên cùng ra tay liều chết, cố sức đánh lấy, không
có cớ ǵ mà dừng lại th́ lỡ mất thời cơ". Các tướng đều im lặng,
không ai hưởng ứng. Đêm hôm ấy nước sông lên mạnh, dâng cao 7 thước,
tràn đổ vào hồ. Bá Tiên đem quân bản bộ theo ḍng nước tiến trước
vào. Quân Lương đánh trống reo ḥ mà tiến. Vua vốn không [17a] pḥng
bị, v́ thế quân vỡ, phải lui giữ ở trong động Khuất Lạo147 để sửa
binh đánh lại, ủy cho đại tướng là Triệu Quang Phục giữ việc nước,
điều quân đi đánh Bá Tiên.
Đinh Măo,
[Thiên Đức] năm thứ 4 [547], (Lương Thái Thanh năm thứ 1). Mùa xuân,
tháng giêng, ngày mồng 1, nhật thực. Triệu Quang Phục cầm cự với
Trần Bá Tiên, chưa phân thắng bại. Nhưng quân của Bá Tiên rất đông,
Quang Phục liệu thế không chống nổi bèn lui về giữ đầm Dạ Trạch148 .
Đầm này ở huyện Chu Diên, chu vi không biết bao nhiêu dặm, cỏ cây um
tùm, bụi rậm che kín, ở giữa có nền đất cao có thể ở được, bốn mặt
bùn lầy, người ngựa khó đi, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc nhỏ chống
sào đi lướt trên cỏ nước mới có thể đến được. Nhưng nếu không quen
biết đường lối th́ lạc không biết là đâu, lỡ rơi xuống nước liền bị
rắn độc cắn chết. Quang Phục thuộc rơ đường đi lối lại, đem hơn 2
vạn người vào đóng ở nền đất trong đầm, ban ngày [17b] tuyệt không
để khói lửa và dấu người, ban đêm dùng thuyền độc mộc đem quân ra
đánh doanh trại của quân Bá Tiên, giết và bắt sống rất nhiều, lấy
được lương thực để làm kế cầm cự lâu dài. Bá Tiên theo hút mà đánh,
nhưng không đánh được. Người trong nước gọi là Dạ Trạch Vương. (Tục
truyền thời Hùng Vương, con gái Hùng Vương là Tiên Dung Mỵ Nương149
ra chơi cửa biển. Thuyền về đến băi ở hương Chử Gia, Tiên Dung lên
trên băi, gặp Chử Đồng Tử trần truồng núp trong bụi lau, tự cho là
Nguyệt lăo xe duyên, bèn cùng nhau làm vợ
chồng, sợ
tội phải ở lánh trên bờ sông, chỗ ấy trở thành nơi đô hội. Hùng
Vương đem quân đến đánh. Đồng Tử và Tiên Dung sợ hăi đợi tội. Bỗng
nửa đêm mưa gió dữ dội làm rung chuyển nơi ở, rường cột tự bốc lên,
người và gà chó trong một lúc cùng bay lên trời, chỉ c̣n lại cái nền
không ở giữa đầm. Người bấy giờ gọi băi ấy là băi Tự Nhiên, đầm ấy
là đầm Nhất Dạ, nay vẫn c̣n tên gọi cũ).
Trở lên
là Tiền Lư Nam Đế, từ năm Tân Dậu đến năm Đinh Măo, tất cả 7 năm
(541- 547).
Kỷ Triệu
Việt Vương
(Xét sử
cũ không chép Triệu Việt Vương và Đào Lang Vương, nay nhặt trong dă
sử và các sách khác, bắt đầu chép vị hiệu của vương và phụ chép Đào
Lang Vương để bổ sung).
[18a]
Triệu Việt Vương
Phụ: Đào
Lang Vương
Ở ngôi 23
năm [548-570].
Vua giữ
đất hiểm, dùng kỳ binh để đánh giặc lớn, tiếc v́ quá yêu con gái đến
nỗi mắc họa v́ con rể.
Vua họ
Triệu, tên húy là Quang Phục, là con Triệu Túc, người huyện Chu Diên,
uy tráng dũng liệt, theo Nam Đế đi đánh dẹp có công, được trao chức
Tả tướng quân. Nam Đế mất, bèn xưng vương, đóng đô ở Long Biên, sau
dời sang Vũ Ninh150 .
Mậu Th́n,
năm thứ 1 [548], (Lương Thái Thanh năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 3,
ngày Tân Hợi, [Lư] Nam Đế ở động Khuất Lạo lâu ngày nhiễm lam chướng,
ốm chết.
Lê Văn
Hưu nói: Binh pháp có câu: "Ba vạn quân đều sức, thiên hạ không ai
địch nổi". Nay Lư Bí có 5 vạn quân mà không giữ được nước, thế th́
Bí kém tài làm tướng [18b] chăng ? Hay là quân lính mới họp không
thể đánh được chăng ? Lư Bí cũng là bậc tướng trung tài, ra trận chế
ngự quân địch giành phần thắng không phải là không làm được, nhưng
bị hai lần thua rồi chết, bởi không may gặp phải Trần Bá Tiên là kẻ
giỏi dùng binh vậy.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Tiền Lư Nam Đế dấy binh trừ bạo, đáng là thuận đạo
trời, thế mà cuối cùng đến nỗi bại vong, là v́ trời chưa muốn cho
nước ta được b́nh trị chăng ? Than ôi ! Không chỉ v́ gặ phải Bá Tiên
là kẻ giỏi dùng binh, mà c̣n gặp lúc nước sông đột ngột dâng lên trợ
thế [cho giặc], há chẳng phải cũng do trời hay sao ?
Kỷ Tỵ,
năm thứ 2 [549], (Lương Thái Thanh năm thứ 3). Vua ở trong đầm thấy
quân Lương không lui, mới đốt hương cầu đảo, khẩn thiết kinh cáo với
trời đất thần kỳ, thế rồi có điềm lành được mũ đâu mâu móng rồng
[19a] dùng để đánh giặc. Từ đó quân thanh lừng lẫy, đến đâu không ai
địch nổi (tục truyền rằng thần nhân trong đầm là Chử Đồng Tử bấy giờ
cưỡi rồng vàng từ trên trời rơi xuống, rút móng rồng trao cho vua,
bảo gài lên mũ đâu mâu mà đánh giặc).
Canh Ngọ,
năm thứ 3 [550], (Lương Giản Văn Đế Cương, Thái Bảo151 năm thứ 1).
Mùa xuân, tháng giêng, nhà Lương cho Trần Bá Tiên làm Uy minh tướng
quân Giao Châu thứ sử. Bá Tiên lại mưu tính cầm cự lâu ngày khiến
cho [ta] lương hết quân mỏi th́ có thể phá được. Gặp lúc nhà Lương
có loạn Hầu Cảnh, gọi [Bá Tiên] về, ủy cho t́ tướng là Dương Sàn
đánh nhau với vua. Vua tung quân ra đánh.
Sàn chống
cự, thua chết. Quân Lương tan vỡ chạy về Bắc. Nước ta được yên. Vua
vào thành Long Biên ở.
Anh của
Nam Đế là [Lư] Thiên Bảo, ở đất người Di Lạo, xưng là Đào Lang Vương,
lập nước gọi là nước Dă Năng. Trước đó, khi Nam Đế tránh ở động
Khuất Lạo, Thiên Bảo cùng với tướng người họ là Lư Phật Tử đem 3 vạn
người vào Cửu Chân. Trần Bá Tiên đuổi theo đánh, [19b] Thiên Bảo bị
thua, bèn thu nhặt quân c̣n sót được vạn người chạy sang đất người
Di Lạo ở Ai Lao, thấy động Dă Năng ở đầu nguôn Đào Giang, đất phẳng
rộng màu mỡ có thể ở được, mới đắp thành để ở, nhân tên đất ấy mà
đặt quốc hiệu. Đến bây giờ quân chúng tôn làm chúa, xưng là Đào Lang
Vương.
Ất Hợi,
năm thứ 8 [555], (Lương Kính Đế Phương Trí, Thiệu Thái năm thứ 1).
Đào Lang Vương mất ở nước Dă Năng, không có con nối, quân chúng suy
tôn Lư Phật Tử lên nối ngôi, thống lĩnh quân chúng.
Đinh Sửu,
năm thứ 10 [557], (Lương Thái B́nh năm thứ 2; Trần Vũ Đế Tiên, Vĩnh
Định năm thứ 1). Lư Phật Tử đem quân xuống miền Đông đánh nhau với
vua [Triệu Việt Vương] ở huyện Thái B́nh, năm lần giáp trận, chưa
phân thắng bại, mà quân của Phật Tử hơi lùi, ngờ là vua có thuật lạ,
bèn giảng ḥa xin ăn thề. Vua nghĩ rằng Phật Tử là người họ của Tiền
Nam Đế, không nỡ cự tuyệt, bèn chia địa giới ở băi Quân Thần (nay là
hai xă Thượng Cát, Hạ Cát ở huyện Từ Liêm) cho ở phía [20a] tây của
nước, [Phật Tử] dời đến thành Ô Diên (nay là xă Hạ Mỗ, huyện Từ Liêm,
xă ấy nay có đền thờ thần Bát Lang, tức là đền thờ Nhă Lang vậy).
Sau Phật Tử có con trai là Nhă Lang, xin lấy con gái của vua là Cảo
Nương. Vua bằng ḷng, bèn thành thông gia. Vua yêu quư Cảo Nương,
cho Nhă Lang ở gửi rể.
Canh Dần,
năm thứ 23 [570], (Trần Tuyên Đế Húc, Đại Kiến152 năm thứ 2). Nhă
Lang bảo vợ rằng: "Trước hai vua cha chúng ta cừu thù với nhau, nay
là thông gia, chẳng cũng hay lắm ư ? Nhưng cha nàng có thuật ǵ mà
có thể làm lui được quân của cha tôi ?". Cảo Nương không biết ư của
chồng, bí mật lấy mũ đâu mâu móng rồng cho xem. Nhă Lang mưu ngầm
tráo đổi cái móng ấy, rồi bảo riêng với Cảo Nương rằng: "Tôi nghĩ ơn
sâu của cha mẹ nặng bằng trời đất, vợ chồng ta ḥa nhă yêu quư nhau
không nỡ xa cách, nhưng tôi phải tạm dứt t́nh, về thăm cha mẹ". Nhă
Lang về, cùng với cha bàn mưu đánh úp vua, chiếm lấy nước.
[20b] Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói: Đàn bà gọi việc lấy chồng là "quy" th́ nhà
chồng tức là nhà ḿnh. Con gái vua đă gả cho Nhă Lang th́ sao không
cho về nhà chồng mà lại theo tục ở gửi rể của nhà Doanh Tần để đến
nỗi bại vong ?
Trở lên
là kỷ Triệu Vương, từ năm Mậu Th́n đến năm Canh Dần tất cả 23 năm
[548- 570].
Kỷ Hậu Lư
Hậu Lư
Nam Đế
Ở ngôi 32
năm [571-602].
Vua dùng
thuật gian trá để gồm lấy nước, mới thấy bóng giặc đă hàng trước,
việc làm trước sau đều phi nghĩa.
Vua họ Lư,
tên húy là Phật Tử, là tướng người họ của Tiền [Lư] Nam Đế, đuổi
Triệu Việt Vương, nối vị hiệu của Nam Đế, đóng đô ở thành Ô Diên,
sau dời đến Phong Châu.
[21a] Tân
Măo, năm thứ 1 [571], (Trần Đại Kiến153 năm thứ 3). Vua phụ lời thề,
đem quân đánh Triệu Việt Vương. Lúc đầu Việt Vương chưa hiểu ư vua,
thảng thốt đốc quân, đội mũ đâu mâu đứng chờ. Quân của vua cùng tiến
đến, Triệu Việt Vương tự biết thế yếu không thể chống được, bèn đem
con gái chạy về phía nam, muốn t́m nơi đất hiểm để ẩn náu tung tích,
nhưng đến đâu cũng bị quân của vua đuổi theo sau gót. Việt Vương
cưỡi ngựa chạy đến cửa biển Đại Nha, bị nước chắn, than rằng: "Ta
hết đường rồi !", bèn nhảy xuống biển. Vua đuổi theo đến nơi, thấy
mênh mông không biết [Việt Vương] đi đằng nào, bèn trở lại. Họ Triệu
mất nước. Người sau cho là linh dị, lập đền thờ ở cửa biển Đại Nha (Đại
Nha nay là huyện Đại An)154 .
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: "Lấy bá thuật mà xét th́ Hậu [Lư] Nam Đế đánh Triệu
Việt Vương là đắc kế, lấy vương đạo mà xét th́ việc ấy đă từng không
bằng chó lợn. Sao [21b] thế ? Là v́ khi Tiền Lư Nam Đế ở động Khuất
Lạo đem việc quân ủy cho Triệu Việt Vương. Việt Vương thu nhặt tàn
quân giữ hiểm ở Dạ Trạch bùn lầy, đương đầu với Trần Bá Tiên là
người hùng một đời, cuối cùng bắt được tướng của y là Dương Sàn.
Tiên, người phương Bắc, phải lui quân. Bấy giờ vua [Hậu Nam Đế] trốn
trong đất Di [Lạo], chỉ mong thoát khỏi miệng hùm mà thôi. May mà Bá
Tiên về Bắc, [Lư] Thiên Bảo chết, mới đem quân đánh [Triệu] Việt
Vương, dùng mưu gian trá xin ḥa, kết làm thông gia. Việt Vương lấy
ḷng thành đối đăi, cắt đất cho ở, những việc làm của Việt Vương đều
là chính nghĩa, giao hảo phải đạo, thăm viếng phải thời , há chẳng
phải là đạo trị yên lâu dài hay sao ? Thế mà [Hậu Nam Đế] lại dùng
mưu gian của Nhă Lang, vứt bỏ chính đạo nhân luân, kíp tham công lợi
mà diệt nhân nghĩa, đánh cướp lấy nước, tuy rằng lấy được, mà Nhă
Lang th́ chết trước, bản thân cũng không khỏi làm tù, có lợi ǵ đâu
?
[22a]
Nhâm Tuất, năm thứ 32 [602], (Tùy Văn Đế Dương Kiên, Nhân Thọ năm
thứ 1)155 . Vua sai con của anh là [Lư] Đại Quyền giữ thành Long
Biên, Biệt súy là Lư Phổ Đỉnh giữ thành Ô Diên (bấy giờ vua đóng đô
ở Phong Châu).
Dương Tố
nhà Tùy tiến cử Thứ sử Qua Châu là Lưu Phương người Trường An, có
tài lược làm tướng. Vua Tùy xuống chiếu lấy Tố làm Giao Châu đạo
hành quân tổng quản, thống lĩnh 27 doanh quân sang xâm chiếm. Quân
lệnh của Phương rất nghiêm, ai phạm tất chém. Nhưng Phương tính nhân
ái, binh sĩ người nào ốm đau đều thân đến thăm viếng nuôi dưỡng,
quân lính ai nấy đều mến đức và sợ uy. Đến núi Đô Long gặp giặc
cỏ156 , Phương đánh tan hết, rồi tiến quân sang đến cạnh dinh của
vua, trước lấy họa phúc mà dụ. Vua sợ xin hàng, bị đưa về Bắc rồi
chết. Dân làm đền thờ ở cửa biển Tiểu Nha157 để đối với đền thờ
Triệu Việt Vương.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Nam - Bắc mạnh yếu đều có từng lúc. Đương khi
phương Bắc [22b] yếu th́ ta mạnh, phương Bắc mạnh th́ ta cũng thành
yếu. Thế lớn trong thiên hạ là như vậy. Phàm kẻ có nước phải sửa
sang giáp binh, chỉnh đốn xe cộ quân lính, pḥng bị việc bất ngờ,
đặt hiểm để giữ nước, lấy lễ mà thờ nước lớn, lấy nhân mà vỗ nước
nhỏ. Ngày nhàn rỗi th́ dạy điều hiếu, đễ, trung, tín để cho người
trong nước biết rơ cái nghĩa kính thân người trên, chịu chết cho
người trưởng. Khi có họa xâm lăng th́ phải dùng lời văn để sửa đổi ư
định của họ, dùng lời nói mà bảo họ, lấy lễ vật ngọc lụa mà biếu cho
họ. Như thế mà vẫn không tránh được, th́ dù đến khốn cùng cũng phải
quay lưng vào thành mà đánh một trận, thề tử thủ cùng với xă tắc mất
c̣n, rồi sau mới không hổ thẹn. Lẽ nào mới thấy quân giặc đến cơi,
chưa xáp binh đao, đă
sợ hăi
xin hàng ! Vua đă hèn nhát mà tướng văn, tướng vơ đương thời không
ai từng có một lời nào nói đến, có thể bảo là trong nước không có
người vậy !
[23a] Trở
lên là kỷ Hậu Lư Nam Đế, từ năm Tân Măo đế năm Nhâm Tuất, tất cả 32
năm [571-602], tính chung cả Tiền Nam Đế, Triệu Việt Vương là 62 năm.
92 Cương
mục chép Sĩ Khuông là con Sĩ Nhất, tức là cháu chứ không phải con Sĩ
Nhiếp (CMTB3,4a).
93 Nguyên
văn: "nhục đản" nghĩa là để ḿnh trần không mặc áo, tỏ ư xin chịu
tội chết.
94 Nguyên
văn: "Đại vi phục ...". Theo Tam Quốc Chí, q.5 "Đại từ chối, bảo mặc
áo lại" (Ngô thư, Sĩ nhiếp truyện), ư nghĩa rơ ràng hơn: Lữ Đại vờ
tỏ cho anh em Sĩ Huy hiểu ư không bị tội nặng. Cương mục (TB3, 4a)
ngờ câu văn của Toàn Thư chép sai, đă sửa lại theo tài liệu đă dẫn.
95 Tức là
Tiết Kính Văn, như đă chép trong Cương Mục (TB3, 5b).
96 Nguyên
văn chép là "tứ quốc", hiểu là bốn quận (quận quốc)
97 Cao
Lương: tên huyện, thuộc quận Hợp Phố
98 "Quần
ác nhật tư" nguyên bản in nhầm chữ ________ quần thành chữ _______
quận.
99 Lời sớ
của Tiết Tổng chép trong Toàn Thư có khác một số chỗ với văn bản
trong Tam Quốc Chí, Ngô Thư q.8 Tiết Tống Truyện.
100 Năm
Mậu Th́n (248) đúng là niên hiệu Diên Hy thứ 11 đời Hán Hậu Thư chúa
Lưu Thiện, nhưng các văn bản Toàn Thư đều in chữ Hy (trong tên niên
hiệu) là _______ đúng ra là chữ ________. Lại về niên hiệu tương ứng
của nhà Ngô, các bản đều ghi nhầm là Vĩnh An năm thứ 1, đúng ra là
niên hiệu XÍch Ô năm thứ 11 đời Ngô Tôn Quyền.
101
Nguyên văn chữ Hán: "xỉ lư".
102 Thái
b́nh hoàn vũ kư của Nhạc Sử (thời Tống) cũng có chép sự tích bà
Triệu Ẩu với nội dung tương tự.
103 Năm
Quư Mùi (263), là niên hiệu Vĩnh An năm thứ 6 đời Ngô Tôn Hưu (Cảnh
Đế), chứ không phải Vĩnh An năm thứ 16 như nguyên bản đă lầm.
104
Nguyên văn: "Dao lĩnh", nghĩa là lĩnh chức cai trị ở một nơi xa mà
không cần phải đích thân đến đóng trị sở nơi ấy.
105
Nguyên bản in là Thái đô đốc, nên sửa là Đại đô đốc, theo Thông giám
và Tấn thư, Đào Hoàng truyện, CMTB3, 11b chép chức quan của Tu Tắc
là Bộ đốc.
106 Mao
Linh: các tài liệu của Trung Quốc như Thông Giám cương mục, Tam quốc
chí - Tôn Hạo truyện, Tấn Thư - Đào Hoàng truyện đều chép là Mao
Cảnh ____; CMTB3, 11b cũng sửa là Mao Cảnh.
107 Sông
Phần: ở huyện Tân Hội, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
108 CMTB3, 13a chép là
Lương Kỳ.
109 Mao Miện nói ở đây (và
ở 2 ḍng tiếp theo) đúng ra vẫn là Mao Cảnh mà ở tờ 5a Toàn thư đă
chép nhầm là Mao Linh.
110 CMTB3, 13b theo Tấn
Thư q.57 chép đủ họ tên là Lư Tùng và Thoán Năng.
111 Nguyên văn: ".... cập
cửu quân thuộc quốc tam thập dư huyện" (và 30 huyện ở các nước phụ
thuộc với 9 quận). CMTB3, 14b đă sửa lại cho đúng là "Cửu Chân thuộc
quốc ..."
112 CMTB3, 14b Tấn Thư (Đào
Hoàng truyện) đều chép là Tu Doăn (hai chữ: Doăn và Nguyên dễ nhầm
với nhau)
113 Mă Tức Dung: đoạn này
Toàn Thư dùng sử liệu của Tấn thư, Đào Hoàng truyện, mà ở truyện ấy
chép là: "khiển Hoàng Tức Dung ..."; Thông giám q.81 đă sửa lại là;
"khiển Đào Hoàng chi tử Dung" (sai con của Đào Hoàng là Dung). Như
vậy Mă Tức Dung nói đây đúng ra là Đào Dung, con của Đào Hoàng).
114 Tấn thư, Đào Hoàng
truyện chỉ ghi "tam niên" (?).
115 Việt sử lược, q.1, 6a
lại chép Tuy là con Thục.
116 Tấn thư, Đào Hoàng
truyện chép Cơ là cha của Hoàng.
117 Đại Hưng: đúng tên
niên hiệu này là Thái Hưng (318-321)
118 Tên nước Lâm Ấp được
nhắc đến từ thời Hậu Hán (Tấn thư, Lâm Ấp truyện) ở phần đất mà thời
Hán gọi là huyện Tượng Lâm, phía nam quận Nhật Nam. Khoảng thời
Đường, nước này được thư tịch Trung Quốc nhắc đến với cái tên Hoàn
Vương, sau đó là Chiêm Thành.
119 Nguyên văn: "Sơ, Tấn
b́nh Ngô, trưng Giao Châu binh" ... Theo Tấn Thư, Đào Hoàng truyện
th́ năm này v́ đă b́nh được nhà Ngô, cho nên nhà Tấn giảm bớt số
quân ở Giao Châu (giản Giao Châu binh), chứ không phải trưng binh ở
Giao Châu. Đào Hoàng v́ muốn xin xét lại việc giảm quân đó, cho nên
mới viết thư này.
120 CMTB3, 16a theo Tấn
Thư, Đào Hoàng truyện sửa là "chỉ bảy trăm dặm", hợp lư hơn.
121 Đoạn này Toàn Thư
chép tóm tắt phần sau bức thư của Đào Hoàng, nhưng ngắt không trọn
câu (cũng có thể chỉ là do sao chép hoặc khắc in bỏ sót cách quảng)
tạo ra một câu tối và trái nghĩa: "đương quyến giáp tiêu binh, lính
kỳ tổn ước, dĩ thị đơn nhược" (nên cuốn giáp, hủy binh khí, khiến
cho nó giảm bớt, để tỏ ra đơn độc yếu đuối). Đúng ra, theo Tấn Thư,
Đào Hoàng truyện th́ trong đoạn thư này Đào Hoàng nói một ư trái lại
với câu đă dịch: "Đáng lẽ nên cuốn giáp hủy gươm, chăm lo về đường
lễ nghĩa. Nhưng mà người châu này lại không thích yên vui, ưa làm
những sự khởi loạn [....] Vậy th́ số quân ở châu chưa nên giảm bớt
để tỏ ra đơn độc yếu đuối". Khi dùng lại sử liệu này, Cương mục đă
khôi phục đầy đủ đoạn sau bức thư của Đào Hoàng, lấy thêm hơn 1 trăm
chữ (Xem CMTB3, 16b).
122 Sử đúng là Tấn Hiếu
Vũ Đế.
123 CMTB3, 22b dẫn Tống
Thư và Lương Thư xác định Đỗ Viện làm Thứ sử Giao Châu năm Long An
thứ 3 (399) và năm đó cũng có việc quân Lâm Ấp đánh phá Giao Châu.
Toàn Thư ở đây chép vào năm Tân Tỵ (381), sát liền trên mục năm Kỷ
Hợi (399), có thể do sao chép văn bản sai vị trí.
124 Thạch Kỳ: tên trấn, ở
phía Nam phủ trị Giao Châu (CMTB3, 24a).
125 Kiến Khang: kinh đô
nhà Đông Tấn, vốn là Kiến Nghiệp, v́ kiêng húy Tấn Mẫn Đế, đổi thành
Kiên Khang, tức Nam Kinh, Trung Quốc ngày nay.
126 Theo truyền thuyết
Trung Quốc, Mạnh Bôn là dũng sĩ thời Chiến Quốc, có thể nhổ được
sừng ḅ; Hạ Dục, người nước Vệ thời Xuân Thu, có thể nhổ được đuôi
ḅ.
127 CMTB3, 27a sửa là năm
Bính Tuất, niên hiệu Nguyên Gia thứ 23 (Theo Tống thư q.5 Đế kỷ,
q.97 Nam Di Truyện). Nam Tề thư Lâm Ấp truyện, chép việc này vào năm
Nguyên Gia thứ 22 (445).
128 CMTB3, 26 chép tên
thành là Khu Lật và dẫn Thủy kinh chú để chú thích về thành này. Vị
trí thành Khu Túc trước nay có nhiều ư kiến khác nhau. Đào Duy Anh
xác định đó là thành Lồi ở làng Cao Lao Hạ trên hữu ngạn sông Gianh
(Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Khoa học xă hội, 1964, tr.54).
129 Tượng Phố: CMTB3, 28b
chua là tên huyện, Đào Duy Anh (Bdc) đoán dịch là Cửa Đại, là cửa
sông để vào kinh đô Lâm Ấp thời bấy giờ, ở khoảng Trà Kiệu, huyện
Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng ngày nay.
130 Nguyên bản thiếu tờ
12 a-b, chúng tôi dịch theo bản in Quốc tử giám tàng bản.
131 Tống Minh Đế: tức là
Lưu Úc, nguyên bản in sót nét, thành chữ Hoặc.
132 Hành Châu sự: người
chấp hành công việc của châu. Thực tế Lư Trường Nhân được chuẩn cho
đứng đầu cai quản Giao Châu, tương đương như Thứ sử, nhưng Nhân xin
tự hạ chức danh chỉ gọi là "Hành châu sự"
133 Vũ B́nh, Tân Xương:
tên quận đặt từ thời Ngô: "Nhà Ngô cắt đất huyện Mê Linh [thời Hán]
mà đặt quận Tân Hưng, nhà Tấn đổi thành Tân Xương; cắt đất các huyện
Phong Khê và Chu Diên mà đặt quận Vũ B́nh (theo Đặng Xuân Bảng, Sử
học bị khảo).
134 Nguyên bản in là
trưởng lại; CMTB3, 31b sửa là trưởng sử (chữ lại và chữ sử dễ viết
nhầm). Trưởng lại chỉ là viên huyện quan có cấp bậc cao hơn các
huyện quan khác. Ở đây Phục Đăng Chi giúp việc thay cho Thứ sử, phải
là chức Trưởng sử như Cương Mục đă ghi. Nam Tề Thư (Đông Nam Di
truyện), Việt Sử Lược (q.1) cũng chép là Trưởng sử. Trưởng sử là
chức quan có từ thời Hán, giúp việc cho Thừa tướng. Nhưng từ thời
Ngụy Tấn trở về sau, các viên thứ sử cai trị các châu thường là cấp
tướng quân, cũng đặt chức Trưởng sử để giúp việc (Từ hải, tr. 1399)
135 Chữ Bí có nhiều âm
đọc nhưng các từ thư, tự điển đều xếp âm Bí đầu tiên. Hiện nay nhiều
địa phương ở miền Bắc c̣n kiêng húy ông, thường tránh gọi quả bí là
quả bầu, chúng tôi dựa theo đó mà phiên âm là bí.
136 Cương mục chú: "Tên
Thái B́nh đặt từ năm Vũ Đức thứ 4 (621) thời Đường; tên Long Hưng
đặt từ thời nhà Trần. Thời thuộc Lương chưa có hai tên đất này, có
lẽ Sử cũ chỉ theo đó mà truy gọi thôi" (CMTB4, 1b).
137 Vị trí của thành Long
Biên đến nay vẫn chưa xác định được, có thể ở vùng gần thị xă Bắc
Ninh, tỉnh Hà Bắc.
138 Châu Cửu Đức thời
thuộc Lương là Đức Châu, ở vị trí huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh ngày
nay. CMTB4, 1b sửa là Cửu Đức quận.
139 Huyện Chu Diên thời
Lương, thời Tùy, nay là phần đất tỉnh Hải Dương, huyện trị có thể ở
vào khoảng huyện Phả Lại.
140 Tân Dụ hầu Hoán: theo
Trần thư (Cao Tổ kư) nên sửa là Ánh (Tiêu Ánh).
141 Thiêu, thường vẫn đọc
là Phiêu. Nhưng nguyên bản chua rơ hai âm đọc là Thiêu hoặc Thiệu (thuần
chiêu phiên, thất diệu phiên)
142 Đúng ra là Tây Giang
(thuộc huyện Vĩnh Phúc, phủ Quế Lâm), theo Trần thư và Thông giám.
143 Chỉ Tiêu Tư, cùng
ḍng tôn thất với Lương Vũ Đế Tiêu Diễn.
144 Tiết hạ: người đứng
dưới cờ tiết, ở đây là từ tôn gọi Dương Thiêu.
145 Thành Gia Ninh: ở xă
Gia Ninh, huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phú ngày nay.
146 Hồ Điển Triệt: ở xă
Tứ Yên, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phú ngày nay. Hồ dài 1km, chỗ
rộng nhất 400m, hẹp nhất 50m, sâu 5- 6m, xưa nay chưa bao giờ cạn.
147 Động Khuất Lạo, cũng
đọc là Khuất Liệu, ở vùng núi thuộc hai xă Cổ Tiết và Văn Lang,
huyện Tam Thanh tỉnh Vĩnh Phú, nay c̣n di tích mộ và đền thờ Lư Bí
trên g̣ Cổ Bồng.
148 Đầm Dạ Trạch: cũng
gọi là Nhất Dạ Trạch, nay là "Băi Màn Tṛ", huyện Châu Giang, tỉnh
Hải Hưng.
149 Mỵ
Nương: con gái của Hùng Vương (NK.1.3a).
150 Huyện
Vũ Ninh: nay là vùng huyện Quế Vơ, tỉnh Hà Bắc.
151 Thái
Bảo: sửa đúng là niên hiệu Đại Bảo.
152 Các
bản in Toàn thư đều in là Đại Kiế; sửa đúng là Thái Kiến.
153 Sửa đúng là Thái Kiến.
154 Cửa biển Đại Nha:
cũng có tên là Đại Ác, thời Lư đổi là Đại An, nay là Cửa Liêu (cửa
sông Đáy). Huyện Đại An thời Lê nay là đất huyện Nghĩa Hưng, tỉnh
Nam Hà.
155 Năm này, các bản Toàn
thư đều ghi là Nhân Thọ nguyên niên, đúng ra là năm Nhân Thọ thứ 2.
156 Nguyên văn: ngộ thảo
tặc: hai chữ "thảo tặc" đáng phải sửa lại v́ soạn giả dùng sử liệu
của Trung Quốc không chỉnh lư. Thông giám và Tùy thư, Lưu Phương
truyện nói rơ đó là quân của Lư Phật Tử, hơn 2 ngh́n người.
157 Tức Cửa Càn, ở phía
nam cửa Đại An (xưa là Đại Nha, xem chú thích ở trang trước)
Quyển V
Kỷ Thuộc Tùy Đường
Quư Hợi, [603], (Tùy Nhân
Thọ năm thứ 2). 158 Lưu Phương bắt được tướng cũ của Hậu Nam Đế, cho
là gian ác, đều chém cả.
Ất Sửu, [605], (Tùy Dạng
Đế Quảng, Đại Nghiệp năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, Lưu Phương
mới dẹp yên nước ta, bầy tôi nhà Tùy có người nói nước Lâm Ấp có
nhiều báu lạ. Vua Tùy bèn cho Phương làm Hoan Châu đạo hành quân
tổng quản, đi kinh lược nước Lâm Ấp. Phương sai bọn thứ sử Khâm Châu
là Nịnh Trường Chân đem quân bộ và quân kỵ hơn một vạn xuất phát từ
Việt Thường159 . Phương thân dẫn bọn đại tướng quân Trương Tốn đem
thủy quân xuất phát từ quận Tỷ Cảnh (huyện của nhà Hán, thuộc quận
Nhật Nam; nhà Tùy đặt quận Tỷ Cảnh)160 . Tháng ấy quân đến cửa biển.
Tháng 3, vua Lâm Ấp là Phạn [1b] Chí sai quân ra giữ nơi hiểm yếu,
bị Lưu Phương đánh tan chạy. Quân của Phương qua sông Chà Lê. Quân
Lâm Ấp cưỡi voi lớn từ bốn mặt kéo đến, quân của Phương đánh không
lợi bèn đào nhiều hố nhỏ, phủ cỏ lên trên, cho quân khiêu chiến,
đang đánh giả thua chạy. Quân Lâm Ấp đuổi theo, voi phần nhiều sụp
hố ngă nhào, nhốn nháo kinh hăi, quân trở nên rối loạn. Phương cho
dùng nỏ bắn voi, voi lùi chạy, xéo giẫm vào hàng trận. Phương nhân
đó cho quân tinh nhuệ đuổi theo. Quân Lâm Ấp thua to, bị bắt, bị
chém kể hàng vạn. Phương tiến quân đuổi theo, mấy trận đều được cả,
qua phía nam cột đồng Mă Viện, đi tám ngày nữa đến quốc đô Lâm Ấp.
Mùa hạ, tháng 4, Phạn Chí bỏ thành chạy ra biển. Phương vào thành
lấy được 18 bộ thần chủ trong miếu đều đúc bằng vàng (tức là 18 đời
vua), khắc đá ghi công rồi về. Binh sĩ thũng chân, mười phần chết
đến bốn năm phần. Phương cũng bị ốm, chết dọc đường.
[2a] Sử thần Ngô Sĩ Liên
nói: Lâm Ấp tự chuốc bại vong là có nguyên do. Từ khi Phạm Hồ Đạt
đánh chiếm Nhật Nam, Cửu Chân, cướp phá Giao Châu, bị Đỗ Viện nhà
Tấn đánh tan, mà không từng lấy đó làm răn. Năm nay cướp Cửu Chân,
sang năm lại cướp Giao Châu. Đỗ Tuệ Độ lại đánh tan, giết hết quá
nửa. Dương Mại lại cướp Cửu Đức, bị Đàn Ḥa Chi nhà Tống đánh cho
phải phục tội. Tuy có sai sứ vào cống nhưng vẫn cướp phá như cũ.
Tông Xác và Hoà Chi đuổi dài, thắng được Lâm Ấp. Dương Mại may thoát
khỏi miệng hùm, văng ḿnh bỏ chạy. Từ đấy, biển Nam sóng lặng, tưởng
chừng măi măi lấy đó làm răn. Nhưng Phạn Chí nối ngôi, lại ra cướp
Nhật Nam, bị Pham Tu đánh tan ở Cửu Đức, suốt cả đời Hậu Nam Đế
không dám ḍm ngó đất trung châu phía bắc [tức nước ta] nữa, mà nước
họ cũng được giàu thịnh. Đến đây người Tùy tham của báu, cất quân đi
đánh, giày xéo quốc [2b] đô, làm dơ bẩn cung điện, tuy gọi là quân
tham bạo, nhưng bọn man di quấy nhiễu trung châu cũng có thể lấy làm
răn.
Mậu Dần , [618], (Đường
Cao Tổ Lư Uyên, Vũ Đức năm thứ 1). Mùa hạ, tháng 4, Thứ sử Khâm Châu
là Nịnh Trường Chân đem đất Uất Lâm và Thủy An phụ theo Tiêu Tiển.
Thái thú Hán Dương là Phùng Áng đem đất Thương Ngô, Cao Yếu, Châu
Nhai, Phiên Ngung phụ theo Lâm Sĩ Hoằng. Tiển và Sĩ Hoằng đều sai
người sang chiêu dụ Thái thú Giao Châu là Khâu Ḥa, Ḥa không theo.
Tiển sai Trường Chân đem quân Lĩnh Nam đi đường biển đến đánh Ḥa.
Ḥa muốn đón hàng, Tư pháp thư tá là Cao Sĩ Liêm bảo Ḥa rằng: "Quân
của Trường Chân tuy nhiều, nhưng quân cô từ xa đến, lương thực ít,
tất không thể cầm giữ lâu, quân giỏi trong thành cũng đủ đương được,
việc ǵ mới nghe hơi đă vội chịu theo người". Ḥa nghe theo, lấy Sĩ
Liêm làm [3a] Hành quân tư mă, đem các doanh thủy bộ đón đánh, phá
tan quân [của Trường Chân]. Trường Chân chỉ chạy thoát một ḿnh,
quân lính bị bắt hết. Ḥa lại đắp tử thành (tức thành nhỏ bên trong
thành), chu vi 9 trăm bước để chống giữ. Đến khi nhà Tùy mất, Ḥa
hàng phục nhà Đường. Vua Đường sai Lư Đạo Hựu mang cờ tiết sang cho
Ḥa làm Giao Châu đại tổng quản161 , tước Đàm quốc công. Ḥa sai Sĩ
Liêm dâng biểu xin vào chầu. Vua Đường xuống chiếu sai quân đi
đón162 . Năm này nhà Tùy mất.
Nhâm Ngọ , [622], (Đường
Vũ Đức năm thứ 5). Trước đây, cuối thời nhà Tùy, Khâu Ḥa làm Thái
thú Giao Châu, cậy uy thế của nhà Tùy, thường đi tuần các khe động ở
biên giới, ở châu hơn 60 năm, Lâm Ấp và các nước163 tặng cho Ḥa
những ngọc minh châu, sừng tê văn và vàng bạc của báu, cho nên Ḥa
giàu như vương giả. Năm này nhà Đường đổi Giao Châu làm An Nam đô hộ
phủ164 .
[3b] Mậu Tư , [628], (Đường
Thái Tông Thế Dân, Trinh Quán năm thứ 2). Tông thất nhà Đường là Lư
Thọ làm Đô đốc Giao Châu tham ô phải tội. Vua Đường thấy Thứ sử
Doanh Châu là Lư Tổ Thượng có tài gồm văn vơ, gọi vào triều, dụ rằng:
"Giao Châu đă lâu không được người giỏi, các đô đốc trước sau đều
không xứng chức. Khanh có tài lược dẹp yên biên giới, hăy v́ ta sang
trấn đất ấy, chớ lấy đường xa mà từ chối". Tổ Thượng lạy tạ, rồi lại
hối, lấy cớ đau ốm mà từ chối. Vua Đường sai Đỗ Như Hối bảo cho Tổ
Thượng biết ư vua. Tổ Thượng vẫn cố từ. Lại sai Chu Phạm là anh vợ
của Tổ Thượng đến dụ rằng: "Người thường đă hứa với nhau c̣n biết
giữ chữ tín, khanh đă hứa trước mặt trẫm, há trái lời hay sao? Nên
sớm lên đường, sau ba năm tất gọi về, trẫm không nuốt lời". Tổ
Thượng trả lời rằng: "Đất Lĩnh Nam lam chướng, dịch lệ, đó là cái lẽ
đă ra đi th́ không trở về". Vua Đường tức giận nói: "Ta sai người
không đi, c̣n làm chính lệnh thế nào được nữa". Sai chém ngay ở
triều đường. Sau hối lại, cho khôi phục quan tước và ấm phong.
[4a] Sử thần Ngô Sĩ Liên
nói: Vua sai bề tôi lấy lễ, bề tôi thờ vua lấy trung. Đường Thái
Tông sai bề tôi không chịu đi, dỗ đến hai lần, có thể gọi là có lễ.
Tổ Thượng được vua sai lại tránh khó nhọc, thế là thất tiết; đă nhận
rồi lại hối, thế là thất tín; lời nói giận dỗi, thế là thất lễ. Thái
Tông giết đi, tuy là quá, song Tổ Thượng đủ ba lỗi ấy, th́ tội ra
sao?
Ất Mùi , [635], (Đường
Trinh Quán năm thứ 9). Tông thất nhà Đường là Lư Đạo Hưng làm Đô đốc
Giao Châu v́ bệnh chướng khí chết ở nơi làm quan.
Đinh Hợi , [687], (Đường
Trung Tông Triết, Tự Thánh năm thứ 4). Mùa thu, tháng 7, các hộ
người Lư ở Lĩnh Nam theo như lệ cũ nộp nửa thuế, Đô hộ Lưu Diên Hựu
bắt phải nộp cả. Các hộ người Lư mới oán giận, mưu làm loạn. Lư Tự
Tiên làm [4b] chủ mưu, Diên Hựu giết đi. Dư đảng là bọn Đinh Kiến
họp quân vây phủ thành. Trong thành binh ít không chống nổi, đóng
cửa thành cố giữ để đợi quân cứu viện. Đại tộc ở Quảng Châu là Phùng
Tử Do muốn lập công, đóng quân không đến cứu, Kiến giết Diên Hựu.
Sau Tư mă Quế Châu là Tào Trực Tĩnh165 đánh giết được Kiến.
Nhâm Tuất, [722], (Đường
Huyền Tông, Long Cơ, Khai Nguyên năm thứ 10). Tướng giặc là Mai Thúc
Loan166 chiếm giữ châu, xưng là Hắc Đế, bên ngoài liên kết với người
Lâm Ấp, Chân Lạp, số quân nói là 30 vạn167 . Vua Đường sai nội thị
tả giám môn vệ tướng quân là Dương Tư Húc và Đô hộ là Nguyên Sở
Khách168 đánh dẹp yên được.
Mậu Tuất, [758], (Đường
Túc Tông Hanh, Chí Đức năm thứ 3). Nhà Đường đổi An Nam Đô Hộ Phủ
làm Trấn Nam Đô Hộ Phủ.
Đinh Mùi [767], (Đường
Đại Tông Dự, Đại Lích thứ 2). [Người] Côn Lôn169 , Chà Bà170 đến
cướp, đánh lấy châu thành. Kinh lược sứ Trương Bá Nghi cầu cứu với
Đô úy châu Vũ Định là Cao Chính B́nh. Quân cứu viện đến, đánh tan
quân Côn Lôn, [5a] Chà Bà ở Chu Diên. Bá Nghi đắp lại La Thành171 .
Khi ấy có người tiết phụ họ Toàn172 là mẹ của Đào Tề Lượng ở Giao
Châu, thường lấy trung nghĩa dạy Lượng, nhưng Lượng ngoan cố không
chịu nghe, mới dứt t́nh với con, tự cày lấy mà ăn, dệt lấy mà mặc,
người trong làng xóm đều noi theo. Vua Đường xuống chiếu cho 2 người
đinh đến hầu nuôi, sai quan bản đạo bốn mùa đến thăm hỏi.
Mậu Thân, [768], (Đường
Đại Lịch năm thứ 3). Nhà Đường đổi Giao Châu làm An Nam Đô Hộ Phủ.
Giáp Tư, [784], (Đường
Đức Tông Quát, Hưng Nguyên năm thứ 1). Người quận Cửu Chân là Khương
Công Phụ làm quan thời Đường, đậu tiến sĩ, bổ làm Hiệu Thư Lang. V́
có bài chế sách hơn người, cho làm Hữu thập di Hàn Lâm học sĩ, kiêm
chức Kinh triệu hộ tào tham quân, từng xin giết Chu Thử, vua Đường
không nghe. Không bao lâu Kinh sư có loạn, vua Đường từ cửa Thượng
Uyển đi ra, Công Phụ giữ ngựa lại can rằng: "Chu Thử từng làm tướng
ở đất Kinh đất Nguyên, được ḷng quân lính, [5b] v́ Chu Thao làm
phản nên bị vua cất mất binh quyền, ngày thường vẫn uất ức, xin cho
bắt đem đi theo, chớ để cho bọn hung ác đón được". Vua Đường đương
lúc vội vàng không kịp nghe, trên đường đi lại muốn dừng lại ở
Phượng Tường để nương nhờ Trương Dật. Công Phụ can rằng: "Dật tuy là
bề tôi đáng tin cậy, nhưng là quan văn, quân đột kỵ ở Ngư Dương do
ông ta quản lĩnh đều là bộ khúc của Chu Thử. Nếu Thử thẳng đến Kinh
Nguyên làm loạn, th́ ở nơi ấy không phải kế vạn toàn". Vua Đường bèn
đi sang Phụng Thiên. Có người báo tin Thử làm phản, xin vua pḥng bị.
Vua Đường nghe lời Lư Kỷ xuống chiếu cho quân các đạo đóng cách xa
thành một xá173 , muốn đợi Thử đến đón. Công Phụ nói: "Bậc vương giả
không nghiêm việc vũ bị th́ lấy ǵ để oai linh được trọng. Nay cấm
binh đă ít người mà quân lính người ngựa đều ở bên ngoài, thần lấy
làm nguy cho bệ hạ lắm". Vua Đường khen là phải, cho gọi hết vào
trong thành. Quân của Thử quả nhiên kéo đến, đúng như lời của Công
Phụ. Vua Đường bèn thăng cho Phụ làm Gián Nghị Đại Phu, Đồng trung
thư môn hạ b́nh chương sự174 . Sau [6a] v́ việc can
vua chôn cất công chúa
Đường An quá hậu, trái ư vua, Lục Chí tâu gỡ cho, nhưng không được,
cuối cùng vẫn phải xuống chức làm Thái tử tả thứ tử, lại bị biếm là
Tuyền Châu biệt giá. Đường Thuận Tông lên ngôi, cho làm Thứ sử Cát
Châu, chưa đến nơi nhận chức th́ chết. Em là Khương Công Phục cũng
đậu tiến sĩ, làm quan đến chức Bắc bộ thị lang175 .
Tân Mùi, [791], (Đường
Trinh Nguyên năm thứ 7). Mùa xuân, An Nam đô hộ phủ là Cao Chính
B́nh làm việc quan bắt dân đóng góp nặng. Mùa hạ, tháng 4, người ở
Đường Lâm thuộc Giao Châu (Đường Lâm thuộc huyện Phúc Lộc)176 là
Phùng Hưng dấy binh vây phủ. Chính B́nh lo sợ mà chết. Trước đây
Phùng Hưng vốn là nhà hào phú, có sức khỏe, có thể vật trâu, đánh hổ.
Khoảng niên hiệu Đại Lịch (766-780] đời Đường Đại Tông, nhân Giao
Châu có loạn, cùng với em là Hăi hàng phục được các ấp bên cạnh,
Hưng xưng là Đô Quân, Hăi xưng là Đô Bảo, đánh nhau với Chính B́nh,
lâu ngày không thắng được. Đến đây dùng [6b] kế của người làng là Đỗ
Anh Hàn, đem quân vây phủ. Chính B́nh lo sợ phẫn uất thành bệnh ở
lưng mà chết. Hưng nhân đó vào đóng ở phủ trị, chưa được bao lâu th́
chết. Con là An tôn xưng làm Bố Cái Đại Vương (tục gọi cha là Bố, mẹ
là Cái, cho nên lấy [Bố Cái] làm hiệu). Vương thường hiển linh, dân
cho là thần, mới làm đền thờ ở phía tây phủ đô hộ, tuế thời cúng tế
(tức là Phu hựu chương tín sùng nghĩa Bố Cái Đại Vương. Đền thờ nay
ở phường Thịnh Quang177 , ở phía đông nam178 ruộng tịch điền).
Tháng 5, ngày Tân Tỵ, nhà
Đường đặt quân Nhu Viễn ở phủ trị. Mùa thu, tháng 7, ngày Canh Th́n,
nhà Đường lấy Triệu Xương làm đô hộ. Xương vào cơi, ḷng dân bèn yên.
Xương sai sứ dụ An, An đem quân hàng. Xương đắp thêm La Thành kiên
cố hơn trước, ở chức 17 năm, v́ đau chân xin về. Vua Đường chuẩn cho,
lấy Lang trung bộ Binh là Bùi Thái thay Xương.
Quư Mùi, [803], (Đường
Trinh Nguyên năm thứ 19). Đô đốc Bùi Thái sai lấp bỏ những hào rănh
ở trong thành, hợp làm một [7a] thành179 . Tướng ở châu là Vương Quư
Nguyên đuổi Bùi Thái đi. Vua Đường vời Xương hỏi t́nh trạng. Xương
đă ngoài 70 tuổi, mà tâu việc rơ ràng. Vua Đường cho là giỏi, lại
sai làm Đô hộ Giao Châu. Xương đến, người trong châu đều mừng, loạn
bèn yên.
Mậu Tư, [808], (Đường
Hiến Tông Thuần, Nguyên Ḥa năm thứ 3). Trương Chu làm Đô hộ Giao
Châu (trước Chu làm Kinh lược phán quan, đến nay thăng làm Đô hộ),
đắp thêm thành Đại La, đóng 300 chiếc thuyền mông đồng (loại thuyền
ngắn), mỗi thuyền có 25 chiến thủ, 23 tay chèo, thuyền chèo ngược
xuôi, nhanh như gió. Lại đắp hai thành ở châu Hoan, châu Ái, v́ các
thành ấy trước bị Hoàn Vương (vua Chiêm Thành) phá hủy.
Kỷ Hợi, [819], (Đường
Nguyên Ḥa năm thứ 14). Mùa đông, tháng 10, Đô hộ là Lư Tượng Cổ v́
tham bạo hà khắc mất ḷng dân chúng. Tướng của Cổ là Dương Thanh đời
đời làm tù trưởng Man, khoảng niên hiệu Khai Nguyên [713-742] nhà
Đường làm Thứ sử Hoan Châu180 , [7b] Tượng Cổ vẫn kiêng dè, gọi cho
làm nha tướng, đến đai sai đi đánh người Man ở Hoàng Động. Thanh
nhân thấy ḷng người oán giận Tượng Cổ, đang đêm trở về đánh úp châu,
chiếm được, giết Tượng Cổ (Thanh là người Giao Châu, Tượng Cổ là
người tôn thất nhà Đường). Vua Đường sai Quế Trọng181 đánh Dương
Thanh mà
không thắng. Thanh vào
trong người Man Lạo làm loạn, cướp phá phủ thành, Đô hộ Lư Nguyên
Gia đánh không được, dụ không đến. Do đấy người Man Hoàng Động dẫn
Hoàn Vương182 vào cướp.
Giáp Th́n , [824], (Đường
Mục Tông Hằng, Trường Khánh năm thứ 4). Mùa đông, tháng 11, Lư
Nguyên Gia183 thấy trước cửa thành có ḍng nước chảy ngược, sợ trong
châu nhiều người sinh ḷng làm phản, v́ thế dời đến đóng ở thành
hiện nay. (Bấy giờ Nguyên Gia dời phủ trị184 đến sông Tô Lịch, mới
đắp thành nhỏ thôi, có người thầy tướng bảo rằng: Sức ông không đắp
nổi thành lớn, sau 50 năm nữa ắt có người họ Cao đến đây đóng đô
dựng phủ. Đến đời Hàm Thông [860-874], Cao Biền đắp thêm La Thành,
đúng như lời người ấy. Lại xét: Phủ thành đô hộ trước đó ở ngoài
thành Đông Quan ngày nay, gọi là La Thành, sau Cao Biền đắp thành
hiện nay, thành bên ngoài cũng gọi là La Thành).
[8a] Mậu Thân, [828], (Đường
Văn Tông Hàm, Thái Ḥa năm thứ 2). Đô hộ Hàn Ước đánh Vương Thăng
Triều ở Phong Châu, thắng được, sau bị Dương Thanh đuổi, chạy về
Quảng Châu.
Tân Dậu, [841], (Đường Vũ
Tông Viêm, Hội Xương năm thứ 1). Vua Đường xuống chiếu lấy Vũ Hồn
làm Kinh lược sứ thay Hàn Ước.
Quư Hợi, [843], (Đường
Hội Xương năm thứ 3). Kinh lược sứ Vũ Hồn bắt tướng sĩ đắp sửa thành
phủ, tướng sĩ làm loạn, đốt lầu thành, cướp kho phủ. Hồn chạy về
Quảng Châu. Giám quân là Đoàn Sĩ Tắc vỗ yên được quân làm loạn.
Bính Dần , [846], (Đường
Hội Xương năm thứ 6).
Người Nam
Man185 vào cướp. Vua Đường sai Kinh Lược Sứ là Bùi Nguyên Hựu186 đem
quân các đạo lân cận đánh dẹp được.
Đinh Sửu,
[857], (Đường Tuyên Tông Thầm, Đại Trung năm thứ 11). Mùa hạ, tháng
4, nhà Đường lấy Hữu thiên ngưu vệ đại tướng quân [8b] là Châu
Nhai187 là Kinh lược sứ Giao Châu.
Mậu Dần,
[858], (Đường Đại Trung năm thứ 12). Mùa xuân, tháng giêng, vua
Đường lấy Khang Vương phó188 là Vương Thức làm Giao Châu kinh lược
đô hộ sứ. Thức là người có tài lược, đến phủ sai trồng cây táo
gai189 làm rào, bên ngoài đào hào sâu để thoát nước trong thành, bên
ngoài hào trồng tre gai, giặc không thể xâm phạm được, kén chọn dạy
bảo quân lính rất tinh nhuệ. Không bao lâu, người Nam Man (tức Nam
Chiếu) kéo đến đông, đóng ở bến đ̣ Cẩm Điền, cách châu độ nửa ngày
đường. Ư tứ của Thức vẫn an nhàn như thường, sai người phiên dịch
đến dụ, bày tỏ lợi hại, chỉ một đêm người Man lại kéo đi, sai người
đến từ tạ nói: "Chúng tôi chỉ đến bắt bọn người Lạo làm phản, chứ
không phải đến cướp".
Lại có Đô
hiệu La Hành Cung (Đô hiệu cũng như Đô tướng) chuyên quyền ở phủ đă
lâu, quân tinh nhuệ dưới cờ đến 2 ngh́n người mà ở phủ đô hộ chỉ có
vài trăm quân gầy yếu. Thức đến phủ, đánh trượng vào lưng [Hành Cung]
rồi đuổi ra nơi biên viễn.
Trước đó,
Đô hộ là Lư Trác làm chính sự tham [9a] lam tàn bạo, mua hiếp ḅ
ngựa của người Man, mỗi con chỉ trả cho một đấu muối, lại giết tù
trưởng Man là Đỗ Tồn Thành, dân Man oán giận, dẫn đường cho người
Nam Chiếu đến lấn cướp biên giới. Đất Tây Nguyên, Đào Lâm, thuộc
Phong Châu, từ xưa vẫn có quân pḥng đông190 6.000 người, tù trưởng
Man Động Thất Quán bên cạnh là Lư Do Độc, thường giúp đỡ việc đóng
giữ và thu tô thuế. Viên Tri Châu Phong Châu (không rơ họ tên) nói
với Tác xin bỏ quân đóng thú, chuyên ủy cho Do Độc ngăn pḥng. Từ đó
Do Độc thế cô, không thể đứng vững được. Thác đông tiết độ của Nam
Chiếu (Thác đông: ư nói khai thác cơi đông; Giao Chỉ ở phía đông
nước Nam Chiếu, cho nên đặt chức ấy) gửi thư sang dụ Do Độc, đem con
gái gả cho con trai của Do Độc, bổ làm Thác đông thác nha191 . Do
Độc bèn đem dân chúng làm tôi nước Nam Chiếu. Từ đấy Giao Châu mới
có mối lo về người Man [Nam Chiếu].
Tháng 5
năm ấy, người Man [Nam Chiếu] đến cướp, Thức đánh lui được.
Mùa thu,
tháng 7, có bọn dân xấu nhiều lần nổi loạn, nói phao rằng: "Nghe đồn
Kinh lược sứ Châu Nhai (Châu Nhai ở Quảng [9b] Châu)192 sai quân
Hoàng đầu (quân bịt đầu bằng khăn vàng) vượt biển sang đánh úp châu
ta". Rồi bọn họ đang đêm kéo nhau đến vây thành, đánh trống reo ḥ:
"Xin đuổi Thức về để chúng tôi đóng ở thành này chống giữ quân Hoàng
đầu phía Bắc". Lúc ấy Thức đang ăn, có người khuyên nên tránh đi.
Thức nói: "Tôi động chân một chút th́ thành này vỡ ngay". Rồi cứ
thong thả mà ăn, ăn xong, mặc áo giáp dẫn tả hữu lên mặt thành, dựng
cờ đại tướng ngồi mà trách mắng. Bọn làm loạn quay đầu bỏ chạy. Ngày
hôm sau, Thức sai bắt giết hết.
Bấy giờ
đói kém loạn lạc liên tiếp, 6 năm không nộp thượng cung (thượng cung
là tiền, lụa nộp sang Kinh sư để cho vua [Trung Quốc] chi dùng),
trong quân không có khao thưởng. Thức bắt đầu sửa sang việc thuế
khóa, khao thưởng quân lính. Chiêm Thành, Chân Lạp đều thông sứ trở
lại.
Canh Th́n,
[860], (Đường Ư Tông Thôi, Hàm Thông năm thứ 1). Mùa xuân, giặc ở
Chiết Đông là Cừu Phủ làm loạn. Nhà Đường bàn chọn tướng đi đánh dẹp.
Hạ Hầu Tư nói: "Vương Thức tuy là con nhà nho, nhưng trước ở An Nam
đă từng uy phục được cả người Hoa và người Di, [10a] cơi xa đều nghe
danh tiếng, có thể đảm nhiệm được". Vua Đường bèn gọi Thức về trao
cho chức Chiết Đông quan sát sứ.
Mùa đông,
tháng 12, ngày Mậu Thân, người thổ man dẫn quân Nam Chiếu hợp lại
hơn 3 vạn người, nhân khi sơ hở đến đánh chiếm phủ [trị] của châu ta.
Đô hộ Lư Hộ cùng với viên giám quân chạy về Vũ Châu.
Tân Tỵ,
[861], (Đường Hàm Thông năm thứ 2). Mùa xuân, tháng giêng vua Đường
xuống chiếu phát quân Ung Quản193 và các đạo lân cận sang cứu Lư Hộ,
đánh lại Nam di [Nam Chiếu]. Mùa hạ, tháng 6, ngày Quư Sửu, vua
Đường sai Pḥng ngự sứ Diêm Châu là Vương Khoan làm Kinh lược sứ An
Nam. Bấy giờ Lư Hộ từ Vũ Châu thu nhặt quân người địa phương [Giao
Châu] đánh bọn Man [Nam Chiếu], lấy lại được phủ thành. Vua Đường
trách tội thất thủ, biếm làm Tư hộ Đạm Châu, sau đày đi Phong Châu,
lấy Vương Khoan làm Đô hộ kinh lược sứ. Hộ khi mới đến giết tù
trưởng người Man là Đỗ Trừng194 , cho nên họ hàng nhà Trừng xui giục
và dẫn đường cho người Man [Nam Chiếu] đánh lấy châu.
[10b]
Nhâm Ngọ, [862], (Đường Hàm Thông năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 2, Nam
Chiếu lại vào cướp phá. Vương Khoan mấy lần sai sứ cáo cấp. Vua
Đường sai Hồ Nam quan sát sứ trước là Sái Tập thay thế, đem binh các
đạo Hứa, Hoạt, Từ, Biện, Kinh, Tương, Đàm, Ngạc, hợp lại được 3 vạn,
giao cho Tập để chống cự. Thế quân đă mạnh, quân Man bèn rút lui.
Mùa hạ,
tháng 5, Lĩnh Nam tiết độ là Sái Kinh thấy Tập đem quân các đạo đến
chống cự với quân Man, sợ Tập lập được công, có ư ghen ghét, nhân đó
tâu rằng: "Bọn Nam Man đă trốn xa, biên giới không đáng lo nữa. Kẻ
vũ phu cầu công, xin càn quân đóng thú, tổn phí quân lương và chuyên
chở, v́ góc lánh đường xa khó bề kiểm soát, nên tha hồ làm việc gian
trá. Xin băi quân đóng giữ, cho đạo nào lại về đạo ấy". Vua Đường
nghe theo. Tập nhiều lần tâu rằng: "Bọn người Man ŕnh lúc sơ hở đă
lâu, không thể không pḥng bị, xin lưu lại 5 ngh́n thú binh". Vua
Đường không nghe, Tập cho là giặc Man [Nam Chiếu] ắt lại đến, mà
quân lính và lương thực đều thiếu, trí lực [11a] hai mặt đều quẫn,
mới làm tờ sớ "Thập tất tử trạng" [10 t́nh trạng ắt phải chết] tŕnh
lên ṭa Trung thư. Nhưng tể tướng thời bấy giờ tin lời Sái Kinh,
cuối cùng vẫn không xét đến.
Mùa thu,
tháng 7, Sái Kinh ở trị sở, chính lệnh hà khắc thảm độc, cả cơi đều
oán, bị quân sĩ đuổi, phải biếm làm Tư hộ Nhai Châu, không chịu đi
nhận chức, vua Đường xuống sắc bắt phải tự tử.
Mùa đông,
tháng 10, bọn Man Nam Chiếu 5 vạn người đến cướp, Tập cáo cấp. Vua
Đường sai lấy quân hai đạo Kinh Nam, Hồ Nam 2 ngh́n người và con em
nghĩa chinh ở Quế Quản (v́ họ ứng mộ ṭng quân nên gọi là nghĩa binh)
3 ngh́n người đến Ung Châu chịu lệnh tiết chế của Trịnh Ngu để sang
cứu [Sái Tập]. Tháng 12, Tập lại xin thêm quân, vua Đường sắc cho
Sơn Nam đông đạo đem 1 ngh́n quân tay nỏ sang cứu. Khi ấy quân Nam
Chiếu đă vây phủ, quân cứu viện không thể đến được. Tập chỉ cố thủ
xung quanh thành mà thôi.
Quư Mùi,
[863], (Đường Hàm Thông năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, ngày Canh
Ngọ, quân Nam Chiếu đánh chiếm phủ thành, tả hữu của Tập [11b] đều
chết hết. Tập chạy bộ, cố sức đánh, người trúng mười mũi tên, muốn
xuống thuyền của giám quân nhưng thuyền đă đi xa bờ, bèn nhảy xuống
biển chết, cả nhà 70 người. Liêu thuộc là Phàn Xước đem ấn tín binh
phù của Tập sang sông trước, được thoát. Tướng sĩ các châu Kinh Nam,
Giang Tây, Ngạc, Nhạc, Tương, hơn 4 trăm người chạy đến phía đông
thành giáp sông. Ngu hầu Kinh Nam là bọn Nguyên Duy Đức bảo quân sĩ
rằng: "Bọn ta không có thuyền, xuống nước tất chết, chi bằng lại
quay về thành đánh nhau với người Man, một người của ta đổi lấy hai
người Man, cũng có lợi". Bèn trở lại thành, vào cửa Đông La (tức là
cửa đông La Thành An Nam). Người Man không pḥng bị, bọn Duy Đức
tung quân đánh, giết quân Man hơn 2 ngh́n người. Đến đêm, tướng Man
là Dương Tư Tấn từ trong tử thành (tức thành nhỏ ở trong thành) đem
quân ra cứu, bọn Duy Đức đều chết cả. Nam Chiếu hai lần chiếm Giao
Châu, vừa giết vừa bắt gần 15 vạn người. [Khi rút lui] lưu lại 2 vạn
quân, sai Tư Tấn giữ [12a] thành Giao Châu ta. Người Di Lăo ở các
khe động không cứ xa gần đều hàng phục cả. [Vua] Nam Chiếu cho thuộc
hạ là Đoàn Tù Thiên làm Tiết độ sứ phủ [Giao Châu] ta. Vua Đường
xuống chiếu gọi viện binh các đạo về chia giữ Tây Đạo ở Lĩnh Nam195
.
Tháng 6,
bỏ An Nam đô hộ phủ, đặt chức Hành Giao Châu ở trấn Hải Môn196 , cho
Hữu giám môn vệ tướng quân là Tống Nhung giữ chức Hành Giao Châu thứ
sử, cho Vũ Nghĩa tiết độ sứ197 là Khang Thừa Huấn kiêm lĩnh chức
Lĩnh Nam cập chủ quân hành doanh198 .
Mùa thu,
tháng 7, lại đặt An Nam đô hộ phủ ở Hành Giao Châu, cho Tống Nhung
làm Kinh lược sứ, đem quân Sơn Đông một vạn người đến trấn giữ. Khi
ấy quân các đạo của nhà Đường đến cứu viện, đều đóng lại ỡ Lĩnh Nam
không tiến, hao phí lương thực, vận chuyển, người Nhuận Châu là Trần
Bàn Thạch dâng sớ xin đóng loại thuyền ngh́n hộc để chở gạo từ Phúc
Kiến đi đường biển, không đầy một tháng th́ đến Quảng Châu. Vua
Đường nghe theo, lương ăn của quân lính nhờ đó được đầy đủ. Nhưng
[12b] bọn quan lại mượn tiếng thuê thuyền để cướp đoạt thuyền của
người buôn, vứt hàng hóa của họ
lên bờ:
khi thuyền ra biển có chiếc nào bị sóng gió làm ch́m đắm th́ bắt
giam cương lại199 và chủ thuyền để bắt đền số gạo bị mất, [v́ thế]
người ta rất khổ sở.
Giáp Thân,
[864], (Đường Hàm Thông năm thứ 5). Vua Đường cho Tổng quản200 kinh
lược sứ là Trương Nhân kiêm coi giữ việc Giao Châu, tăng thêm quân ở
trấn Hải Môn cho đủ số 2 vạn 5 ngh́n người, sai Nhân tiến quân lấy
lại phủ thành.
Mùa thu,
tháng 7, Nhân dùng dằng không dám tiến. Hạ Hầu Tư tiến cử Kiêu vệ
tướng quân là Cao Biền thay, bèn cho Biền làm Đô hộ tổng quản kinh
lược chiêu thảo sứ, bao nhiêu quân sĩ của Nhân đều trao cho Biền cả.
Biền tiểu tự là Thiên Lư, cháu của Nam B́nh Quận Vương [Cao] Sùng
Văn, đời đời coi giữ cấm binh. Biền đổi chí vào việc học, thích bàn
luận việc xưa nay, người trong quân đều [13a] khen ngợi. Lúc c̣n ít
tuổi, theo giúp Chu Thục Minh. [Một hôm] có hai con diều sóng đôi
bay qua, Biền giương cung nhắm bắn, khấn rằng: "Nếu ta sau này được
quư hiển th́ phải bắn trúng" rồi bắn một phát tên trúng cả hai con.
Mọi người cả kinh, nhân đó gọi là "Lạc điêu thị ngự sử" [quan thị
ngự sử bắn rơi chim điêu]. Sau Biền được thăng dần đến chức Hữu thần
sách đô ngu hầu. Người Đảng Hạng làm phản, Biền đem hơn 1 vạn cấm
binh đến đóng ở Trường Vũ, nhiều lần lập công, thăng chức Tần Châu
pḥng ngự sử, lại có công nữa. Bấy giờ Nam Chiếu chiếm đất ta, cho
nên sai Biền sang thay [Trương Nhân].
Ất Dậu ,
[865], (Đường Hàm Thông năm thứ 6). Mùa thu, tháng 7, Cao Biền sửa
quân ở trấn Hải Môn chưa tiến. Giám quân là Lư Duy Chu ghét Biền
muốn tống đi, nhiều lần giục Biền tiến quân. Biền đem hơn 5 ngh́n
quân vượt biển đi trước, hẹn Duy Chu đem quân ứng viện. Biền đi rồi,
Duy Chu cầm quân c̣n lại không tiến phát. Tháng 9, Biền đến Nam
Định201 , Phong Châu, quân Man gần 5 vạn đương gặt lúa, Biền ập đến
[13b] đánh tan, chém được bọn Trương Thuyên, thu lấy số lúa đă gặt
dùng để nuôi quân.
Bính Tuất,
[866], (Đường Hàm Thông năm thứ 7). Mùa hạ, tháng 4, Nam Chiếu thăng
chức cho Đoàn Tù Thiên làm Tiết độ sứ Thiện Xiển (Thiện Xiển là đô
khác của Nam Chiếu, ở tây bắc Giao Châu)202 , sai Trương Tập203 giúp
Tù Thiên đánh Giao Châu, cho Phạm Nật Ta làm Đô thống phủ ta, Triệu
Nặc Mi làm Đô thống Phù Da204 . Giám trận nhà Đường sai Vi Trọng Tể
đem hơn 7 ngh́n quân đến Phong Châu. Biền được thêm quân, tiến đánh
Nam Chiếu, nhiều lần đánh tan được. Tờ tâu thắng trận gửi đến trấn
Hải Môn, Duy Chu đều giấu đi. Mấy tháng không có tin tức, vua Đường
lấy làm lạ mới hỏi Duy Chu. Duy Chu tâu rằng: Biền đóng quân ở Phong
Châu, ngồi nh́n giặc không chịu tiến. Vua Đường tức giận, sai Hữu vũ
vệ tướng quân là Vương Án Quyền thay Biền, đ̣i Biền về kinh đô, ư
muốn biếm phạt nặng. Tháng ấy, Biền đánh tan quân Nam Chiếu, giết và
bắt sống rất [14a] nhiều. Nam Chiếu thu quân c̣n sót chạy vào châu
thành cố giữ. Mùa đông, tháng 10, Cao Biền vây châu thành hơn 10
ngày, người Man rất khốn quẫn. Thành sắp hạ th́ vừa lúc Biền nhận
được văn thư của Vương Án Quyền cho biết đă cùng với Duy Chu đem đại
quân xuất phát từ trấn Hải Môn. Biền liền trao việc quân cho Trọng
Tể, rồi cùng với bộ hạ hơn 100 người về Bắc.
Trước đó,
Trọng Tể sai tiểu sứ là Vương Tuệ Tán, Cao Biền sai tiểu hiệu là
Tăng Cổn cùng mang thư báo thắng trận về nhà Đường, đến giữa biển,
trông thấy cờ quạt kéo sang phía đông, hỏi những thuyền đi trên biển
th́ họ nói đó là quan Kinh lược sứ và Giám quân mới đến. Hai người
bàn nhau rằng:
"Duy Chu
thế nào cũng cướp lấy tờ biểu và giữ chúng ta lại". Bèn nấp ở hải
đảo chờ Duy Chu đi qua rồi mới đi gấp về kinh sư. Vua Đường được tờ
tâu cả mừng, liền thăng cho Biền làm Kiểm hiệu Công bộ thượng thư,
sai Biền đi đánh người Man. Biền về đến trấn Hải Môn th́ quay lại.
Án Quyền
là người ngu hèn, việc ǵ cũng xin lệnh của Duy Chu. Duy [14b] Chu
là người hung bạo tham lam, các tướng không chịu giúp việc, bọn họ
bèn mở ṿng vây cho người Man trốn đi quá nửa. Biền đến nơi lại đốc
thúc khích lệ tướng sĩ, đánh lấy được thành, giết Tù Thiên và Chu Cổ
Đạo là người thổ man dẫn đường cho quân Nam Chiếu, chém hơn 3 vạn
đầu. Quân Nam Chiếu trốn đi, Biền lại phá được hai động thổ man dă
theo Nam Chiếu, giết tù trưởng. Người thổ man rủ nhau quy phục đến 1
vạn 7 ngh́n.
Tháng 11,
ngày Nhâm Tư, vua Đường xuống chiếu cho các lộ quân Giao Châu, Ung
Châu, Tây Châu205 phải giữ bờ cơi, không tiến đánh nữa; đặt Tĩnh Hải
quân ở Giao Châu, lấy Biền làm Tiết độ sứ. (Từ đây cho đến đời nhà
Tống, An Nam gọi là Tĩnh Hải quân tiết trấn). Từ khi Lư Trác xâm
phạm quấy nhiễu, khiến cho người Man [Nam Chiếu] gây họa đến gần 10
năm, đến đấy mới yên. Cao Biền giữ phủ xưng vương206 , đắp La Thành
ṿng quanh 1.982 trượng lẻ 5 thước, thân thành cao [15a] 2 trượng 6
thước, chân thành rộng 2 trượng 5 thước, bốn mặt thành đắp các nữ
tường nhỏ207 trên bốn mặt thành cao 5 thước 5 tấc208 , lầu nh́n giặc
55 sở, cửa ống 6 sở, cừ nước 3 sở, đường bộ 34 sở. Lại đắp con đê
ṿng quanh dài 2.125 trượng 8 thước; cao 1 trượng 5 thước; chân rộng
2 trượng, cùng làm nhà cửa hơn 40 vạn gian209 .
Lê Văn
Hưu nói: Một Lư Trác tham bạo mà dẫn đến mười mấy năm bị tai họa
người Man, huống chi lại có kẻ bạo ngược hơn cả Lư Trác nữa. Một Cao
Biền đốc suất bộ thuộc mà chém được vài vạn quân giặc mạnh, huống
chi lại có người giỏi hơn Cao Biền nữa! Cho nên Trác không thể bảo
toàn được ḿnh, mà Cao Biền th́ giữ thành xưng vương, người khéo trị
nước phải nên cẩn thận việc chọn người.
Đinh Hợi,
[867], (Đường Hàm Thông năm thứ 8). Mùa xuân, tháng giêng, Cao Biền
đi tuần thị đến hai châu Ung, Quảng thấy đường biển có [15b] nhiều
đá ngầm làm đắm thuyền, vận chở không thông, bèn sai bọn Nhiếp
trưởng sử Lâm Phúng, Hồ Nam tướng quân Dư Tồn Cổ đem quân bản bộ và
thủy thủ hơn ngh́n người đến đục đá khai đường, bảo rằng: "Đạo trời
giúp người thuận, thần linh phù kẻ ngay. Nay khai đường biển để giúp
sinh dân, nếu ḿnh không theo ḷng riêng th́ có ǵ khó. Các đô hộ
thời trước không khao thưởng quân sĩ, giữ phép không vững, làm sai
lời hứa, trái ước hẹn, mưu lợi riêng, cho nên mọi người đều trễ
biếng. Nay ta không như thế, chỉ cốt làm cho xong việc của nhà vua
mà thôi". Biền nói xong, bọn Phúng vâng lệnh đi ra. Mùa hạ, tháng 4,
ngày mồng 5, khởi công khơi đào, trong khoảng hơn 1 tháng, gần được
thông suốt, duy ở quăng giữa có hai chỗ đá lớn quanh co chắn ngang
đến mấy trượng, đục xuống th́ quằn đục, dùng búa th́ găy cán, người
làm việc cả ngày nh́n nhau, công việc cơ hồ bỏ dở. Ngày 26 tháng 5,
đương ban ngày bỗng nhiên mây dồn, gió nổi dữ dội, trông vào rừng
tối như đêm, [16a] ngửa bàn tay không nh́n thấy, chốc lát hàng trăm
tiếng sét nổ vang trời ở chỗ đá lớn, chỉ trong khoảnh khắc trở lại
bừng sáng. Người làm việc chạy tới xem th́ thấy các khối đá đă bị
tan nát cả. Về phía tây lại gặp hai chỗ đá lớn dựng đứng, người làm
cũng phải chịu bó tay.
Ngày 21
tháng 6 lại có sét đánh như trước, chỉ trong một lúc đá lớn đều bị
tan vụn cả. Kênh bèn đào xong, v́ thế gọi là kênh Thiên Uy210 .
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Việc Cao Biền đào kênh sao mà kỳ dị thế? Đó là việc
làm hợp lẽ211 , cho nên được trời giúp. Trời là lẽ phải. Đất có chỗ
hiểm, chỗ bằng, đó là lẽ thường. Sức người có thể vượt hiểm được, đó
cũng là lẽ thường. Nếu hiểm mà không vượt được th́ trời phải nhờ đến
tay người làm ǵ? Vua Vũ trị thủy, nếu không hợp lẽ th́ trời do đâu
mà tác thành được? Đất do đâu mà bằng phẳng được? Công hiệu đến mức
rùa sông Lạc hiện điềm lành, thế không phải là trời [16b] giúp ư ?
Xem như lời của Biền nói: "Nay khai đường biển để giúp sinh dân, nếu
không theo ḷng riêng th́ có ǵ khó". Ḷng thành phát ra từ lời nói,
th́ lời nói ấy há chẳng là thuận ư ? Ḷng tinh thành thực cảm thông
đến cả vàng đá, huống nữa là trời? Việc ǵ trời đă giúp sức là thuận.
Kinh Dịch nói: "Giữ điều tín mà nghĩ điều thuận, th́ trời sẽ giúp
cho, đều tốt cả, không có điều ǵ bất lợi". Thế th́ việc sét đánh đá
lớn để giúp chẳng có ǵ là lạ cả.
Mậu Tư,
[868] (Đường Hàm Thông năm thứ 9). Mùa thu, tháng 7, vua Đường lấy
Cao Biền làm Hữu kim ngô vệ đại tướng quân (có sách chép là Kiểm
hiệu thượng thư bộc xạ), đến đời Đường Hy Tông năm Ất Mùi niên hiệu
Càn Phù năm thứ 2 [875] đổi làm Tây Xuyên tiết độ sứ. Biền thấy cháu
gọi bằng ông họ là Cao Tầm trước làm tiên phong, xông pha tên đạn,
được quân lính phục theo, bèn dâng biểu tiến cử Tầm thay ḿnh trấn
giữ đất ta. Vua Đường nghe theo. [Cả Biền và Tầm] ở trấn cộng 13 năm;
Biền [17a] từ năm Bính Tuất đến năm Giáp Ngọ niên hiệu Hàm Thông
[866-874], Tầm từ năm Ất Mùi đến năm Mậu Tuất niên hiệu Càn Phù
(875-878).
Canh Tư,
[880], (Đường Hy Tông Nghiễm, Quảng Minh năm thứ 1). Mùa xuân, tháng
3, quân ở phủ Đô hộ làm loạn, Tiết độ sứ Tăng Cổn bỏ chạy khỏi thành
(Cổn thay Biền, có tiếng là người biết vỗ dân212 , người [trong châu]
gọi là Tăng thượng thư; Cổn từng soạn sách Giao Châu kư, 1 thiên).
Các đạo quân nhà Đường đóng giữ Ung Quản thường tự ư bỏ về luôn.
Ất Sửu,
[905], (Đường Ai Đế Chúc, Thiên Hựu năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 2,
ngày Mậu Tuất, Chu Toàn Trung nhà Đường thấy Giao Châu tiết độ sứ
đồng b́nh chương sự Chu Toàn Dục là người ngu đần chất phác, không
có tài năng ǵ, tự xin băi đi. Toàn Dục là anh Toàn Trung.
Trở lên
là [kỷ] thuộc Tùy, Đường, từ năm Quư Hợi đến năm Bính Dần, cộng 304
năm [603-906].
[17b]
Kỷ Nam
Bắc Phân Tranh
Đinh Măo,
[907], (Đường Thiên Hựu năm thứ 4; Lương Thái Tổ Chu Toàn Trung, đổi
tên là Hoảng, Khai B́nh năm thứ 1). Nhà Lương cho Quảng Châu tiết độ
sứ là Lưu Ẩn kiêm chức Tĩnh Hải quân
tiết độ
sứ, tước Nam B́nh Vương. Khi ấy, Ẩn chiếm giữ Phiên Ngung, người
Giao Châu là Khúc Hạo213 chiếm giữ châu trị, xưng là Tiết độ sứ, có
ư mưu đồ lẫn nhau. Năm ấy nhà Đường mất.
Tân Mùi,
[911], (Lương Càn Hóa năm thứ 1). Nam B́nh Vương nhà Lương là Lưu Ẩn
chết, em là Nham lên thay.
Đinh Sửu,
[917], (Lương Mạt Đế Hữu Trinh, đổi tên là Chẩn, Trinh Minh năm thứ
3). Quảng Châu tri lưu hậu nhà Lương là Lưu Nham đặt quốc hiệu là
Hán (tức Nam Hán214 ), niên hiệu Càn Hanh năm thứ 1. Khúc Hạo sai
con là Thừa Mỹ làm Hoan hảo sứ sang Quảng Châu để thăm ḍ t́nh h́nh
[Nam Hán] hư thực thế nào. Hạo chết, Khúc Thừa Mỹ lên thay215 .
Kỷ Măo,
[919], (Lương Trinh Minh năm thứ 5). Khúc Thừa Mỹ sai sứ sang nhà
Lương xin được lĩnh tiết việt, nhà Lương trao cho. Vua [Nam Hán] cả
giận (vua Hán trước tên là Nham, đổi là Thiệp, lại đổi là Cung, v́
có điềm rồng trắng hiện, nên đặt tên ấy. Năm Tấn Thiên Phúc thứ 6
[941], tự cho chữ Cung là không lợi, lại đổi [18a] là Nghiễm216 ).
Quư Mùi,
[923], (Lương Long Đức năm thứ 3; Đường Trang Tông Lư Tồn Húc, Đồng
Quang năm thứ 1). Năm ấy nhà Lương mất.
Mùa thu,
tháng 7, vua Hán sai kiêu tướng là Lư Khắc Chính217 đem quân sang
đánh Giao Châu218 , bắt được Tiết độ sứ là [Khúc] Thừa Mỹ đem về, [Khắc
Chính] lấy bộ tướng của ḿnh là Lư Tiến thay thế. Lư Khắc Chính ở
lại giữ Giao Châu, bị tướng của Khúc Hạo là Dương Đ́nh Nghệ219 người
Ái Châu đánh đuổi. Vua Hán trao cho Đ́nh Nghệ tước vị, lấy Lư Tiến
làm thứ sử Giao Châu, cùng với Lư Khắc Chính giữ thành, bảo tả hữu
rằng: "Dân Giao Chỉ hay làm loạn, chỉ có thể ràng buộc (ki mi) mà
thôi".
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Lưu Nghiễm đương lúc triều đ́nh phương Bắc rối loạn,
nhờ nghiệp cũ của anh220 mà dựng nước, đặt niên hiệu, cùng với Khúc
Hạo tranh bá, rồi bắt Thừa Mỹ, lấy Giao Châu, hùng [18b] cứ một
phương, cùng xuưt xoát với các nước tiếm ngôi ở Bắc triều. Cho nên,
Tiền Ngô Vương nổi lên, tuy giết được con, phá được quân [của Nghiễm],
nhưng không giữ được đất, quốc thống họ Lưu kéo dài không dứt, măi
đến khi Tống [Thái] Tổ dấy lên th́ đất ấy mới nhập vào nhà Tống.
Tân Măo,
[931], (Đường Minh Tông Tự Nguyên, Trường Hưng năm thứ 2). Mùa đông,
tháng 12, Dương Đ́nh Nghệ nuôi 3 ngh́n con nuôi, mưu đồ việc khôi
phục. Lư Tiến biết, sai chạy ngựa báo
cho vua
Hán. Năm ấy, Đ́nh Nghệ đem quân vây Tiến. Vua Hán sai Thừa chỉ Trần
Bảo đem quân sang cứu, chưa đến nơi, thành đă mất. Tiến trốn về nước.
Bảo đến vây thành, Đ́nh Nghệ đưa quân ra đánh, Bảo thua chết. Từ đó
Đ́nh Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ, trông coi việc châu.
Bính Thân,
[936], (Đường Phế Đế Tông Kha, Thanh Thái năm thứ 3, Tấn Cao Tổ
Thạch Kim Đường, Thiên Phúc năm thứ 1). Năm ấy nhà [Hậu] Đường mất.
[19a]
Đinh Dậu, [937], (Tấn Thiên Phúc năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 3, nha
tướng của Đ́nh Nghệ là Kiều Công Tiễn (Cương mục [Trung Quốc] chép
_____)221 giết Đ́nh Nghệ để thay chức.
Mậu Tuất,
[938], (Tấn Thiên Phúc năm thứ 3). Mùa đông, tháng 12, nha tướng của
Đ́nh Nghệ là Ngô Quyền từ Ái Châu cất quân đánh Công Tiễn. Công Tiễn
sai sứ sang đút lót để cầu cứu với nhà Hán. Vua Hán là Cung muốn
nhân khi nước ta có loạn chiếm lấy nước, bèn cho con là Vạn Vương
Hoằng Tháo222 làm Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, đổi tước phong là Giao
Vương, đem quân sang cứu Công Tiễn. Vua Hán tự làm tướng, đóng ở Hải
Môn để làm thanh viện. Vua Hán hỏi kế ở Sùng văn sứ là Tiêu Ích, Ích
nói: "Nay mưa dầm đă mấy tuần, đường biển th́ xa xôi nguy hiểm, Ngô
Quyền lại là người kiệt hiệt, không thể khinh suất được. Đại quân
phải nên thận trọng chắc chắn, dùng nhiều người hướng đạo rồi sau
mới nên tiến". Vua Hán không nghe, sai Hoằng Tháo đem chiến thuyền
theo sông Bạch Đằng mà vào, muốn đánh [19b] Quyền, nhưng Quyền đă
giết Kiều Công Tiễn rồi.
Quyền
nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, bảo các tướng tá rằng: "Hoằng Tháo là
đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính c̣n mỏi mệt, lại nghe
Công Tiễn đă chết, không có người làm nội ứng, đă mất vía trước rồi.
Quân ta lấy sức c̣n khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Nhưng
bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không pḥng bị trước th́ thế
được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu
bịt sắt223 đóng ngầm ở trước cửa biển, thuyền của bọn chúng theo
nước triều lên vào trong hàng cọc th́ sau đó ta dễ bề chế ngự, không
cho chiếc nào ra thoát". Định kế rồi, bèn cho đóng cọc ở hai bên cửa
biển. Khi nước triều lên, Quyền sai người đem thuyền nhẹ ra khiêu
chiến, giả thua chạy để dụ địch đuổi theo. Hoằng Tháo quả nhiên tiến
quân vào. Khi binh thuyền đă vào trong vùng cắm cọc, nước triều rút,
cọc nhô lên, Quyền bèn tiếng quân ra đánh, ai nấy đều liều chết
chiến đấu. [Quân Hoằng Tháo] không kịp sửa thuyền mà nước triều rút
xuống rất gấp, thuyền đều mắc [20a] vào cọc mà lật úp, rối loạn tan
vỡ, quân lính chết đuối quá nữa. Quyền thừa thắng đuổi đánh, bắt
được Hoằng Tháo giết đi. Vua Hán thương khóc, thu nhặt quân lính c̣n
sót rút về. Vua Hán cho tên Cung đáng ghét là v́ vậy (Lưu Cung tức
là Lưu Nghiễm).
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Lưu Cung tham đất đai của người, muốn mở rộng bờ
cơi, đất đai chưa lấy được mà đă hại mất đứa con của ḿnh và hại cả
nhân dân, tức như Mạnh Tử nói: "Đem cái ḿnh không yêu mà hại cái
ḿnh yêu" vậy chăng?
Trở lên
là [kỷ] Nam Bắc phân tranh, từ năm Đinh Măo đến năm Mậu Tuất
[907-938], tất cả 32 năm.
Kỷ Nhà
Ngô
Tiền Ngô
Vương
Ở ngôi 6
năm, thọ 47 tuổi [898-944].
[20b] Vua
mưu tài đánh giỏi, làm nên công tái tạo, đứng đầu các vua.
Họ Ngô,
tên húy là Quyền, người Đường Lâm224 , đời đời là nhà quư tộc. Cha
là Mân làm chức châu mục ở bản châu. Khi vua mới sinh có ánh sáng lạ
đầy nhà, trạng mạo khác thường, có 3 nốt ruồi ở lưng, thầy tướng cho
là lạ, bảo có thể làm chủ một phương, nên mới đặt tên là Quyền. Đến
khi lớn lên, khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ,
có trí dũng, sức có thể nâng được vạc; làm nha tướng của Dương Đ́nh
Nghệ, được Đ́nh Nghệ gả con gái và cho quyền quản Ái Châu. Đến đây
giết Kiều Công Tiễn, tự lập làm vương, đóng đô ở Loa Thành.
Kỷ Hợi,
năm thứ 1 [939], (Tấn Thiên Phúc năm thứ 4). Mùa xuân, vua bắt đầu
xưng vương, lập Dương thị làm hoàng hậu, đặt trăm [21a] quan, chế
định triều nghi phẩm phục.
Giáp Th́n,
năm thứ 6 [944], (Tấn Tề Vương Trọng Quư, Khai Vận năm thứ 1). Vua
mất.
Lê Văn
Hưu nói: Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của nước Việt ta mà
đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương,
làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một
lần nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy
chỉ xưng vương, chưa lên ngôi đến, đổi niên hiệu, nhưng chính thống
của nước Việt ta, ngơ hầu đă nối lại được.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Tiền Ngô [Vương] nổi lên không chỉ có công chiến
thắng mà thôi, việc đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục, có
thể thấy được quy mô của bậc đế vương. Nhưng hưởng [21b] nước không
được lâu, chưa thấy hiệu quả trị b́nh, đáng tiếc thay !
Dương Tam
Kha
Cướp ngôi
6 năm.
Tam Kha
là anh (có sách chép là em) của Dương hậu, là gia thần của Tiền Ngô
Vương, tiếm xưng là B́nh Vương225 .
Ất Tỵ,
[945], (Dương Tam Kha năm thứ 1, Tấn Khai Vận năm thứ 2). Lúc trước,
Tiền Ngô Vương bệnh nặng, có di chúc giao cho Tam Kha giúp rập cho
con. Khi Vương mất, Tam Kha cướp ngôi. Con trưởng của Ngô Vương là
Xương Ngập sợ, chạy về Nam Sách Giang226 , trú ngụ ở nhà Phạm Lệnh
Công ở Trà Hương227 . Tam Kha lấy con thứ hai của Ngô Vương là Xương
Văn làm con ḿnh. Các con thứ của Ngô Vương là Nam Hưng, Càn Hưng
c̣n bé, đều theo Dương quốc mẫu. Được ít lâu, Tam Kha sai chỉ huy sứ
là Dương Cát Lợi, Đỗ Cảnh Thạc đem quân đến nhà Lệnh Công đ̣i bắt
Xương Ngập, [22a] tất cả ba lần đều không thực hiện được mệnh lệnh.
Lệnh Công sợ, bèn giấu Xương Ngập trong động núi. Tam Kha biết, lại
đ̣i bắt như trước, rốt cuộc vẫn không bắt được.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Dụng tâm của Phạm Lệnh Công thật là trung. Tam Kha
là kẻ gian thần mà đuổi con đích của vua để cướp ngôi, lấy Xương Văn
làm con ḿnh, chẳng qua là lời lẽ che đậy giả dối, ai mà biết được ?
Vả lại, lúc ấy người trong nước ai cũng xem Tam Kha là vua, mà Lệnh
Công dám che giấu cho Xương Ngập, muốn cho
ḍng dơi
họ Ngô không tuyệt tự, việc của Tŕnh Anh, Chữ Cửu228 lại thấy ở đây.
Ai bảo một nước rộng lớn mà không có trung thần nghĩa sĩ.
Đinh Mùi,
[947], (Dương Tam Kha năm thứ 3; Hậu Hán, Cao Tổ Lưu Tri Viễn lên
ngôi vẫn dùng niên hiệu nhà Tấn, Thiên Phúc năm thứ 12). Năm ấy nhà
Tấn mất.
[22b]
Canh Tuất, [950], (Dương Tam Kha năm thứ 6; Hán Ẩn Đế Thừa Hựu, vẫn
dùng niên hiệu Càn Hựu năm thứ 3). Tam Kha sai Xương Văn và hai [chỉ
huy] sứ họ Dương, họ Đỗ229 đem quân đi đánh hai thôn Đường, Nguyễn ở
Thái B́nh230 . Đến Từ Liêm, Xương Văn ung dung bảo hai sứ rằng: "Đức
của Tiên vương ta thấm khắp ḷng dân, phàm chính lệnh ban ra không
ai không vui ḷng nghe theo, không may ĺa bỏ quần thần, B́nh Vương
tự làm việc bất nghĩa, cướp ngôi của anh em ta, tội không ǵ to bằng.
Nay lại sai bọn chúng ta đi đánh ấp không có tội, may mà đánh được
th́ thôi, nếu họ không phục th́ làm thế nào ?" Hai sứ đều nói: "Xin
theo lệnh của ông". Xương Văn nói: "Ta muốn đem quân quay lại đánh
úp B́nh Vương để khôi phục cơ nghiệp của Tiên Vương ta, có nên chăng
?" Hai sứ đều trả lời là nên lắm. Bèn quay về đánh úp Tam Kha. Mọi
người muốn giết đi, Xương Văn nói: "B́nh Vương đối với ta có ơn, sao
nỡ giết". Bèn giáng làm Chương Dương Công, nhân đó ban cho thực ấp
(nay là Chương Dương độ)231 . [23a] Năm ấy nhà Hán mất.
Lê Văn
Hưu nói: Đuổi con vua mà tự lên làm vua, là tội công; nuôi con vua
làm con ḿnh mà cho thực ấp, là ơn riêng. Đuổi Xương Ngập mà tự lên
làm vua, là bề tôi phản nghịch, đối với nghĩa th́ hẳn là không dung
được tội phải chết. Hậu Ngô Vương không trị tội, lại v́ ơn riêng
nuôi dưỡng mà không nỡ gia h́nh, lại ban cho thực ấp, há chẳng lầm
to hay sao?
Hậu Ngô
Vương
(Phụ:
Thiên Sách Vương)
Ở ngôi 15
năm [951-965].
Vua nối
được kỷ cương hoàng gia, khôi phục cơ nghiệp cũ. Tiếc rằng gây việc
can qua ở trong nước đến nỗi bị chết.
Vua tên
húy là Xương Văn, con thứ của Tiền Ngô Vương.
Tân Hợi,
năm thứ 1 [951], (Chu Thái Tổ Quách Uy, Quảng Thuận năm thứ 1). Vua
đă truất bỏ Tam Kha, lên ngôi vua, xưng là Nam [23b] Tấn [Vương],
sai sứ đi đón anh là Xương Ngập về Kinh sư, cùng trông coi việc nước.
Xương Ngập xưng là Thiên Sách Vương.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Nam Tấn đón Xương Ngập về để cùng trông coi chính
sự, có thể gọi là người biết kính anh, muốn cho cùng hưởng phú quư.
Xương Ngập nên lấy sự ḿnh không có công lao mà nhường ngôi cho em,
để cùng hưởng lập, th́ đức ấy há chẳng rạng rỡ lớn lao ư? Lại câu nệ
về phận đích trưởng, cũng xưng vương, trông coi chính sự, lại chuyên
quyền làm oai làm phúc, đến nỗi Nam Tấn Vương không được dự chính sự
nữa, thật là mất đạo nghĩa anh em, chí thú rất là ti tiện.
Bấy giờ
người động Hoa Lư là Đinh Bộ Lĩnh cậy núi khe hiểm cố, không chịu
giữ chức phận làm tôi. Hai vương muốn cất quân đi đánh; Bộ Lĩnh sợ,
sai con là Liễn vào triều làm con tin để ngăn chặn việc xuất quân
[24a]. Liễn đến, hai vương trách tội [Bộ Lĩnh] không đến chầu, rồi
bắt giữ Liễn đem theo đi đánh. Hơn một tháng, không đánh nổi, bèn
treo Liễn lên ngọn sào, sai người bảo Bộ Lĩnh, nếu không chịu hàng
th́ giết Liễn. Bộ Lĩnh tức giận nói: "Đại trượng phu chỉ mong lập
được công danh, há lại bắt chước thói đàn bà xót con hay sao?". Liền
sai hơn mười tay nỏ nhắm Liễn mà bắn. Hai vương kinh sợ: "Ta treo
con nó lên là muốn để nó đoái tiếc con mà ra hàng cho chóng. Nó tàn
nhẫn như thế, c̣n treo con nó làm ǵ". Bèn không giết Liễn mà đem
quân về.
Bấy giờ
Thiên Sách Vương chuyên quyền làm uy, [Nam Tấn] Vương không được dự
chính sự nữa. Hai vương do đó hiềm khích với nhau.
Giáp Dần,
năm thứ 4 [954], (Chu Thế Tông Sài Vinh, Hiển Đức năm thứ 1) Thiên
Sách Vương mất. Vua [Nam Tấn Vương] lại giữ ngôi. Sai sứ sang thỉnh
mệnh vua Nam Hán là Lưu Xưởng232 . Xưởng cho vua làm Tỉnh Hải quân
tiết độ sứ kiêm Đô [24b] hộ.
Canh Thân,
năm thứ 10 [960], (Chu Cung Đế Tông Huấn233 , năm thứ nhất; Tống
Thái Tổ Triệu Khuông Dận, Kiến Long năm thứ 1). Năm ấy nhà Chu mất.
Ất Sửu,
năm thứ 15 [965], (Tống Càn Đức năm thứ 3). Vua đem quân đi đánh hai
thôn Đường và Nguyễn ở Thái B́nh, mới vào đến cơi, đỗ thuyền lên bộ
đánh, bị phục binh tay nỏ bắn trúng chết. Đinh Liễn trở về Hoa Lư.
Lê Văn
Hưu nói: Nam Tấn Vương nhà Ngô trước bị gia thần là Tam Kha giam giữ,
sau bị anh là Xương Ngập áp chế, một sớm đắc chí, không biết cẩn
thận giữ ḿnh, cho nên hưởng nước ngắn ngủi, không có chính tích ǵ,
đáng tiếc thay ! Nhưng, cứ xem việc tha tội cho B́nh Vương, há không
phải là nhân ư ? Chịu nhịn cho Xương Ngập kiêu xấc, há không phải là
cung ư ? Đă nhân lại cung, cũng có thể thấy vương là người ra sao
rồi .
[25a] Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói: Nam Tấn Vương nhà Ngô lấy nghĩa trừ kẻ bạo tàn,
khôi phục cơ nghiệp cũ, đủ thỏa được vong linh của tổ tông, hả ḷng
căm giận của thần và người. Về chính trị, đang có đổi mới. Thế mà v́
ḷng nhân, thương người kiểu đàn bà trẻ con mà không trị tội Tam Kha
cướp ngôi; tham việc can qua, v́ hành động đánh dẹp càn rỡ ở hai
thôn Đường, Nguyễn, rốt cuộc lại tự giết ḿnh. Đáng tiếc thay !
Ngô Sứ
Quân
(Phụ: Các
Sứ Quân)
Tất cả 2
năm [966-967].
Họ Ngô,
tên húy là Xương Xí, khi Thiên Sách Vương lánh nạn, lấy vợ ở Nam
Sách Giang234 sinh ra, là cháu gọi Nam Tấn Vương bằng chú.
Bính Dần,
năm thứ 16 [966], (Tống Càn Đức năm thứ 4). Nam Tấn [Vương] mất, các
hùng trưởng đua nhau nổi dậy chiếm cứ quận ấp để tự giữ: Ngô Xương
Xí chiếm Binh Kiều235 ; Kiểu Công Hăn
(xưng là
Kiểu Tam Chế) chiếm Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc)236 ; Nguyễn
[25b] Khoan (xưng là Nguyễn Thái B́nh) chiếm Tam Đái237 ; Ngô Nhật
Khánh (xưng là Ngô Lăm Công) chiếm Đường Lâm238 (có sách chép là
chiếm Giao Thủy239 ; Đỗ Cảnh Thạc (xưng là Đỗ Cảnh Công) chiếm Đỗ
Động Giang240 ; Lư Khuê (xưng là Lư Lăng Công) chiếm Siêu Loại241 ;
Nguyễn Thủ Tiệp (xưng là Nguyễn Lệnh Công) chiếm Tiên Du, Lữ Đường (xưng
là Lữ Tá Công) chiếm Tế Giang242 ; Nguyễn Siêu (xưng là Nguyễn Hữu
Công) chiếm Tây Phù Liệt243 ; Kiểu Thuận (xưng là Kiểu Lệnh Công)
chiếm Hồi Hồ (nay ở xă Trần Xá huyện Hoa Khê vẫn c̣n nền thành
cũ)244 ; Phạm Bạch Hổ (xưng là Phạm Pḥng Át) chiếm Đằng Châu245 ;
Trần Lăm (xưng là Trần Minh Công) chiếm Bố Hải Khẩu246 ; gọi là 12
sứ quân.
Đinh Măo,
năm thứ 17 [967], (Tống Càn Đức năm thứ 5). Bấy giờ trong nước không
có chủ, 12 sứ quân tranh nhau làm trưởng, không ai chịu thống thuộc
vào ai. Đinh Bộ Lĩnh nghe tiếng Trần Minh Công là người có đức mà
không có con nối, bèn cùng với con là Liễn đến nương tựa. Minh Công
thấy Bộ Lĩnh dáng mạo khôi ngô lạ thường, lại có khí lượng, mới nuôi
làm con, ơn yêu đăi ngày càng hậu, nhân đó giao cho coi quân, sai đi
đánh các hùng trưởng khác, [26a] đều thắng được cả. Phạm Pḥng Át
đem quân về hàng (dưới triều nhà Đinh, Pḥng Át làm Thân vệ tướng
quân). Khi Minh Công mất, gặp lúc bọn con em của Ngô Tiên chúa ở Đỗ
Động Giang hơn 500 người đem quân đến đánh, mới vào đến đất Ô Man
th́ bị người làng ấy là Ngô Phó sứ đánh bại phải trở về. Bộ Lĩnh
nghe tin, liền cất quân đi đánh vùng sông và động ấy, không bộ lạc
nào không hàng phục. Từ đó lại dân ở kinh phủ đều khâm phục theo về.
Nhà Ngô mất.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Vận trời đất, bĩ rồi ắt thái, Bắc Nam đều cùng một
lẽ ấy. Thời Ngũ đại bên Bắc triều [Trung Quốc] suy loạn rồi Tống
Thái Tổ nổi lên. Ở Nam triều [nước ta], 12 sứ quân phân chia quấy
nhiễu, rồi Đinh Tiên Hoàng nổi lên. Không phải là ngẫu nhiên mà do
vận trời vậy.
Trở lên
là kỷ nhà Ngô gồm 3 vua và Dương Tam Kha cướp ngôi, từ năm Kỷ Hợi
đến năm Đinh Măo [939-967] cộng 29 năm.
158 Sửa
đúng là niên hiệu Nhân Thọ năm thứ 3.
159 Việt
Thường: tên huyện thời Tùy, thuộc quận Nhật Nam, vị trí vào khoảng
huyện Đức Thọ và phía nam huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay.
160 Tỷ
Cảnh: tên quận do nhà Tùy đặt năm 607, vị trí ở vào khoảng phía nam
tỉnh Hà Tĩnh đến Quảng Trị. Ở đây, Toàn thư chép với chữ Cảnh ____,
nhưng đúng ra là Cảnh _____ (xem Tùy thư, Lưu Phương truyện). Cảnh
c̣n có thể đọc theo âm cổ là Ánh (Tỷ Ánh nguyên là tên huyện thời
Hán, có nghĩa là so bóng mặt trời).
161
Nguyên bản in là Thái Tổng Quản, sửa lại theo Tân Đường thư, Khâu
Ḥa truyện.
162
Nguyên văn: "chiếu phát sư nghênh chi"; có thể sai sót. Tân Đường
thư, Khâu Ḥa truyện chép là: "chiêu kỳ tử Sư Lợi nghênh chi", nghĩa
là: xuống chiếu sai con [của Ḥa] là Sư Lợi đi đón. Truyện Khâu Ḥa
trong Cựu Đường thư và Thông Giám cùng chép tương tự ("khiển kỳ tử
Sư Lợi nghênh chi")
163 Cựu
Đường thư, Khâu Ḥa truyện chép "Lâm Ấp chi tây chư quốc" (các nước
phía tây Lâm Ấp).
164 Cựu
Đường thư, Địa lư chí chép: "Quận Giao Chỉ thời Tùy, năm Vũ Đức thứ
5 [nhà Đường] đổi làm Giao Châu tổng quản phủ"
165 Tân
Đường thư, Cựu Đường thư, Thông giám đều chép là Tào Huyền Tĩnh.
166 Tân
Đường thư - Bản kỷ chép là Mai Thúc Loan; Cựu Đường thư, Dương Tư
Húc truyện chép là Mai Lập Thành ---- Thông giám chép là Mai Thúc
Yên.
167
CMTB4, 21b theo Tân Đường Thư, Dương Tư Húc truyện ghi số quân của
Mai Thúc Loan là 40 vạn.
168
CMTB4, 21b theo Đường Thư; Dương Tư Húc truyện chép là Quang Sở
Khách. Hai chữ Quang _____ và Nguyên _____ dễ viết nhầm.
169 Côn
Lôn: thư tịch Trung Quốc từ thế kỷ IV, nhất là từ thời Đường, thường
dùng tên Côn Lôn để chỉ một số cư dân trong vùng Nam Hải, tức vùng
Đông Nam Á ngày nay. Tuệ Lâm trong Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa (q.61),
soạn năm 817, nói rằng "Côn Lôn .... cũng gọi là Cốt Luân, là người
Di ở các đảo châu Nam Hải, rất đen .... chủng loại có nhiều". Cựu
Đường Thư, Nam Man truyện cùng chép: "Từ Lâm Ấp trở về phía nam, đều
tóc quăn, da đen, gọi chung là Côn Lôn". Như vậy Côn Lôn là một sự
phiếm chỉ, khó có thể xác định đó là cư dân một nơi nào ở Đông Nam Á
hiện nay.
170 Chà
Bà: phiên âm tên đảo Java.
171 Theo
Nguyên Ḥa quận huyện chí (q.38), năm này (767) Trương Bá Nghi cho
đắp La Thành ở vị trí mới, cách sông Tô Lịch khoảng 200 thước.
172 Cương
mục TB4 chép người tiết phụ này họ Kim, hẳn là đă dựa vào Tân Đường
thư q.205 Liệt nữ truyện (Kim tiết phụ). Toàn thư đă chép nhầm chữ
Kim ra chữ Toàn.
173 Xá:
30 dặm.
174 Việc
Khương Công Phụ căn ngăn Đường Đức Tông, Đường thư và Thông giám đều
ghi vào năm Kiên Trung thứ 4 (783), quan hàm được phong là Gián nghị
đại phu kiêm Đổng b́nh chương sự.
175 Bắc
bộ thị lang: Đại Việt sử kư tiền biên (bản in thời Tây Sơn) sửa là
Tỉ bộ thị lang (____ tỉ và ____ bắc dễ viết nhầm). CMTB26 dẫn An Nam
kỷ yếu ghi B́nh trước là Đô úy ở Vũ Định, nhờ đem quân cứu viện
Trương Bá Nghi, được phong làm An Nam Đô Hộ.
176 Nay
là xă Cam Lâm, huyện Ba V́, tỉnh Hà Tây.
177Nay
thuộc quận Đống Đa, Hà Nội.
178
Nguyên bản in: "tịch điền đông-tây", có lẽ là đông-nam hay đông-bắc,
khắc in nhầm.
179
Nguyên văn: "Sản thành trung câu địa thành, hợp vi nhất thành" và
cước chú: "cậu địa có bản chép là câu tŕ (ao ng̣i)". Như vậy "câu
địa thành" có lẽ phải đọc là "câu đ́a thành", hiểu là thành có hào
rănh trong ngoài, mà câu đ́a là lối ghép 1 từ Hán và 1 từ Nôm đồng
nghĩa. Trong câu trên có 3 chữ thành, thừa chữ thành thứ hai.
180 Người
làm thứ sử Giao Châu nói đây là ước tính theo thời gian, cần hiểu là
người đời trước trong gia tộc của Dương Thanh chứ không phải chính
Dương Thang.
181
CMTB4, 29b theo Cựu Đường thư, Bản kỷ và Thông giám sửa lại là Quế
Trọng Vũ, bấy giờ làm An Nam đô hộ.
182 Hoàn
Vương: vua nước Chiêm Thành (khoảng những năm 756-808, nước Lâm Ấp
được thư tịch Trung Quốc gọi là Hoàn Vương Quốc, từ sau năm 808 mới
gọi là Chiêm Thành).
183 Lư
Nguyên Gia: Việt Sử Lược q1.10b dựa vào Cựu Đường thư (Bản kỷ 17)
chép là Nguyễn (tức Lư) Nguyên Hỷ. Chữ Gia và chữ Hỷ có thể lầm với
nhau.
184
Nguyên bản in nhầm chữ ____ phủ thành chữ _____ phủ.
185 Ở đây,
Toàn thư chép lè Nam Man. Tân Đường thư q.8 Bản Kỷ, khi nói đến sự
kiện này, lại chép là Vân Nam Man. Nhưng cũng căn cứ vào Tân Đường
thư, q.222 Nam Chiếu truyện, th́ Vân Nam Man nói ở đây là Nam Chiếu,
tên quốc gia của các tộc người vùng Vân Nam, Trung Quốc (chủ yếu là
người Thoán), cường thịnh từ khoảng thế kỷ VIII, thường tiến hành
những cuộc chiến tranh xâm lược ra xung quanh.
186 Cương
mục (TB4, 35a) theo sử liệu của Thông Giám và Tân Đường thư (Bản kỷ)
đă sửa lại là Bùi Nguyễn Dụ (hai chữ _____ dụ và ____ hựu dễ viết
nhầm)
187 Châu
Nhai (cũng đọc là Chu Nhai), Toàn thư và cả Cương mục (TB4, 36b) dựa
và Thông giám và Cựu Đường thư (Bản Kỷ), nhưng cả hai tài liệu ấy
đều chép tên người này là Tống Nhai. Hai chữ ____ Tống và ______ Chu
dễ viết nhầm. Toàn thư chuyển tiếp lầm trong Cương mục: nên sửa lại
là Tống Nhai.
188 Thầy
học của Khang Vương.
189 Vốn
là ___ ___ "lặc mộc" (cây táo gai), nguyên bản in nhầm thành ___ ___
"điều mộc" (Xem CMTB4, 37).
190 Đời
Đường, quân pḥng thủ ở biên giới thường được gọi là pḥng thu và
pḥng đông.
191 Thác
đông thác nha: Thông giám (Mậu Dần, Đại Trung 2) khảo dị với Man thư,
đă hiệu chỉnh là Thác đông áp nha; nên sửa theo cách gọi đó.
192 Ở đây
nói đến viên Kinh Lược Sứ Tống Nhai mà Toàn Thư đă lầm là họ Châu
tên Nhai (xem NK5 8b - năm 857), đến đây thấy trùng với tên quận
Châu Nhai (ở đảo Hải Nam) nên người chú thích nguyên bản Toàn thư đă
chú nhầm.
193 Tức
Ung Châu. Quản là đơn vị hành chính do nhà Đường đặt, tương đương
như phủ.
194
CMTB4, 40a theo Thông giám, chép là Đỗ Thủ Trừng.
195 Tây
Đạo: tức Ung Châu (trị sở ở Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc ngày
nay).
196 Trấn
Hải Môn: lỵ sở ở huyện Bác Bạch, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc ngày
nay.
197 Vũ
Nghĩa tiết độ sứ: nên sửa theo Tân Đường thư, Khang Thừa Huấn truyện
là Nghĩa Vũ tiết độ sứ.
198 Lĩnh
Nam: trong chức vụ kiểm lĩnh của Khang Thừa Huấn nên sửa đúng là An
Nam, theo Thông Giám và Tân Đường thư (đă dẫn). CMTB5, 4a cũng dẫn
nhầm là Lĩnh Nam.
199 Cương
lại: người giữ việc ghi chép sổ sách vận chuyển lương thực.
200 Tân
Đường thư q.224 hạ, Cao Biền truyện và Việt Sử Lược q.1 đều chép là
Dung Quản kinh lược sứ, Dung Quản hay Dung Châu thời Đường, đặt trị
sở ở huyện Bắc Lưu, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc ngày nay.
201 Nam
Định: tên huyện do nhà Đường đặt năm Vũ Đức thứ 4 [621] (Đường thư,
Địa lư chí). Lại theo Thái B́nh hoàn vũ kư của Nhạc Sử thời Tống th́
ở huyện Nam Định có núi Đông Cứu ở châu Gia Lâm. Như vậy huyện Nam
Định thời thuộc Đường ở về phía nam sông Đuống, vào khoảng huyện Gia
Lương, tỉnh Hà Bắc ngày nay.
202 Thiện
Xiển: tức Côn Minh, ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc ngày nay.
203 Theo
Thông Giám và Tân Đường thư, Nam Chiếu truyện, họ tên người này là
Dương Tập Tư, không phải là Trương Tập như Toàn thư đă viết nhầm.
204 Phù
Da: tên huyện thuộc châu Vũ Định. Theo Thanh nhất thống chí, châu Vũ
Định thời Đường thuộc quyền An Nam đô hộ phủ; nay ở địa phận tỉnh
Vân Nam, Trung Quốc. Chữ Phù trong nguyên bản đúng ra phải chép là
____ _____.
205 Tây
Châu, nên sửa là Tây Xuyên, theo Thông Giám.
206
Nguyên văn: "Biền cứ ngă phủ xưng vương". Sử liệu Trung Quốc, kể cả
Tân Đường thư q.224 hạ; Cao Biền truyện đều không thấy ghi việc Cao
Biền xưng vương. Cương Mục cho rằng đó chỉ là do một số "người Giao
Châu kinh sợ Biền mà gọi Biền là Cao Vương") (CMTB5, 10b).
207
Nguyên văn: "nữ tường", tức tường nhỏ đắp trên mặt thành có các lỗ
để nhắm bắn.
208
Nguyên văn: "Ngũ trượng ngũ thốn", chắc là khắc in lầm, thân thành
cao 2 trượng 6 thước th́ nữ tường chỉ có thể là 5 thước 5 tấc; Việt
Sử Lược (q.1) cũng ghi số đó.
209 Việt
sử lược (q.1) chỉ ghi con số 5.000 gian.
210 Cương
mục đă nhận xét rằng kênh ấy không thuộc địa phận nước ta (CMTB5,
12a). Có thể là ghềnh Bắc Thú, ở huyện Bác Bạch, tỉnh Quảng Tây,
Trung Quốc ngày nay.
211
Nguyên bản in: "Cái sở hợp lư ....", có lẽ câu văn là "Cái sở hành
hợp lư ....", mà khắc in sót chữ hành.
212
Nguyên bản in: "Cổn đại Biền, phủ tự hữu thanh", có thể hiểu là:
..... có tiếng về chữ "phủ" (vỗ về dân chúng). Nhưng có khả năng in
nhầm: "... phủ dân hữu thanh" (có tiếng biết vỗ về dân chúng).
213 Khúc
Hạo: người làng Cúc Bồ, huyện Ninh Thanh, tỉnh Hải Hưng ngày nay, ở
đó hiện c̣n đ́nh thờ họ Khúc. Cương mục dẫn sách An Nam kỷ yếu, ghi
thêm: "Cuối thời Đường, Khúc Hạo làm Tiết độ sứ thay cho Độc Cô Tôn;
đổi các hương ở các huyện làm giáp, đặt ở mỗi giáp một viên quản
giáp và một phó tri giáp để giữ việc đánh thuế. Hạo giữ chức Tiết độ
sứ được hơn 4 năm th́ mất" (CMTB5, 15a).
214 Nam
Hán: 1 trong 10 nước thời Ngũ Đại ở Trung Quốc bao gồm cả tỉnh Quảng
Đông, phần phía nam Quảng Tây, nam Phúc Kiến ngày nay, trước sau 67
năm (905-971), gồm 5 đời làm vua.
215 Cương
mục theo Tư trị thông giám ghi Khúc Thừa Dụ được trao chức Tĩnh Hải
quân tiết độ sứ, năm Thiên Hựu thứ 3 (906) được thăng Đồng b́nh
chương sự (CMTB5, 14a).
216
Nghiễm _____ (trên chữ long là rồng, dưới chữ thiên), nguyên bản
khắc thiếu 1 nét thành trên chữ long dưới chữ đại, không có trong tự
điển. C̣n chữ đă ghi (long + thiên), bản dịch cũ phiên là Yểm, bản
dịch Cương mục phiên là Yêm. Thực ra, chữ này có hai âm Hán Việt là
Yểm và Nghiễm, nhưng trong trường hợp tên vua Nam Hán ở đây th́ đọc
là Nghiễm. Ngũ đại sử q.65 Nam Hán thế gia chép rằng vua Nam Hán ban
đầu tên là Nham, rồi đổi tên là Trắc ____ (chứ không phải Thiệp)
_____ như Toàn thư chép ở đây), "sau thấy rồng trắng hiện lên, lại
đổi tên là Cung, sau có nhà sư người Hồ nói rằng theo sấm thư th́
diệt họ Lưu là Cung, bèn lấy nghĩa "rồng bay lên trời" (phi long tại
thiên) trong Chu Dịch, đặt làm chữ ____ âm là Nghiễm, lấy làm tên".
217 Thông
giám (Trường Hưng 1), Tân Ngũ đại sử, Nam Hán thế gia chép tên viên
tướng nhà Nam Hán này là Lương Khắc Trinh.
218 Việc
quân Nam Hán sang đánh Giao Châu (tức nước ta), bắt Khúc Thừa Mỹ, sử
liệu Trung Quốc như Thông giám ghi vào tháng 9 năm Trường Hưng thứ 1
(930). Tân Ngũ Đại sử, Nam Hán thế gia ghi vào niên hiệu Đại Hữu thứ
3, cũng tức là năm 930. Chưa rơ v́ sao cả Toàn thư và Cương mục
(TB5, 17a) đều ghi vào năm Quư Mùi (923)?
219 Cương mục ghi Dương
Diên Nghê, người Ái Châu, tức Thanh Hóa (CMTB5, 17a). Tài liệu Trung
Quốc như Tống Sử (q.488), Tư tri thông giám v.v.... cũng chép là
Dương Diên Nghệ. Ngũ đại sử (q.65) chép như Toàn thư (là Đ́nh Nghệ).
Có thể nhầm nét chữ v́ chữ ____ diên và chữ ____ đ́nh gần giống nhau.
220 Chỉ Lưu Ẩn.
221 Chữ ______ âm Cảo,
Kiểu, đồng âm với Kiều.
222 Vạn Vương [Lưu] Hoằng
Tháo, nên sửa là Hồng Tháo, theo Tân Ngũ đại sử (q.65). Các con của
Lưu Cung đều có chữ Hồng.
223 Tân Ngũ đại sử (Nam
Hán thế gia) chép: thực thiết quyết = đóng cọc sắt (hiểu là cọc gỗ
bịt sắt). Việt sử lược (q.1, 14b): thực thiết đầu đại dực = đóng cọc
lớn đầu sắt.
224 Nay thuộc huyện Ba V́,
tỉnh Hà Tây; ở đây có đền thờ và lăng Ngô Quyền.
225 Việt Sử Tiêu Án của
Ngô Th́ Sĩ ghi Dương Tam Kha người làng Dương xá, huyện Đông Sơn,
tỉnh Thanh Hóa, con của Dương Đ́nh Nghệ.
226 Nam
Sách Giang: theo An Nam Chí Lược là tên lộ thời Lư. Nay là vùng đất
thuộc các huyện Chí Linh và Nam Thanh, tỉnh Hải Hưng.
227 Trà
Hương: theo CMTB5, 22a, huyện Kim Thành, nay thuộc đất huyện Kim
Môn, tỉnh Hải Hưng, xưa có tên gọi là Trà Hương.
228 Tŕnh
Anh, Chữ Cửu: người nước Tấn thời Chiến Quốc, bạn của Triệu Sóc (con
Triệu Thuẫn, đời Tấn Cảnh Công). Tư khấu nước Tấn là Đồ Ngạn Giả
giết Triệu Sóc và xuống lệnh tru di cả họ Triệu, Tŕnh Anh và Chữ
Cửu liều chết giấu con của Sóc là Vũ để cho họ Triệu không tuyệt tự.
229 Tức
Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc, đă nói ở trên.
230 Thái
B́nh: chưa rơ ở đâu. Cương mục dẫn Đường thư, Địa lư chí nói nhà
Đường cắt huyện Thái B́nh đặt làm huyện Phong Khê, lại nói Phong Khê
thuộc Phong Châu, "hai thôn Thái B́nh, Đường Nguyễn có lẽ ở đấy"
(CMTB4, 11b). CÓ thể là Đường Lâm và Nam Nguyễn huyện Ba V́, Hà Tây,
thuộc vùng cát cứ Ngô Nhật Khánh, hoặc Đường Lâm thuộc vùng cát cứ
của Ngô Nhật Khánh và Nguyễn Gia Loan, huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phú
thuộc vùng cát cứ của Nguyễn Khoan.
231
Chương Dương: nay là tên xă thuộc Thường Tín, tỉnh Hà Tây, ở đây có
bến đ̣ Chương Dương ở hữu ngạn sông Hồng.
232 Cương
mục sửa là Lưu Thạnh, v́ sứ giả của Nam Tấn Vương sang Nam Hán năm
Hiển Đức thứ 1 (954), khi ấy Lưu Thạnh c̣n làm vua. C̣n Lưu Xưởng
th́ 4 năm sau (958) mới lên ngôi (CMTB5, 26a). Ngũ đại sử (Nam Hán
thế gia) cũng chép sau khi Xương Ngập chết th́ em là Xương Tuấn sang
xin tiết việt của Lưu Thạnh.
233 Tông
Huấn: tức Cung Đế (Quách Tông Huấn) đời Hậu Chu nối ngôi năm 959,
qua năm sau nhường ngôi cho nhà Tống, trước sau chưa đầy 1 năm,
không đặt niên hiệu.
234 Nam
Sách Giang: xem chú ở trang trước.
235 Binh
Kiều: nay ở huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
236 Bạch
Hạc: nay thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú.
237 Tam
Đái: nay ở vùng huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phú. Nay ở xă Minh Tâm,
huyện Vĩnh Lạc có di tích thành cũ, và ở xă Vĩnh Mỹ (cùng huyện) có
đền thờ của sứ quân Nguyễn Khoan.
238 Đường
Lâm: nay ở huyện Ba V́, tỉnh Hà Tây.
239 Giao
Thủy: nay ở huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Hà.
240 Đỗ
Động Giang: Cương Mục chú: "Sông Đỗ Động phát nguyên từ các đầm lớn
ở xă Đào Viên thuộc huyện Thanh Oai, chảy qua các xă Sinh Quả, Úc Lư,
đi khuất khúc đến xă Thượng Cung, huyện Thượng Phúc th́ hợp với sông
Nhuệ" (CMTB5, 29b). Ngô Th́ Sĩ ghi thêm: "Nay ở làng Bảo Đà, huyện
Thanh Oai c̣n vết cũ của thành sứ quân" (Việt Sử Tiêu Án). Đỗ Động
Giang có thể là phần đất vào khoảng huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây
ngày nay.
241 SIêu
Loại: nay là đất huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc.
242 Tế
Giang: nay thuộc đất huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Hưng.
243 Tây
Phù Liệt: nay ở huyện Thanh Tŕ, Hà Nội.
244 Hồ
Hồi, Hoa Khê: Cương mục chú: Cẩm Khê xưa là Hoa Khê, ở xă Trương Xá,
huyện Cẩm Khê c̣n có vết đất cũ của thành sứ quân. Cẩm Khê nay thuộc
đất huyện Sông Thao, tỉnh Vĩnh Phú.
245 Đằng
Châu: nay là đất huyện Kim Thi, tỉnh Hải Hưng, ở xă Xích Đằng có đền
thờ Phạm sứ quân.
246 Bố
Hải Khẩu: nay là vùng thị xă Thái B́nh. Năm Thiên Thành thứ 3
(1030), Lư Thái Tông đi cày ruộng tịch điền ở Bố Hải Khẩu là nơi này
(bấy giờ ở đây c̣n là cửa biển nên gọi tên như vậy).
Quyển I
Kỷ nhà Đinh
Tiên Hoàng Đế
Họ Đinh, tên húy là Bộ
Lĩnh, người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng247 con của Thứ sử châu Hoan
Đinh Công Trứ, dẹp yên các sứ quân, tự lập làm đế, ở ngôi 12 năm
[968-979], bị nội nhân là Đỗ Thích giết, thọ 56 tuổi [924-979], tán
ở sơn lăng Trường Yên.
Vua tài năng sáng suốt
hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, quét sạch các hùng trưởng,
tiếp nối quốc thống của Triệu Vũ [Đế], song không biết dự pḥng,
không giữ được trọn đời, tiếc thay!
Xưa, cha của vua là Đinh
Công Trứ làm nha tướng của Dương Đ́nh Nghệ, được Đ́nh Nghệ giao giữ
chức quyền Thứ sử châu Hoan, sau theo về với Ngô Vương, vẫn được giữ
chức cũ, rồi mất. Vua mồ côi cha từ bé, mẹ họ Đàm đưa gia thuộc vào
ở cạnh đền sơn thần trong động. Vào tuổi nhi đồng, vua thường cùng
bọn trẻ con chăn trâu ngoài đồng. Bọn trẻ tự biết kiến thức không
bằng vua, [1b] cùng nhau suy tôn làm trưởng. Phàm khi chơi đùa,
thường bắt bọn chúng chéo tay làm kiệu khiêng và cầm hoa lau đi hai
bên để rước như nghi trượng thiên tử. Ngày rỗi, thường kéo nhau đi
đánh trẻ con thôn khác, đến đâu bọn trẻ đều sợ phục, hàng ngày rủ
nhau đến phục dịch kiếm củi thổi cơm. Bà mẹ thấy vậy mừng lắm, mổ
lợn nhà cho chúng ăn. Phụ lăo các sách bảo nhau: "Đứa bé này khí
lượng như thế ắt làm nên sự nghiệp, bọn ta nếu không theo về, ngày
sau hối th́ đă muộn". Bèn dẫn con em đến theo, rồi lập làm trưởng ở
sách Đào Áo. Người chú của vua giữ sách Bông chống đánh với vua. Bấy
giờ, vua c̣n ít tuổi, thế quân chưa mạnh, phải thua chạy. Khi qua
cầu ở Đàm Gia Nương Loan248 , cầu găy, vua rơi xuống bùn, [2a] người
chú toan đâm, bỗng thấy hai con rồng vàng hộ vệ vua, nên sợ mà lui.
Vua thu nhặt quân c̣n sót, quay lại đánh, người chú phải hàng. Từ
đấy ai cũng sợ phục, phàm đi đánh đến đâu đều dễ như chẻ tre, gọi là
Vạn Thắng Vương.
Bấy giờ Mười hai sứ quân
đều tự xưng hùng trưởng, cát cứ đất đai. Ngô Xương Xí chiếm B́nh
Kiều, Ngô Nhật Khánh chiếm Đường Lâm, Kiểu Tam Chế chiếm Phong Châu,
Nguyễn Thái B́nh chiếm Nguyễn Gia Loan, Đỗ Cảnh Thạc chiếm miền sông
Đỗ Động, Nguyễn Lệnh Công249 chiếm Tây Phù Liệt, Tế Giang th́ có Lữ
Tá Đường, Tiên Du có Nguyễn Thủ Tiệp, Siêu Loại có Lư Lăng Công, Hồi
Hồ có Kiểu Lệnh Công, Đằng Châu có Phạm Pḥng Át, Bố Hải có Trần
Minh Công250 . Vua một phen cất quân là dẹp yên,
bèn tự lập làm đế. Chọn
được chỗ đất đẹp ở Đàm thôn, vua muốn dựng [2b] đô ở đó, nhưng v́
thế đất chật hẹp lại không có lợi về việc đặt hiểm, nên vẫn đóng đô
ở Hoa Lư251 (nay là phủ Trường Yên).
Mậu Th́n, năm thứ 1
[968], ( Tống Khai Bảo năm thứ 1 ). Vua lên ngôi, đặt quốc hiệu là
Đại Cồ Việt, dời Kinh ấp về động Hoa Lư, bắt đầu dựng đô mới, đắp
thành đào hào, xây cung điện, đặt triều nghi. Bầy tôi dâng tôn hiệu
là Đại Thắng Minh Hoàng Đế.
Vua muốn dùng uy chế ngự
thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh
rằng: "Kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn". Mọi
người đều sợ phục, không ai dám phạm.
Lê Văn Hưu nói: Tiên
Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất
đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ,
một phen cất quân mà mười hai sứ quân phục hết. Vua mở nước dựng đô,
đổi xưng hoàng đế, đặt trăm quan, lập sáu [3a] quân, chế độ gần đầy
đủ, có lẽ ư trời v́ nước Việt ta mà lại sinh bậc thánh triết để tiếp
nối quốc thống của Triệu Vương chăng?
Kỷ Tỵ, năm thứ 2 [969], (Tống
Khai Bảo năm thứ 2) . Tháng 5 nhuận, phong con trưởng là Liễn làm
Nam Việt Vương.
Canh Ngọ, Thái B́nh năm
thứ 1 [970] , (Tống Khai Bảo năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, đặt
niên hiệu. (Sử cũ nói rằng nước Việt ta có niên hiệu bắt đầu từ đây.
Nhưng Lư Nam Đế [trước đó] đă đặt niên hiệu là Thiên Đức [544-548].
Sai sứ sang nhà Tống giao hảo. Bấy giờ nhà Tống sai Đại tướng Phan
Mỹ dẹp yên Lĩnh Nam (chỉ Lưu Xưởng252 ), cho nên mới có mệnh ấy.
Lập 5 hoàng hậu (một là
Đan Gia, hai là Trinh Minh, ba là Kiểu Quốc, bốn là Cồ Quốc, năm là
Ca Ông).
Lê Văn Hưu nói: Trời đất
cùng che chở, mặt trời mặt trăng cùng chiếu soi, mới sinh thành muôn
vật, nảy nở mọi loài, cũng như hoàng hậu sánh với ngôi vua, cho nên
mới có thể [3b] đứng đầu tiêu biểu cho nội cung, tác thành cho thiên
hạ. Từ xưa chỉ lập [hoàng hậu] một người để chủ việc nội trị mà thôi,
chưa từng nghe nói lập đến 5 người. Tiên Hoàng không kê cứu cổ học,
mà bầy tôi đương thời lại không có ai biết giúp sửa cho đúng, để đến
nổi ch́m đắm trong t́nh riêng, cùng lập 5 hoàng hậụ Sau đến 2 triều
Lê, Lư cũng phần nhiều bắt chước làm theo, ấy là do Tiên Hoàng khởi
xướng sự rối loạn thứ bậc vậy.
Tân Mùi, [Thái B́nh] năm
thứ 2 [971] , (Tống Khai Bảo năm thứ 4). Bắt đầu quy định cấp bật
văn vơ, tăng đạo. Lấy Nguyễn Bặc làm Định quốc công, Lưu cơ làm Đô
hộ phủ sĩ sư253 , Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân254 , Tăng thống255
, Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư, Trương Ma Ni làm
Tăng lục256 , Đạo sĩ Đặng Huyền Quang được trao chức Sùng chân uy
nghi257 .
[4a] Nhâm Thân, [Thái
B́nh] năm thứ 3 [972] , (Tống Khai Bảo năm thứ 5). Sai Nam Liệt
Vương Liễn sang sứ thăm nhà Tống.
Quư Dậu, [Thái B́nh] năm
thứ 4 [973] , (Tống Khai Bảo năm thứ 6). Nam Việt Vương Liễn đi sứ
về. Nhà Tống sai sứ sang phong cho vua làm Giao Chỉ Quận Vương, Liễn
làm Kiểm hiệu thái sư Tỉnh Hải quân tiết độ sứ An Nam đô hộ. (Lời
chế đại lược nói: "[Họ Đinh] đời làm vọng tộc, ǵn giữ được phương
xa, chí hâm mộ phong hoá Trung Hoa, thường nghĩ đến việc nội phụ.
Nay chín châu hợp một, miền Ngũ Lĩnh sạch quang258 , bèn trèo non
vượt biển đến dâng đồ cống. Khen người làm con biết giữ lễ phiên
thần, vậy ban cho cha ngươi theo lối cắt đất phong tước, xếp phẩm
trật cho vào hạng được cầm quân, được hưởng mức "tỉnh phú"259 . Như
thế là để khen thưởng đức tốt của người già, há chỉ hạn chế trong
điển chương thường lệ đâu?".
Giáp Tuất, [Thái B́nh]
năm thứ 5 [974] , (Tống Khai Bảo năm thứ 7). Muà xuân, tháng hai,
quy định về quân mười đạo: mỗi đạo có 10 quân, 1 quân 10 lữ, 1 lữ 10
tốt, 1 tốt 10 ngũ, 1 ngũ 10 người, đầu đội mũ b́nh đính260 vuông bốn
góc (loại mũ này làm bằng da, chóp phẳng, bố bên khâu liền, trên hẹp
dưới rộng, quy chế này đến đời bản triều khởi nghĩa vẫn c̣n dùng,
đời sau vẫn theo thế).
Hoàn thứ tử là Toàn sinh.
[4b] Ất Hợi, [Thái B́nh]
năm thứ 6 [975] , (Tống Khai Bảo năm thứ 8). Mùa xuân, quy định áo
mũ cho các quan văn vơ. Sai Trịnh Tú 261 đem vàng lụa, sừng tê, ngà
voi sang nhà Tống.
Mùa thu, nhà Tống sai
Hồng lô tự khanh Cao Bảo Tự dẫn đầu bọn Vương Ngạn Phù đem chế sách
sang gia phong cho Nam Việt Vương Liễn làm Khai phủ nghi đồng tam ty,
Kiểm hiệu thái sư, Giao Chỉ Quận Vương. Từ đó về sau, sai sứ sang
nhà Tống đều lấy Liễn làm chủ.
Bính Tư, [Thái B́nh] năm
thứ 7 [976] , (Tống Khai Bảo năm thứ 9. Từ tháng 10 trở về sau thuộc
về Tống Thái Tông [Triệu] Khuông Nghĩa, niên hiệu Thái B́nh Hưng
Quốc năm thứ nhất). Muà xuân, thuyền buôn của các nước ngoài đến
dâng sản vật của nước họ. Sai Trần Nguyên Thái sang đáp lễ nhà Tống.
Mùa đông, tháng 10, Tống
Thái Tổ băng.
Đinh Sửu, [Thái B́nh] năm
thứ 8 [977] , (Tống Thái B́nh Hưng Quốc năm thứ 2). Sai sứ sang nhà
Tống mừng Thái Tông lên ngôi.
Mậu Dần, [Thái B́nh] năm
thứ 9 [978] , (Tống Thái B́nh Hưng Quốc năm thứ 3). Mùa xuân, tháng
giêng, động đất. Lập con nhỏ là Hạng Lang [5a] làm hoàng thái tử,
phong con thứ là Toàn làm Vệ Vương. Tháng hai, mưa đá.
Mùa hạ, tháng sáu, nắng
hạn.
Kỷ Măo, [Thái B́nh] năm
thứ 10 [979] , (Tống Thái B́nh Hưng Quốc năm thứ 4). Mùa xuân, Nam
Việt Vương Liệt giết hoàng thái tử Hạng Lang. Liễn là con trưởng của
vua, thuở hàn vi cùng chịu gian khổ, đến khi định yên thiên hạ, ư
vua muốn truyền ngôi cho, mới phong làm Nam Việt Vương, lại từng xin
mệnh và nhận tước phong của nhà Tống. Sau vua sinh con nhỏ là Hạng
Lang, rất mực yêu quư, lập làm thái tử. Liễn v́ vậy bất b́nh, sai
người ngầm giết đi.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
Nối ngôi dùng con đích là đạo thường muôn đời, bỏ đạo ấy, chưa từng
không gây loạn. Cũng có khi nhân thời loạn mà lập Thái tử, th́ trước
hết chọn người có công, [5b] hoặc con đích trưởng quá ác phải bỏ th́
sau mới lập con thứ. Thế là xử việc lúc biến mà vẫn được đúng đắn,
người xưa vẫn từng làm. Nam Việt Vương Liễn là con trưởng, lại có
công, chưa thấy lầm lỗi ǵ. Tiên hoàng yêu con thứ mà quên con
trưởng, cho như thế mới đủ tỏ t́nh yêu quư, không biết như thế là
làm hại con.
Liễn lại nhẫn tâm, đến
nỗi giết em, thiên đạo nhân luân mất hết, chuốc họa chết thiệt thân,
c̣n liên lụy cả cha nữa, há chẳng rùng rợn lắm thay! Không thế th́
tội đại ác của Đỗ Thích do đâu nảy ra để hợp với lời sấm Được?
Mùa đông, tháng mười, Chi
hậu nội nhân Đỗ Thích262 giết vua ở sân cung. Bọn Đinh quốc công
Nguyễn Bặc bắt được đem giết. Trước đó Đỗ Thích làm chức lại ở Đồng
Quan, đêm nằm trên cầu, bỗng thấy sao sa rơi vào miệng, Thích cho là
điềm tốt, bèn nảy ra ư định giết vua. Đến đây, nhân lúc vua ăn yến
ban đêm, say rượu nằm trong sân, [6a] Thích bèn giết chết, lại giết
luôn cả Nam Việt Vương Liễn. Khi ấy lệnh lùng bắt hung thủ rất gấp,
Thích phải lén núp ở máng nước trong cung qua 3 ngày, khác lắm, gặp
lúc trời mưa tḥ tay hứng nước uống, cung nữ trông thấy liền đi báo.
Đinh quốc công Nguyễn Bặc sai người bắt đem chém, đập nát xương, băm
thịt ra từng mảnh, chia cho người trong nước ăn, chẳng ai không
tranh lấy mà nhai nuốt. Ngày trước, khi vua c̣n hàn vi, thường đánh
cá ở sông Giao Thủy, kéo lưới được viên ngọc khuê to nhưng va vào
mũi thuyền, sứt mất một góc. Đêm ấy vào ngũ nhờ ở chùa Giao Thủy,
giấu ngọc ở dưới đáy giỏ cá, đợi sáng ra chợ bán cá. Bấy giờ vua
đang ngũ say, trong giỏ có ánh sáng lạ, nhà sư chùa ấy gọi dậy hỏi
duyên cớ, vua nói thực và lấy ngọc khuê cho xem. Sư than rằng: "Anh
ngày sau phú quư không thể nói hết, chỉ tiếc phúc không được dài".
Lại vào năm Thái B́nh thứ
5 [974], có lời sấm ngữ: "Đỗ Thích thí Đinh Đinh, Lê gia xuất thánh
minh, cạnh đầu đa hoành nhi263 , đạo lộ tuyệt nhân hành. Thập nhị
xưng đại vương, thập ác vô nhất thiện [6b], thập bát tử đăng tiên,
kế đô264 nhị thập thiên" (Đỗ Thích giết hai Đinh, nhà Lê nỗi thánh
minh, tranh nhau nhiều hoành nhi, đường sá người vắng tanh. Mười hai
xưng đại vương, toàn ác không một thiện, mười tám con lên tiên, sao
kế đô hai chục ngày)265 . Người ta cho là số trời đă định như thế.
Khi ấy Định quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền, cùng thập
đạo tướng quân Lê Hoàn rước Vệ Vương Toàn lên ngôi Hoàng đế, tôn gọi
vua là Tiên Hoàng Đế, tôn mẹ đẻ [vua mới] là Dương Thị làm Hoàng
thái hậu. Rước linh cữu Tiên Hoàng Đế về táng ở sơn lăng Trường
Yên266 .
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
Đế vương dấy nghiệp không ai không nhờ ở trời. Nhưng thánh nhân
không cậy có mệnh trời mà làm hết phận sự của ḿnh. Việc đă thành,
lại càng lo nghĩ đề pḥng. Sửa sang lể nhạc h́nh án chính sự là để
pḥng giữ ḷng người. Đặt nhiều lần cửa, đánh hiệu canh là đề pḥng
kẻ hung bạo. Bởi v́ [7a] ḷng dục không cùng, việc đời không bến,
không thể không đề pḥng trước. Đó là nghĩ xa cho đời sau, mưu tính
cho con cháu cũng chính là ở đó. Cho nên Tiên Hoàng không được trọn
đời là do chưa làm hết việc ngừơi, không phải mệnh trời không giúp.
Cũng v́ vua không giữ được trọn đời khiến cho cái thuyết sấm đồ266
đắc thắng, đời sau không thể không bị mê hoặc v́ điều đó.
PHẾ ĐẾ
Tên húy là Toàn, con thứ
của Tiên Hoàng, ở ngôi 8 tháng. Họ Lê cướp ngôi, giáng phong là Vệ
Vương, thọ 18 tuổi [974-991]. Vua c̣n thơ ấu phải nối nghiệp lớn
gian nan, cường thần nhiếp chính, người trong nước ĺa ḷng, nhà
Đinh bèn mất.
Vua nối ngôi khi mới 6
tuổi. Lê Hoàn nhiếp chính, làm công việc như Chu Công267 , tự xưng
là Phó Vương. Bọn Định quốc công Nguyễn Bặc, ngoại giáp Đinh Điền,
Phạm Hạp ngờ Hoàn sẽ làm điều bất lợi cho vua nhỏ, bèn cùng nhau dấy
binh, chia hai đường thủy bộ, muốn tiến về kinh đô giết [7b] Hoàn,
nhưng không đánh nổi, bị giết. Trước đó khi Điền và Bặc cất quân,
Thái hậu nghe tin, lo sợ bảo Hoàn rằng: "Bọn Bặc dấy quân khởi loạn
làm kinh động nước nhà ta. Vua c̣n nhỏ yếu chưa kham nỗi nhiều nạn,
các ông nên liệu tính đi chớ để tai họa về sau". Hoàn nói: "Thần ở
chức Phó Vương nhiếp chính, dù sống chết biến họa thế nào, đều phải
đảm đương trách nhiệm". Rồi đó chỉnh đốn quân lữ, đánh nhau với Điền,
Bặc ở Tây Đô (Hoàn người Ái Châu, [sau lên ngôi] đóng đô ở Hoa Lư,
cho nên sử gọi Ái Châu là Tây Đô). Điền, Bặc thua chạy, lại đem quân
thủy ra đánh. Hoàn nhân chiều gió phóng lửa đốt thuyền chiến, chém
Điền tại trận, bắt được Bặc đóng củi đưa về kinh sư, kể tội rằng: "Tiên
đế mắc nạn, thần người đều căm thẹn. Ngươi là tôi con lại nhân lúc
tan tóc bối Krối mà dấy quân bội nghĩa. Chức phận tôi con có đâu như
thế?". Bèn chém đầu đem bêu.
Điền, Bặc đă chết, quân
Phạm Hạp mất hết khí thế, tan chạy về hương Cát Lợi ở Bắc Giang.
Hoàn dẫn quân đuổi theo, bắt sống được Phạm Hạp đem về [8a] Kinh sư.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
Chu Công là người vương thất rất thân, giúp vua nhỏ tuổi c̣n không
tránh khỏi những lời gièm pha phao truyền. Lê Hoàn là đại thần khác
họ, nắm giữ binh quyền, làm công việc như Chu Công, thường t́nh c̣n
ngờ vực, huống là Nguyễn Bặc ở chức thủ tướng và Đinh Điền là đại
thần cùng họ hay sao? Bọn họ khởi binh không phải làm loạn, mà là
một ḷng phù tá nhà Đinh, v́ giết Hoàn không được mà phải chết, ấy
là chết đúng chỗ. Nay xem lời Đại Hành kể tội Nguyễn Bặc tựa như
vạch tội ḿnh. Khi Bặc chết, ắt phải có nói một lời để bày tỏ chính
nghĩa, nhưng không thấy sử chép, thế là bỏ sót.
Pḥ mă Ngô Nhật Khánh dẫn
thuyền quân Chiêm Thành hơn ngh́n chiếc vào cướp, muốn đánh thành
Hoa [8b] Lư, theo hai cửa biển Đại Ác và Tiểu Khang, qua một đêm,
gặp gió băo nổi lên, thuyền đều lật đắm, Nhật Khánh cùng bọn người
Chiêm đều chết đuối, chỉ có thuyền của vua Chiêm thoát trở về nước.
Nhật Khánh là con cháu của Ngô Tiên chúa Quyền, trước xưng là An
Vương, cùng 12 sứ quân mỗi người chiếm giữ một vùng. Tiên Hoàng dẹp
yên, lấy mẹ Khánh làm hoàng hậu, lấy em gái Khánh làm vợ Nam Việt
Vương Liễn, c̣n lo sinh biến, lại đem công chúa gă cho Khánh, ư muốn
dập hết ḷng oán vọng của hắn. Nhật Khánh bề ngoài cười nói như
không, nhưng trong ḷng vẫn bất b́nh, bèn đem cả vợ chạy sang Chiêm
Thành, đến cửa biển Nam Giới268 rút đao ngắn xẻo má vợ kể tội rằng:
"Cha mày lừa dối ức hiếp mẹ con ta, lẽ nào ta v́ mày mà quên tội ác
của cha mày hay sao? Cho mày trở về, ta đi đằng khác t́m kẻ có thể
cứu ta". Nói xong bèn đi. Đến đây nghe tin Tiên Hoàng băng, Khánh
dẫn người Chiêm vào cướp.
[9a] Canh Th́n, [Thái
B́nh] năm thứ 11 [980] , (Phế Đế vẫn dùng niên hiệu Thái B́nh, từ
tháng 7 về sau là niên hiệu Thiên Phúc năm đầu của Lê Đại Hành; Tống
Thái B́nh Hưng Quốc năm thứ 5).
Mùa hạ, tháng 6,Tri Ung
Châu269 của nhà Tống là Thái thường bác sĩ Hầu Nhân Bảo dâng thư tâu
với vuaTống rằng:
" An Nam Quận Vương cùng
với con là Liễn đều bị giết, nước ấy sắp mất, có thể nhân lúc này
đem một cánh quân sang đánh lấy.nếu bỏ lúc này không mưu tính, sợ lở
mất cơ hôị. Xin cho đến cửa khuyết để tâu Bày trực tiếp t́nh trạng
có thể đánh lấy được ". Vua Tống sai chạy trạm đến gọi Nhân Bảo. Lư
Đa Tốn nói: " An Nam bên trong rối loạn, đó là lúc trời làm mất,
triều đ́nh nên bất ngờ đem quân sang đáng úp, như người ta nói: "
sét đánh không kịp bịt tai". Nếu trước gọi Nhân Bảo về, mưu ấy ắt bị
lộ, kẻ kia nhờ đó biết được, sẽ dựa núi ngăn mà pḥng bị, cái thế
thắng thua chưa biết thế nào.
Chi bằng giao cho Nhân
Bảo trách nhiệm ngầm đem quân sang, theo lệnh mà lo liệu việc ấy,
chọn tướng đem 3 vạn quân Kinh Hồ270 ruổi dài mà [9b] tràn sang, tạo
ra cái thế vạn toàn như xô bẻ cành khô gỗ mục, không phải lo tốn một
mũi tên".Vua Tống cho là phải.
Mùa thu,tháng 7, ngày
Đinh Mùi, nhà Tống lấy Hầu Nhân Bảo làm Giao châulục lộ thủy lộ
chuyển vận sứ, Lan Lăng đoàn luyện sứ Tôn Toàn Hưng,Bất tác sứ Hác
Thủ Tuấn, Yên bi khổ sứ Tràn Khâm Tộ, Tả giám môn tướng quân Thôi
Lượng làm Ung Châu Lộ binh mă bộ thư, Ninh Châu thứ sử Lưu Trừng,
Quân khi khố phó sứ Giả Thực, Cung phụng quan cáp môn chi hậu Vương
Soạn làm Quảng Châu Lộ binh mă đô bộ thư., họp quân cả bốn hướng,
hẹn ngày cùng sang xâm lược.
Bấy giờ,Lạng Châu nghe
tin quân Tống sắp kéo sang, liền làm tờ tâu báo về. Thái hậu sai Lê
Hoàn chọn dũng sĩ đi đánh giặc, lấy người ở Nam Sách Giang là Phạm
Cư Lạng271 làm đại tướng quân. Khi [ triều đ́nh ] đang bàn kế hoạch
xuất quân, Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo trận đi thẳng
vào Nội phủ, [10a] nói với mọi người rằng: " Thưởng người có công,
giết kẻ trái lệnh là phép sáng để thi hành việc quân. Nay chúa
thượng c̣n trẻ thơ, chúng ta dẫu hết sức liều chết để chặn giặc
ngoài, may có chút công lao, th́ có ai biết cho ? Chi bằng trước hăy
tôn lâp ông Thập đạo làm Thiên tử, sau đó sẻ xuất quân th́ hơn".Quân
sĩ nghe vậy đều hô "vạn tuế ".
Thái hậu thấy mọi người
vui ḷng quy phục bèn sai lấy áo long cổn272 khoác lên người Lê Hoàn,
mời lên ngôi Hoàng đế. Từ đó Hoàn lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu
là Thiên Phúc năm đầu [ 980 ], giáng pḥng vua làm Vệ Vương.
Truy phong cha của vua [
Hoàn ] làm Trường Hưng Vương, mẹ họ Đặng làm Hoàng thái hậu.
Tháng 8, vua Tống xuống
chiếu đem quân sang xâm lược, sai Lư Đa Tốn đem thư sang nói rằng: "
Trung Hoa đối với Man Di, cũng như thân người có tứ chi, vận động
duỗi co tùy ở tim ḿnh, cho nên nói tim là chủ. Nếu ở một [10b] tay
một chân mà mạch máu ngừng đọng, gân cốt không yên th́ phải dùng
thuốc thang để chữa. Chữa mà không công hiệu th́ lại phải châm cứu
cho kỳ khỏi, không phải là không biết thuốc thang th́ đắng miệng, mà
châm chích th́ rách da. Phải làm như thế là v́ tổn hại ít mà lợi ích
nhiều. Kẻ làm vua thiên hạ cũng phải làm như vậy chăng? cho nên Thái
Tổ Hoàng Đế ta nhận ngôi do nhà Chu nhường, đổi tên nước là Tống,
văn vật trong sáng, một phen biến đổi theo xưa, ở ngôi đế vương mà
nh́n Man Di mắc bệnh. Cho nên năm thứ 1 thứ 2 th́ thuốc thang cho
các đất Kinh, Thục, Tương, Đàm, năm thứ 3 thứ 4 th́ châm cứu cho các
miền Quảng, Việt, Ngô, Sở273 , gân cốt huyết mạch ra dáng trẻ non,
có phần khoẻ mạnh. Không do cơ trí thần diệu sáng suốt của bậc vương
giả mà trù liệu được đến thế ư ? Đến khi ta nối giữ cơ nghiệp lớn,
đích thân coi chính sự, cho rằng đất Phần, đất Tinh274
là bệnh ở ḷng bụng, nếu
ḷng bụng chưa chữa khỏi th́ làm sao chữa nổi tứ chi ? V́ thế mới
luyện thuốc thang bằng nhân nghĩa, [11a] sửa đồ châm cứu bằng đạo
đức, hết sức chữa cho các đất Phần, Tinh chỉ một lần là khỏi bệnh,
chín châu bốn biển đă mạnh lại yên. Chỉ có Giao Châu của ngươi ở xa
cuối trời, thực là ngoài năm cơi275 .
Nhưng phần thừa của tứ
chi, ví như ngón chân ngón tay của thân người, tuy chỉ một ngón bị
đau, bậc thánh nhân lại không nghĩ đến hay sao ? Cho nên phải mở
ḷng ngu tối của ngươi, để thanh giáo của ta trùm tỏa, ngươi có theo
chăng ? Huống chi từ thời Thành Chu, [ nước ngươi ] đă đem chi trĩ
trắng sang dâng, đến thời Viêm Hán276 , dựng cột đồng làm mốc, cho
đến thời Lư Đường, vẫn thuộc về nội địa. Cuối thời Đường nhiều họa
nạn, chưa kịp xử trí. Nay thánh triều ḷng nhân trùm khắp muôn nước,
cơ nghiệp thái b́nh kể cũng đă thịnh. Lễ phân pḥng đă sắp đặt sẵn,
c̣n đợi ngươi đến chúc sức khoẻ của ta. Ngươi đừng ru rú trong bốn
góc nhà, khiến cho ta buồn phiền, phải chém cờ bổ so277 làm cỏ nước
ngươi, hối sao cho kịp. Dù cho sông nước ngươi có ngọc, [11b] ta vứt
xuống suối; núi nước ngươi sản vàng, ta ném vào bụi, [ để thấy ]
chẳng phải ta tham của báu nước ngươi. Dân của ngươi bay nhảy ( ư
nói người hoàng dă ) c̣n ta th́ có ngựa xe; dân ngươi uống mũi ( nay
người man ở miền rừng núi Giao Quảng278 vẫn c̣n tục ấy ) c̣n ta th́
có cơm rượu để thay đổi phong tục của nước ngươi; dân ngươi bắt tóc
c̣n ta th́ có áo mũ, dân ngươi nói tiếng chim, c̣n ta th́ có Thi,
Thư, để dạy lễ cho dân ngươi. Cơi nóng chói chang, khói hơi mù mịt,
ta tỏa mây Nghiêu, tưới cho mưa ngọt. Khí biển hầm hập, cháy mày
chảy đá, ta gảy đàn Thuấn, quạt làn gió thơm. Sao trên trời nước
ngươi, chẳng ai biết tên ǵ, ta quay cḥm tử vi để ngươi biết chầu
về. Đất ngươi nhiều ma quỷ, ai cũng sợ chúng quấy, ta đă đúc vạc lớn
[để yểm trừ], khiến chúng không làm hại. Ra khỏi chốn đảo di của
ngươi mà xem nhà Minh đường, Bích ung279 chăng? Trút áo quần cỏ lá
của ngươi mà mặc áo cổn hoa thêu h́nh rồng núi chăng? Ngươi có theo
về hay không, chớ mau chuốc lấy tội. Nay ta đang chỉnh đốn xe cộ
quân lính, truyền hiệu lệnh chiêng trống. Nếu chịu theo giáo hóa, ta
[12a] sẽ tha tội cho, nếu trái mệnh ta sẽ sai quân đánh. Theo hay
chống, lành hay dữ, tự ngươi xét lấy". (Sử cũ chép thư này ở Đinh
Kỷ, dưới năm Thái B́nh thứ 2 [971], nay xét nên để ở đây. Thư này do
Vương Vũ Xứng nhà Tống soạn. Lại xét ở trên đoạn đó, Lê Văn Hưu có
nêu bốn chữ "cải nguyên xưng đế", th́ rơ ràng là từ mùa thu năm này,
thuộc niên hiệu Thiên Phúc năm đầu. Lại trong bức thư này nói: "Thái
Tổ ta nhận ngôi nhà Chu nhường lại..., ta nối giữ cơ nghiệp lớn...",
th́ rơ là thư của Tống Thái Tông, Văn Hưu không thể quá lầm mà ghi
vào đời Đinh Tiên Hoàng, có lẽ do người sau sao chép ở những chỗ c̣n
lại trong sách rách giấy nát, tự ư chép bậy vào chỗ ấy, đến nỗi Văn
Hưu phải chiụ oan là đă lầm. Năm sau, là năm Tân Tỵ [981] mới đổi
gọi là Thiên Phúc năm đầu, biết đâu chẳng phải do mất tờ sách ấy mà
đổi lầm chăng? C̣n như Lư Thái Tổ lên ngôi vào cuối năm, cho nên năm
sau đổi niên hiệu, không giống như đây).
Mùa đông, tháng 10, vua
sắp phát binh, trước sai nha hiệu là Giang Cự Vọng, Vương Thiệu Tộ
đưa thư sang nước Tống giả làm thư của [Vệ Vương] Toàn thỉnh cầu nối
ngôi cha, xin ban cho mệnh lệnh chính thức, ư muốn hoăn binh nhà
Tống ( thư nói: cha thần là mỗ, anh thần là mỗ, điều được đội ơn
nước, cho giữ phận trông coi biên khổn, kính giữ bờ cơi, không dám
trái lệnh. Chưa khó nhọc ngựa đổ mồ hôi, đả đau buồn sương tan buổi
sớm280 . Nhà thần sắp sụp đổ, chưa bỏ aó tan th́ quân dân tướng lại
trong hạt, người giá lăo ở núi rừng cùng đến chỗ nằm rơm gối đất281
của thần, bảo thần tạm giữ việc quân lữ. Thần cố từ ba bốn lần,
nhưng bọn họ thỉnh cầu nài ép càng khẩn thiết. Thần muốn [12b] đợi
tâu bày, nhưng lại lo chậm trễ; người núi rừng hung ác, dân khe động
tráo trở, nếu không chiều ư họ, sợ có khi tai biến xảy ra. Cho nên
thần đă kính giữ quyền Tiết độ hành quân tư mă, tạm giữ việc quân
trong
châu. Cúi mong được chính
thức lĩnh mệnh, đủ được dự hàng phiên bang, để yên ủi tấm ḷng tận
trung của kẻ toi mọn, nêu cao thịnh điển ban khen của thánh triều ).
Khi ấy nhà Tống đang muốn
trách hỏi vua về việc xưng đế đổi niên hiệu, lại có ư chiếm lấy nước
Việt ta, mới sai Trương Tông Quyền đưa thư trả lời rằng: " họ Đinh
truyền nối ba đời, trẫm muốn cho Toàn làm thống soái, khanh282 làm
phó. Nếu Toàn tướng tài chẳng có, vẫn c̣n trẻ con, th́ nên bảo cả mẹ
con cùng thân thuộc sang quy phụ. Đợi khi bọn họ vào chầu ắt sẻ có
điễn lễ ưu đải và sẻ trao cờ tiết cho khanh. Nay có hai đường, khanh
nên chọn một".Vua đều không nghe.
Trở nên là triều Đinh,
hai vua, bắt đầu từ năm Mậu Th́n, chấm dứt vào năm Canh Th́n [ 968-
980 ] tất cả 13 năm.
[13a]
Kỷ NhÀ LÊ
ĐẠI HÀNH HOÀNG ĐẾ
Họ Lê, tên huư là Hoàn,
người Ái Châu283 , làm quan nhà Đinh đến chức Thập đạo tướng quân;
quân Tống xâm lược đem quân ra chống cự, rồi thay nhà Đinh làm vua;
ở ngôi 24 năm, thọ 65 tuổi [941 - 1006], băng ở điện Trường Xuân.
Vua trừ nội gian mà lấy
được nước, đuổi giặc ngoài để yên dân, trong nước thanh b́nh, Bắc
Nam vô sự. Tiếc rằng không sớm chọn con nối, khiến cho con cái tranh
nhau bên trong, dẫn đến mất ngôi; về đạo vợ chồng có nhiều điều đáng
thẹn
Trước kia cha vua là
Mịch, mẹ là Đặng thị, khi mới có thai chiêm bao thấy trong bụng nở
hoa sen, chỉ chốc lát đă kết hạt, bèn lấy chia cho mọi người, c̣n
ḿnh th́ không ăn, tỉnh dậy không hiểu nguyên do thế nào. Đến khi
năm Thiên Phúc thứ 6 thời Tấn [941] là năm Tân Sửu, mùa thu, tháng
bảy, ngày 15, sinh ra vua. Đặng thị thấy tướng mạo khác thường, bảo
với mọi người rằng: "Thằng bé này lớn lên, ta sợ không kịp hưởng lộc
của nó". Được vài năm th́ mẹ chết, sau đó cha [13b] cũng qua đời,
trơ trọi một thân, muôn vàn cô đơn đói rét. Trong thôn có viên quan
sát họ Lê trông thấy lấy làm lạ, nói: " Tư cách đứa trẻ này, người
thường không sánh được". Lại thấy là cùng họ nên nhận làm con nuôi,
sớm chiều chăm sóc dạy dỗ, không khác ǵ con đẻ. Có đêm mùa đông
trời rét, vua úp cối mà ngũ. Đêm ấy ánh sáng đẹp đầy nhà, viên quan
sát lén đến xem, th́ thấy con rồng vàng che ấp bên trên, v́ thế lại
càng thêm quư trọng. Lớn lên theo giúp Nam Việt Vương Liễn, [tỏ ra]
phóng khoáng, có chí lớn. Tiên Hoàng khen là người trí dũng, chắc
thế nào cũng làm được việc, bèn giao cho cai quản 1 ngh́n quân sĩ,
thăng dần đến chức Thập đạo tướng quân điện tiền đô chỉ huy sứ. Đến
đây thay họ Đinh làm vua, đóng đô ở Hoa Lư.
[14a] Tân Tỵ, Thiên Phúc
] năm thứ 2 [981] , ( Tống Thái B́nh Hưng Quốc năm thứ 6, xét các
bản chép niên kỷ các triều đều ghi năm này là năm Thiên Phúc thứ 1,
nay sửa lại ). Mùa xuân, tháng 2, Hầu Nhân Bảo, Tôn Hoàng Hưng đến
Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch
Đằng284 . Vua tự làm
tướng đi chặn giặc, sai quân sĩ đóng cọc ngăn sông Chi Lăng285 . Vua
sai quân sĩ trá hàng để dụ Nhân Bảo, đem chém. Bọn Khâm Tô. nghe tin
quân thủy thua trận, dẫn quân về. Vua đem các tướng danh, quân của
Khâm Tộ thua to, chết đến quá nửa, thây chết đầy đồng, bắt được
tướng giặc là Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân đem về Hoa Lư. Từ đó
trong nước rất yên. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Minh Càn Ứng Vận Thần
Vũ Thăng B́nh Chí nhân quảng Hiếu Hoàng Đế.
Lê Văn Hưu nói: Lê Dại
Hành Giết Đinh Điền, bằt Nguyễn Bặc, tóm Quân Biện [14b], Phụng Huân
dễ như lùa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài năm mà bờ cơi định
yên, công đánh dẹp chiến thắng dẫu là nhà Hán, nhà Đường cũng không
hơn được.Có người hỏi: Đại Hành với Lư Thái Tổ ai hơn? Thưa rằng: Kể
về mặt trừ dẹp gian trong, đánh tan giặc ngoài, làm mạnh nước Việt
ta, ra oai với người tống th́ Lư Thái Tổ không bằng Lê Đại Hành có
công lao gian khổ hơn. Nhưng về mặt tỏ rơ ân uy, ḷng người suy tôn,
hưởng nước lâu dài, để phúc cho con cháu th́ Lê Đại Hành không bằng
Lư Thái Tổ lo tính lâu dài hơn. Thế th́ Lư Thái Tổ hơn ư ? Đáp: Hơn
th́ không biết, chỉ thấy đức của họ Lư dày hơn họ Lê, v́ thế nên nói
theo họLư.
Sử Thần Ngô Sĩ Liên nói:
Tam cương là đạo thường của muôn đời, không thể một ngày [15a] rối
loạn. Khi Đại Hành giữ chức nhiếp chính, Vệ Vương tuy c̣n nhỏ nhưng
vẫn là vua, thế mà Đại Hành tự xưng là Phó Vương, rắp tâm làm điều
bất lợi. Đạo làm tôi không được rắp tâm, rắp tâm th́ ắt phải giết.
Đó là phép của sách Xuân Thu, người người điều được nêu lên mà thi
hành. Nguyễn Bặc, Đinh Điền sao có thể nhẫn tâm điềm nhiên mà nh́n ?
Rồi lui về dấy quân hỏi tội, mưu giữ xă tắc, thế là bầy tôi trung
nghĩa đấy. Việc không xong mà chết, thế là bề tôi tử tiết đấy. Lời
bàn của Văn Hưu lái đánh đồng với hàng loạn tặc, khiến cho đạo nhân
luân không được sáng tỏ với đời sau, gây mầm mống tiếm đoạt, để cho
những kẻ có quyền lực tranh nhau bắt chước, quét sạch cương thường,
v́ thế không thể không biện bác.
Giang Nam chuyển vận sứ
của nhà Tống là Hứa Trọng Tuyên đem việc Nhân Bảo thua chết tâu lên.
Vua Tống xuống chiếu rút quân về, sai sứ quở trách bọn Lưu Trừng,
Giả Thực, Vương Soạn. Trùng ốm chết, Soạn bị giết ở [15b] Ung Châu,
Tôn Hoàng Hưng cũng bị giết bêu ở chợ.
Nhâm Ngọ, Thiên Phúc năm
thứ 3 [982] , ( Tống Thái B́nh Hưng Quấc năm thứ 7 ). Lập Hoàng thái
hậu nhà Đinh là Dương thị làm Đại Thắng Minh Hoàng Hậu. Hậu là vợ
của Tiên Hoàng, mẹ đẻ cuả Vệ Vương Toàn. Khi vua lấy được nước, đem
vào cung, đến đây lập làm Hoàng hậu, cùng với Phụng Càn Chí Lư Hoàng
Hậu, Thuận Thánh Minh Đạo Hoàng Hậu, Trịnh Quấc Hoàng Hậu, Phạm
Hoàng Hậu là 5 hoàng hậu ( về sau, tục dân lập đền thờ, tô tượng hai
vua Tiên Hoàng và Đại Hành và tượng Dương hậu cùng ngồi, hồi quốc sơ
[đầu thời Lê] vẫn c̣n như thế. Sau An Phủ Sứ Lê Thúc Hiển mới bỏ ).
Sử Thần Ngô Sĩ Liên nói:
Đạo vợ chồng là đầu của nhân luân, dây mối của vương hóa. Hạ kinh
của Kinh Dịch nêu quẻ Hàm và quẻ Hằng lên đầu, là để tỏ cái ư lấy
đàn bà tất phải chính đáng. Đại Hành thông dâm với vợ vua, đến chổ
nghiễm nhiên lập làm hoàng hậu, mất cả ḷng biết hổ thẹn. Đem cái
thói ấy truyền cho đời sau, [16a] con ḿnh bắt chước mà dâm dật đến
nỗi mất nước, há chẳng phải là mở đàu mối họa đó sau ?
Vua thân đi đánh Chiêm
Thành, thắng được. Trước đó vua sai Từ Mục, Ngô Tử Canh sang sứ
Chiêm Thành, bị người Chiêm bắt giữ. Vua giận, sai đóng chiến thuyền
sửa binh khí, tự làm tướng đi đánh, chém bê Mi Thuế286 tại trận.
Chiêm Thành thua to. Bắt sống được quân sĩ của chúng nhiều vô kể,
cùng là kỹ nữ trong cung
trăm người và một nhà sư người Thiên Trúc, lấy các đồ quư đem về,
thu được vàng bạc của báu kể hàng vạn, san phẳng thành tŕ, phá hủy
tông miếu, vừa một năm th́ trở về kinh sư.
Năm ấy đói to.
Quư Mùi, /Thiên Phúc/ năm
thứ 4[ 983 ] , (Tống Thái B́nh Hưng Quấc năm thứ 8). Mùa xuân, sai
sứ sang thông hiếu với nhà Tống.
Trước kia vua đi đánh
Chiêm Thành, Quảng Giáp Lưu Kế Tông trốn ở lại nước ấy. Đến đây, vua
sai người con nuôi( không rỏ tên) [16b] đi bắt được kế Tông, đem
chém.
Kênh mới trên đường biển
làm xong( chưa rỏ ở chổ nào ). Khi vua đi đánh Chiêm Thành, qua núi
Đồng Cổ287 đến sông Bà Ḥa288 , đường núi hiểm trở khó đi, người
ngựa mỏi mệt, đường biển th́ sóng to khó đi lại, bèn sai người đào
kênh. Đến đây đào xong, thuyền bè đi lại đều được thuận tiện.
Giáp Thân, /Thiên Phúc
năm thứ 5 [984] , (Tống Ưng Hy năm thứ 1). Muà xuân, tháng 2, đúc
tiền Thiên Phúc.
Làm nhiều cung điện nhà
cửa: dựng điện Bách Bảo Thiên Tuế ở núi Đại Vân289 , cổt giác vàng
bạc, làm nơi coi chầu; phía đông là điện Phong Lưu, phía tây là điện
Tử Hoa, bên tả là điện Bồng Lai, bên hữu là điện Cực Lạc. Tiếp đó là
lầu Đại Vân, dựng tiếp điện Trường Xuân làm nơi vua nghỉ. Bên cạnh
điện Trường Xuân lại dựng điện Long Bộc, mái lợp ngói bạc.
[17a] Ất Dậu, /Thiên
Phúc/ năm thứ 6 [985] , (Tống Ung Hy năm thứ 2). Mùa thu, tháng 7
ngày rằm là ngày sinh của vua, sai người làm thuyền ở giữa sông, lấy
tre làm núi giả đặt trên thuyền, gọi là Nam Sơn, rồi bày lễ vui đua
thuyền, về sau thành thường lệ.
Nhà Tống
sai sứ sang thăm. Vua sai sứ sang nhà Tống xin giữ chức Tiết Trấn290
.
Bính
Tuất, /Thiên Phúc/ năm thứ 7 [986] , (Tống Ung Hy năm thứ 3). Mùa
thu, tháng 8, điểm dân để lấy lính.
Mùa đông,
tháng 10, nhà Tống sai Tả bổ khuyết Lư Nhược Chuyết, Quốc Tử Giám
bác sĩ Lư Giác mang chế sách sang phong cho vua làm An Nam đô hộ
Tĩnh Hải quân Tiết độ sử kinh triệu quận hầu (Lời chế nói: Đấng
vương giả cả dựng ngôi cao, vỗ yên chư hầu. Dựng phủ đệ tại kinh sư,
cho lễ hội đồng được long trọng; chia đất phong ở các nơi, để quyền
tiết chế được nêu cao. Huống nay từ cơi đất diều rơi291 đến dâng đồ
cống lông chim trả. Lúc đang đổi tướng, lợi dịp phong hầu, ḷng cũng
không quên thỉnh mệnh, bèn ban ân điển thưởng công. Nay quyền tri
tam ty lưu hậu là Lê mỗ, tư cách gồm nghĩa dũng, bẩm tính vốn trung
thuần, [17b] được ḷng người trong nước, kính giữ tiết phiên thần.
Vừa rồi Đinh Toàn đương tuổi trẻ thơ, không biết yên vỗ. Người là
tâm phúc chỗ thân, giữ quyền coi quân lữ, hiệu lệnh ban phát, uy ái
đều gồm. Họ Đinh bỏ quyền ba đời tiết sứ, chiều theo ư muốn mọi
người. Người xa tỏ ḷng thành, xin ban tiết việt. [Phải như] Sĩ
Nhiếp cứng mạnh, sáng suốt, đổi tục Việt đều hay, Úy Đà cung kính,
thuận ṭng, vâng chiếu Hán chẳng trái. Nên xứng chức đứng đầu cơi
xa, cùng dự hàng chư hầu tôn quư. Vỗ yên Man di bộ lạc, tuyên dương
đức tốt vương triều).
Vua nhận
chế rất kính, lễ thết đăi rất hậu, hàng ngày đem những thứ quư lạ
bày chật cả sân, để tỏ sự giàu có. Đem bọn Quách Quân Biện, Triệu
Phụng Huân trả cho về. Lại Bảo Nhược Chuyết và Giác
rằng:
"Nước tôi bé nhỏ, sông núi xa xôi, ngh́n dặm cách trời, ở lánh góc
đất, sứ thần đi lại, lặn lội núi sông, há chẳng khó nhọc lắm ư?".
Giác đáp: "Bản triều cơi bờ muôn dặm, các quận có đến bốn trăm, đất
có chỗ bằng phẳng, cũng có chỗ hiểm trở, một phương này lấy ǵ làm
xa". Lấy Từ Mục làm Tổng quản trị quân dân sự, ban cho tước hầu,
Phạm Cư Lạng làm Thái uư.
Sai Ngô
Quốc [18a] Ân sang đáp lễ nhà Tống và nói về việc người Chiêm Thành
là Bồ La Át đem hơn trăm người họ xin nội phụ
Đinh Hợi,
/Thiên Phúc/ năm thứ 8 [987] , Tống Ung Hy năm thứ 4). Múa xuân, vua
lần đầu cày ruộng tịch điền ở núi Đọi292 được một hũ nhỏ vàng. Lại
cày ở núi Bàn Hải, được một hũ nhỏ bạc, nhân đó đặt tên là ruộng Kim
Ngân.
Nhà Tống
lại sai Lư Giác sang. Khi Giác đến chùa Sách Giang293 , vua sai pháp
sư tên là Thuận294 giả làm người coi sông295 ra đón. Giác rất thích
nói chuyện văn thơ. Lúc ấy nhân có hai con ngỗng lội trên mặt nước,
Giác vui ngâm rằng:
Nga nga
lưỡng nga nga, Ngưỡng diện hướng thiên nha. (Ngỗng ngỗng hai con
ngỗng,
Ngữa mặt
nh́n chân trời). Pháp sư dương cầm chèo296 , theo vần làm nối đưa
cho Giác xem:
Bạch mao
phô lục thủy, Hồng trạo băi thanh ba. (Nước lục phô lông trắng,
Chèo hồng
sóng xanh bơi). Giác càng lấy làm lạ, khi về đến sứ quán, làm thơ
gửi tặng:
Hạnh ngộ
minh th́ tán thịnh du, Nhất thân nhị độ sứ [18b] Giao Châu. Đông Đô
lưỡng biệt tâm vưu luyến, Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu. Mă đạp
yên vân xuyên lăng thạch, Xa từ thanh chướng phiếm trường lưu. Thiên
ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu. Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu. (May
gặp thời b́nh được giúp mưu,
Một ḿnh
hai lược sứ Giao Châu. Đông Đô mấy độ c̣n lưu luyến, Nam Việt ngh́n
trùng vẫn ước cầu. Ngựa vượt khói mây xuyên đá chởm, Xe qua rừng
biếc vượt ḍng sâu. Ngoài trời lại có trời soi nữa. Sóng lặng khe
đầm bóng nguyệt thâu)292
Thuận đem
thơ này dâng lên. Vua cho gọi sư Ngô Khuông Việt298 đến xem. Khuông
Việt nói: "Thơ này tôn bệ hạ không khác ǵ vua Tống". Vua khen ư
thơ, tặng cho rất hậu299 . Khi Giác từ biệt ra về, vua sai Khuông
Việt làm bài hát300 để tiễn, lời rằng:
Tường
quang phong hảo cẩm phàm trương, Dao vọng thần tiên phục đế hương.
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lang, Cửu thiên quy lộ trường. T́nh
thảm thiết, Đối ly trường, Phan luyến sử tinh lang. Nguyện tương
thâm ư vị biên cương, Phân minh tấu ngă hoàng301 . (Nắng tươi gió
thuận cánh buồm giương,
Thần tiên
lại đế hương. Vượt sóng xanh muôn dặm trùng dương, Về trời xa đường
trường. T́nh thắm thiết, Chén lên đường, Vin xe sứ vấn vương. Xin
đem thâm ư v́ Nam cương, Tâu vua tôi tỏ tường)302
Giác lạy
ra về.Năm ấy được mùa to.
Mậu Tư
/Thên Phúc / năm thứ 9/ 988/, ( Tống Đoan củng năm thứ 1 b).
Vua nước
Chiêm Thành là Băng Vương La Duệ ở Phật thành303 tự đặt hiệu [ 19a]
là Câu Thi Lị Ha Thân Bài Ma La304 .
Thái sư
Hồng Hiến chết. Hiến là người Bắc [ tức Trung Quốc ], thông hiểu
kinh sử, thường theo các cuộc chinh phạt làm quân sư, cùng là khuyên
vua lên ngôi, mưu bàn việc nước, có công lớn, vua tin dùng như tâm
phúc, đến đây chết.
Năm ấy,
vua Tống đổi niên hiệu, sai Hộ bộ viên ngoại lang là Ngụy Tường và
Trực Sử Quán là Lư Độ mang chế sách sang gia phong vua làm Kiểm hiệu
thái úy.
Kư Sửu, /
Hưng Thống / năm thứ 1/ 989/, (Tống Đoan Củng năm thứ 2 ). Mùa xuân,
tháng giêng, đổi niên hiệu đại xá.
Phong
thái tử Thau làm Ḱnh Thiên Đại Vương, hoàng tử thứ hai là Ngân
Tích305 làm Dông Thành Vương, hoàng tử thứ ba là Việt làm Nam Phong
Vương.
Dương
Tiến Lộc lấy hai châu Hoan, Ái306 làm phản. Vua thân đi đánh, Tiến
Lộc bị giết. Bấy giờ vua sai viên Quảng giáp là Tiến Lộc đi thu thuế
hai châu Hoan và Ái, Tiến Lộc đem người hai châu ấy xin theo về với
Chiêm Thành. Chiêm Thành không nhận. Vua nghe tin, đem các quân
[19b] đến đánh Châu Hoan, Châu Ái, đuổi bắt được Tiến Lộc và giết
người hải châu ấy không biết bao nhiêu mà kể.
Canh Dần,
/Hưng Thống/ năm thứ 2 [ 990] (Tống Thuần Hoá năm thứ 1). Nhà Tống
sai Tả chính ngôn là Tống Cảo, Hữu chính ngôn là Vương Thế Tắc mang
chế sách sang phong thêm cho vua hai chữ là "Đặc tiến". Vua sai Nha
nội chỉ huy sứ là Đinh Thừa, Chính đem 9 chiếc thuyền dẫn 300 người
đến quân Thái B́nh307 đón, theo cửa biển mà vào, nửa tháng đến sông
Bạch Đằng, theo nước triều mà đi. Mùa thu, tháng 9, đến trạm Nại
Chinh ở Trường Châu. Vua ra ngoài giao308 để đón, bày thủy quân và
chiến cụ để khoe. Vua cầm cương ngựa cùng đi với sứ thần. Đến cửa
Minh Đức, vua bưng chế thư để lên trên điện, không lạy, nói dối là
năm vừa rồi đi đánh giặc Man, bị ngă ngựa đau chân. Cảo và Tắc tin
là thực. Sau đó bày yến tiệc thết đăi. Vua bảo Cảo rằng: "Sau này có
quốc thư th́ cho giao nhận ở đầu địa giới, khỏi phiền sứ thần đến
tận đây nữa". Cảo về tâu, [20a] vua Tống bằng ḷng.
Tân Măo,
/Hưng Thống/ năm thứ 3 /991/ , (Tốn Thuần Hóa năm thứ 2). Mùa xuân,
tháng 2, sai Đào Cần sang nhà Tống thăm đáp lễ.
Phong
hoàng tử thứ tư là Đinh làm Ngự Man Vương, đóng ở Phong Châu, hoàng
tử thứ sáu là Cân làm Ngự Bắc Vương, đóng ở trại Phù Lan309 .
Nhâm
Th́n, /Hưng Thống/ năm thứ 4 /992/ , (Tống Thuần Hóa năm thứ 3). Mùa
xuân, tháng giêng, vua ngự điện Càn Nguyên xem đèn.
Phong
hoàng tử thứ năm là Đĩnh làm Khai Minh Vưong, đóng ở Đằng Châu310 .
Trần tiên
sinh ở núi Tuyên Hoa đến cửa khuyết. (Xét nước ta không có núi Tuyên
Hoa, có lẽ là việc nhà Tống triệu Chủng Phóng ở núi Chung Nam, hoặc
có triệu cả Trần Đoàn ở Hoa Sơn mà sử chép lầm là việc nước ta? Nếu
không phải thế, th́ sao tiếng tăm của Trần tiên sinh không truyền
lại đời sau? Dười chữ "tuyên" ngờ có sót chữ "triệu"311 . Vân Đài
quán ở Hoa Sơn là nơi ở của Trần Đoàn).
Mùa hạ,
tháng 6, cho người Chiêm Thành nhận lĩnh hơn 360 người ở thành cũ
châu Điạ Lư312 đem về châu Ô Lư (Điạ Lư [20b] nay là Tân B́nh313 , Ô
Lư nay là Thuận Hóa)314 .
Muà thu,
tháng 8, sai Phụ quốc Ngô Tử An đem 3 vạn người đi mở đường bộ từ
cửa biển Nam Giới đến Châu Điạ Lư.
Quư Tỵ,
/Hưng Thống/ năm thứ 5 /995/ (Tống Thuần Hoá năm thứ 4). Muá xuân,
tháng 2, ngày Kỷ Mùi, mồng 1, nhật thực.
Phong
hoàng tử thứ bảy là Tung làm Định Phiên Vương, đóng ở thành Tư
Doanh, Ngũ Huyện Giang315 ; hoàng tử thứ tám là Tương làm Phó Vương,
đóng ở Đỗ Động Giang, hoàng tử thứ chín là Kính làm Trung Quốc
Vương, đóng ở Càn Đà huyện Mạt Liên316 .
Nhà Tống
sai Vương Thế Tắc và Lư Cư Giản đem sách thư sang phong cho vua làm
Giao Chỉ Quận Vương.
Giáp Ngọ,
/Ứng Thiên/ năm thứ 1 /994/ , (Tống Thuần Hoá năm thứ 5). Mùa xuân,
tháng giêng, đổi niên hiệu.
Phong
hoàng tử thừ mười là Mang làm Nam Quốc Vương, đóng ở châu Vũ Lung317
.
Sai nha
hiệu là Phí Sùng Đức sang nhà Tống [21a] sang thăm đáp lễ.
Cháu vua
nước Chiêm Thành là Chế Cai vào chầu. Trước đây, nước Chiêm Thành
sai Chế Đông dâng sản vật địa phương, vua trách là trái lễ, không
nhận. Vua nước đó sợ, mới sai Chế Cai vào chầu.
Ất Mùi,
/Ứng Thiên/ năm thứ 2 /995/ , (Tống Chí Đạo năm thứ 1). Phong hoàng
tử thứ mười một là Đề (tức Minh Đề) làm Hành Quân Vương, đóng ở Bắc
Ngạn châu Cổ Lăm318 ; con nuôi làm Phù Đái Vương, đóng ở hương Phù
Đái319 .
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Vua một nước, thờ tông miếu, giữ xă tắc, chẳng may
không có con nối th́ chọn con của người tông thất nuôi làm con ḿnh,
để mong truyền măi không cùng, thế th́ cũng có, chứ chưa thấy vua
nào có con nuôi. Vả lại, nhánh họ của vua đă đông người rồi, cái gọi
là con nuôi, chẳng qua là muốn thỏa ḷng dấu yêu riêng với người ấy
mà thôi, sao không nghĩ như thế là gây mầm cướp ngôi hay sao?
[21b] Sai
Đỗ Hanh sang nhà Tống thăm đáp lễ. Bấy giờ nhà Tống ngại việc chinh
chiến, vua cậy có núi biển hiểm trở, hơi buông thả cho dân biên giới
lấn cướp vào cơi của nhà Tống. Mùa xuân năm ấy, Chuyển vận sứ Lộ
Quảng Tây nước Tống là Trương Quan, Binh mă giám áp trấn Như Hồng
thuộc Khâm Châu là Vệ Chiêu Mỹ đều tâu rằng chiến thuyền của Giao
Chỉ hơn trăm chiếc, xâm phạm trấn Châu Hồng, cướp bóc cư dân và
lương thực rồi đi. Mùa hạ năm ấy, châu Tô Mậu320 nước ta lại đem 5
ngh́n hương b́nh xâm lược Ung Châu nước Tống, bị Đô tuần kiểm Dương
Văn Kiệt đánh phải trở về. Vua Tống muốn vỗ yên, không muốn dụng
binh, bỏ không hỏi đến. [Trương] Quan lại nói dối là vua bị họ Đinh
đánh đuổi, đem dư chúng ra ở miền hải đảo, cướp bóc để tự cấp, nay
đă chết; bọn Quan dân biểu mừng. Vua Tống sai Thái thường thừa Trần
Sĩ Long làm Thái phỏng sứ để ḍ xem hư thực, biết là vua không có
chuyện ǵ.
[22a]
Bính Thân, /Ứng Thiên/ năm thứ 3 [996] , (Tống Chí Đạo năm thứ 2).
Mùa xuân, tháng 2, vua thân đi đánh lấy được bốn động Đại, Phát,
Đan, Ba ở Ma Hoàng.
Nhà Tống
xử tội bọn Trương Quan, Quan đă ốm chết, chém Vệ Chiêu Mỹ ở trấn Như
Hồng, lấy Trần Nghiêu Tẩu làm Quảng Tây chuyển vận sứ, rồi sai Khải
Khang úy là Lư Kiến Trung mang chiếu sách
sang ban.
Trước đây, bọn Văn Dũng là dân ở trấn Triều Dương321 nước ta làm
loạn, giết người rồi trốn sang trấn Như Tích thuộc Khâm Châu của
Tống (trấn Như Tích liền với trấn Như Hồng), được trấn tướng là Trần
Lệnh Đức chứa chấp. Vua sai trấn tướng Triều Dương và Hoàng Thành
Nhă đuổi bắt. Lệnh Đức không chịu trả về. Nghiêu Tẩu đến Như Tích,
tra ra được nguyên do việc chứa chấp ấy, đem hết trai gái, già trẻ
đă chứa dấu tất cả 113 người gọi Thành Nhă sang giao cho nhận về.
Vua cảm
ơn nhà Tống, sai sứ sang tạ ơn, lại nói về việc đă bắt được giặc
biển 27 người, giao trả cho chuyển vận sứ, và đă răn cấm các khe
động không được quấy rối nữa. Vua Tống [22b] lại sai Lư Nhược Chuyết
mang chiếu thư và đai ngọc sang ban cho vua. Khi Nhược Chuyết đến,
vua ra đón ngoài giao, có ư ngạo mạn không làm lễ để tỏ ra cao quư
khác thường, bảo Nhược Chuyết rằng: "Việc cướp trấn Như Hồng là do
bọn giặc biển ở ngoài, Hoàng đế có biết đó không phải là quân của
Giao Châu không? Nếu Giao Châu có làm phản th́ đầu tiên dánh vào
Phiên Ngung, thứ đến đánh Mân Việt322 , há chỉ dừng ở trấn Như Hồng
mà thôi?". Nói xong mới cuối đầu tạ lỗi.
Đinh Dậu,
/Ứng Thiên/ năm thứ 4 [997], (Tống Chí Đạo năm thứ 3). Mùa xuân,
tháng 3, vua Tống băng.
Mùa hạ,
tháng 4, nhà Tống phong vua làm Nam B́nh Vương. Vua sai sứ sang nước
Tống đáp lễ. Vua Tống ban chiếu thư khen ngợi. Trước kia sứ Tống
sang thường mượn cớ đ̣i cống nước mắm, nhân thể bắt đóng góp. Đến
đây Tống Chân Tông lên ngôi, nghe biết chuyện ấy, chỉ sai quan giữ
biên giới đến nhận mệnh, không sai người sang sứ nữa.
Mùa thu,
tháng 7, vua thân đi đánh giặc ở Đỗ Động Giang, bắt được đồ đảng đem
về kinh sư.
Chiêm
[23a] Thành đem quân ḍm ngó nước ta.
Mậu Tuất,
/Ứng Thiên/ năm thứ 5 [998] , (Tống Chân Tông Hằng, Hàm B́nh năm thứ
1).
Mùa xuân,
tháng 3, động đất 3 ngày.
Mùa hạ,
tháng 5, ngày Mậu Ngọ mồng 1, nhật thực. Tháng ấy không mưa. Tháng
6, cũng không mưa. Dân bị bệnh ho, trâu, ngựa chết nhiều.
Mùa đông,
tháng 10, ngày bính tuất, mồng 1, nhật thực.
Kỷ Hợi,
/Ứng Thiên/ năm thứ 6 /999/ , (Tống Hàm B́nh năm thứ 2). Vua thân đi
đánh Hà Động323 v. v..., tất cả 49 động và phá được /động/ Nhật Tắc,
châu Định Biên324 . Từ đó các châu động điều quy phục.
Canh Tư,
/Ứng Thiên/ năm thứ 7 /1000/ , (Tống Hàm B́nh năm thứ 3). Xuống
chiếu đi đánh giặc ở châu Phong là bọn Trịnh Hàng, Trường Lệ, Đan
Trường Ôn, bọn Hàng chạy vào vùng núi Tản Viên.
Đại Thắng
Minh hoàng hậu mất. Ḱnh Thiên Vương (Thau) mất.
Sai Thống
tướng Từ Mục đi tuần ở miền Hải Tây, Ngô Tử An đi tuần cơi Bắc để ḍ
xét t́nh h́nh biên giới.
[23b] Tân
Sửu, /Ứng Thiên/ năm thứ 8 /1001/ , (Tống Hàm B́nh năm thứ 4). Vua
thân đi đánh giặc Cử Long325 . Quân giặc thấy vua, giương cung nhắm
bắn th́ tên rơi, lại giương cung th́ dây đứt, tự lấy
làm sợ mà rút lui. Vua
bèn đi thuyền vào Cùng Giang326 để đuổi. Giặc bày trận hai bên bờ
chống lại, quan quân bị hăm ở [giữa] sông, vua cũ [nhà Đinh] là Vệ
Vương Toàn trúng tên chết tại trận. Vua kêu trời ba tiếng rồi thúc
quân đánh, giặc tan vỡ.
Nhâm Dần, /Ứng Thiên/ năm
thứ 9 /1002/, (Tống Hàm B́nh năm thứ 5). Mùa xuân, tháng 3, định
luật lệnh, chọn quân lính, chia tướng hiệu làm hai ban: đổi mười đạo
làm lộ, phủ, châu.
Xuống chiếu làm mấy ngh́n
mũ đâu mâu, ban cho sáu quân.
Quư Măo, /Ứng Thiên/ năm
thứ 10 /1003/, (Tống Hàm B́nh năm thứ 6). Vua đi Hoan Châu, vét kinh
Đa Cái (nay là Hoa Cái)327 (cho Thông) thẳng đến [24a] Tư Củng
trường ở ám Châu328 . Người Đa Cái làm phản, chém đầu để rao.
Dân ở thành Nhật Hiệu329
và đầu mục là bọn Hoàng Khánh Tập đem gia thuộc hơn 450 người trốn
sang Khâm Châu nước Tống. Tống sai sứ đến dỗ bảo phải về. Bọn Khánh
Tập sợ tội không về, bèn ra ở bờ biển.
Mùa thu, tháng 8, vua ốm,
tháng 9 th́ khỏi.
Giáp Th́n, /Ứng Thiên/
năm thứ 11 /1004/, (Tống Cảnh Đức năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng,
lập Nam Phong Vương Long Việt làm hoàng thái tử, gia phong Long Đĩnh
làm Khai Minh Đại Vương, Long Tích làm Đông Thành Đại Vương. Trước
đó Long Đĩnh xin làm thái tử, vua có ư muốn cho. Đ́nh thần nghị bàn
cho rằng không lập con trưởng mà lập con thứ là không phải lễ. Vua
bèn thôi. Đến đây lập Long Việt làm hoàng thái tử mà gia phong Long
Đĩnh và Long Tích làm Đại Vương.
Sai Hành Quân Vương Minh
Đề330 , xưng là nhiếp Hoan Châu thứ sử, [24b] sang thăm nước Tống.
Minh Đề đến Biện Kinh331 khẩn cầu ân mệnh cho tuyên phủ đất xa.
Vua Tống bằng ḷng cho;
gọi vào điện riêng thăm hỏi và ban thưởng rất hậu, cho Minh Đề chức
Kim tử vinh lộc đại phu kiểm hiệu thái úy Hoan Châu thứ sử.
Vua xem kéo lưới ở sông
Đại Hoàng332 , có con rắn to nằn cuộn giữa lưới, người đánh cá tâu
lên. Vua dừng thuyền ở giữa sông muốn xem. Con rắn vụt chốc lội
ngược ḍng mà đi. Sai người bơi thuyền nhỏ cản đuổi, rắn không trở
lại, sau lại về chỗ cũ.
Ất Tỵ, /Ứng Thiên/ năm
thứ 12 [1005], (Tống Cảnh Đức năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 3, vua
băng ở điện Truường Xuân, gọi là Đại Hành Hoàng Đế, sau nhân đó dùng
làm miếu hiệu mà không đổi, chôn ở sơn lăng châu Trường Yên (sách
Điạ Chí bản cũ chép vua băng vào năm Bính Ngọ [1006], đó là lấy khi
Lê Ngọa Triều xin mệnh (nhà Tống) mà mói, không phải là thực. Nay
theo Lê Văn Hưu là đúng).
Lê Văn Hưu nói: Thiên tử
và hoàng hậu khi mới băng, chưa chôn vào sơn lăng, th́ gọi là [25a]
Đại Hành Hoàng Đế333 . Đại Hành Hoàng Hậu. Đến khi lăng tẩm đă yên
th́
hợp bầy tôi bàn xem đức
hạnh hay hay dỡ để đặt thụy là mỗ hoàng đế, mỗ hoàng hậu, không gọi
là Đại Hành nữa. Lê Đại Hành th́ lấy Đại Hành làm thụy hiệu mà
truyền đến ngày nay là làm sao? V́ Ngọa Triều là con bất tiếu334 ,
lại không có bề tôi Nho học để giúp đỡ bàn về phép đặt thụy cho nên
thế.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
Vua đánh đâu được đấy, chém vua Chiêm Thành để rửa cái nhục phiên di
bắt giữ sứ thần, đánh lui quân Triệu Tống để bẻ cái mưu tất thắng
của vua tôi bọn họ, có thể gọi là bật anh hùng nhất đời vậy. Song
trong khi làm nhiếp chính mà tự xưng là Phó Vương, dẫn đến việc bọn
Điền, Bặc phải khởi binh, lên ngôi vua th́ phải nhờ bọn Cự Lạng đem
binh đến uy hiếp, [25b] làm cung điện th́ lấy vàng, bạc mà trang
sức. Phàm những việc như thế th́ không bằng Lư [Thái] Tổ biết nghĩ
xa hơn. Văn Hưu nói lấy đức của nhà Lư mà soi đức của nhà Lê th́
[đức của Lư] dày hơn, há chẳng đúng sao!
TRUNG TÔNG HOÀNG ĐẾ
Tên húy là Long Việt, con
thứ ba của Lê Đại Hành, mẹ là Chi hậu Diệu Nữ335 . Lên ngôi được 3
ngày th́ bị em cùng mẹ là Long Đĩnh giết, thọ 23 tuổi (983-1005).
Vua không biết pḥng giữ từ khi mới chớm, đến nỗi bị họa nạn, tính
nhân hậu nhưng không biết làm vua, tiếc thay!
Sau khi Đại Hành Hoàng Đế
băng, vua cùng hai vương Đông Thành, Trung Quốc và em cùng mẹ là
Khai Minh Vương tranh nhau lên ngôi, giằng co 8 tháng, trong nước
không có chủ. Mùa đông, tháng 10, Đông Thành Vương thua chạy vào đất
Cử Long. Vua đuổi bắt, lại chạy sang Chiêm Thành, chưa đến nơi th́
bị người châu Thạch Hà336 giết ở cửa biển Cơ La (nay là Kỳ La)337 .
Khi ấy, người nước cũng quy phụ Ngự Bắc Vương ở trại Phù [26a] Lan.
Vua lên ngôi được 3 ngày th́ bị Long Đĩnh giết. Bầy tôi điều chạy
trốn, duy có Điện tiền quân là Lư Công Uẩn ôm xác mà khóc. Long Đĩnh
lên ngôi, truy đặt thụy cho vua là Trung Tông Hoàng Đế, cho Công Uẩn
làm Tứ sương quân phó chỉ huy sứ.
Lê Văn Hưu nói: Ngọa
Triều giết anh, tự lập làm vua; bạo ngược với dân chúng để thỏa ḷng
hung ác, đến nỗi mất nước mất ngôi, không phải là sự bất hạnh của
nhà Lê, lỗi ở Đại Hành không sớm đặt Thái tử và do Trung Tông không
biết pḥng giữ từ khi mời chớm nên đến nỗi thế.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
Sách Dă sử chép rằng: Đại Hành băng, Trung Tông vâng di chiếu nối
ngôi. Long Đĩnh làm loạn, Trung tông v́ anh em cùng mẹ không nỡ
giết, tha cho. Sau Long Đĩnh sai bọn trộm cướp đêm trèo tường vào
cung giết Trung Tông. Thế th́ Trung Tông về t́nh anh em [26b] tuy là
hậu, nhưng việc đứng chủ cúng tế, nối dơi tổ tiên th́ xă tắc là
trọng, anh em là khinh, huốngchi là em bất dễ! Lúc ấy Trung Tông
phải nêu việc Quản Thúc, Thúc Nha338 mà trị tội th́ mới phải, nếu
không làm thế th́ đem giam cầm ở một nơi riêng cho đến khi chết cũng
được. Nhưng Trung Tông lại thả lỏng th́ sao cho khỏi bị phản, rốt
cuộc tan họ, diệt ḍng là tự Trung Tông làm ra
cả. Ngọa Triều th́ có bơ
trách làm chi? Cho nên người làm vua tất phải cư xử cho thật đúng
đắn và phải xét hết lẽ vậy.
NGỌA TRIỀU HOÀNG ĐẾ
Tên húy là Long Đĩnh, lại
có tên là Chí Trung, con thứ năm của Đại Hành ở ngôi 4 năm, thọ 24
tuổi (986-1009) băng ở tẩm điện. Vua làm việc càn dỡ giết vua cướp
ngôi, thích dâm đăng tàn bạo, muốn không mất nước sao được?
Mùa đông, vua cướp ngôi,
tôn hiệu là Khai Thiên Ứng Vận Thánh Vân Thấn Vũ Tắc Thiên Sùng Đạo
[27a] Đại Thắng Minh Quang Hiếu Hoàng Đế. Truy tôn mẹ là Hưng Quốc
Quảng Thánh Hoàng Thái Hậu.
Lập bốn hoàng hậu.
Ngự Bắc Vương cùng với
Trung Quốc Vương chiếm trại Phù Lan339 làm phản. Vua thân đi đánh.
Đến Đằng Châu, Quản giáp là Đỗ Thị đem việc người anh em họ ngoại là
Lê Hấp Ni làm phản tâu lên. Vua sai bắt tra hỏi, Hấp Ni và những kẻ
dự mưu 12 người điều bị giết. Đến trại Phù Lan, người trại đóng cửa
trại cố thủ. Đánh không hạ được, bèn vây chặt vài tháng, người trong
trại hết lương ăn. Ngự Bắc Vương tự biết kế cùng thế khuất, bèn bắt
Trung Bắc Vương đem nộp. Chém Trung Quốc Vương, tha tội cho Ngự Bắc
Vương, rồi đem quân đánh Ngự Man Vương ở Phong Châu. Ngự Man Vương
phải chịu hàng. Quân về đến Đằng Châu, đổi tên châu ấy làm phủ Thái
B́nh. Từ đấy về sau các vương và giặc cướp đều hàng phục cả. Chuyến
đi này khi quan quân đánh nhau với người trại Phù Lan, chợt thấy
trạm báo tin là giặc Cử Long vào cướp đă đến cửa biển Thần [27b] Đầu
(nay là cửa biển Thần Phù)340 . Vua về đến sông Tham đi sang Ái Châu
để đánh giặc Cử Long.
Bính Ngọ, /Ứng Thiên/ năm
thứ 13 [1006] , (Vua vẫn theo niên hiệu Ứng Thiên; Tống Cảnh Đức năm
thứ 3). Mùa xuân, tháng hai, phong con trưởng là Sạ làm Khai Phong
Vương, con nuôi là Thiệu Lư làm Sở Vương, cho ở bên tả; Thiệu Huân
làm Hán Vương, cho ở bên hữu. Sửa đổi quan chế và triều phục của các
quan văn vơ và tăng đạo, theo đúng như nhà Tống.
Hành Quân Vương Minh Đề
thấy trong nước loạn không thể về được, trú lại ở Quảng Châu, Tri
Châu là Cao Nhật thôi không cấp giấy quán khoán341 cho nữa. Vua Tống
phải xuống chiếu cho riêng 50 vạn (quan) tiền, 150 hộc gạo và tiếp
tục cấp quán khoán.
Mùa hạ, tháng 6, trí
Quảng Châu là Lăng Sách dâng thư nói: "Này nhân Giao Chỉ có loạn,
xin cho thần và Duyên biên an phủ sứ Thiệu Việp cùng nhau bàn tính
công việc tâu lên. Bọn thần dựa theo lời của bọn Hoàng Khánh Tập hơn
ngh́n người ở Giao Chỉ, do Liêm Châu342 đưa đến, nói [28a] rằng các
con của Nam B́nh Vương đều đặt trại sách phân tán các nơi, quan
thuộc ĺa tan343 , nhân dân lo sợ, xin đem quân sang đánh dẹp, bọn
Khánh Tập nguyện làm tiên phong, có thể hẹn ngày lấy được. Nếu triều
đ́nh chuẩn lời thỉnh cầu, th́ xin lấy binh đóng đồn ở các châu tuộc
Quảng Nam344 và cho thêm 5 ngh́n quân mạnh ở Kinh Hồ, thủy bộ cùng
tiến, có thể b́nh định được ngay".
Vua Tống nói: "Họ Lê
thường sai con vào chầu, góc biển yên tĩnh, không mất trung thuận,
nay nghe tin mới chết, chưa có lễ tham viếng, đă vội đánh kẻ có
tang, há phải là việc làm của bậc vương giả?". Xuống chiếu cho bọn
Sách vỗ yên như trước, cốt được êm lặng. Lại sai Việp đưa thư sang
bày tỏ uy đức của triều đ́nh, bảo không nên giết hại lẫn nhau, nếu
anh em để lâu không định ngôi thứ khi đó quân thiên triều sang hỏi
tội, th́ họ Lê không một móng nào sống sót. Vua sợ, xin sai em sang
cống.
Vua Tống xuống chiếu cho
Việp đem việc nước bảo cho Minh Đề biết, cho tự chọn ở lại hay về
nước. Nếu muốn về th́ cấp người, thuyền [28b] cùng quán khoán và cho
tiền để tự lo liệu.
Minh Đề về, Việp muốn
nhân đó lấy nước Việt ta, mới dâng bản đồ đường thủy, đường bộ từ
Ung Châu đến Giao Châu. Vua Tống đem cho Cận thần xem và nói rằng:
"Giao Châu nhiều lam chướng dịch lệ, nếu đem quân sang đánh th́ chết
tất nhiều, nên cẩn thận giữ ǵn cơi đất của tổ tông mà thôi". Việp
bèn thôi.
Mùa đông, tháng 10, ngày
Bính Ngọ là sinh nhật của vua, lấy tre làm một ngọn núi nhỏ, ban yến
cho các quan.
Châu Vi Long (nay châu
Đại Man)345 dâng ngựa trắng bốn chân có cựa.
Đinh Mùi, /Ứng Thiên/ năm
thứ 14 [1007] , (Vua vẫn dùng niên hiệu Ứng Thiên; Tống Cảnh Đức năm
thứ 4). Mùa xuân, sai em là Minh Xưởng và Chưởng thư kư là Hoàn
Thành Nhă dâng tê ngưu trắng cho nhà Tống, xin kinh Đại Tạng.
Mùa thu, tháng 8, nhà
Tống phong vua làm Giao Chỉ Quận Vương, lĩnh Tĩnh Hải quân tiết độ
sứ và cho tên là Chí Trung, ban tước cho Minh Xưởng và Thành Nhă.
Tháng 9, [nhà Tống] đúc
ấn "Giao Chỉ Quận Vương", sai Quảng Nam chuyển vận sứ [29a] đem sang
ban.
Mậu Thân, niên hiệu Cảnh
Thụy năm thứ 1 /1008/ , (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ 1). Phong
con nuôi của Cảm Thánh Hoàng Hậu là Lê Ốc Thuyên làm Tam Nguyên
Vương). Vua thân đi đánh hai châu Đô Lương346 , Vị Long, bắt được
người Man và vài trăm con người,sai lấy gậy đánh, người Man đau qúa
kêu gào, nhiều lần phạm tên húy của Đại Hành, vua thích lắm. Lại tự
làm tướng đi đánh Hoan Châu và châu Thiên Liễu, bắt được người th́
làm chuồng nhốt vào rồi đốt.
Kỷ Dậu, /Cảnh Thụy/ năm
thứ 2 /1009/ , (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ 2). Mùa xuân, Minh
Xưởng ở Tống về, xin đưởc kinh Đại Tạng và dụ được người con gái
nước Tống là Tiêu thị đem dâng. Vua thu nạp làm cung nhân.
Sai sứ đem biếu nhà Tống
con tê ngưu thuần. Vua Tống cho rằng tê ngưu từ xa đến, không hợp
thủy thổ muốn trả lại, nhưng sợ trái ư vua, sai đợi cho sứ nước ta
[29b] về rồi thả ra biển. Vua lại xin áo giáo mũ trụ giát vàng, vua
Tống bằng ḷng cho. Vua lại xin được đặt người coi việc tại chợ trao
đổi hàng hóa347 ở Ung Châu, nhưng vua Tống chỉ cho mua bán ở chợ
trao đổi hàng hóa tại Liêm Châu và trấn Như Hồng thôi.
Bọn Ngô đô đốc, Kiểu hành
hiến348 dâng biểu xin đào kênh, đắp đường và dựng cột bia349 ở Ái
Châu. Vua xuống chiếu cho lấy quân và dân ở châu ấy đào đắp từ cửa
quan Chi Long345 qua Đỉnh Sơn đến sông Vũ Lung.
Vua đi Ái Châu, đến sông
Vũ Lung. Tục truyền người lội qua sông này phần nhiều bị hại, nhân
thế vua sai người bơi lội qua lại đến ba lần, không hề ǵ. Xuống
chiếu đóng thuyền để ở các bến sông Vũ Lung, Bạt Cừ, Động Lung bốn
chỗ để chở người qua lại.
Mùa thu, tháng 7, vua
thân đi đánh các châu Hoan Đường351 , Thạch Hà. Đến Hoàn Giang352 ,
sai Pḥng át sứ là Hồ Thủ Ích đem hơn 5 ngh́n quân của châu Hoan
Đường353 , sửa chữa đường từ sông Châu Giáp354 đến cửa biển Nam Giới
để quân đi cho tiện [30a]. Thuyền rồng rời cửa Hoàn355 ra ngoài
biển, chợt gió to sóng lớn, mây mưa tối sầm, bèn sai quay thuyền trở
lại. Sau đó sợ đường biển khó khăn nguy hiểm đi đường bộ về kinh sư.
Vua tính hiếu sát, phàm
người bị hành h́nh, hoặc sai lấy cỏ gianh quấn vào người mà đốt, để
cho lửa cháy gần chết, hoặc sai kép hát người Tống là Liêu Thủ Tâm
lấy dao ngắn dao cùn xẻo từng mảnh, để cho không được chết chóng.
Người ấy đau đớn kêu gào th́ Thủ Tâm nói đùa rằng: "Nó không quen
chịu chết". Vua cả cười. Đi đánh dẹp bắt được tù th́ giải đến bờ
sông, khi nước triều rút, sai người làm lao dưới nước, dồn cả vào
trong ấy, đến khi nước triều lên, ngập nước mà chết; hoặc bắt trèo
lên ngọn cây cao rồi chặt gốc cho cây đổ, người rơi xuống chết. Vua
thân đến xem lấy làm vui. Có lần vua đi đến sông Ninh356 , sông ấy
nhiều rắn, vua sai trói người vào mạn thuyền357 , đi lại giữa ḍng
muốn cho rắn cắn chết. Phàm ḅ lợn [30b] muốn làm thịt th́ tự tay
vua cầm dao chọc tiết trước, rồi mới đưa vào nhà bếp sau. Có lần vua
róc mía trên đầu sư Quách Ngang, giả vờ lỡ tay làm đầu sư bị thương
chảy máu rồi cả cười. Hoặc nhân yến tiệc, giết mèo cho các vương ăn,
ăn xong lấy đầu mèo giơ lên cho xem, các vương đều sợ, vua lấy làm
thích. Mỗi khi ra chầu, tất sai bọn khôi hài hầu hai bên; vua có nói
câu ǵ th́ bọn ấy nhao nhao pha tṛ cười để cho loạn lời tâu việc
của quan chấp chính. Lại lấy thạch sùng làm gỏi, bắt bọn khôi hài
tranh nhau ăn.
Mùa Đông, tháng 10, ngày
Tân Hợi, vua băng ở tẩm điện358 gọi là Ngọa Triều, v́ vua mắc bệnh
trĩ phải nằm mà coi chầu (Dă sử chép: vua say đắm tửu sắc phát ra
bệnh trĩ).
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
Vua Kiệt nhà Hạ thích giết người, đến nỗi có h́nh phạt leo cột đồng
nung nóng359 , vua Trụ nhà Thương thích giết người đến nỗi có việc
chặt đùi người lội nước buổi sáng360 , tuy có Long Bàng361 , Tỷ
Can362 là người hiền hết ḷng trung [31a]có sức can ngăn mà đều bị
giết, v́ thế mất nước một cách đột nhiên. Đời sau
những vua thích giết
người như Tôn Hạo363 nước Ngô cũng nhiều, cuối cùng đều diệt vong
cả. Ngọa Triều không những chỉ thích giết người, lại c̣n oán vua cha
không lập ḿnh làm thái tử, đánh đau người Man, cho họ kêu gào,
nhiều lần phạm húy cha mà lấy làm thích, thật quá tệ. Mất nước mau
chóng, há phải không do đâu mà ra?
Lại xét Trung Tông và
Ngọa Triều, đều không chép việc tang lễ, đó là do sử cũ bị thiếu, há
dám coi vua như là Di Địch mà không chép việc tang đâu.
Tháng ấy, ngày Qúy Sửu,
Lư Công Uẩn tự lập làm vua. Trước đây ở hương Diên Uẩn, châu Cổ
Pháp364 có cây gạo bị sét đánh, người hương ấy xem kỹ dấu sét đánh
thấy có chữ: " Thụ căn điểu điểu, mộc biểu thanh thanh, ḥa đao mộc
lạc, thập bát tử thành, đông a nhập địa, mộc dị tái sinh, chấn cung
kiến nhật, đoài cung ẩn tinh, lục thất niên gian, thiên hạ thái
b́nh" (Gốc cây thăm thẳm, ngọn cây xanh xanh, cây ḥa đao rụng, mười
tám hạt thành, cành đông xuống đất, cây khác lại sinh, đông mặt trời
mọc, tây sao náu h́nh, khoảng sáu bảy năm, thiên hạ thái b́nh). Sư
Vạn Hạnh tự đoán riêng rằng: "Thụ căn điểu điểu", chữ căn nghĩa là
gốc, gốc tức là vua, chữ điểu đồng âm với yểu, nên hiểu là yếu. "Mộc
biểu thanh thanh", chữ biểu nghĩa là ngọn, ngọn tức là bề tôi, chữ
thanh âm gần giống với chữ thanh nghĩa là thịnh; Ḥa , đao, mộc
[ghép lại] là chữ Lê; Thập, bát, tử là chữ Lư; Đông A là chữ Trần;
nhập địa là phương Bắc vào cướp: "Mộc dị tái sinh" là họ Lê khác lại
sinh ra. "Chấn cung kiến nhật", chấn là phương Đông, kiến là mọc ra;
nhật là thiên tử. "Đoài cung ẩn tinh", "đoài" là phương tây, "ẩn"
cũng như lặn, "tinh" là thứ nhân. Mấy câu này ư nói là vua th́ non
yểu, bề tôi th́ cường thịnh, họ Lê mất, họ Lư nổi lên, thiên tửở
phương đông mọc ra th́ thứ nhân ở phương tây lặn mất, trải qua 6, 7
năm th́ thiên hạ thái b́nh365 .
Vạn Hạnh mới bảo Lư Công
[32a] Uẩn rằng: "Mới rồi tôi thấy chữ bùa sấm kỳ lạ, biết họ Lư
cường thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ
Lư rất nhiều, nhưng không ai bằng Thân vệ là người khoan thứ nhân từ
được ḷng dân, lại đang nắm binh giữ quyền trong tay, đứng đầu muôn
dân chẳng phải Thân vệ th́ c̣n ai đương nỗi nữa. Tôi đă hơn 70 tuổi
rồi, mong được thư thả hăy chết, để xem đức hóa của ông như thế nào,
thực là cái may ngh́n năm có một". Công Uẩn sợ câu nói ấy tiết lộ,
bảo người anh đem Vạn Hạnh giấu ở Tiêu Sơn366 . Song từ ấy cũng lấy
thế tự phụ mới nảy ra ḷng nḥm ngó ngôi vua, mà người ta cũng quy
phụ.
Có lần Ngọa Triều ăn qủa
khế lại thấy hột mận367 , mới tin lời sấm ngữ, ngầm t́m người họ Lư
giết đi, thế mà Công Uẩn ở ngay bên cạnh, rốt cuộc vẫn không biết.
Đến khi Ngỏa Triều băng, vua nối c̣n bé, Công Uẩn cùng với Hữu điện
tiền chỉ huy sứ là Nguyễn Đê mỗi người được đem [32b] 500 quân tùy
long368 vào làm túc vệ. Khi ấy Chi hậu là Đào Cam Mộc ḍ biết Công
Uẩn có muốn nhận việc truyền ngôi, mới nhân lúc vắng nói khích rằng:
"Gần đây chúa thượng ngu tối bạo ngược, làm nhiều việc bất nghĩa,
trời chán ghét nên không cho hết thọ, con nối thơ ấu, không kham nỗi
nhiều khó khăn. Mọi việc phiền nhiễu thần linh không ưa, dân chúng
nhao nhác, mong t́n chân chúa. Sao Thân vệ không nhân lúc này nghĩ
ra mưu cao, quyết đoán sáng suốt, xa xem dấu cũ của Thang Vũ, gần
xem việc làm của Đinh, Lê, trên thuận ḷng trời, dưới theo ư dân, mà
cứ muốn khư khư giữ tiểu tiết làm ǵ!". Công Uẩn trong ḷng thích
lời nói đó nhưng c̣n ngờ Cam Mộc có mưu khác, mới giả cách mắng
rằng: "Sao ông lại nói như thế, tôi phải bắt ông nộp quan!". Cam Mộc
thong thả bảo Công Uẩn rằng: "Tôi thấy thiên thời nhân sự như thế,
cho nên mới dám phát ngôn. Nay ông lại muốn cáo giác tôi th́ tôi
không phải là người sợ chết". [33a] Công Uẩn nói: "Tôi đâu nở cáo
giác ông, chỉ sợ lời nói tiết lộ th́ chết ráo, nên răng ông đó
thôi".
Hôm sau Cam Mộc lại bảo
Công Uẩn: "Người trong nước ai cũng nói họ Lư khởi nghiệp lớn, lời
sấm đă hiện ra rồi, đó là cái họa không thể che dấu được nữa. Chuyển
họa làm phúc, chỉ trong sớm chiều. Đây là lúc trời trao người theo,
Thân vệ c̣n nghi ngại ǵ nữa?". Công Uẩn nói:" Tôi đă hiểu rỏ ư ông,
không khác ǵ ư của Vạn Hạnh, nếu thực như lời ấy th́ nên tính kế
thế nào ?". Cam Mộc nói:" Thần Vệ là người khoan thứ, nhân từ, ḷng
người chịu theo. Hiện nay trăm họ mỏi mệt kiệt quệ, dân không chịu
nổi, Thân vệ nên nhân đó lấy ân đức mà vỗ về, th́ người ta tất xô
nhau kéo về như nước chảy chỗ thấp, có ai ngăn được!". Cam Mộc biết
việc cần kíp, sợ sinh biến, mới nói chuyện với khanh sĩ và các quan,
ai cũng vui theo. Ngay ngày hôm ấy, điều họp cả ở trong triều, bàn
rằng:" Hiện nay, dân chúng ức triệu khác ḷng, trên dưới ĺa [33b]
bỏ, mọi người chán ghét tiên đế hà khắc bạo ngược, không muốn theo
về vua nối mà đều có ḷng suy tôn quan Thân vệ, bọn ta không nhân
lúc này cùng nhau sách lập Thân vệ làm thiên tử, lỡ bối rối có xảy
ra tai biến ǵ, liệu chúng ta có giữ được cái đầu hay không?".
Thế rồi cùng nhau d́u
Công Uẩn lên chính điện, lập làm thiên tử, lên ngôi Hoàng đế. Trăm
quan đều lạy rạp dưới sân, trong ngoài đều hô "vạn tuế", vang dậy cả
trong triều. Đại xá cho thiên hạ, lấy năm sau làm niên hiệu Thuận
Thiên năm đầu. Đốt giềng lưới, băi ngục tụng, xuống chiếu từ nay ai
có việc tranh kiện cho đến triều tâu bày, vua thân xét quyết. Các
quan dâng tôn hiệu là "Phụng Thiên Chí Lư ứng Vận Tự Tại Thánh Minh
Long Hiện Duệ Văn Anh Vũ Sùng Nhân Quảng Hiếu Thiên Hạ Thái B́nh
Khâm Minh Quang Trạch Chương Minh Vạn Bang Hiển Ứng Phù Cảm Uy Chấn
Phiên Man Duệ Mưu Thần Trợ Thánh Tri Tắc Thiên Đạo Chính Hoàng Đế.
[34a] Sử thần Ngô Sĩ Liên
nói: Kinh thư tôn xưng vua Nghêu là Phóng Huân, vua Thuấn là Trùng
Hoa. Bề tôi đời sau lấy đức hạnh thực mà tôn xưng vua, đến hơn mười
chữ đă là nhiều lắm rồi. Bấy giờ bầy tôi dâng tôn hiệu đến 50 chử,
thế là không biết kê cứu cổ học mà chỉ biết nịnh vua.[Lư] Thái Tổ
nhận mà không từ, đó là muốn khoe khoang để cho đời sau không ai hơn
được. Thế là sai. Sau, Tôn Thái Tông cũng đến gần 50 chử là v́ bắt
chước ở đây.
Truy phong cha là Hiển
Khánh Vương, mẹ là Minh Đức Thái Hậu.
Lê Văn Hưu nói: Nhà Chu
dấy nghiệp vương, truy phong là Thái Vương, Vương Quư, nhà Tống xưng
đế truy phong là Hy Tổ, Dực Tổ, là theo nghĩa cha v́ con mà được tôn
quư. Lư Thái Tổ ta đă xưng đế mà truy phong cha là Hiển Khánh Vương,
bấy giờ [34b] lễ quan không biết cải chính, thế là tự ti vậy.
Lập sáu hoàng hậu, duy có
đích phu nhân gọi là Lập Giáo Hoàng Hậu, quy chế xe kiệu và y phục
khác hẳn với các cung khác. Sách lập con trưởng là Phật Mă làm Hoàng
thái tử, các con khác đều phong tước hầu. Con gái 13 người đều phong
công chúa. Gả con gái trưởng là công chúa An Quốc cho Đào Cam Mộc,
phong Cam Mộc làm Nghĩa Tín Hầu, phong cho anh làm Vũ Uy Vương, chú
làm Vũ Đạo Vương, con Vũ Uy Vương là Trưng Hiển làm Thái úy, con Dực
Thánh Vương369 là phó làm Tổng quản, Trần Cảo làm Tướng công, Ngô
Đinh làm Khu mật sứ, Đào Thạc Phụ làm Thái bảo, Đặng Văn Hiếu làm
Thái phó, Phí Xa Lỗi370 làm Tả kim ngô, Vệ Trúc làm Hửu kim ngô, Đàm
Thản làm Tả vũ vệ, Đỗ Giản làm Hửu vũ vệ, các người khác đều như cũ.
Ban y phục cho các tăng
đạo.
[35a] Trở lên là triều Lê
3 vua, khởi từ năm Tân Tỵ mất năm Kỷ Dậu [981-1009], tất cả 29 năm.
247 Đại Hoàng: tên châu,
nay là đất huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh B́nh.
248 Nguyên văn: "Đàm Gia
Nương Loan". Loan là chỗ sông uốn ṿng. Các bản in khác đều bỏ chữ
"Nương", chỉ chép Đàm Gia Loan. Nay ở Điền Xá, huyện Gia Viễn, tỉnh
Ninh B́nh.
249 Ở đoạn trước, NK5
chép là Nguyễn Hữu Công.
250 Tên địa phương cát cứ
của các sứ quân, xem chú thích (7), tr. 209.
251 Động Hoa Lư: Cương
mục: ở về sơn phận hai xă Uy Viễn và Uy Tế tỉnh Ninh B́nh cũ; nơi
đây bốn mặt đều có núi đá dựng đứng như bức vách, trong có một chỗ
hơi bằng phẳng rộng răi, người địa phương gọi là động Hoa Lư (CMTB5,
24b). Nay thuộc huyện Gia Viễn, tỉnh Hà Nam Ninh.
252 Lưu Xưởng: vua cuối
cùng của Nam Hán (958-970), đầu hàng tướng nhà Tống là Phan Mỹ.
253 Đô hộ phủ sĩ sư: chức
quan coi việc h́nh án ở phủ đô hộ, tức là trong cả nước (nhà Đinh
dùng tên phủ đô hộ thời thuộc Đường).
254 Tướng chỉ huy 10 đạo
quân, tức quân đội cả nước.
255 Tăng thống: chức quan
phong cho vị sư được triều đ́nh coi là người đứng đầu Phật giáo.
256 Tăng lục: chức quan
trông coi Phật giáo dưới chức Tăng thống.
257 Sùng chân uy nghi:
chức quan trông coi về đạo giáo.
258 Chỉ việc nhà Tống đă
diệt Hán, lấy được miền Nam Trung Quốc.
259 Nguyên văn: "Trù chi
tỉnh phú". Theo Tống sử, Thực Hoá chí th́ "tỉnh phú" ( chữ tỉnh
trong từ tỉnh điên) là chế độ quy định các điạ phương đóng góp 1/5
binh mă cho chính quyền trung ương.
260 B́nh đính: phẳng đầu.
261 Theo Cương mục: Trịnh
Tú người châu Đại Hoàng (CMTB1,6b).
262 Cương mục chú: Đỗ
Thích người xă Đại Đê, huyện Thiên Bản, nay là huyện Vụ Bản, tỉnh Hà
Nam Ninh (CMTB1,8b).
263 Ở đây Toàn thư chép
là hoành nhi mm mm, tức một loại nô tỳ, c̣n Đại Việt sử lược (q.1,
17b) lại chép là hoành tử mm mm nghĩa là chết phi lư, chết oan uổng.
264 Kế đô: là tên Trung
Quốc phiên âm tên ngôi sao Kethu trong lịch cổ Ấn Độ. Thiên văn cổ
Ấn Độ cho rằng hệ mặt trời có 9 sao (Trung Quốc dịch là Cửu diệu),
ngoài mặt trời, mặt trăng và 5 sao Thủy (Bhuda), Kim (Sukra), Hỏa
(Angaraka), Mộc (Brhaspati), Thổ (Sanaiscara hay Sani), c̣n có 2 sao
nửa là Kethu và Rahu (Trung Quốc phiên âm là La hầu), hai sao này
thường che mặt trời, mặt trăng, làm thành nhật thực và nguyệt thực.
Ngày nay ta biết không phải như vậy và không có hai ngôi sao đó.
Lịch pháp cổ Ấn Độ (người Trung Quốc gọi là Phạn lịch đă truyền vào
Trung Quốc cùng với Phật Giáo). Trong kinh Phật (chẳng hạn Đại Nhật
kinh), thường gặp tên sao Kế đô này. Một số học giả thời Tống cũng
đă bàn về sao này (xem Mộng khe bút đàm của Thâm Quát, chương tượng
số). Người làm bài sấm trên - nhiều khả năng là nhà sư - đưa thêm
tên ngôi sao này vào cho thêm phần bí hiểm, đồng thời chữ đô, có thể
ám chỉ việc đóng đô, hay làm vua, của nhà Lư.
265 Bài thơ sấm này hẳn
là do người đời sau làm ra, v́ trong đó không những đă biết việc Đỗ
Thích giết hai cha con vua Đinh, Lê Hoàn lên ngôi, mà c̣n nói trước
việc nhà Lư làm vua (gộp 3 chữ thập, bát, tự thành chữ Lư).
266 Trường Yên: Ở đây là
tên xă, chứ không phải tên phủ. Xă Trường Yên, gồm Trường Yên Thượng
và Trường Yên Hạ, là vùng thành Hoa Lư. Lăng vua Đinh ở trên núi Mă
Yên (núi Yên Ngựa) thuộc xă Trường Yên tỉnh Ninh B́nh.
267 Chu Công: tức Cơ Đán,
em Vũ Vương, nhà Chu (Trung Quốc), có tiếng là người hiền. Thành
Vương nối ngôi c̣n nhỏ tuổi, Chu Công làm nhiếp chính, từng bị lời
dèm pha nói rằng Chu Công sẽ làm điều bất lợi cho vua nhỏ...
268 Nam Giới: tên cửa
biển ở phiá Nam, gần Chiêm Thành, c̣n có tên là Cửa Sót, nay thuộc
huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
269 Ung Châu: nay là
huyện Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
270 Kinh Hồ: tên lộ thời
Tống, gồm đất tỉnh Hồ Nam và tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc ngày nay.
271 Phạm Cự Lạng: người
huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng, ông nội là Chiêm giữ chức Đông giáp
tướng quân đời Ngô Quyền, cha là Man, Tham chính đô đốc, anh là Phạm
Hạp, vệ uư đời Đinh Tiên Hoàng, người đă cùng Đinh Điền, Nguyễn Bặc
chống lại Lê Hoàn (theo Ngô Th́ Sĩ, Đại Việt sử kư tiền biên).
272 Áo long cổn: áo của
vua thêu h́nh rồng cuộn.
273 Chỉ các cuộc hành
quân tiêu diệt các thế lực cát cứ đầu thời Tống ở tỉnh Hồ Nam, Tứ
Xuyên, Lưỡng Quảng,v.v...Trung Quốc.
274 Chỉ miền Phần Dương
và Thái Nguyên thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Ở đây Tống Thái Tông
muốn nhắc đến cuộc tiến quân tiêu diệt nước Bắc Hán ở tỉnh Sơn Tây
năm 979.
275 Nguyên văn: "Ngũ
phục", chữ dùng trong Kinh Thư, chỉ 5 vùng theo thứ tự xa cách kinh
kỳ (hầu, diện, tuy, yêu, hoang).
276 Viêm Hán: tức nhà
Hán, tự coi là ḍng dơi vua Nghiêu, ứng vào ngôi hỏa (trong ngũ
hành), cho nên gọi là Viêm Hán (Viêm đồng nghĩa với hỏa).
277 Nguyên văn: "tiệt
phan đoạn tiết". Tiết là con so để làm tin, khi tướng ra trận th́ bổ
đôi giao cho một nửa.
278 Chỉ vùng biên giới
giữa nước ta (Giao Châu) với đất Lưỡng Quảng, Trung Quốc.
279 Minh Đường: chổ vua
các nước chư hầu triều kiế vua nhà Chu. Bích Ung: nhà học của vua
nhà Chu.
280 Ư nói cha và anh ở
ngôi chưa được bao lâu đă bị nạn.
281 Nguyên văn: "Chiêm
khối", chỉ nơi ở trong thời gian chịu tang cha mẹ (nằm chiếu rơm
(chiêm), gối đầu trên ḥn đất (khối).
282 Chỉ Lê Hoàn.
283 Ái Châu: tức Thanh
Hóa ngày nay. Đại Việt sử lược (q.1,18b) chép Lê Hoàn người Trường
Châu, nay thuộc tỉnh Hà Nam Ninh. Đại Việt sử kư tiền biên (q1) phần
chính văn bản chép Lê Hoàn người Ái Châu, nhưng phần cước chú lại
ghi Lê Hoàn người Bảo Thái, huyện Thanh Liêm nay thuộc tỉnh Nam Hà.
284 Sông Bạch Đằng: c̣n
gọi là sông Rừng, chảy qua giữa hai huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh
và Thủy Nguyên, Hải Pḥng.
285 Sông Chi Lăng: Cương
mục (CB1, 18) chú là con sông ở xă Chi Lăng, tức khúc sông Thương
chảy qua Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn.
286 Bê Mi Thuế: Đại Việt
sử lược (q.1, 19b) nói là vua Chiêm, Cương mục (CB1, 19a) nói là
tướng Chiêm. G.Maspéro khôi phục tên Phạn ngữ của người này là
Parames'varavarman I (Le Royaume de Champa); nhưng vẫn coi là giả
thuyết v́ chưa có cứ liệu xác nhận.
287 Núi Đồng Cổ: ở xă Đan
Nê, huyện Thuyệu Yên, tỉnh Thanh Hóa.
288 Sông Bà Ḥa: sông
chảy qua xă Bà Ḥa, sau đổi là xă Đồng Ḥa, nay thuộc huyện Tĩnh
Gia, tỉnh Thanh Hóa.
289 Núi Đại Vân: ở thành
Hoa Lư, tỉnh Hà Nam Ninh.
290 Tiết Trấn: tức Tiết
độ sứ ở phiên trấn.
291 Chỗ này toàn thư chép
là "Diên Chỉ chi ngung", bản dịch cũ dịch là "Diên Chỉ cơi xa" và
chú thích Diên Chỉ là Chu Diên và Giao Chỉ (bản dịch cũ, tập 1,
tr.332). Nhưng xem lại Tống sử (Giao Chỉ truyện) ta thấy đoạn văn
này được chép là "Diên Diếp chi ngung". Diên Diếp hay Điếp Diên là
từ lấy trong Hậu Hán thư, Mă Viện truyện. Theo Mă Viện truyện, khi
Mă Viện vào Giao Chỉ, đến Tây Lư, đất nhiều khí độc bốc lên, "ngửng
mặt nh́n thấy diều bay, lả tả rơi xuống trong nước" (ngưỡng thị phi
diên điếp điếp đọa thủy trung). Như vậy, "diên điếp chi ngung" có
thể dịch là "cơi đất diều rơi", chỉ miền đất Giao Chỉ mà người Trung
Quốc coi là nhiều khí độc. Chữ Diên Điếp gần với chữ Diên Chỉ nên có
sự lầm lẫn như trên.
292 Núi Đọi: tên chữ Hán
là Đội Sơn hoặc Long Đội Sơn, ở xă Đại Sơn, huyện Duy Tiên, nay
thuộc tỉnh Nam Hà.
293 Sách Giang tự: tên
chùa, gọi theo tên sông. Sông Sách Giang, theo Phan Huy Chú, là con
sông chảy qua Nam Sách. (Lịch triều hiến chương loại chí, bang Giao
Chỉ). Có lẽ bây giờ, cũng như về thời Trần sau này, sông Sách là một
đoạn sông Thương.
294 Pháp sư Thuận: tức
thiền sư Pháp Thuận (1-990) họ Đỗ, trụ tŕ chùa Cổ Sơn, hương Thư ở
ái Quận; thuộc thế hệ thứ 11 thiền phái T́-ni-đa-lưu-chí (ḍng thiền
Nam Phương).
295 Nguyên văn là "giang
lệnh".
296 Nguyên bản in là: "Bả
điệu"; nhầm chữ trạo thành chữ điệu; dùng ở đây không có nghĩa; ba
trạo có nghĩa là cái mái chèo.
297 Theo bản dịch cũ.
298 Ngô Khuông Việt
(933-1011): tức Ngô Chân Lưu, người hương Cát Ly; huyện Trường Lạc;
trụ tŕ chùa Phật Đà, thuộc thế hệ thứ tư ḍng thiền Vô Ngôn Thông.
299 Nguyên bản in "hậu
khiển chi", chữ khiển (sai khiến) do chữ di (tặng, biếu) khắc lầm.
300 Nguyên văn: chế khúc.
Khúc là bài hát có lời, là bài từ đặt theo một ca điệu có sẳn.
301 Bài từ này có một
truyền bản khác ở Thiền uyển tập anh, bản in năm Vĩnh Thịnh thứ 11
(1715), di biệt một số chữ so với văn bản Toàn thư phiên âm trên
đây. Trong bài Về bài từ ở thế kỷ X, Hoàng Văn Lâu đă khỏa dị nhận
xét, hai bản để phục nguyên bài từ (xem: Một số vấn đề văn hóa học
Hán Nôm, NXB Khoa Học Xă Hội, H. 1983, tr. 191-211).
302 Bản dịch của Hà Văn
Tấn, Lịch sử Phật giáo Việt Nam NXB. Khoa Học Xă Hội, H. 1988, tr.
127.
303 Phật thành tức là
thành Phật Thệ (Vijaya), Cũng gọi là thành Chà Bàn, kinh đô của
Chiêm Thành; ở về phía Bắc thành phố Quy Nhơn, ngày nay khoảng 27
Km.
304 Tức vua Chiêm Sri
Harivarman II (ở ngôi 988-999).
305 Ở đọan sau (BK1,24a)
ghi hoàng tử này là Long Tích.
306 Các tỉnh Nghệ An, Hà
Tĩnh, Thanh Hóa ngày nay.
307 Thái B́nh quân: sau
đổi là Liêm Châu tức tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, quân là đơn vị
hành chính đầu thời Tống.
308 Giao: ngoại vi đô
thành gọi là giao.
309 Phù Lan: Cương mục
chú là tên trại, sau là xă Phù Vệ, huyện Đường Hào (CMCB1, 27a) nay
thuộc tỉnh Hải Hưng.
310 Đằng Châu: tên xă
thuộc huyện Kim Động, nay thuộc huện Kim Thi, tỉnh Hải Hưng; tên đất
tương đương với Khoái Châu thời Lư, Khoái Lộ thời Trần, Khoái Châu
thời Lê, gồm gần cả tỉnh Hưng Yên cũ.
311 Tuyên Triệu: cho gọi
đến.
312 Điạ Lư: tên châu của
Chiêm Thành, sau khi sáp nhập vào lănh thổ nhà Lư đổi gọi là châu
Lâm B́nh (1075). Nay là phần đất huyện Lệ Ninh, tỉnh Quảng B́nh.
313 Tân B́nh: tên phủ
thời Lê, nay gồm toàn bộ đất Quảng B́nh cùng với đất huyện Bến Hải,
tỉnh Quảng Trị.
314 Ô Lư: tên hai châu
của nước Chiên Thành, thời Trần (năm 1306) đổi gọi châu Ô là Thuận
Châu, Châu Lư gọi là Hoá Châu - nay là phần phía nam tỉnh Quảng Trị
và tỉnh Thừa Thiên.
315 Ngũ Huyện Giang:
Cương mục (CMCB1, 27a) chú là con sông chảy qua 5 huyện Kim Anh,
Đông Ngàn, ṿng quanh đến huyện Yên Phong và Tiên Du, rồi đổ vào
sông Nguyệt Đức (sông Cầu).
316 Mạt Liên: Cương mục
chú là huyện Tiên Lữ (CMCB1, 27b). Nay thuộc đất huyện Phù Tiên,
tỉnh Hải Hưng.
317 Vũ Lung: tên châu,
thuộc tỉnh Thanh Hoá, chưa biết rơ vị trí (CMCB1, 27a).
318 Cổ Lăm: tức là châu
Cổ Pháp thời Lư, nay là đất huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
319 Phù Đái: Cương mục
chú là xă Phù Đái, huyện Vĩnh Lại (CMCB1, 27a), nay thuộc đất huyện
Vĩnh Bảo, Hải Pḥng.
320 Tô Mậu: là vùng Nà
Dương, Đ́nh Lập, An Châu, tỉnh Lạng Sơn.
321 Triều Dương: tên
châu, nay thuộc phần đất các huyện Tiên Yên, Hải Ninh tỉnh Quảng
Ninh.
322 Mân Việt: chỉ vùng
tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc.
323 Hà Động: tức động Hà
Man, thuộc huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa (CMCB1, 34).
324 Châu Định Biên:
Nguyễn Thiên Tùng chú thích Dư địa chí của Nguyễn Trăi, có ghi mỏ
vàng ở Định Biên, tỉnh Cao Bằng, có lẻ châu Định Biên ở vùng này.
Bản Dịch cũ cho là vùng thượng du Thanh Hóa.
325 Cử Long: tên đất
thuộc vùng dân tộc Mường huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hoá. Cương mục
ghi là tên dân tộc, thời Đinh, Lê gọi là Man Cử Long. Khoản năm
Thuận Thiên (1428-1433), nhà Lê đặt là huyện Lạc Thủy, khỏang năm
Quang Thuận (1460-1469) đổi là Cẩm Thủy (CMCB1, 35a).
326 Cùng Giang: con sông
ở vùng Mường Cử Long huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. Cương mục chép
là "Duyên Giang", nghĩa là đi theo dọc sông (bản dịch cũ theo ư đó).
Xét đoạn văn trên đây th́ Cùng Giang phải là tên riêng, v́ tiếp theo
có nói rơ: "giặc bày trận hai bên bờ..., quan quân bị hăm ở giữa
sông".
327 Đa Cái: tên xă, thuộc
huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Kênh Đa Cái tức là khúc kênh nối
kênh Sắt với sông Lam
328 Cương mục có chép
việc Lê Đại Hành đi vào kênh Hoa Cái, nhưng bỏ qua không nói đến ám
Châu và Tư Củng trường. Những tên đất này chưa khảo được.
329 Thành Nhật Hiệu:
Cương mục dẫn tên ghi trong An Nam chí của Cao Hùng Trưng là Hiệu
Thành trường, nay không khảo được (CMCB1, 36a).
330 Minh Đề: ở BK1, 21a
viết (chữ Hán) ở đây viết (chữ Hán) cùng âm Đề.
331 Biện Kinh: kinh đô
nhà Bắc Tống (960-1126), nay là Khai Phong, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc.
332 Sông Đại Hoàng: theo
Cương mục, là con sôngf chảy qua xă Đại Hữu, huyện Gia Viễn (CMCB1,
37a). Bản dịch cũ chú là khúc sông Hồng ở ngă ba Tuần Vương xă Đại
Hoàng.
333 Đại Hành: khi vua mới
mất chưa đặt thụy hiệu th́ gọi là Đại Hành Hoàng Đế. Có sách giải
thích "đại hành" là đi xa hẳn không trở lại. Có sách giải thích "đại
hành" là đức hạnh lớn (hành và hạnh viết cùng một chữ, âm cổ đọc như
nhau).
334 Bất tiếu: là không
giống cha, tức là không phải là người hiền.
335 Mẹ của Lê Trung Tông
Long Việt, Cương mục chú là: con gái quan chi hậu, tên là Diệu,
không rơ họ ǵ (CMCB1, 39a). Đại Việt sử lược (q.1,21a) chép là mẹ
của Long Việt là " hầu Di nữ " (con gái người hầu gái người Chiêm
Thành?).
336 Thạch Hà: tên châu
đời Tiền Lê, nay là vùng huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
337 Cửa biển Kỳ La là cửa
Nhượng Bạn ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
338 Quản Thúc: em Chu Vũ
Vương và Chu Công, gây loạn để cướp ngôi của cháu là Thành Vương, bị
Chu Công bắt giết. Thúc Nha: em của Lổ Trang Công, khi Trang Công
chết, Thúc Nha muốn làm lọan, bị quan nhiếp chính là Quư Hửu (cũng
là em Trang Công) bắt uống thuốc độc chết.
339 Tại Pù Lan: xem chú
thích (1) tr. 227.
340 Thần Đầu: tên cửa
biển xưa (ngày nay đă bị lấp) ở xă Thần Đầu, huyện Nga Sơn, tỉnh
Thanh Hoá; đầu đời Lê đổi gọi là Thần Phù, thời Nguyễn (1838) xă
Thần Đầu nhập vào huyện Yên Mỗ, tỉnh Ninh B́nh.
341 Quán khoán: tờ giấy
cho phép sử dụng quán trọ.
342 Liêm Châu: tên châu
thời Đường - Tống, nay là đất tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
343 Các bản in Toàn Thư
đều in là "Lí Chiết" (ĺa găy), nghĩa tạm hiểu được. Nhưng đúng ra ở
đây chữ chiết là do chữ tích viết nhầm Lí tích nghĩa là chia ĺa.
344 Quảng Nam: lộ Quảng
Nam thời Tống tức là đạo Lĩnh Nam thời Đường, nay là đất các tỉnh
Quảng Đông, Quảng Tây, Trung Quốc.
345 Vi Long: nay là huyện
Chiêm Hóa, tỉnh Hà Tuyên.
346 Đô Lương, Thiên Liễu:
tên châu, chưa rơ ở vùng nào.
347 Nguyên văn: cầu Thi
Ung Châu Khưu thị, chữ khưu do chữ hỗ khắc lầm. Hỗ thị là chợ trao
đổi hàng hóa (với người nước ngoài) không dùng tiền.
348 Nguyên văn: "Ngô đô
đốc Kiểu hành hiến đẳng..." "Cương mục khi sử dụng sử liệu này, coi
Kiểu Hành Hiến là tên riêng, do đó bỏ hai chữ Ngô và đẳng (coi như
Toàn Thư in thừa chữ). V́ có chữ "đẳng" nên chúng tôi cho rằng ở đây
Toàn Thư nói việc dâng biểu cho hai người: Ngô đô đốc và Kiểu hành
hiến (đều không ghi tên). Như thế th́ "hành hiến" phải lá một chừc
quan. Xin ghi lại đây để chờ tra cứu.
349 Nguyên văn: "bi hậu",
cột mốc chỉ dặm đường, mỗi dặm trồng một cột (như cột cây số ngày
nay).
350 Chi Long: theo Cương
mục, là tên cửa quan thuộc huyện Chi Nga, tức huyện Nga Sơn, tỉnh
Thanh Hóa (CMCB2, 1b).
351 Hoan Đường: Cương Mục
ghi làtên châu đời tiền Lê (CMCB2, 2b). Nay thuộc đất các huyện Nam
Đàn, Anh Sơn, Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
352 Hoàn Giang: Cương Mục
(CB1, 38) chú là "không khỏa được" . Bản dịch cũ cho cửa Ḥan là cửa
Sót (Nam Giới) và do đó sông Hoàn là sông chảy ra cửa Sót.
353 Nguyên bản in là
"Hoàn" Đường (với chữ "Hoàn" là ngọc hoàn), ngờ vẫn là châu Hoan
Đường đă nói ở trên, mà do ảnh hưởng các chữ "Hoàn" trên và dưới nên
đọc và khắc in nhầm.
354 Nguyên văn "Châu Giáp
Giang", chưa rơ ở đâu.
355 Hoàn Hải Khẩu: hẳn là
cửa sông Hoàn nói ở trên.
356 Sông Ninh: có lẽ là
sông Ninh ở huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây. Đại Việt sử lược, q.1, 21b
chép là sông Chỉ Ninh.
357 Nguyên bản: "Hệ nhân
chu đáo", đúng chữ là: "hệ nhân chu trắc" (buộc người vào bên cạnh
thuyền), chữ trắc khắc in nhầm thành đáo.
358 Tẩm điện: nhà ngũ của
vua.
359 Nguyên văn: "Bào lạc
chi h́nh" bôi mỡ lên cột đồng bắt tội nhân trèo lên, trơn rơi xuống
đống than lửa, xuất sứ ở Sử kư của Tư Mă Thiên, nói tội ác của vua
Trụ (q.1, ân bản kỷ).
360 Vua Trụ thấy người
sáng sớm đi chân trần trên tuyết, khen giỏi, bắt chặt ống chân xem
bên trong có ǵ.
361 Long Bàng: người hiền
thời Hạ, bị Kiệt giết.
362 Tỷ Can: người hiền
thời Ân, nhiều lần can ngăn Trụ, Trụ nói: "Ta nghe nói quả tim của
thánh nhân có 7 lỗ", rồi mỗ bụng Tỷ Can moi tim để xem.
363 Tôn Hạo: tức Ngô Hậu
chủ thời Tam Quốc.
364 Cổ Pháp: tên châu,
thời Đinh gọi là Cổ Lăm, thời Tiền Lê đổi là Cổ Pháp, nay thuộc đất
huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc.
365 Bài thơ này cũng được
chép trong Đại Việt sử lược(q.1, 1a) của soạn giả thời Trần, nhưng
không có hai câu "Đông A nhập địa, Mộc dị tái sinh". Điều đó một mặt
chứng tỏ rằng bài sấm này được làm ra để tạo dư luận cho Lư Công Uẩn
lên ngôi; một mặt cho thấy người đời sau (Trần, Lê) c̣n xen thêm vào
hai câu đă dẫn. C̣n câu "Lục thập niên..." th́ Đại Việt sử lược chép
là "Lục thập nhật...", hợp lư hơn.
366 Tiêu Sơn: nay thuộc
xă Tương Giang, huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc.
367 Chữ Lư nghĩa là cây
mận.
368 Tùy Long Binh: đội
quân hầu của vua.
369 Soát lại việc Lư Công
Uẩn phong tước ghi tại đây, ngờ toàn thư chép sót về người được
phong là Dực Thánh Vương. Đại Việt sử lược (q.2, tờ 2b) ghi vua
phong "cho anh làm Vũ Uy Vương, phong cho em làm Dực Thánh Vương".
Cương mục (CB2, 8a) không thấy dẫn Đại Việt sử lược, nhưng dẫn Nam
Thiên trung nghĩa lục (của Phạm Phi Kiến) nói Dực Thánh Vương là con
thứ của Lư Thái Tổ. Phối hợp cả Toàn thư ghi tại đây là Đại Việt sử
lược, ngờ Cương mục chú nhầm.
370 Phí Xa Lỗi: Đại Việt
sử lược (q.2, 2b) chép là Bùi Xa Lỗi.
Quyển II
Kỷ Nhà Lư
Thái Tổ Hoàng Đế
Họ Lư, tên húy là Công
Uẩn, người châu Cổ Pháp371 Bắc Giang, mẹ họ Phạm, đi chơi372 chùa
Tiêu Sơn373 cùng với người thần giao hợp rồi có chửa, sinh vua ngày
12 tháng 2 năm Giáp Tuất, niên hiệu Thái B́nh năm thứ 5 [974] thời
Đinh. Lớn lên làm quan nhà Lê, thăng đến chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ.
Khi Ngọa Triều băng, tự lập làm vua, đóng đô ở thành Thăng Long. Ở
ngôi 18 năm [1010-1028], thọ 55 tuổi [974-1028], băng ở điện Long
An, táng ở Thọ Lăng. Vua ứng mệnh trời, thuận ḷng người, nhân thời
mở vận, là người khoan thứ nhân từ, tinh tế ḥa nhă, có lượng đế
vương. Song chưa làm sáng chính học, lại ưa thích dị đoan, bị lụy về
chuyện đó.
Vua sinh ra mới 3 tuổi,
mẹ ẵm đến nhà Lư Khánh Văn. Khánh Văn bèn nhận làm con nuôi. Bé đă
thông minh, vẻ người tuấn tú khác thường. Lúc c̣n nhỏ đi học, nhà sư
ở chùa Lục Tổ374 là Vạn Hạnh thấy, khen rằng: "Đứa bé này [1b] không
phải người thường, sau này lớn lên ắt có thể giải nguy gỡ rối, làm
bậc minh chủ trong thiên hạ". Lớn lên, không chăm việc sản nghiệp,
chỉ học kinh sử qua loa, khảng khái có chí lớn. Trong đời Ứng Thiên,
xuất thân thờ Lê Trung Tông [1005]. Đại Hành băng, Trung Tông bị
giết, vua ôm xác mà khóc, Ngọa Triều khen là người trung, cho làm Tứ
sương quân375 phó chỉ huy sứ, thăng đến chức Tả thân vệ điện tiền
chỉ huy sứ. Đến khi Ngọa Triều băng, bèn lên ngôi hoàng đế, đổi niên
hiệu là Thuận Thiên, đại xá thiên hạ.
Trước ở viện Cảm Tuyển
chùa Ứng Thiên Tâm376 , châu Cổ Pháp có con chó đẻ con sắc trắng có
đốm lông đen thành h́nh hai chữ "Thiên tử". Kẻ thức giả nói đó là
điềm năm Tuất sinh người làm thiên tử. Đến nay, vua sinh năm Giáp
Tuất lên làm thiên tử, quả là [2a] ứng nghiệm.
Canh Tuất, Thuận Thiên
năm thứ 1 [1010] , (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ 3). Mùa xuân,
tháng 2 xa giá, về châu Cổ Pháp, ban tiền lụa cho các bô lăo trong
làng theo thứ bậc khác nhau.
Sai Viên ngoại lang Lương
Nhậm Văn và Lê Tái Nghiêm sang nước Tống để kết hảo.
Vua thấy thành Hoa Lư ẩm
thấp chật hẹp, không đủ làm chỗ ở của đế vương, muốn dời đi nơi
khác, tự tay viết chiếu truyền rằng: "Ngày xưa, nhà Thương đến đời
Bàn canh năm lần dời đô, nhà Chu
đến Thành Vương ba lần
dời đô, há phải các vua thời Tam đại ấy theo ư riêng tự dời đô xằng
bậy đâu. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế
cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ư dân, nếu
có chỗ tiện th́ dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu
thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ư riêng, coi thường mệnh
trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi
đây, đến nỗi thế đại [2b] không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn
hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương377 , ở giữa khu vực trời
đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện
nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế
đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật
hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa,
thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô
kinh sư măi muôn đời. Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các
khanh nghĩ thế nào?"
Bề tôi đều nói: "Bệ hạ v́
thiên hạ lập kế dài lâu, trên cho nghiệp đế được thịnh vượng lớn
lao, dưới cho dân chúng được đông đúc giàu có, điều lợi như thế, ai
dám không theo". Vua cả mừng.
Mùa thu, tháng 7, vua
[3a] từ thành Hoa Lư, dời đô ra kinh phủ ở thành Đại La, tạm đỗ
thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi
tên thành gọi là thành Thăng Long. Đổi châu Cổ Pháp gọi là phủ Thiên
Đức, thành Hoa Lư gọi là phủ Trường Yên, sông Bắc Giang gọi là sông
Thiên Đức378 . Xuống chiếu phát tiền kho 2 vạn quan, thuê thợ làm
chùa ở phủ Thiên Đức, tất cả 8 sở, đều dựng bia ghi công. Lơi xây
dựng các cung điện trong kinh thành Thăng Long, phía trước dựng điện
Càn Nguyên làm chỗ coi chầu, bên tả làm điện Tập Hiền, bên hữu dựng
điện Giảng Vơ. Lại mở cửa Phi Long thông với cung Nghêng Xuân, cửa
Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn, hướng chính nam dựng điện Cao
Minh, đều có379 thềm rồng, trong thềm rồng có hành lang dẫn ra xung
quanh bốn phía. Sau điện Càn Nguyên dựng hai điện Long An, Long Thụy
làm nơi vua nghỉ. Bên tả xây điện Nhật Quang, bên hữu xây điện
Nguyệt Minh, phía sau [3b] dựng hai cung Thúy Hoa, Long Thụy làm chỗ
ở cho cung nữ. Dựng kho tàng, đắp thành, đào hào. Bốn mặt thành mở
bốn cửa: phía đông gọi là cửa Tường Phù, phía tây gọi là cửa Quảng
Phúc, phía nam gọi là cửa Đại Hưng, phía bắc gọi là cửa Diệu Đức.
Lại ở trong thành làm chùa ngự Hưng Thiên và tinh lâu380 Ngũ Phượng.
Ngoài thành về phía nam dựng chùa Thắng Nghiêm.
Lê Văn Hưu nói: Lư Thái
Tổ lên ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xă tắc chưa lập
mà trước đă dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở
các lộ và độ cho làm tăng hơn ngh́n người ở Kinh sư, thế th́ tiêu
phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể. Của
không phải là trời mưa xuống, sức không phải là thần làm thay, há
chẳng phải là vét màu mỡ của dân ư? Vét máu mỡ của dân có thể gọi là
làm việc phúc chăng? Bậc vua sáng nghiệp, tự ḿnh [4a] cần kiệm, c̣n
lo cho con cháu xa xỉ lười biếng, thế mà Thái Tổ để phép lại như
thế, chả trách đời sau xây tháp cao ngất trời, dựng cột chùa đá,
điện thờ Phật, lộng lẫy hơn cung vua. Rồi người dưới bắt chước, có
kẻ hủy thân thể, đổi lối mặc, bỏ sản nghiệp, trốn thân thích, dân
chúng quá nửa làm sư săi, trong nước chỗ nào cũng chùa chiền, nguồn
gốc há chẳng phải từ đấy?
Xuống chiếu truyền cho
những kẻ trốn tránh phải về quê cũ. Lại hạ lệnh cho các hương ấp,
nơi nào có chùa quán đă đổ nát đều phải sửa chữa lại.
Mùa đông, tháng 12, cung
Thúy Hoa làm xong, làm lễ khánh thành, đại xá các thuế khóa cho
thiên hạ trong 3 năm, những người mồ côi, góa chồng, già yếu, thiếu
thuế lâu năm đều tha cho cả.
Cắp áo quần, lương thực,
thuốc men cho 28 người lính man bị Ngọa Triều bắt, [4b] sai người
đưa về quê cũ. Tha cho người ở vùng Nam Giới, huyện Thạch Hà thuộc
châu Hoan được trở về bản huyện.
Nhà Tống phong vua làm
Giao Chỉ Quận Vương lĩnh Tĩnh Hải quân tiết độ sứ.
Đổi 10 đạo làm 24 lộ,
châu Hoan, châu Ái làm trại. Năm ấy độ381 dân làm sư. Phát bạc ở kho
1.680 lạng để đúc chuông lớn, treo ở chùa Đại Giáo.
Tân Hợi, [Thuận Thiên]
năm thứ 2 [1011] , (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ 4). Mùa xuân,
tháng giêng, đặt quân tả hữu túc xa382 , [mỗi đội] đều 500 người.
Tháng hai, vua thấy giặc Cử Long ở Ái Châu hung hăng dữ tợn, trải
hai triều Đinh, Lê không đánh nổi, đến nay càng dữ, mới đem sáu quân
đi đánh, đốt bộ lạc, bắt kẻ đầu sỏ đem về, giặc ấy bèn tan.
Mùa hạ, tháng 4, sai viên
ngoại lang là Lư Nhân Nghĩa và Đào Khánh Văn sang thăm nước Tống để
đáp lễ. Khánh Văn trốn ở lại nước Tống, người Tống bắt trả lại cho
ta, [5a] đánh trượng chết.
Nước Chiêm Thành dâng sư
tử.
Năm ấy, ở trong thành bên
tả dựng cung Đại Thanh, bên hữu dựng chùa Vạn Tuế, làm kho Trấn
Phúc. Ngoài thành dựng chùa Tứ Đại Thiên Vương và các chùa Cẩm Y383
, Long Hưng, Thánh Thọ. Dựng điện Hàm Quang ở bến sông Lô384 .
Nhâm Tư, [Thuận Thiên]
năm thứ 3 [1012] , (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ 5).
Mùa hạ,
tháng 4, sửa chữa hai điện Long An, Long Thụy.
Sách
phong Hoàng thái tử Phật Mă làm Khai Thiên Vương, làm cung Long Đức
ở ngoài thành cho ở, ư muốn thái tử hiểu biết mọi việc của dân.
Mùa thu,
tháng 7, vua ngự ở điện Hàm Quang xem đua thuyền.
Mùa đông,
tháng 10, sai Thái bảo Đào Thạc Phụ và Viên ngoại lang Ngô Nhưỡng
sang nước Tống để kết hảo.
Tháng 12,
trên tảng đá lớn ở ngọn núi phía đông nam có vết chân thần dài rộng
đều 3 thước, sâu 1 tấc (không biết rơ núi nào).
Nước Chân
Lạp đến cống.
Vua thân
đi đánh [5b] Diễn Châu. Khi về đến Vũng Biện385 gặp lúc trời đất tối
sầm, gió sấm dữ dội, vua đốt hương khấn trời rằng: "Tôi là người ít
đức, lạm ở trên dân, nơm nớp lo sợ như sắp sa xuống vực sâu, không
dám cậy binh uy mà đi đánh dẹp càn bậy. Chỉ v́ người Diễn Châu không
theo giáo hóa, ngu bạo làm càn, tàn ngược chúng dân, tội ác chồng
chất, đến nay không thể dung tha không đánh. C̣n như trong khi đánh
nhau, hoặc giết oan kẻ trung hiếu, hoặc hại lầm kẻ hiền lương, đến
nỗi hoàng thiên nổi giận phải tỏ cho biết lỗi lầm, dẫu gặp tổn hại
cũng không dám oán trách. Đến như sáu quân th́ tội lỗi có thể dung
thứ, xin ḷng trời soi xét". Khấn xong, gió sấm đều yên lặng.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Vua Thang gặp tai nạn hạn hán, lấy sáu việc tự
trách ḿnh mà mưa xuống ngay. Nay vua gặp nạn gió sấm, lấy việc đánh
dẹp tự trách ḿnh
mà gió
băo ngừng ngay. [6a]. Trời và người cảm ứng nhau rất nhỏ nhạy, ảnh
hưởng rất chóng, ai bảo là trong chỗ tối tăm mặt trời không soi đến
ta mà dám dối trời chăng?
Trong tàu
ngựa nhà vua, có con ngựa trắng, phàm khi vua sắp đi th́ nó tất hí
lên trước. Vua đặt cho tên là Bạch Long thần mă.
Năm ấy
người Man386 sang quá cột đồng, đến bến Kim Hoa387 và châu Vị
Long388 để buôn bán. Vua sai người bắt được người Man và hơn 1 vạn
con ngựa.
Quư Sửu,
[Thuận Thiên] năm thứ 4 [1013] , (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ
6). Mùa xuân, tháng 2, định các lệ thuế trong nước: 1 - Ao hồ ruộng
đất, 2 - Tiền và thóc về băi dâu, 3 - Sản vật ở núi nguồn các phiên
trấn, 4 - Các quan ải xét hỏi về mắm muối, 5 -Sừng tê, ngà voi,
hương liệu của người Man Lăo, 6 - Các thứ gỗ và hoa quả ở đầu nguồn.
Mùa hạ,
tháng 6, phong Hoàng tử Bồ làm Khai Quốc Vương, ở phủ Trường Yên.
Mùa thu,
tháng 7, [6b] vua ngự điện Hàm Quang xem đua thuyền.
Mùa đông,
tháng 10, châu Vị Long làm phản, hùa theo người Man [Nam Chiếu]. Vua
thân đi đánh. Thủ lĩnh là Hà Án Tuấn389 sợ, đem đồ đảng trốn vào
rừng núi.
Cho các
vương hầu công chúa được quản các thuế theo thứ bậc khác nhau.
Giáp Dần,
[Thuận Thiên] năm thứ 5 [1014] , (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ
7). Mùa xuân, tháng giêng, tướng của người Man là Dương Trường Huệ
và Đoàn Kính Chí đem 20 vạn người Man vào cướp, đóng đồn ở bến Kim
Hoa, dàn quân đóng trại gọi là trại Ngũ Hoa. Châu mục châu B́nh
Lâm390 là Hoàng Ân Vinh đem việc tâu lên. Vua sai Dực Thánh Vương391
đem quân đi đánh, chém đầu kể hàng vạn, bắt sống được quân lính và
ngựa không kể xiết. Xuống chiếu cho viên ngoại lang là Phùng Chân và
Lư Thạc đem một trăm con ngựa bắt được của người Man sang biếu nhà
Tống. Vua Tống xuống chiếu cho quan sở tại sai sứ thần đón tiếp,
cùng đi đến cửa khuyết, mọi khoản cung đốn dọc đường đều được chu
cấp đầy đủ. Khi đến, vua Tống gọi [7a] bọn Chân vào ra mắt ở điện
Sùng Đức, ban cho mũ, đai, đồ dùng, tiền bạc theo thứ bậc khác nhau.
Mùa hạ,
tháng 4, châu Hoan dâng kỳ lân.
Tháng 5,
Hữu nhai tăng thống là Thẩm Văn Uyển tâu xin lập đàn chay ở chùa Vạn
Tuế để cho tăng đồ thụ giới. Vua chuẩn tâu.
Mùa thu,
tháng 9, xuống chiếu phát 310 lạng vàng trong kho để đúc chuông treo
ở chùa Hưng Thiên.
Nước Chân
Lạp sang cống.
Mùa đông,
tháng 10, xuống chiếu phát trăm lạng bạc trong kho để đúc hai quả
chuông treo ở chùa Thắng Nghiêm và tinh lâu Ngũ Phượng. Đắp thành
đất ở bốn mặt kinh Thăng Long. Đổi phủ Ứng Thiên392 làm Nam Kinh.
Ất Măo,
[Thuận Thiên] năm thứ 6 [1015] , (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ
8). Mùa xuân, tháng giêng, cho Trịnh Văn Tú làm Thiếu sư.
Đào Cam
Mộc chết, tặng Thái sư á vương.
Tháng 2,
sư chùa Tề Thánh huyện Thái B́nh dâng ḥm quư đựng xá lị.
Xuống
chiếu cho Dực Thánh Vương và Vũ Đức Vương đi đánh các châu Đô Kim393
, Vị Long394 , Thường [7b] Tân395 , B́nh Nguyên396 , bắt được thủ
lĩnh là Hà Án Tuấn đem về kinh sư chém đầu bêu ở chợ Đông.
Bính
Th́n, [Thuận Thiên] năm thứ 7 [1016] , (Tống Đại Trung Tường Phù năm
thứ 9). Mùa xuân, tháng 3, lại lập 3 hoàng hậu: Tá Quốc hoàng hậu,
Lập Nguyên hoàng hậu, Lập Giáo hoàng hậu397 , Độ cho hơn ngh́n người
ở kinh sư làm tăng đạo. Dựng hai chùa Thiên Quang, Thiên Đức và tô
bốn pho tượng Thiên Đế.
Động đất.
Làm lễ tế vong các danh sơn. (Vua nhân đi xem núi sông, đến bến đ̣
Cổ Sở398 , thấy khí tốt của núi sông, tâm thần cảm động, bèn làm lễ
rưới rượu xuống đất, khấn rằng: "Trẫm xem địa phương này, núi lạ
sông đẹp, nếu có nhân kiệt địa linh th́ hưởng lễ". Đêm ấy, vua chiêm
bao thấy có dị nhân đến cúi đầu lạy hai lạy, nói: "Thần là người
làng này, họ Lư tên Phục man, làm tướng giúp Nam Đế, có tiếng là
người trung liệt, được giao trông coi hai dải sông núi Đỗ Động và
Đường Lâm, bọn Di Lăo không dám xâm phạm biên giới, một phương yên
b́nh. Đến khi chết, thượng đế khen là trung trực, sắc cho giữ chức
như cũ. Cho nên phàm giặc Man Di đến cướp đều chống giữ được cả. Nay
may được bệ hạ thương đến, biết cho thần giữ chức này đă lâu rồi".
Rồi đó thung dung nói: " Thiên hạ khi mờ tối, trung thần giấu tính
danh, giữa trời nhật nguyệt sáng, ai chẳng thấy dáng h́nh"399 . Vua
thức dậy nói việc ấy với Ngự sử đại phu Lương Nhậm Văn rằng: " Đó là
ư thần muốn tạc tượng". Vua sai bói xin âm dương, quả nhiên đúng như
thế. Bèn sai người trong châu [8a] lập đền đắp tượng đúng như h́nh
dạng người trong chiêm bao, tuế thời cúng tế. Khoảng niên hiệu
Nguyên Phong [1251-1258] đời Trần, người Thát Đát400 vào cướp, đi
đến địa phương này, ngựa khuỵu chân không đi được, người trong thôn
dẫn dân chúng ra chống đánh, chém được đầu giặc, giặc chạy tan.
Khoảng năm Trùng Hưng [1285-1293], [Thát Đát] lại vào cướp, đến đâu
cũng đốt phá, mà ấp ấy vẫn như được che chở, không bị xâm phạm mảy
may, quả đúng như lời thần nói).
Nhà Tống
phong vua làm Nam B́nh Vương.
Năm ấy
được mùa to, 30 bó lúa giá 70 tiền. Cho thiên hạ 3 năm không phải
nộp tô thuế.
Đinh Tỵ,
[Thuận Thiên] năm thứ 8 [1017] , (Tống Thiên Hy năm thứ 1). Mùa
xuân, tháng 3, cho Trần Văn Tú làm Thái phó401 .
Xuống
chiếu xá tô ruộng cho thiên hạ.
Điện Càn
Nguyên bị sét đánh, vua coi chầu ở điện phía đông402 .
Mậu Ngọ,
[Thuận Thiên] năm thứ 9 [1018] , (Tống Thiên Hy năm thứ 2). Mùa
xuân, tháng 2, truy phong bà nội làm hậu và đặt tên thụy.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Vua đến đây mới truy phong cho bà nội, đó là lỗi
chậm trễ.
[8b] Mùa
hạ, tháng 6, sai Viên ngoại lang là Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc403
sang nước Tống xin kinh Tam Tạng .
Mùa đông,
tháng 10, phong Hoàng tử Lực làm Đông Chinh Vương.
Xá một
nửa tô ruộng cho thiên hạ.
Kỷ Mùi,
[Thuận Thiên] năm thứ 10 [1019] , (Tống Thiên Hy năm thứ 3). Mùa
xuân, tháng giêng, dựng Thái Miếu ở lăng Thiên Đức404 . Xuống chiếu
độ dân trong nước làm tăng.
Canh
Thân, [Thuận Thiên năm thứ 11 [1020] , (Tống Thiên Hy năm thứ 4).
Mùa hạ, tháng 4, nước Chân Lạp đến cống.
Mùa thu,
tháng 9, Nguyễn Đạo Thanh đi sứ về, xin được kinh Tam Tạng ; xuống
chiếu cho Tăng thống là Phí Trí sang Quảng Châu đón.
Mùa đông,
tháng 12, sai Khai Thiên Vương [Phật Mă] và Đào Thạc Phụ đem quân đi
đánh Chiêm Thành ở trại Bố Chính405 , thẳng đến núi Long Tỵ406 ,
chém được tướng của chúng là Bố Linh tại trận, người Chiêm [9a] chết
đến quá nửa.
Năm ấy
điện phía đông bị sét đánh, vua coi chầu ở điện phía tây407 . Dựng
ba điện: điện phía trước để coi chầu, hai điện phía sau để nghe
chính sự.
Tân Dậu,
[Thuận Thiên] năm thứ 12 [1021] , (Tống Thiên Hy năm thứ 5). Mùa
xuân, tháng 2, lấy ngày sinh nhật của vua làm tiết Thiên Thành, lấy
tre kết làm một ngọn núi gọi là Vạn Thọ Nam Sơn ở ngoài cửa Quảng
Phúc, trên núi làm nhiều h́nh chim bay thú chạy, muôn vẻ lạ kỳ. Lại
sai người bắt chước tiếng của cầm thú làm vui để ban yến cho bề tôi.
Sai bọn
Viên ngoại lang Nguyễn Khoan Thái và Nguyễn Thủ Cương sang nhà Tống.
Làm nhà
Bát giác chứa kinh.
Nhâm
Tuất, [Thuận Thiên] năm thứ 13 [1022] , (Tống Cao Hưng năm thứ 1).
Mùa xuân, tháng 2, vua thấy tiết Thiên Thành làm núi giả khó nhọc
cho dân, băi đi, chỉ đặt yến lễ mà thôi.
Xuống
chiếu cho Dực Thánh Vương đi đánh Đại Nguyên Lịch. Quân ta [9b] đi
sâu vào trại Như Hồng401 trong đất Tống, đốt kho đụn ở đó rồi về
(Xét: Trại Như Hồng nước Tống giáp với trấn Triều
Dương409
nước ta. Đại Nguyên Lịch là một giống người Di ở vào khoảng giữa hai
vùng đất ấy. Về sau, Nùng Trí Cao làm phản, chiếm châu Thảng Do410 ,
gọi nước là Đại Lịch, ngờ là chỗ này).
Quư Hợi,
[Thuận Thiên] năm thứ 14 [1023] , (Tống Nhân Tông, húy Trinh, Thiên
Thánh năm thứ 1). Mùa thu, tháng 9, xuống chiếu chép kinh Tam tạng
để ở kho Đại Hưng, đổi trấn Triều Dương làm châu Vĩnh An.
Giáp Tư,
[Thuận Thiên] năm thứ 15 [1024] , (Tống Thiên Thánh năm thứ 2). Mùa
xuân, xuống chiếu cho Khai Thiên Vương [Phật Mă] đi đánh Phong Châu,
Khai Quốc Vương [Bồ] đi đánh châu Đô Kim.
Sửa chữa
kinh thành Thăng Long.
Mùa thu,
tháng 9, làm chùa Chân Giáo ở trong thành để vua tiện ngự xem tụng
kinh.
Ất Sửu,
[Thuận Thiên] năm thứ 16 [1026] , (Tống Thiên Thánh năm thứ 3). Mùa
xuân, tháng 2, nước Chân Lạp sang cống.
Xuống
chiếu lập trại Định Phiên411 ở địa giới phía nam châu Hoan, cho quân
giáp Lư Thai Giai làm chủ.
Mùa thu,
[10a] tháng 8, định binh làm giáp, mỗi giáp 15 người, dùng một người
quản giáp. Lại định các cấp bậc quản giáp (khi ấy có con hát là Đào
thị, giỏi nghề hát, thường được ban thưởng. Người thời bấy giờ hâm
mộ tiếng hát của Đào thị, phàm các con hát đều gọi là Đào nương).
Sư Vạn
Hạnh chết (Vạn Hạnh không bệnh mà mất, người bấy giờ nói là hóa
thân).
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Sư Vạn Hạnh mới trông thấy Lư Thái Tổ, biết là
người khác thường, đến khi thấy sét đánh thành vết chữ th́ đoán biết
thời thế thay đổi, như thế là có tri thức vượt người thường vậy.
Nhưng dứt tính mệnh, bỏ nhân luân, chán trần tục ồn ào, nương cửa
thiền tịch mịch, để trong sạch lấy một ḿnh, người quân tử không cho
là phải.
Bính Dần,
[Thuận Thiên] năm thứ 17 [1026] , (Tống Thiên Thánh năm thứ 4). Mùa
xuân, tháng giêng, xuống chiếu làm Ngọc điệp.
Mùa thu,
tháng 8, [10b] sai Lư Trưng Hiển và Lê Tái Nghiêm sang nước Tống kết
hảo.
Mùa đông,
tháng 11, nước Chân Lạp sang cống.
Xuống
chiếu cho Khai Thiên Vương đi đánh giặc ở Diễn Châu.
Đinh Măo,
[Thuận Thiên] năm thứ 18 [1027] , (Tống Thiên Thánh năm thứ 5). Mùa
hạ, tháng 6, đại hạn.
Mùa thu,
tháng 8, xuống chiếu chép kinh Tam tạng. Xuống chiếu cho Khai Thiên
Vương [Phật Mă] đi đánh châu Thất Nguyên412 , Đông Chinh Vương [Lực]
đi đánh Văn Châu413 .
Mậu Th́n,
[Thuận Thiên] năm thứ 19 [1028] , (Từ tháng 3 về sau là niên hiệu Lư
Thái Tông, Thiên Thành năm thứ 1; Tống Thiên Thánh năm thứ 6).
Mùa xuân,
tháng 2, vua không khỏe. Tháng 3, ngày mồng 1 Bính Thân, nhật thực.
Ngày Mậu Tuất, vua băng ở điện Long An. Bề tôi đều đến cung Long Đức
xin thái tử vâng di chiếu lên ngôi. Ba vương là Đông Chinh [Lực],
Dực Thánh và Vũ Đức414 nghe tin đều đem quân ở phủ ḿnh vào phục sẵn
trong cấm thành. Đông Chinh Vương phục ở trong Long Thành, hai vương
Dực Thánh và Vũ Đức phục trong cửa Quảng Phúc, đợi thái tử đến th́
đánh úp. [11a]. Một lát sau, thái tử từ cửa Tường Phù vào, đến điện
Càn Nguyên, biết có biến, sai người hầu đóng hết các cửa điện và sai
các vệ sĩ trong cung pḥng giữ, nhân bảo tả hữu rằng: "Ta đối với
anh em không phụ bạc chút nào. Nay ba vương làm việc bất nghĩa, quên
di mệnh của Tiên đế, mưu chiếm ngôi báu, các khanh nghĩ thế nào?"
Nội thị là Lư Nhân Nghĩa nói: "Anh em với nhau, bên trong có thể
hiệp sứ bàn mưu, bên ngoài có thể cùng nhau chống giặc. Nay ba vương
làm phản, th́ là anh em hay là kẻ thù? Xin cho bọn thần đánh một
trận để quyết được thua". Thái tử nói: "Ta lấy làm xấu hổ là Tiên đế
mới mất chưa quàn mà cốt nhục đă giết nhau, há chẳng để cho muôn đời
chê cười sao?" Nhân Nghĩa nói: "Thần nghe rằng muốn mưa xa th́ phải
quên công gần, giữ đạo công th́ phải dứt t́nh riêng, đó là việc
Đường Thái Tông và Chu Công Đán bất đắc dĩ phải làm415 . Nay điện hạ
có cho Đường Thái và Chu Công là chăm [11b] mưu xa, giữ đạo công
chăng? Hay là tham công gần, đắm t́nh riêng chăng? Điện hạ biết theo
dấu cũ của Đường Thái, Chu Công th́ đời sau ca tụng công đức c̣n
chưa rỗi, c̣n rỗi đâu mà chê cười!". Nhân Nghĩa lại nói: "Tiên đế
cho điện hạ là người hiền, đủ để nối được chí, tài đủ để làm nổi
việc, nên đem thiên hạ phó thác cho điện hạ. Nay giặc đến vây bức
cửa cung mà ẩn nhẫn như thế, th́ đối với sự phó thác của Tiên đế ra
sao?" Thái tử im lặng hồi lâu rồi bảo Nhân Nghĩa và bề tôi trong
cung là bọn Dương B́nh, Quách Thịch, Lư Huyền Sư, Lê Phụng Hiểu
rằng: "Ta há lại không biết việc làm của Đường Thái, Chu Công hay
sao? Chỉ v́ ta muốn che giấu tội ác của ba vương, khiến họ tự ư rút
quân chịu tội để được vẹn toàn t́nh cốt nhục là hơn".
Khi ấy
phủ binh của ba vương vây bức càng gấp, Thái tử liệu không thể ngăn
được, nói: "Thế đă như vậy, ta c̣n mặt mũi nào trông thấy ba vương
nữa. Ta chỉ biết làm lễ thành [12a] phục đứng hầu Tiên đế, ngoài ra
đều ủy cho các khanh cả". Bọn Nhân Nghĩa đều lạy hai lạy nói: "Chết
v́ vua gặp nạn là chức phận của bọn thần. Nay đă được chỗ đáng chết,
c̣n từ chối ǵ nữa!" Bèn ra lệnh cho vệ sĩ trong cung mở cửa ra
đánh, ai cũng vui ḷng xông pha, đều là một người địch với trăm
người. Quân đánh nhau chưa phân được thua, Phụng Hiểu tức giận rút
gươm chạy thẳng đến cửa Quảng Phúc hô to rằng: "Bọn Vũ Đức Vương
ngắp nghé ngôi báu, không coi vua nối vào đâu, trên quên ơn Tiên đế,
dưới trái nghĩa tôi con, v́ thế thần là Phụng Hiểu xin đem thanh
gươm này để dâng". Rồi xông thẳng đến chỗ ngựa của Vũ Đức Vương.
Vương quay ngựa tránh, ngựa quỵ xuống, bị Phụng Hiểu bắt giết. Phủ
binh của ba vương thua chạy. Quan quân đuổi theo chém giết không sót
một mống, chỉ có hai vương Đông Chinh và Dực Thánh chạy thoát được.
Bọn Phụng
Hiểu trở về, mặc áo trận đi vào báo tin thắng trận ở trước linh cữu
Thái Tổ, rồi [12b] đến điện Càn Nguyên báo cho thái tử biết. Thái tử
úy lạo rằng: "Ta sở dĩ được gánh vác cơ nghiệp to lớn của tiên đế,
toàn vẹn được thân thể của cha mẹ để lại đều là nhờ sức của các
khanh cả. Ta thường xem sử nhà Đường thấy Uất Tŕ Kính Đức giúp nạn
vua, tự nghĩ là bề tôi đời sau không ai sánh được. Ngày nay gặp
biến, mới biết Phụng Hiểu c̣n trung dũng hơn Kính Đức nhiều". Phụng
Hiểu lạy tạ hai lạy nói: "Đức của điện hạ cảm động cả trời đất, kẻ
nào manh tâm mưu đồ ǵ khác th́ trời đất thần linh đều làm hết chức
phận mà giết đi, bọn thần có công sức ǵ!" (Phụng Hiểu người hương
Băng Sơn416 ở Ái Châu, từ khi c̣n nhỏ đă có sức vóc hùng dũng. Hai
thôn Cổ Bi và Đàm Xá tranh nhau địa giới, toan đánh nhau, Phụng Hiểu
bảo người thôn Cổ Bi rằng: "Một ḿnh tôi có thể đánh được bọn họ".
Các phụ lăo mừng lắm, làm cơm rượu để thết. Phụng Hiểu ăn một bữa
mấy đấu gạo, uống cũng quá mức, rồi đến khiêu chiến với thôn Đàm Xá.
Phụng Hiểu cứ đứng thẳng lưng nhổ cây mà đánh tới tấp, nhiều người
bị thương. Thôn Đàm Xá sợ, phải trả lại ruộng cho thôn Cổ Bi. Thái
Tổ nghe danh, dùng làm tướng, thăng đến chức Vũ vệ tướng quân. Đên
đây có công dẹp nạn, thăng Đô thống thượng tướng quân, tước hầu.
Trong khoảng
niên hiệu
Thiên Cảm Thánh Vũ [1044 -1048] theo Thái Tông đi đánh ở miền nam,
làm tiên phong, phá tan quân giặc, danh tiếng rung động nước Phiên.
[13a]. Khi thắng trận trở về định công, Phụng Hiểu nói: "Thần không
muốn thưởng tước, xin cho đứng trên núi Băng Sơn ném đao lớn đi xa,
đao rơi xuống chỗ nào trong đất công417 th́ xin ban cho làm sản
nghiệp. Vua nghe theo. Phụng Hiểu lên núi, ném đao xa hơn đến ngh́n
dặm, đao rơi xuống hương Đa Mi. Vua bèn lấy số ruộng ấy ban cho, tha
thóc thuế cho ruộng ném đao ấy. V́ vậy người Châu Ái gọi [ruộng]
thưởng công là [ruộng] ném đao).
Lê Văn
Hưu nói: Nhà Lư phong cho các con mẹ đích đều làm vương, các con mẹ
thứ đều làm hoàng tử mà không đặt ngôi hoàng thái tử. Đến khi nào
vua ốm nặng mới chọn một người trong các con cho vào để nối nghiệp
lớn. Truyền dần thành tục, không biết là ư thế nào. Có người nói:
"Nhà Lư không đặt thái tử trước là v́ muốn cho các con chăm làm điều
thiện. Nếu lập ngôi thái tử th́ phận vua tôi đă định dù có con hiền
như Vi Tử418 cũng không biết xử trí thế nào. Đáp rằng: Gốc thiên hạ
đă định rồi mà c̣n có cái họa như Dương Quảng làm ra vẻ có đức
hạnh419 để cướp ngôi đích, huống chi ngôi thái tử không lập trước,
đến khi vội vàng mới chọn lập, không may có việc như ba phu [13b]
nhân nài xin lập con khác, Từ Văn Thông mua bút sửa di chiếu420 th́
dù muốn không bằng ḷng cũng chẳng được nữa. Người có nước nhà nên
lấy đó làm răn.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Cùng ḷng, cùng đức, tất sự nghiệp có thể thành. Có
vua, có tôi, gian hiểm nào cũng vượt được. Thái Tông đương lúc đau
xót, biến loạn sinh ngay kẽ nách mà vua tôi xử trí găy gọn phải lẽ,
vượt được hiểm nạn, làm nên sự nghiệp, tông miếu nhờ đó được vững
yên. Không phải là vuà tôi gặp gỡ cùng đức cùng ḷng mà được như thế
ư? Xem sử chép th́ t́nh cảm chân thành của Thái Tông phát ra ở câu
nói "cốt nhục giết nhau", ḷng trung phẫn khích của Nhân Nghĩa tỏ ở
chỗ dẫn việc Đường Thái, Chu Công, ḷng nghĩa dũng hăng hái của
Phụng Hiểu lộ ra ở lúc nhảy ngựa dâng gươm. Đến khi xong việc, vua
[14a] tôi không một chút khoe khoang, cố nhiên là không có ǵ đáng
chê. C̣n như việc chưa qua năm đă đổi niên hiệu th́ không thể không
bàn đến được. Theo phép kinh Xuân thu th́ khi vua cũ mất, vua nối
lên ngôi ngay khi bắt đầu phát tang, qua năm ấy rồi mới đổi niên
hiệu. Chép việc lên ngôi, theo nghĩa trước sau th́ một năm không thể
có hai vua được, theo ḷng thần dân th́ không thể bỏ trống một năm
không có vua. Đó là lễ vậy. Thái Tông lại mạo nhận năm [ở ngôi] của
tiên đế mà đặt niên hiệu là thế nào? Phàm năm này sang năm khác theo
can chi là sự chuyển vận của trời. Người làm vua theo phép trời,
nhân sự vận hành của can chi mà chép năm ở ngôi lâu hay chóng, từ
xưa đă như thế. Vua [Thái Tông] tinh thông lễ nhạc thư số, lại không
xét việc ấy mà làm rối, để cho đời sau noi theo việc cũ, nối gót mà
làm, ấy là lỗi lớn vậy.
Ngày Kỷ
Hợi, Thái tử Phật Mă lên ngôi trước linh cữu. Tôn mẹ là Lê thị làm
Linh Hiển [14b] thái hậu. Đại xá thiên hạ. Đổi niên hiệu là Thiên
Thành năm thứ 1.
Ngày ấy,
hai vương Đông Chinh và Dực Thánh đến cửa khuyết xin chịu tội. Xuống
chiếu tha cho, lại cho tước như cũ.
Bầy tôi
dâng tôn hiệu là Khai Thiên Thống Vận Tôn Đơo Quư Đức Thánh Văn
Quảng Vũ Sùng Nhân Thượng Thiện Chính Lư Dân An Thần Phù Long Hiện
Thể Nguyên Ngự Cực Ức Tuế Công Cao Ứng Chân Bảo Lịch Thông Huyền Chí
Áo Hưng Long Đại Địch Thông Minh Từ Hiếu Hoàng Đế.
Vua nhận
việc mời lên ngôi, xuống chiếu cho lấy tiền lụa ở kho lớn ban cho
thiên hạ (ngày 15 Canh Thân).
Khai Quốc
Vương làm phản. Trước vương đóng ở phủ Trường Yên, cậy có núi sông
hiểm trở, tụ tập những kẻ trốn tránh, cướp bóc dân mọn, Thái Tổ
không hề hay biết, nuôi thành tội ác. Đến khi nghe Thái Tổ băng, Vũ
Đức Vương bị giết, ḷng càng bất b́nh, bèn đem phủ binh làm phản.
Phong
tước vương cho thần núi Đồng Cổ, dựng miếu để tuế thời cúng tế và
[15a] làm lễ thề. Trước đây, một hôm trước khi ba vương làm phản,
vua chiêm bao thấy một người tự xưng là thần núi Đồng Cổ nói với vua
về việc ba vương Vũ Đức, Đông Chinh, Dực Thánh làm loạn, phải mau
đem quân dẹp ngay. Tỉnh dậy liền sai pḥng bị, quả nhiên ứng nghiệm.
Đến đây xuống chiếu giao cho Hữu ty dựng miếu ở bên hữu thành Đại La
sau chùa Thánh Thọ, lấy ngày 25 tháng ấy, đắp đàn ở trong miếu, cắm
cờ xí, chỉnh đốn đội ngũ, treo gươm giáo ở trước thần vị, đọc lời
thề rằng: "Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, xin thần minh giết
chết". Các quan từ cửa đông đi vào, đến trước thần vị cùng uống máu
ăn thề, hàng năm lấy làm lệ thường. Sau v́ tháng 3 có ngày quốc kỵ,
chuyển sang mồng 4 tháng 4.
Mùa hạ,
tháng 4, vua thân đi đánh phủ Trường Yên, cho nội thị Lư Nhân Nghĩa
ở lại giữ Kinh sư. Ngày Nhâm Thân đến Trường Yên. Ngày ấy, Khai Quốc
Vương đầu hàng. Vua hạ lệnh rằng: "Ai cướp bóc của cải của [15b] dân
th́ chém". Quân sĩ nghiêm theo, không mảy may xâm phạm. Đại quân vào
thành Trường Yên, dân trong thành đem dâng biếu trâu rượu đứng đầy
đường. Vua sai sứ tuyên chỉ ủy lạo, cả thành vui to. Xuống chiếu dời
Khai Quốc Vương và các liêu thuộc của vương về kinh Thăng Long. Vua
từ phủ Trường Yên về, xuống chiếu tha tội cho Khai Quốc Vương, vẫn
cho tước như cũ.
Tháng 5,
ngày 6, có dấu vết của thần nhân hiện ra ở chùa Vạn Tuế. Bầy tôi
dâng lời nói: "Thái tử là gốc của thiên hạ, gốc đứng th́ thiên hạ
yên, xin bệ hạ sớm chọn con nối hiền lập ngôi Đông cung, để thỏa
ḷng mong của thiên hạ". Vua nghe theo, sách phong hoàng tử Nhật Tôn
làm Đông cung thái tử.
Lập bảy
hoàng hậu.
Tháng 11,
cho cha của Mai hoàng hậu là Hựu làm An quốc thượng tướng, cha của
Vương hoàng hậu là Đỗ làm Phụ quốc thượng tướng, cha của Đinh hoàng
hậu là Ngô Thượng làm Khuông quốc thượng tướng.
[16a] Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói: Thân thích của hoàng hậu được quư hiển, đời
trước cũng đă có. Tuy vậy, lấy thích thuộc cũng phải lấy người có
tài. Bọn Hựu quả là có tài chăng? Th́ không cứ là cha của hoàng hậu
là phải, trao tước phong là không phải. Hoặc có người nói: Đây là ân
sủng đặc biệt chỉ cho tước, chứ không cho quyền. Trả lời rằng: Tước
cũng đă cao rồi, sao lại có danh hiệu an quốc, phụ quốc, khuông quốc
thượng tướng quân mà lạm cho kẻ không có công lao!
Lấy Lương
Nhậm Văn làm Thái sư. Ngộ Thượng Đinh421 làm Thái phó, Đào Xử Trung
làm Thái bảo, Lư Đạo Kỷ làm Tả khu mật, Lư Triệt làm Thiếu sư, Xung
Tân làm Hữu khu mật, Lư Mật làm Tả tham tri chính sự, Kiểu Bồng làm
Hữu tham tri chính sự, Liêu Gia Trinh422 [16b] làm Trung thư thị
lang, Hà Viễn làm Tả gián nghị đại phu, Đỗ Sấm làm Hữu gián nghị đại
phu, Nguyễn Quang Lợi làm Thái úy, Đàm Toại Trang làm Đô thống, Vũ
Ba Tu làm Uy vệ thượng tướng, Nguyễn Khánh làm Định thắng đại tướng,
Đào Văn Lôi làm Tả phúc tâm, Lư Nhân Nghĩa làm Hữu phúc tâm, Phan
Đường Liệt làm Nội thị.
Đặt các
cấp bậc của tăng đạo.
Đặt 10 vệ
điện tiền cấm quân: 1. Quảng Thánh, 2. Quảng Vũ, 3. Ngự Long, 4.
Bổng Nhật, 5. Trừng Hải. Mỗi vệ đều chia ra tả hữu trực, đi quanh để
bảo vệ bên trong cấm thành, cộng là 10 vệ.
Tháng 6,
lấy ngày sinh của vua làm tiết Thiên Thánh. Lấy tre làm núi Vạn Tuế
Nam Sơn ở Long tŕ: kiểu núi làm thành năm ngọn, trên đỉnh ngọn ở
giữa dựng núi Trường Thọ, bên đỉnh bốn ngọn xung quanh đều đặt núi
Bạch Hạc, trên núi làm h́nh dạng các giống chim bay [17a] thú chạy,
lưng chừng núi có rồng thần cuốn quanh, cắm xen các thứ cờ, treo lẫn
vàng ngọc, sai con hát423 thổi sáo thổi kèn trong hang núi, dâng ca
tấu múa làm vui, cho các quan ăn yến. Quy chế núi năm ngọn bắt đầu
từ đấy.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Mừng ngày sinh là lễ lớn. Bề tôi chúc mừng vua, vua
ban yến cho bề tôi, vua tôi ḥa hợp để thông t́nh trên dưới, lễ vốn
nên như thế. Song vua đương để tang mà vui chơi hết mức, không nghĩ
đến việc tiên đế chưa chôn sao? Cái ḷng đau đớn thương xót, có lẽ
không c̣n ǵ.
Mùa đông,
tháng 10, táng [tiên đế] ở Thọ Lăng, phủ Thiên Đức, đặt thụy là Thần
Vũ Hoàng Đế, miếu hiệu là Thái Tổ.
[17b] Lê
Văn Hưu nói: Thời cổ, khi thiên tử đă băng, xây Lăng an táng linh
cữu, hoặc gọi là Mậu Lăng hoặc gọi là Xương Lăng; để văn chương ở
các, hoặc gọi là Hiển Mô, hoặc gọi là Bảo Văn. Nay nhà Lư, lăng các
đời chỉ gọi chung là Thọ Lăng, các gọi là Long Đồ, có lễ bấy giờ vua
không có học mà các nho thần cũng không biết sửa chữa hoặc không có
sức kê cứu việc cổ vậy.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Lư [Thái Tổ] dấy lên, trời mở điềm lành hiện ra ở
vết cây sét đánh. Có đức tất có ngôi, bởi ḷng người theo về, lại
vừa sau lúc Ngọa Triều hoang dâm bạo ngược mà vua th́ vốn có tiếng
khoan nhân, trời thường t́m chủ cho dân, dân theo về người có đức,
nếu bỏ vua th́ c̣n biết theo ai! Xem việc vua nhận mệnh sâu sắc lặng
lẽ, dời đô yên nước, ḷng nhân thương dân, ḷng thành cảm trời, cùng
là đánh dẹp phản loạn, Nam Bắc [18a] thông hiếu, thiên hạ b́nh yên,
truyền ngôi lâu đời, có thể thấy là có mưu lược của bậc đế vương.
Duy có việc ham thích đạo Phật, đạo Lăo là chỗ kém.
THÁI TÔNG
HOÀNG ĐẾ
Tên húy
là Phật Mă, một tên khác là Đức Chính, con trưởng của Thái Tổ. Mẹ là
hoàng hậu họ Lê, sinh vua vào ngày 26 tháng 6 năm Canh Tư, niên hiệu
Ứng Thiên năm thứ 7 [1000] thời Lê, ở phủ Trường Yên. Thái Tổ được
nhường ngôi, lập Đông cung thái tử. Khi Thái Tổ băng, nhờ có Phụng
Hiểu trung dũng, đồng ḷng cứu nạn, lên ngôi hoàng đế, ở ngôi 27 năm
[1028 - 1054], thọ 55 tuổi [1000 - 1054], băng ở điện Trường Xuân.
Vua là người trầm mặc, cơ trí, biết trước mọi việc, giống như Hán
Quang Vũ đánh đâu được đấy, công tích sánh với Đường Thái Tông.
Nhưng người quân tử c̣n lấy việc khoe khoang thái quá để chê trách
vua chưa hiền.
Khi vua
mới sinh, ở phủ Trường Yên có con trâu của nhà dân tự nhiên thay
sừng khác, người ấy cho là điềm không lành, lấy làm lo. Có người
giỏi chiêm nghiệm đi qua nhà ấy cười mà nói: "Đó là điềm đổi mới,
can dự ǵ đến nhà anh". Người ấy [18b] mới hết lo.
Vua có
bảy cái nốt ruồi sau gáy, như sao thất tinh424 . Khi c̣n nhỏ cùng
trẻ con chơi đùa, có thể sai bảo được chúng, bắt chúng đi dàn hầu
trước sau và hai bên như nghi vệ các quan theo hầu vua. Thái Tổ thấy
thế vui ḷng, nhân nói đùa rằng: "Con nhà tướng nên bắt chước việc
quân, cần ǵ phải kẻ rước người hầu?" Vua trả lời ngay rằng: "Kẻ
rước người hầu th́ có xa lạ ǵ với con nhà tướng? Nếu xa lạ th́
sao ngôi
vua không ở măi họ Đinh mà lại về họ Lê, đều do mệnh trời thôi".
Thái Tổ kinh lạ, từ đấy càng yêu quư hơn. Khi Thái Tổ nhận nhường
ngôi, lập làm Đông cung thái tử. Năm Thuận Thiên thứ 3 [1012], phong
làm Khai Thiên Vương, cho ra ở bên ngoài. Năm thứ 11 [1020] cho làm
Nguyên soái đi đánh Chiêm Thành có trại Bó Chính. Đại quân vượt
biển, đến núi Long Tỵ [19a] có rồng vàng hiện ở thuyền ngự, chỉ một
ḿnh vua đỡ lấy con rồng. Đến nơi, đánh tan quân Chiêm, bắt được
tướng đem về. Năm thứ 19 [1027], mùa xuân, tháng 3, ngày mồng 1 Bính
Thân, vua lấy áo ngự ban cho Trần Tuệ Long là đạo sĩ ở quán Nam Đế.
Đêm ấy có ánh sáng khắp trong quán. Tuệ Long kinh ngạc dậy xem th́
thấy rồng vàng hiện ở mắc áo. Các việc ấy đều là mệnh trời, đến đây
đều thấy phù hợp cả. Vua bẩm tính nhân từ, sáng suốt dĩnh ngộ, thông
hiểu đại lược văn vơ, c̣n như lục nghệ lễ nhạc, ngự xạ, thư số không
môn ǵ là không tinh thông am tường.
Kỷ Tỵ,
niên hiệu Thiên Thành năm thứ 2 [1029] , (Tống Thiên Thánh năm thứ
7). Mùa xuân, tháng 2, ngày Nhâm Ngọ, khánh thành miếu Thái Tổ.
Tháng 3,
ngày mồng 7, gả công chúa B́nh Dương cho châu mục châu Lạng425 là
Thân Thiệu Thái.
[19b]
Giáp Đản Năi426 ở châu Ái làm phản. Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1,
vua thân đi đánh giáp Đản Năi, cho Đông cung thái tử ở lại Kinh sư
làm Giám quốc. Khi đánh được giáp Đản Năi rồi, sai Trung sứ đốc suất
người Đản Năi đào kênh Đản Năi. Vua từ Đản Năi trở về Kinh sư.
Có dấu
người thần hiện ở chùa Thắng Nghiêm. Tháng 6, rồng hiện lên ở nền
điện Càn Nguyên. Vua nói với tả hữu rằng: "Trẫm phá điện ấy, sang
phẳng nền rồi mà rồng thần c̣n hiện. Có lẽ đó là đất tốt, đức lớn
hưng thịnh, ở chỗ chính giữa trời đất chăng?" Bèn sai Hữu ty mở rộng
quy mô, nhắm lại phương hướng mà làm lại, đổi tên là điện Thiên An.
Bên tả dựng điện Tuyên Đức, bên hữu dựng điện Diên Phúc, thềm trước
điện gọi là Long Tŕ (thềm rồng). Phía đông thềm rồng đặt điện Văn
Minh, phía tây đặt điện Quang Vũ, hai bên tả hữu thềm rồng đặt lầu
chuông đối nhau để dân chúng ai có việc kiện tụng oan uổng th́ đánh
chuông lên. Bốn xung quanh thềm rồng đều có hành lang để [20a] tụ
họp các quan và sáu quân túc vệ. Phía trước làm điện Phụng Thiên427
, trên điện dựng lầu Chính Dương làm nơi trông coi tính toán giờ
khắc, phía sau làm điện Trường Xuân, trên điện dựng gác Long Đồ làm
nơi nghỉ ngơi du ngoạn. Bên ngoài đắp một lần thành bao quanh gọi là
Long Thành.
Mùa thu,
tháng 8, châu Hoan dâng kỳ lân.
Mùa đông,
tháng 10, ngày mồng 1, trời mưa gạo trắng thành đống trước bậc thềm
chùa Vạn Tuế.
Năm ấy,
sứ nhà Tống là Chương Dĩnh sang làm lễ điếu tang. Lại sai sứ sang
phong vua làm Quận Vương.
Canh Ngọ,
[Thiên Thành] năm thứ 3, [1030] , (Tống Thiên Thánh năm thứ 8). Mùa
xuân, tháng 2, làm điện Thiên Khánh ở trước điện Trường Xuân để làm
chỗ nghe chính sự. Điện làm kiểu bát giác, trước sau đều bắc cầu
Phượng Hoàng.
Mùa hạ,
tháng 4, sai Đại liêu ban428 Lê Ốc Thuyên và Viên ngoại lang Nguyễn
Viết Thân sang nhà Tống [20b] để đáp lễ.
Định kiểu
mũ áo của các công hầu văn vơ.
Mùa đông,
tháng 10, được mùa to. Ngày 14, vua thân ra ruộng ở Điểu Lộ429 xem
gặt, nhân đổi tên cánh ruộng ấy gọi là ruộng Vĩnh Hưng. Ngày ấy, trở
về cung.
Tân Mùi,
[Thiên Thành] năm thứ 4 [1031] , (Tống Thiên Thánh năm thứ 9). Mùa
xuân, tháng giêng, châu Hoan làm phản.
Tháng 2,
ngày mồng 1, vua thân đi đánh châu Hoan, cho Đông cung thái tử làm
Giám quốc. Quân đi từ Kinh sư đến châu Hoan, người châu ấy đầu hàng.
Xuống chiếu tha tội cho các quan châu huyện, sai Trung sứ phủ dụ dân
chúng.
Tháng 3,
vua từ châu Hoan về đến Kinh.
Xuống
chiếu phát tiền thuê thợ làm chùa quán ở các hương ấp, tất cả 150
chỗ430 .
Mùa thu,
tháng 8, mở hội chay để khánh thành. Đại xá thiên hạ.
Mùa đông,
tháng 10, ngày mồng 1, đạo sĩ là Trịnh Trí Không tâu xin cho các đạo
sĩ được nhận kư lục431 ở cung Thái Thanh. Vua y cho.
Nhâm
Thân, [Thiên Thành] năm thứ 5 [1032] , (Tống Minh Đạo năm thứ 1).
Mùa xuân, tháng 2, chùa Thích Ca ở trước quán Lôi Công có cây ưu
đàm432 [21a] nở hoa.
Mùa hạ,
tháng 4, ngày mồng 1, vua ngự đến Tín Hương ở Đỗ Động giang cày
ruộng tịch điền, có nhà nông dâng một cây lúa chiêm có 9 bông thóc.
Xuống chiếu đổi gọi ruộng ấy là ruộng Ứng Thiên. Ngày ấy trở về
cung.
Mùa thu,
tháng 9, vua đi châu Lạng bắt voi, rồi từ châu Lạng trở về.
Mùa đông,
tháng 11, ban yến cho các quan ở điện Thiên An.
Quư Dậu,
[Thiên Thành] năm thứ 6 [1033] , (Tống Minh Đạo năm thứ 2). Mùa
xuân, tháng giêng, nước Chân Lạp sang cống.
Châu Định
Nguyên433 làm phản. Tháng 2, vua thân đi đánh, cho Đông cung thái tử
giám quốc. Mồng 8434 , quân đi từ Kinh sư, đóng lại ở châu Chân
Đăng435 , có người đàn bà họ Đào430 dâng con gái, vua nhận cho làm
phi. Ngày 17, dẹp được châu Định Nguyên, đem quân về.
(như bản
kư hiệu A.3 v.v...) đều in là Điểu Lộ, như bản Chính Ḥa. Nhưng Đại
Việt sử kư tiền biên (bản in đời Tây Sơn, BK2, 26b) và Cương mục
(CMCB2, 35a) đều in là "Ô Lộ điền". Hai chữ "Điêu" và "Ô" chỉ khác
nhau 1 nét ngang ngắn trong ḷng chữ phía trên, rất dễ đọc và chép
nhầm với nhau. V́ Cương mục dùng sử liệu của Toàn thư, mỗi trường
hợp sửa chữa các chữ thường có chú giải. Nhưng ở đây không thấy nói
đến việc sửa chữ, do đó chưa rơ Cương mục hay Toàn thư chép đúng?
Tạm phiên đúng theo nguyên văn Toàn thư bản Chính Ḥa. Cương mục
chú: "Ô Lộ, Vĩnh Hưng: chưa rơ đích xác ở đâu. Nhưng xét huyện Đông
Yên, tỉnh Hưng Yên có tông Vĩnh Hưng, có lẽ ở đây chăng?" (CMCB2,
35a).
Mùa thu,
tháng 7, ngày 12, châu mục châu Vĩnh An là Sư Dụng Ḥa tâu rằng châu
ấy437 có vực chân châu. Vua sai sứ đến t́m, quả nhiên t́m được.
Tháng 8,
sách phong Đông cung thái tử [Nhật Tôn] [21b] làm Khai Hoàng Vương,
ở cung Long Đức.
Ngày 13,
vua ra ngoài cửa Trường Quảng xem phủ đệ của hoàng tử vừa xây xong.
Xuống
chiếu đúc quả chuông một vạn cân để ở lầu chuông Long Tŕ.
Tháng 9,
châu Trệ Nguyên438 làm phản.
Mùa đông,
tháng 10, vua thân đi đánh châu Trệ Nguyên, cho Khai Hoàng Vương
giám quốc. Dẹp yên châuTrệ Nguyên. Tháng 12, ngày mồng 1, vua đem
quân về.
Giáp
Tuất, [Thiên Thành] năm thứ 7 [1034] , (Từ tháng 4 về sau là niên
hiệu Thông Thụy năm thứ 1, Tống Cảnh Hựu năm thứ 1). Mùa hạ, tháng
4, xuống chiếu cho các quan tâu việc ở trước mặt vua th́ gọi vua là
"triều đ́nh".
Lê Văn
Hưu nói: Thiên tử tự xưng là "trẫm", là "dư nhất nhân". Bề tôi xung
vua là "bệ hạ", chỉ chỗ thiên tử ở là triều đ́nh, chỉ chỗ chính lệnh
ban ra là "triều sảnh", từ xưa không thay đổi xưng hô. Nay [Lư] Thái
Tông bảo các quan gọi ḿnh là "triều đ́nh", [22a] sau [Lư] Thánh
Tông tự xưng là "Vạn thặng", Cao Tông bảo người gọi ḿnh là "Phật"
đều không theo phép ở đâu, mà là thích khoe khoang. Khổng Tử nói:
"Danh không chính th́ nói không thuận" là thế.
Tháng ấy,
đổi niên hiệu là Thông Thụy năm thứ 1. Bấy giờ hai nhà sư là Nghiêm
Bảo Tính và Phạm Minh Tâm thiêu ḿnh cháy kết thành thất bảo439 .
Vua xuống chiếu đem thất bảo ấy giữ ở chùa Trường Thánh để hương đèn
thờ cúng. Vua cho là việc lạ, đổi niên hiệu là Thông Thụy.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Thuyết nhà Phật gọi xá lỵ là tinh túy do tinh khí
tụ lại khi đốt xác, lửa không đốt cháy được cho nên gọi là bảo.
Tương truyền người nào học Phật thành th́ thân hóa như thế. Có lẽ v́
sự đoạn tuyệt t́nh dục th́ [22b] tinh khí kết lại thành ra như thế
ấy. Người đời không thường thấy, cho là lạ, có biết đâu là tinh khí
dương tụ lại mà thành thôi. Vua cũng mê hoặc việc ấy, nhân đó đổi
niên hiệu. Từ đấy về sau, những người hiếu danh cạo đầu làm sư, nhẫn
nại chịu chết như loại Trí Thông440 nhiều lắm.
Tháng 6,
châu Hoan đem dâng con thú một sừng, sai Viên ngoại lang là Trần Ứng
Cơ, Vương Văn Khánh đem sang biếu nhà Tống.
Mùa thu,
tháng 8, vua ngự đến chùa Trùng Quang núi Tiên Du441 , sai dựng kho
Trùng Hưng [để chứa kinh].
Sai Viên
ngoại lang là Hà Thụ, Đỗ Khoan đem biếu nhà Tống hai con voi thuần.
Nhà Tống lấy kinh Đại tạng để tạ.
Mùa đông,
tháng 11, đóng thuyền lớn Vạn An.
Năm ấy,
sư Hưu ở chùa Pháp Vân, châu Cổ Pháp tâu rằng, trong chùa ấy phát ra
mấy luồng ánh sáng, theo chỗ ánh sáng đào xuống được [23a] một cái
ḥm bằng đá, bên trong có cái ḥm bằng bạc, trong ḥm bạc lại có ḥm
bằng vàng, trong ḥm vàng có b́nh lưu ly, trong b́nh đựng xá lỵ. Vua
sai rước vào cấm điện, xem xong lại trả lại.
Ất Hợi,
[Thông Thụy] năm thứ 2 [1035] , (Tống Cảnh Hựu năm thứ 2). Mùa xuân,
tháng 2, cỏ chi mọc ở trước điện Thiên Khánh.
Mùa hạ,
tháng 4, xuống chiếu làm chiếc ghế chéo h́nh bát giác thép vàng442 .
Mùa thu,
tháng 7, lập người thiếp yêu (không rơ tên) làm Thiên Cảm hoàng hậu;
phong hoàng tử Nhật Trung làm Phụng Càn Vương, các hoàng tử khác đều
phong tước hầu.
Mở chợ
Tây Nhai và dăy phố dài443 ở chợ ấy.
Xuống
chiếu bắc cầu Thái Ḥa ở sông Tô Lịch. Tháng 9, cầu bắc xong, vua
ngự đến xem, sai các quan hầu làm thơ.
Người
châu Ái làm phản. Mùa đông, tháng 10, vua thân đi đánh, cho Phụng
Càn Vương lưu thủ Kinh sư. Quân đi từ Kinh sư, đến châu Ái. Vua ngự
ở hành dinh, ban yến cho các quan hầu và tướng súy, ngầm chỉ Định
thắng đại tướng là Nguyễn [23b] Khánh mà bảo các phi tần rằng:
"Khánh thế nào cũng làm phản". Các phi tần đều kinh ngạc hỏi: "Bệ hạ
làm sao mà biết? Xin nói cho nghe nguyên do". Vua nói: "Khánh trong
ḷng không b́nh thường, nh́n trẫm có vẻ hổ thẹn, đi đứng thất tiết,
nói làm trái thường. Lấy đó mà xem đủ biết là nó có ư khác, h́nh
trạng làm phản rơ rồi". Đánh được châu Ái, trị tội châu mục châu Ái,
sai sứ đi phủ dụ dân chúng trong châu. Kinh sư lưu thủ là Phùng Càn
Vương Nhật Trung cho chạy trạm báo tin bọn nhà sư họ Hồ, em nuôi của
Định thắng đại tướng Nguyễn Khánh, Đô thống Đàm Toái Trạng, Hoàng đệ
Thắng Càn, Thái Phúc mưu phản, quả đúng như lời vua nói. Các phi tần
đều lạy hai lạy nói: "Bọn thiếp nghe nói thánh nhân thấy được chỗ
chưa hiện h́nh, biết trước việc chưa xảy ra, nay được chính mắt
trông thấy".
Vua xuống
chiếu bắt bọn Khánh đóng cũi đem về Kinh sư. Tháng 11, ngày mồng 1,
vua từ châu Ái về đến Kinh, làm tiệc rượu mừng việc trở về. Ủy lại
các tướng sĩ có công dẹp châu Ái.
Vua ngự
điện Thiên Khánh xét [24a] án bọn sư Hồ, Nguyễn Khánh; đều phải xẻo
thịt băm xương ở chợ Tây, c̣n những kẻ khác th́ xét theo tội nặng
nhẹ.
Xuống
chiếu phát 6 ngh́n cân đồng để đúc chuông đặt ở chùa Trùng Quang444
. Chuông đúc xong, sai người kéo đưa đến chùa. Chuông ấy không đợi
sức người, tự di chuyển được, chỉ khoảnh khắc đă đến chùa.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Phàm vật h́nh vuông th́ đứng, h́nh tṛn th́ đi,
chuông có thể đi được là v́ h́nh tṛn. Có lẽ là kéo nó đi, không
nhọc đến sức người, như có thần giúp vậy. Nay ta hăy xem như cây gỗ
lớn mười mấy người khiêng không nổi, một người đẩy ngang th́ nó lăn
tṛn mà đi. Chuông cũng thế, sư chùa muốn làm cho đạo ḿnh có vẻ
thần diệu, mới nói phao lên như thế để đánh lừa mà thôi. Những
chuyện như dấu vết người thần, ánh sáng xá lỵ, cây ưu đàm [24b] nở
hoa, tượng Phật cổ nổi lên v.v... đều
do bọn
các nhà sư ra cả. Người cầm bút chép sử đương thời không xét lư lẽ,
cứ theo thế mà chép vào sử sách.
Bính Tư,
[Thông Thụy] năm thứ 3 [1036] , (Tống Cảnh Hựu năm thứ 3). Mùa xuân,
tháng giêng, mở hội ở Long Tŕ khánh thành pho tượng phật Đại
Nguyện. Đại xá thiên hạ.
Tháng 2,
xuống chiếu chép kinh Đại tạng cất ở kho Trùng Hưng.
Tháng 3,
gả công chúa Kim Thành cho châu mục châu Phong là Lê Tông Thuận.
Mùa hạ,
tháng 4, đặt hành dinh ở châu Hoan, nhân đó đổi tên châu ấy là Nghệ
An.
Mùa thu,
tháng 8, gả công chúa Trường Ninh cho châu mục châu Thượng Oai là Hà
Thiện Lăm.
Mùa đông,
tháng 10, đạo Lâm Tây445 và các châu Đô Kim, Thường Tân, B́nh
Nguyên446 làm phản, xâm lấn các châu Tư Lăng của nước Tống, cướp
trâu ngựa, đốt nhà cửa rồi về.
Đinh Sửu,
[Thông Thụy] năm thứ 4 [1037] , (Tống Cảnh Hựu năm thứ 4). Mùa xuân,
tháng 2, ngày mồng 1, vua thân đi đánh đạo Lâm Tây, sai Khai [25a]
Hoàng Vương [Nhật Tôn] làm Đại nguyên soái đánh các châu Đô Kim,
Thường Tân, B́nh Nguyên, cho Phụng Càn Vương [Nhật Trung] làm Kinh
sư lưu thủ. Quân đi từ Kinh sư đến đóng ở Lâm Tây, dẹp yên được.
Tháng 3, vua từ đạo Lâm Tây về đến kinh.
Xuống
chiếu cho châu Nghệ An dựng các kho ở trong châu như Tư Thành, Lợi
Nhân, Vĩnh Phong, tất cả 50 sở.
Mùa thu,
tháng 7, vua ngự điện Hàm Quang xem đua thuyền. Nước lên to.
Trong
vườn dâu ở Điểu Lộ447 có pho tượng Phật cổ trồi lên. Tháng 8, đóng
thuyền Vĩnh Xuân.
Mùa đông,
tháng 12, đóng thuyền Nhật Quang.
Dựng đền
thờ Hoằng Thánh Đại Vương. Trước đây vua thấy phủ Đô hộ để nhiều án
ngờ, quan sĩ sư không xét đoán được, muốn tỏ rơ sự linh thiêng sáng
suốt để tiệt hết kẻ gian trá, bèn tắm gội đốt hương khấn Thiên Đế.
Đêm ấy vua chiêm bao thấy sứ giả mặc áo đỏ bưng sắc chỉ của thượng
đế ban cho Phạm Cự Lạng làm chức Đô hộ phủ ngọc tụng minh chủ. Vua
hỏi sứ trời rằng: "Người ấy [25b] là ai? Hiện đang giữ chức ǵ của
ta?" Sứ giả nói: "Người ấy làm Thái úy triều Lê Đại Hành". Nói xong
th́ biến mất. Vua tỉnh dậy, gọi các quan vào hỏi việc áy, phong cho
[Cự Lạng] tước vương, sai Hữu ty dựng đền ở phía tây cửa Nam thành,
tuế thời cúng tê (Hoằng Thánh sau đổi là Hồng Thánh)448 .
Mậu Dần,
[Thông Thụy] năm thứ 5 [1038] , (Tống Bảo Nguyên năm thứ 1). Mùa
xuân, tháng 2, vua ngự ra cửa Bố Hải cày ruộng tịch điền. Sau Hữu ty
dọn cỏ đắp đàn. Vua thân tế Thần Nông, tế xong tự cầm cày để làm lễ
tự cày. Các quan tả hữu có người can rằng: "Đó là công việc của nông
phu, bệ hạ cần ǵ làm thế?" Vua nói: "Trẫm không tự cày th́ lấy ǵ
làm xôi cúng, lại lấy ǵ cho thiên hạ noi theo?" Nói xong đẩy cày ba
lần rồi thôi. Tháng 3, vua về Kinh sư.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Thái Tông không phục lễ cổ, tự ḿnh cày ruộng tịch
điền để nêu gương cho thiên hạ [26a] trên để cúng tông miếu, dưới để
nuôi muôn dân, công hiệu trị nước dẫn đến dân đông, của giàu, nên
thay!
Mùa thu,
tháng 8, vua ngự ở điện Hàm Quang xem đua thuyền.
Tháng 9,
có dấu vết người thần hiện ở chùa Đại Thắng. Mùa đông, tháng 10,
dựng bia chùa Trùng Quang.
Tháng 11,
dựng kho ngự.
Tháng 12,
Nùng Tồn Phúc ở châu Quảng Nguyên449 làm phản. Nhà Tống phong vua
làm Nam B́nh Vương.
Năm ấy,
Đông Chinh Vương Lực chết.
Kỷ Măo,
[Thông Thụy] năm thứ 6 [1039] , (Từ tháng 6 về sau là niên hiệu Càn
Phù Hữu Đạo năm thứ 1; Tống Bảo Nguyên năm thứ 2). Mùa xuân, tháng
giêng, thủ lĩnh Tây Nông450 là Hà Văn Trinh đem việc Tồn Phúc làm
phản tâu lên. Trước đây Tồn Phúc là thủ lĩnh châu Thảng Do451 , em
là Tồn Lộc làm thủ lĩnh châu Vạn Nhai452 . Em trai của A Nùng, vợ
Tồn Phúc, là Đương Đạo làm thủ lĩnh châu Vũ Lặc453 [26b] đều thuộc
châu Quảng Nguyên, hàng năm nộp cống đồ thổ sản. Sau Tồn Phúc giết
Tồn Lộc và Đương Đạo, chiếm luôn cả đất, tiếm xưng là Chiêu Thánh
Hoàng Đế, lập A Nùng làm Minh Đức Hoàng Hậu, phong cho con là Trí
Thông làm Nam Nha Vương, đổi châu ấy gọi là nước Trường Sinh, sửa
soạn binh giáp, đắp thành kiên cố để tự giữ, không nộp cống xưng
thần nữa.
Tháng 2,
vua tự làm tướng đi đánh Tồn Phúc, cho Khai Hoàng Vương [Nhật Tôn]
làm Giám quốc. Quân đi từ Kinh sư, qua bến Lănh Kinh454 , có cá
trắng nhảy vào thuyền. Đến châu Quảng Nguyên, Tồn Phúc nghe tin đem
cả bộ lạc vợ con trốn vào chằm núi. Vua cho quân đuổi theo bắt được
Tồn Phúc và bọn Trí Thông 5 người. Chỉ có vợ là A Nùng, con là Trí
Cao chạy thoát. Đóng cũi bọn Tồn Phúc đem về Kinh sư, sai quân san
phẳng thành hào, chiêu dụ tộc loại c̣n sống sót, vỗ về yên ủi rồi
đem quân về.
Tháng 3,
vua từ Quảng Nguyên [27a] về Kinh sư, xuống chiếu rằng: "Trẫm từ khi
có thiên hạ đến giờ, đối với tướng văn tướng vơ cùng các bề tôi
không thiếu đại tiết, phương xa cơi lánh, không đâu không đến xưng
thần, mà họ Nùng nối đời giữ bờ cơi vẫn thường cúng nộp đồ cống. Nay
Tồn Phúc càn rỡ tự tôn, cả tiếm vị hiệu, ra mệnh lệnh, tụ họp quân
ong bọ, làm hại dân chúng biên thùy. Trẫm vâng mệnh trời đi đánh,
bắt được bọn Tồn Phúc 5 tên, đều chém ở chợ kinh đô".
Mùa hạ,
tháng 4, con vua Chiêm Thành là Địa Bà Lạt [cùng bọn] Lạc Thuẫn, Sạ
Đâu, La Kế, A Thát Lạt 5 người sang quy phục [nước ta].
Tháng 5,
động Vũ Kiến455 thuộc châu Quảng Nguyên dâng một khối vàng sống nặng
112 lạng. Huyện Liên456 , châu Lộng Thạch457 , châu Định Biên458 tâu
rằng trong bản xứ có hố bạc459 .
Tháng 6,
bầy tôi xin đổi niên hiệu là Càn Phù Hữu Đạo và xin tăng tôn hiệu
thêm 8 chữ là: "Kim [27b] Dũng Ngân Sinh, Nùng B́nh Phiên Phục"460 .
Vua nói: "Thời Đường Ngu chỉ vạch h́nh mà người không dám phạm,
không đánh mà khuất phục được binh của người, giũ áo khoanh tay mà
thiên hạ đại trị, cho nên các sao không đi trái, sấm mưa không thất
thường, chi muông đến múa, phượng hoàng lại
chầu, bốn
đi theo về, trăm man hướng hóa, không hiểu làm sao mà được đến như
thế! Trẫm là người ít đức, đứng đầu thần dân, dậy sớm thức khuya,
lúc nào cũng lo sợ như lội vực sâu, chưa biết lấy đạo ǵ để thấu
trời đất, lấy đức ǵ để kịp Nghiêu Thuấn. Vừa rồi, giặc Nùng dẹp
yên, Chiêm Thành quy phụ, động sinh vàng ṛng, đất trồi bạc trắng, ư
chừng có điều ǵ mà được thế chăng? Hay sắp xảy ra việc ǵ để cảnh
cáo chăng? Trẫm rất lo sợ, sao đáng để tôn sùng tên đẹp hiệu vinh.
Lời bàn của các khanh nên đ́nh băi". Bầy tôi cố nài vua mới chịu
nhận.
[28a] Lê
Văn Hưu nói: Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Văn Vương, Vũ Vương đều lấy một
chữ làm hiệu, chưa từng thấy có tăng thêm tôn hiệu bao giờ. Đế vương
thời sau thích khoe khoang mới có tôn hiệu đến vài chục chữ. Nhưng
chỉ lấy công đức mà xưng tụng, chưa bao giờ lấy đồ vật và tên man di
xen chắp vào. Thái Tông chịu nhận cho bầy tôi dâng tám chữ "Kim Dũng
Ngân Sinh, Nùng B́nh Phiên Phục" làm hiệu th́ việc khoe khoang lại
thô bỉ nữa. Thái Tông không có học nên không biết, nhưng bọn Nho
thần dâng lên những chữ ấy để nịnh hót vua th́ không thể bảo là
không có tội.
Mùa thu,
tháng 8, sai Đại liêu ban Sư Dụng Ḥa và Thân vương ban461 Đỗ Hưng
sang nước Tống tiếp tục việc thông hiếu cũ.
Mùa đông,
tháng 10, xuống chiếu sửa lại miếu Thái Tổ Thần Vũ Hoàng Đế.
Tháng 12,
[28b] nước Chân Lạp sang cống.
Canh
Th́n, [Càn Phù Hữu Đạo] năm thứ 2 [1040] , (Tống Khang Định năm thứ
1). Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, Đinh Hợi, nhật thực.
Tháng 2,
vua đă dạy cung nữ dệt được gấm vóc. Tháng ấy xuống chiếu phát hết
gấm vóc của nước Tống ở trong kho ra để may áo ban cho các quan, từ
ngũ phẩm trở lên th́ áo bào bằng gấm, từ cửu phẩm trở lên th́ áo bào
bằng vóc, để tỏ là vua không dùng gấm vóc của nước Tống nữa.
Sứ thần
Ngô Sĩ Liên nói: Việc làm này của vua trong cái tốt lại c̣n cái tốt
nữa, không quư vật lạ, tỏ ra giữ đức kiệm ước, ban cho bầy tôi, tỏ
ra hậu đăi kẻ dưới.
Mùa hạ,
tháng 4, ngày mồng 1, xuống chiếu từ nay trở đi phàm nhân dân trong
nước ai có việc kiện tụng ǵ, đều giao cho Khai Hoàng [29a] Vương xử
đoán rồi tâu lên, lại cho lấy điện Quảng Vũ làm nơi Vương xử kiện.
Sứ thần
Ngô Sĩ Liên nói: Chức việc của thái tử, ngoài việc thăm hỏi hầu cơm
vua ra, khi ở lại giữ nước th́ gọi là Giám quốc, khi đem quân đi th́
gọi là Phủ quân, có thế mà thôi, chưa nghe thấy sai xử kiện bao giờ.
Phàm xử kiện là việc của Hữu ty. Thái Tông sai Khai Hoàng Vương làm
việc đó không phải là chức phận của thái tử, lại lấy điện Quảng Vũ
làm nơi Vương xử kiện là không đúng chỗ.
Mùa thu,
tháng 8, người giữ trại Bố Chính của nước Chiêm Thành là Bố Linh, Bố
Kha, Lan Đà Tinh đem bộ thuộc hơn trăm người sang quy phụ.
Mùa đông,
tháng 10, mở hội La Hán ở Long Tŕ, đại xá thiên hạ, tha tội lưu,
tội đồ và một nửa tiền thuế cho thiên hạ. Trước đây, vua sai thợ tạc
hơn ngh́n pho tượng Phật, vẽ hơn ngh́n bức tranh Phật, làm bảo phướn
hơn [29b] một vạn lá. Đến đây xong việc, làm lễ khánh thành.
Tân Tỵ,
[Càn Phu Hữu Đạo] năm thứ 3 [1041] , (Tống Khánh Lịch năm thứ 1).
Mùa xuân, tháng 2, có chim sẻ trắng đậu ở cấm đ́nh.
Mùa hạ,
tháng 5, đặt phẩm cấp các cung nữ, hoàng hậu và phi tần 13 người,
ngự nữ 18 người, nhạc kỹ hơn 100 người.
Tháng 6,
Điện tiền chỉ huy sứ Đinh Lộc và Phùng Luật mưu làm phản. Xuống
chiếu bắt Lộc, Luật và bè đảng giao cho quan trị tội. Khai Hoàng
Vương xét xử, bọn Lộc, Luật đều phải giết.
Mùa thu,
tháng 9, vua ngự đến Kha Lai để bắt voi, lại ngự đến Kha Lăm, rồi về
Kinh sư.
Mùa đông,
tháng 10, vua ngự đến núi Tiên Du xem làm viện Từ Thị Thiên Phúc.
Khi về, xuống chiếu phát 7.560 cân đồng trong kho để đúc tượng Phật
Di Lặc và hai vị Bồ tát Hải Thanh và Công Đức cùng chuông để ở viện
ấy.
Tháng 11,
xuống chiếu cho Uy Minh hầu Nhật Quang462 làm tri châu Nghệ An.
[30a] Năm
ấy, Nùng Trí Cao cùng với mẹ là A Nùng từ động Lôi Hỏa463 lại về
chiếm cứ châu Thảng Do, đổi châu ấy làm nước Đại Lịch. Vua sai tướng
đi đánh, bắt sống được Trí Cao đem về Kinh sư. Vua thương t́nh v́
cha là Tồn Phúc và anh là Trí Thông đều đă bị giết nên tha tội, cho
giữ châu Quảng Nguyên như cũ, lại phụ thêm cho bốn động Lôi Hỏa,
B́nh, An, Bà và châu Tư Lang464 nữa.
Nhâm Ngọ,
[Càn Phù Hữu Đạo] năm thứ 4 [1042] , (Từ tháng 10 về sau là niên
hiệu Minh Đạo năm thứ 1; Tống Khánh Lịch năm thứ 2). Mùa xuân, tháng
3 vua ngự ra cửa biển Kha Lăm465 cày ruộng tịch điền rồi về Kinh sư.
Mùa hạ,
tháng 5, xuống chiếu rằng các quan chức đô466 , ai bỏ trốn th́ phạt
100 trượng, thích vào mặt 50 chữ và xử tội đồ. Các quân sĩ trước bị
tội đồ467 nếu trốn vào núi rừng đồng nội cướp của người th́ xử 100
trượng, thích vào mặt 30 chữ. Người con trấn trại mà bỏ trốn cũng
phải tội như thế.
Mùa thu,
tháng 7, xuống chiếu kẻ nào ăn trộm trâu của công th́ xử 100 trượng,
1 con phạt thành 2 con.
[30b]
Tháng 9, phạt đánh 50 trượng những người vắng mặt trong buổi hội
thề.
Sai Viên
ngoại lang Đỗ Khánh và Lương Mậu Tài đem voi thuần sang biếu nhà
Tống để tiếp tục sự thông hiếu cũ.
Động đất.
Châu
Văn468 làm phản.
Tháng 9,
nhuận, xuống chiếu kẻ nào ban đêm vào nhà gian dâm vợ cả, vợ lẽ
người ta, người chủ đánh chết, ngay lúc bấy giờ th́ không bị tội.
Xuống
chiếu về việc phú thuế của trăm họ, cho phép người thu, ngoài 10
phần phải nộp quan được lấy thêm 1 phần nữa, gọi là "hoành đầu". Lấy
quá th́ xử theo tội ăn trộm, trăm họ có người tố cáo được tha phú
dịch cho cả nhà trong 3 năm, người ở kinh thành mà cáo giác th́
thưởng cho bằng hiện vật thu được. Nếu quản giáp, chủ đô và người
thu thuế thông đồng nhau thu quá lệ, tuy xảy ra đă lâu, nhưng có
người tố cáo th́ quản giáp, chủ đô và người thu thuế cũng phải tội
như nhau.
Mùa đông,
tháng 10, ngày mồng 1, cho Khai Hoàng Vương làm Đô thống đại nguyên
soái đi đánh châu Văn.
Xuống
chiếu đổi niên hiệu là Minh Đạo năm thứ 1.
Ban H́nh
thư469 . Trước kia, việc kiện tụng trong nước [31a] phiền nhiễu,
quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc nghiệt,
thậm chí có người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương
xót, sai
trung thư san định luật lệnh, châm chước cho thích dụng với thời
thế, chia ra môn loại, biên thành điều khoản, làm thành sách H́nh
thư của một triều đại, để cho người xem dễ hiểu. Sách làm xong,
xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây phép xử án được bằng
thẳng rơ ràng, cho nên mới đổi niên hiệu là Minh Đạo và đúc tiền
Minh Đạo.
Tháng 11,
xuống chiếu cho những người từ 70 tuổi trở lên, 80 tuổi trở xuống,
từ 10 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và những người ốm yếu cho đến
các thân thuộc nhà vua từ hạng Đại công trở lên470 phạm tội th́ cho
chuộc [bằng tiền] nếu phạm tội thập ác th́ không được theo lệ này.
Năm ấy,
thiên hạ đói to. Xuống chiếu cho Khu mật viện là Nguyễn Châu hạ lệnh
cho những người trốn tránh ở các lộ đều phải nhận lấy các cầu đường
ở địa phương, đắp đất thành ụ mốc, trên cắm biển gỗ [31b] để tiện
chỉ hướng đi về các nơi.
Quư Mùi,
Minh Đạo năm thứ 2 [1043], (Tống Khánh Lịch năm thứ 3). Mùa xuân,
tháng giêng, châu Ái làm phản.
Tháng 2,
vua ngự ở điện Thiên Khánh, xuống chiếu cho các quan chức cứ 3 người
cùng đảm bảo cho một người, nếu có ai chứa giấu đại nam471 th́ 3
người bị tội cả.
Châu Văn
làm phản.
Tháng 3,
ngày mồng 1, cho Khai Hoàng Vương [Nhật Tôn] làm Đô thống đại nguyên
soái đi đánh châu Ái. Phụng Càn Vương [Nhật Trung] làm Đô thống
nguyên soái đi đánh châu Văn. Dẹp yên châu Văn, Phụng Càn Vương dâng
4 con ngựa tốt bắt được. Vua đặt tên cho ngựa là Tái Thiên, Quảng
Thắng, Truy Phong, Nhật Ngự.
Mùa hạ,
tháng 4, "giặc gió sóng" (nghĩa là nhân gió sóng mà đi cướp) Chiêm
Thành cướp bóc dân ven biển. Vua sai Đào Xử Trung đi đánh, dẹp yên
được.
Vua ngự
đến chùa cổ Tùng Sơn ở châu Vũ Ninh472 , thấy dấu người vắng ẻ, nền
móng nứt hở, trong chùa có cái cột đá lệch nghiêng sắp đổ. Vua [32a]
thở than, ư muốn sai sửa chữa, nhưng kịp nói th́ cột đá bỗng tự đứng
thẳng lại. Vua lấy làm lạ, sai Nho thần làm phú để nêu rơ việc linh
dị.
Mùa thu,
tháng 8, xuống chiếu rằng kẻ nào đem bán hoàng nam trong dân gian
làm gia nô cho người ta, đă bán rồi th́ đánh 100 trượng, thích vào
mặt 20 chữ, chưa bán mà đă làm việc cho người th́ cũng đáng trượng
như thế, thích vào mặt 10 chữ; người nào biết chuyện mà cũng mua th́
xử giảm một bậc.
Vua hỏi
tả hữu rằng: "Tiên đế mất đi, đến nay đă 16 năm rồi, mà Chiêm Thành
chưa từng sai một sứ giả nào sang là cớ ǵ? Uy đức của trẫm không
đến họ chăng? Hay là họ cậy có núi sông hiểm trở chăng?" Các quan
đáp: "Bọn thần cho rằng đó là v́ đức của bệ hạ tuy có đến nhưng uy
th́ chưa rộng. Sao thế? V́ từ khi bệ hạ lên ngôi đến giờ, họ trái
mệnh không đến chầu, bệ hạ chỉ ban ơn để vỗ về, [32b] chưa từng ra
oai dùng vơ để đánh phạt, đó không phải là cách làm cho người ta sợ
oai. Bọn thần e rằng các chư hầu khác họ trong nước đều như Chiêm
Thành cả, há chỉ riêng người Chiêm mà thôi đâu". Vua từ đấy quyết ư
đánh Chiêm Thành.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Bọn "giặc sóng gió" Chiêm Thành cướp phá dân ven
biển nước ta, đem quân hỏi tội là phải, v́ như thế là đúng tội danh.
C̣n nếu nói là người xa không phục, th́ cứ lấy đức hóa mà cảm cho họ
theo về, há phải đem quân đi xa!
Tháng 9,
ngày mồng 1, sai Ngụy Trưng đến châu Quảng Nguyên, ban cho Nùng Trí
Cao đô ấn, phong làm Thái bảo.
Lê Văn
Hưu nói: Năm trước, Nùng Tồn Phúc phản nghịch, tiếm hiệu, lập nước,
đặt quan thuộc, Thái Tông đă trị tội Tồn Phúc mà tha cho con là Trí
Cao. Nay Trí Cao lại noi theo [33a] việc trái phép của cha th́ tội
lớn lắm, giết đi là phải, nếu lấy lại tước và áp phong, giáng là thứ
dân, th́ cũng phải. Thái Tông đă tha tội, lại cho thêm mấy châu quận
nữa, ban cho ấn tín, phong làm Thái bảo, như thế là thưởng phạt
không có phép tắc ǵ. Đến khi Trí Cao gây tai họa ở Quảng Nguyên,
lại đem quân đi đánh, mượn cớ là viện trợ láng giềng, có khác ǵ thả
cọp beo cho cắn người, rồi từ từ đến cứu không? Đó là v́ Thái Tông
say đắm cái ḷng nhân nhỏ của nhà Phật mà quên đi mất cái nghĩa lớn
của người làm vua.
Vua định
sang năm sẽ đi đánh Chiêm Thành, xuống chiếu sai đóng các chiến
thuyền hiệu Long, Phượng, Ngư, Xà, Hổ, Báo, Anh Vũ hơn vài trăm
chiếc.
Mùa đông,
tháng 10, cái thuẫn của vua ở điện Trường Xuân tự nhiên rung động.
Vua xuống chiếu cho các quan nghị bàn, đều nói rằng: Thuẫn là đồ
binh khí, thần nghe nói có gió th́ chim loan liệng trước, [33b] sắp
có mưa th́ đá tảng ướt trước, nay bệ hạ muốn đem quân đánh dẹp kẻ
không đến chầu mà binh khí tự rung động, đó là cái điềm thần và
người lặng hợp, các vật ứng nhau. Kinh Thư nói: "Ḿnh động th́ mọi
vật ứng theo mà đón trước ư ḿnh. Nay vật ấy đă ứng trước ư ḿnh,
c̣n ngờ ǵ mà không động". Vua ban cho là phải.
Xuống
chiếu rằng quân sĩ bỏ trốn quá 1 năm xử 100 trượng, thích vào mặt 50
chữ, chưa đến 1 năm th́ xử theo mức tội nhẹ, kẻ nào quay lại th́ cho
về chỗ cũ. Quân sĩ không theo xa giá cũng xử trượng như thế và thích
vào mặt 10 chữ.
Tháng 12,
xuống chiếu cho quân sĩ sửa soạn giáp binh, hẹn đến mùa xuân, tháng
2 sang năm đi đánh Chiêm Thành.
Vua đến
hành dinh Cổ Lăm473 xuống chiếu rằng kẻ nào ăn cướp lúa mạ và tài
vật của dân, nếu đă lấy rồi th́ xử 100 trượng, nếu chưa lấy được
nhưng làm cho người bị thương th́ xử tội lưu.
Năm ấy
lại đúc tiền Minh Đạo ban cho các quan văn vơ.
[34a]
Giáp Thân, [Minh Đạo] năm thứ 3 [1044] , (Từ tháng 11 trở về sau là
niên hiệu Thiên Cảm Thánh Vũ năm thứ 1; Tống Khánh Lịch năm thứ 4).
Mùa xuân, tháng giêng, phát khí giới trong kho ban cho các quân.
Ngày Quư Măo, vua thân đi đánh Chiêm Thành, cho Khai Hoàng Vương
[Nhật Tông] làm Lưu thủ Kinh sư. Ngày ấy Hữu ty đem dâng túi mật to
bằng quả bưởi lấy được khi làm cỗ thiếu lao474 cúng thần núi. Vua
nói đùa rằng: "Chữ "đảm" (mật) âm gần với chữ "đam" (vui), con thiếu
lao mà có mật to, có lẽ là điềm báo cho ta biết chỉ khó nhọc một
chút mà được vui lớn". Ngày Giáp Th́n, quân đi từ Kinh sư, ngày Ất
Tỵ, đến cửa biển Đại Ác, gặp lúc sóng gió yên lặng, đại quân qua
biển dễ dàng, cho nên đổi tên Đại Ác làm Đại An475 . Đến núi Ma
Cô476 , có đám mây tía bọc lấy mặt trời. Qua vụng Hà Năo477 , có đám
mây che thuyền ngự, thoe thuyền mà đi hoặc ngừng. Ngày hôm ấy đến
đóng doanh ở cửa biển Trụ Nha (có bản chép Trụ Thân). Ngày hôm sau
đi, nhờ thuận gió, trong một ngày qua hai băi Đại Tiểu Trường
Sa478 .
Đến cửa biển Tư Khách479 , có con cá trắng nhảy vào thuyền. Vua nghe
tin Chiêm Thành đem quân và voi bày trận ở bờ nam sông Ngũ Bồ480
muốn chống cự quan quân. Vua truyền cho quân bỏ thuyền lê bộ, đem
quân sĩ lên bờ bắc, thấy quân Chiêm đă dàn ở bên sông. Vua mới cắt
đặt quân sĩ dựng cờ nổi trống, sang tắt ngang sông đánh. Binh lính
chưa chạm mà quân Chiêm đă tan vỡ, quan quân đuổi chém được 3 vạn
thủ cấp. Quách Gia Di chém được đầu vua Chiêm là Sạ Đẩu481 tại trận
đem dâng. Đoạt được hơn 30 voi thuần, bắt sống hơn 5 ngh́n người,
c̣n th́ bị quan quân giết chết, máu nhuộm gươm giá, xác chất đầy
đồng. Vua tỏ ư cảm khái, xuống lệnh rằng: "Kẻ nào giết bậy người
Chiêm Thành th́ sẽ giết không tha".
Sử thần
Ngô Sĩ Liêm nói: Tấm ḷng ấy của vua cũng như tấm ḷng của Tống Thái
Tổ chăng? Truyền ngôi được lâu dài là phải lắm.
[35a] Mùa
thu, tháng 7, vua đem quân vào thành Phật Thệ482 bắt vợ cả, vợ lẽ
của Sạ Đẩu và các cung nữ giỏi hát múa khúc điệu Tây Thiên483 . Sai
sứ đi khắp các hương ấp phủ dụ dân chúng. Các quan chúc mừng thắng
lợi.
Tháng 8,
đem quân về. Đến hành dinh Nghệ An, gọi Uy Minh hầu Nhật Quang đến
úy lạo rồi trao cho tiết việt trấn thủ châu ấy, gia phong tước
vương. Trước đây, vua ủy cho Uy Minh thu tô hàng năm ở Nghệ An và
sai lập trại Bà Ḥa484 khiến cho [trấn ấy] được vững chắc, lại đặt
điếm canh các nơi cất chứa lương thực đầy đủ, cái ǵ cũng vừa ư vua,
cho nên được tước phong như thế.
Tháng 9,
ngày mồng 1, đến phủ Trường Yên, có rồng vàng hiện ở thuyền ngự. Khi
đến hành điện Ly Nhân485 , sai nội nhân thị nữ gọi Mỵ Ê là phi của
Sạ Đẩu sang hầu thuyền vua. Mỵ Ê phẫn uất khôn xiết, ngầm lấy chăn
quấn vào ḿnh nhảy xuống sông chết. Vua khen là trinh tiết, phong là
Hiệp Chính Hựu Thiện phu nhân.
[35b] Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói: Phu nhân giữ nghĩa không chịu nhục, chỉ theo
một chồng cho đến chết, để toàn vẹn trinh tiết của người đàn bà.
Người làm tôi mà thờ hai vua tức là tội nhân đối với phu nhân. Vua
khen là trinh tiết, phong làm phu nhân để khuyến khích người đời sau
là đáng lắm.
Vua từ
Chiêm Thành về, làm lễ cáo thắng trận ở miếu Thái Tổ, xong về ngự ở
điện Thiên An, mở tiệc rượu làm lễ mừng về đến nơi. Ngày hôm ấy, bầy
tôi dâng tù binh hơn 5 ngh́n tên và các thứ vàng bạc châu báu. Xuống
chiếu cho các tù binh đều được nhận người cùng bộ tộc, cho ở từ trấn
Vĩnh Khang486 đến Đăng Châu487 (nay là Quy Hóa), đặt hương ấp phỏng
tên gọi cũ của Chiêm Thành.
Vua sai
đặt cũi lớn ở Dâm Đàm (tức là Hồ Tây ngày nay), lấy con voi thuần
của Chiêm Thành làm mồi nhử voi rừng vào trong cũi, vua thân đến
bắt.
Mùa đông,
tháng 11, ban thưởng cho những người có công đi đánh Chiêm Thành: có
công từ lục phẩm trở lên, thưởng áo bào gấm, từ thất phẩm trở xuống
[36a] thưởng áo là. Bề tôi xin đổi niên hiệu là Thiên Cảm Thánh Vũ,
tăng tôn hiệu thêm tám chữ là Thánh Đức Thiên Cảm Tuyên Uy Thánh Vũ.
Vua y theo. Xuống chiếu rằng: "Đánh dẹp phương xa, tổn hại việc
nông, ngờ đâu mùa đông năm nay lại được mùa lớn! Nếu trăm họ đă đủ
th́ trẫm lo ǵ không đủ? Vậy xá cho thiên hạ một nửa tiền thuế năm
nay, để úy lại sự khó nhọc lặn lội".
Xuống
chiếu cho Quyến khố ty488 , ai nhận riêng một thước lụa của người
th́ xử 100 trượng, từ 1 tấm đến 10 tấm trở lên th́ [phạt trượng]
theo số tấm, gia thêm khổ sai 10 năm.
Tháng 12,
ngày mồng 1, đặt trạm Hoài Viễn ở bờ sông Gia Lâm làm quán nghỉ trọ
cho người nước ngoài khi đến chầu.
Thái bảo
Nùng Trí Cao về chầu.
Năm ấy,
xuống chiếu rằng các quân bỏ trốn xử tội theo ba bậc lưu. Cấm quan
coi ngục không được sai tù làm việc riêng, ai phạm th́ xử 80 trượng,
thích chữ vào mặt và giam vào lao.
[36b] Ất
Dậu, [Thiên Cảm Thánh Vũ] năm thứ 2 [1045] , (Tống Khánh Lịch năm
thứ 5). Chế xe Thái B́nh, lấy vàng trang sức "bồng la nga" (tức là
cái bành voi của Chiêm Thành) đóng voi để kéo.
Dựng bia
ở Đại Nội.
Bính
Tuất, [Thiên Cảm Thánh Vũ] năm thứ 3 [1046] , (Tống Khánh Lịch năm
thứ 6). Dựng cung riêng cho các cung nữ Chiêm Thành489 .
Đinh Hợi,
[Thiên Cảm Thánh Vũ] năm thứ 4 [1047] , (Tống Khánh Lịch năm thứ 7).
Mùa xuân, tháng 3, đặt trấn Vọng Quốc và 7 trạm Quy Đức, Bảo Ninh,
Tuyên Hóa, Thanh B́nh, V́nh Thông, Cảm Hóa, An Dân, các trạm đều
dựng ụ bia, để làm chỗ trọ cho người man di.
Mậu Tư,
[Thiên Cảm Thánh Vũ] năm thứ 5 [1048] , (Tống Khánh Lịch năm thứ 8).
Mùa thu, tháng 9, sai tướng quân là Phùng Trí Năng đi đánh Ai Lao,
bắt được người và gia súc rất nhiều đem về.
Nùng Trí
Cao làm phản, chiếm giữ động Vật Ác490 . Sai Thái úy Quách Thịnh Dật
đi đánh. Vừa mới giao chiến, trời đất bỗng tối mù, một lát nghe
tiếng sét đánh trong động, [37a] thân thể các tù trưởng động ấy bị
xé tan, cả động kinh hăi. Trí Cao phải hàng.
Lập đàn
xă tắc ở ngoài cửa Trường Quảng, bốn mùa cầu đảo cho mùa màng.
Mùa đông,
tháng 12, ngày Lập xuân, xuống chiếu cho hữu ty làm lễ nghênh xuân.
Kỷ Sửu,
[Thiên Cảm Thánh Vũ] năm thứ 6 [1049] . (Từ tháng 3 về sau, thuộc
niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo năm thứ 1; Tống Hoàng Hựu năm thứ 1).
Mùa xuân, tháng 2, đổi niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo năm thứ 1.
Mùa đông,
tháng 10, dựng chùa Diên Hựu491 . Trước đây vua chiêm bao thấy Phật
Quan Âm ngồi trên ṭa sen, dắt vua lên ṭa. Khi tỉnh dậy, vua đem
việc ấy nói với bầy tôi, có người cho là điềm không lành. Có nhà sư
Thiền Tuệ khuyên vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa đất492 , làm ṭa
sen của Phật Quan
Âm đặt
trên cột đá như đă thấy trong mộng. Cho các nhà sư đi ṿng lượn
chung quanh tụng kinh cầu vua sống lâu. V́ thế gọi là chùa Diên
Hựu493 .
[37b]
Canh Dần, [Sùng Hưng Đại Bảo] năm thứ 2 [1050] , (Tống Hoàng Hựu năm
thứ 2). Mùa xuân, tháng 3, Chiêm Thành dâng voi trắng.
Mùa hạ,
tháng 6, nước to.
Mùa thu,
tháng 9, người động Vật Dương494 làm phản, dẹp yên.
Tân Măo,
[Sùng Hưng Đại Bảo] năm thứ 3 [1051] , (Tống Hoàng Hựu năm thứ 3).
Mùa xuân, tháng giêng, đặt quân tùy xa long, nội ngoại, sai Tả kiều
vệ tướng quân Trần Nẫm trông coi.
Định cho
các quan văn vơ làm việc lâu năm mà không có lỗi được thăng chức
tước theo thứ bậc khác nhau.
Mùa thu,
tháng 8, khao thưởng lớn, ban cho dân vải lụa, tiền bạc theo thứ bậc
khác nhau.
Mùa đông,
tháng 11, đào kênh Lẫm495 .
Nhâm
Th́n, [Sùng Hưng Đại Bảo] năm thứ 4 [1052] , (Tống Hoàng Hựu năm thứ
4). Mùa xuân, tháng giêng, phong các hoàng tử làm vương hầu, các
hoàng nữ làm công chúa.
Tháng 3,
đúc chuông lớn để ở Long Tŕ, cho dân ai có oan ức ǵ không bày tỏ
được th́ đánh chuông ấy để tâu lên.
Mùa hạ,
tháng 4, Nùng Trí Cao làm phản, tiếm xưng là Nhân Huệ Hoàng Đế,
[38a] đặt quốc hiệu là Đại Nam, sang cướp đất nhà Tống, phá trại
Hoàng Sơn496 , vây hăm các châu Ung, Hoành, Quư, Đằng, Ngô, Khang,
Đoan, Củng, Tầm497 rồi kéo đến vây thành Quảng Châu498 đến 5 tuần
không lấy được, bèn về. Lại vào Ung Châu, giết tướng tá của nhà Tống
hơn 3 ngh́n người, bắt sống dân chúng hàng vạn. Đi đến đâu đốt trụi
đến đấy. Vua tôi nhà Tống lấy làm lo. Khu mật sứ Địch Thanh dâng
biểu xin đi đánh. Vua Tống sai Thanh làm Tuyên huy sứ đô đại đề cử,
tổng quyền tiết việt đi đánh.
Quư Tỵ,
[Sùng Hưng Đại Bảo] năm thứ 5 [1053] , (Tống Hoàng Hựu năm thứ 5).
Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 5, động đất 3 lần. Mồng 10, có mây
không có mưa, rồng vàng hiện ở gác Đoan Minh. Bầy tôi chúc mừng, duy
có nhà sư Pháp Ngữ nói: "Rồng bay trên trời, nay lại hiện ở dưới là
điềm không lành".
Địch
Thanh chỉ huy 3 tướng đem quân đến phố Quy Nhân thuộc Ung Châu. Trí
Cao đem quân chống đánh bị Địch Thanh đánh bại, chạy hơn 10 dặm
[38b]. Tướng tâm phúc của Cao là Hoàng Sư Mật cùng với thủ hạ 57
người chết tại trận. Quân Tống đuổi theo giết hơn 2200 người. Trí
Cao đốt thành ban đêm trốn đi.
Mùa thu,
từ tháng 7 đến tháng 8, nước to.
Mùa đông,
tháng 10, Trí Cao sai Lương Châu đến xin quân [cứu viện]. Vua xuống
chiếu cho chỉ huy sứ là Vũ Nhị đem quân cứu viện. Địch Thanh lại
đánh phá được Trí Cao. Trí Cao chạy sang nước Đại
Lư499 .
Người nước Đại Lư chém đầu Cao bỏ vào ḥm dâng vua Tống. Từ đây họ
Nùng bị diệt. Trước đây, Trí Cao cướp biên giới nước nước Tống, Tống
sai Khu mật trực học sĩ Tôn Miện, Nhập nội áp ban Thạch Toàn Bân
cùng Kinh lược sứ bản lộ là Dư Tĩnh tính việc đánh giặc cướp, vua
xin đem quân đánh giúp, vua Tống cho được tiện nghi. Đến khi Địch
Thanh làm Đại tướng bèn tâu rằng: "Mượn binh ngoài để trừ giặc trong
không lợi cho ta. Có một Trí Cao mà sức hai tỉnh Quảng không thể
chống nổi, lại phải nhờ đến quân cơi ngoài, [39a] nếu họ nhân đó mà
dấy loạn, th́ lấy ǵ chống lại?" Năm ấy, nhà Tống có chiếu dừng việc
viện binh của ta. Đến khi Trí Cao xin quân, vua lại nghe theo lời
xin. Đô giám nhà Tống là Tiêu Chú đi theo đường đạo Đặc Ma500 đánh
úp, bắt được mẹ là Trí Cao là A Nùng, đem giết.
Giáp Ngọ,
[Sùng Hưng Đại Bảo] năm thứ 6 [1054] , (Từ tháng 9 về sau thuộc niên
hiệu của Thánh Tông Long Thụy Thái B́nh năm thứ 1; Tống Chí Ḥa năm
thứ 1).
Mùa thu,
tháng 7, xuống chiếu cho Hoàng thái tử Nhật Tôn coi chầu nghe chính
sự.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Xem đoạn văn ở dưới chép tháng 9 vua không khỏe,
th́ tháng này xuống chiếu cho thái tử ra coi chầu nghe chính sự là
việc bất đắc dĩ.
Tháng 9,
ngày Mậu Dần, vua không khỏe.
Mùa đông,
tháng 10, ngày mồng một, vua băng ở điện Trường Xuân. Thái tử lên
ngôi ở trước linh cữu; đổi niên hiệu là Long Thụy Thái B́nh năm thứ
1. Truy tôn [39b] tên thụy cho Đại Hành Hoàng Đế, miếu hiệu là Thái
Tông, mẹ họ Mai làm Kim Thiên Hoàng Thái Hậu. Đặt quốc hiệu là Đại
Việt. Ban quan tước cho các bề tôi cũ ở Đông cung theo thứ bậc khác
nhau. Cho Bùi Hựu làm Văn minh điện đại học sĩ.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Sử khen vua là người nhân triết, thông tuệ, có đại
lược văn vơ, lục nghệ không nghề ǵ không tường. V́ có tài đức ấy,
nên có thể làm mọi việc, song câu nệ về lễ yến hưởng vua tôi, đương
lúc đau thương mà cũng vui chơi, khiến cho đạo chí hiếu có thiếu
sót. Mê hoặc bởi cái thuyết từ ái của Phật mà tha tội cho bề tôi
phản nghịch501 th́ ḷng nhân ấy thành ra nhu nhược, đó là chỗ kém.
371 Cổ
Pháp: tên châu, từ thời Đinh về trước gọi là châu Cổ Lăm; triều Lê
Đại Hành cho đến năm 995 vẫn c̣n gọi tên ấy (BK1, tờ 21a), sau đổi
gọi là Cổ Pháp, Lư Thái Tổ lên ngôi đổi làm phủ Thiên Đức. Nay là
đất huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc.
372
Nguyên bản in: "mẫu Phạm thị, tiêu dao du Tiêu Sơn tự" hai chữ "tiêu
dao" là diễn văn (chữ khắc thừa), do ảnh hưởng của tên bài văn Tiêu
Dao Du của Trang Tử.
373 Chùa
Tiêu Sơn: tức chùa Trường Liêu trên núi Tên ở xă Tương Giang, huyện
Tiên Sơn, Hà Bắc.
374 Chùa
Lục Tổ: cũng gọi là chùa Cổ Pháp, ỡ xă Đ́nh Bảng, huyện Tiên Sơn,
tỉnh Hà Bắc.
375 Tứ
sương quân: quân bảo vệ bốn mặt kinh thành.
376 Thiền
uyển tập anh (tờ 52a) chép viện Hàm Toại chùa Ứng Thái Tâm (dùng chữ
Thái thay cho chữ Thiên trong tên các danh vật đời Lư). C̣n tên viện
Cảm Tuyển hoặc Hàm Toại th́ hẳn là do khuôn chữ gần giống nhau nên
sao khắc bị lầm.
377 Cao
Vương: chỉ Cao Biền.
378 Sông
Bắc Giang: hay sông Thiên Đức, tức sông Đuống.
379
Nguyên bản in là "...giai viết long tŕ..." (đều gọi là thềm rồng);
ở vị trí chữ "viết" phải là chữ "hữu" (giai hữu long tŕ = đều có
thềm rồng) tih` mới đúng nghĩa. Cương mục cũng đă sửa là "giai hữu
long tŕ" (CMCB2, 10a).
380 Tinh
lâu: lầu xem sao (chỉ lầu cao).
381 Độ:
vốn là một khái niệm Phật giáo, dịch từ Phạn paramita, nghĩa là
"vượt qua giới hạn (giữa mê tối và giác ngộ), dần dần mang thêm
nghĩa thông thường là cho phép xuất gia tu hành. Khi một người lần
đầu tiên đến chùa, được phép gọt tóc đi tu, gọi là thế độ, hoặc độ.
Nguyên văn: "độ bách tính vi tăng", có nghĩa là nhà nước thừa nhận
cho dân làm sư, cấp giấy gọi là độ điệp.
382 Túc
xa quân: quân theo hầu xe vua, gồm 2 đội tả và hữu.
383 Đại Việt sử lược
(q.2, 3a) chép là Y Cẩm tự.
384 Lô Giang là tên gọi
sông Nhị (sông Hồng) từ thời thuộc Minh về trước, khác với tên sông
Lô từ thời Lê đến nay là sông chảy qua tỉnh Hà Tuyên, tỉnh Vĩnh Phú
rồi đổ vào sông Hồng ở ngă ba Bạch Hạc.
385 Vũng Biện: (nguyên
văn là Biện Loan), vùng biển ở Biện Sơn, thuộc huyện Tĩnh Gia, tỉnh
Thanh Hóa.
386 Chỉ người Nam Chiếu.
Cương mục dẫn An Nam chí của Cao Hùng Trưng chép là người Man Hạc
Thác, lại theo chú dẫn của Minh sử th́ Man Hạc Thác tức người Nam
Chiếu.
387 Nguyên văn là "Kim
Hoa bộ".
388 Vị Long: tên châu,
nay là huyện Chiêm Hóa, tỉnh Hà Tuyên.
389 Cương Mục (CB2, 16b)
chép là Hà Trắc Tuấn.
390 B́nh Lâm: tên châu.
Cương mục dẫn Độc sử phương dự kỷ yếu của Cố Tổ Vũ ghi B́nh Lâm là
tên châu đặt từ thời thuộc Đường, ở vào miền huyện Quảng Uyên, tỉnh
Cao Bằng. Nhưng có nhiều khả năng châu B́nh Lâm là châu B́nh Nguyên
nói đến ở sau, tức miền đất huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Tuyên ngày nay.
Mới đây, ở huyện Vị Xuyên, t́m được vết tích chùa B́nh Lâm thời
Trần. Không thể giặc vào vùng Chiêm Hóa, Hà Tuyên mà châu mục ở vùng
Quảng Uyên (nay là huyện Quảng Ḥa), Cao Bằng lại tâu lên vua. Đặt
châu này ở Vị Xuyên th́ hợp lư.
391 Dực Thánh Vương: xem
chú thích ???, tr. ???
392 Tức phủ Ứng Ḥa đời
sau, nay là huyện Ứng Ḥa, tỉnh Hà Tây.
393 Đô Kim: theo Cương
Mục, là huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang (CMCB2, 18b), nay thuộc tỉnh
Hà Tuyên.
394 Vị
Long: xem chú thích ??? tr. ???
395
Thường Tân: tên châu, chưa rơ ở khoảng huyện nào trong tỉnh Hà Tuyên
ngày nay.
396 B́nh
Nguyên: tên châu thời Lư, từ thời Lê về sau gọi là châu Vị Xuyên,
gồm các huyện Vị Xuyên, Bắc Quang, Hoàng Su Ph́, tỉnh Hà Tuyên ngày
nay.
397 Ở
phần trên đă chép Lư Thái Tổ lập 6 hoàng hậu mà Lập Giáo hoàng hậu
đứng đầu, có quy chế xe kiệu riêng (BK1, 34b). Ở đây nói lập thêm 3
hoàng hậu nữa, mà tên Lập Giáo hoàng hậu lại kể ở sau cùng. Cương
mục ghi: "Điều này chắc Sử có lầm, tạm chép lại đó chờ tra cứu thêm"
(CMCB2, 19a).
398 Cổ
Sở: bến Cổ Sở có tên nôm là bến Giá, nay ở xă Yên Sở, huyện Hoài
Đức, tỉnh Hà Tây.
399
Nguyên văn: "Thiên hạ tao mông muội, trung thần nặc tính danh, trung
thiên minh nhật nguyệt, thục bất kiến kỳ h́nh". Bài thơ này có các
dị bản trong Việt điện u linh, Sơn Tây tỉnh chí" v.v... với nhiều
chữ chép khác biệt với đây.
400 Thát
Đát: phiên âm tên Tartar hay Tatar, bộ tộc Mông Cổ, ở đây chỉ quân
Nguyên - Mông.
401 Không
rơ có phải là Trịnh Văn Tú nói ở trước hay không?
402 Cương
mục chú: điện phía đông tức ở điện Tập Hiền (CMCB2, 19b).
403 Cương
mục chép Phạm Hạc thành Phạm Hạc Như (khiển viên ngoại lang Nguyễn
Đạo Thanh, Phạm Hạc Như).
404
Nguyên văn: "Thiên Đức lăng thái miếu", đến đây chưa thấy nói đến
lăng Thiên Đức, ngờ nhầm ở chữ "lăng"; hoặc có thể hiểu là Lăng Thái
Miếu ở phủ Thiên Đức?
405 Bố
Chính: nay là đất các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa, tỉnh
Quảng B́nh.
406 Núi
Long Tỵ: theo Cương mục, ở địa phận xă Thuần Chất, huyện B́nh Chính,
tỉnh Quảng B́nh, h́nh thể núi này nhô lên như ṿi rồng, nên gọi là
"Long tỵ" (CMCB2, 22a). Huyện B́nh Chính nay là huyện Quảng Trạch,
tỉnh Quảng B́nh.
407 Cương
mục chú: điện phía tây tức là điện Giảng Vũ.
408 Cương
mục dẫn Khâm Châu chí nói trại Như Hồng ở phía tây Khâm Châu, giáp
với trấn Như Tích, cách châu Vĩnh An của nước ta 20 dặm (CMCB2,
23b). Châu Vĩnh An tên cũ là trấn Triều Dương (đổi năm 1023), nay là
đất huyện Hải Ninh, tỉnh Quảng Ninh.
409 Triều
Dương: tên trấn thời Lư, xem chú thích về trại Như Hồng ở trên.
410 Thảng
Do: tên châu thời Lư, nơi Nùng Trí Cao làm phản lập ra nước Đại
Lịch, ở về phần đất tỉnh Cao Bằng ngày nay (theo Độc sử phương dư kỷ
yếu; CMCB, 43a). Như vậy, điều ngờ ghi trong câu tiếp theo của
nguyên chú không đúng.
411 Trại
Định Phiên: trại định cư của người Phiên chỉ các tù binh Chiêm
Thành.
412 Thất
Nguyên: tên châu thời Lư, nay là huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn.
413 Văn
Châu: tên châu thời Lư, nay là đất huyện Văn Quan và một đất huyện
Văn Lăng, tỉnh Lạng Sơn.
414 Dực
Thánh Vương: xem chú thích tr.???; Vũ Đức Vương: chưa rơ, từ trên
đến đây chưa thấy nói đến Vũ Đức Vương.
415
Trưởng Tôn Vô Kỵ và Uất Tŕ Kính Đức giết hai anh của Lư Thế Dân là
Kiến Thành và Nguyên Cát để giữ ngôi vua cho Thế Dân (Đường Thái
Tông). Chu Công Đán giết em là Quản Thúc và đày một em khác là Thái
Thúc để giữ ngôi vua cho cháu là Thành Vương.
416 Băng
Sơn: theo (CMCB2, 28b) là xă Dương Sơn, nay thuộc huyện Hoằng Hóa,
tỉnh Thanh Hóa.
417 Nguyên văn là "Quan
địa".
418 Vi Tử: tên là Khải,
anh của vua Trụ nhà Thương, Trụ dâm loạn, Vi Tử nhiều lần khuyên
can, bị Trụ đuổi đi.
419 Dương Quảng là con
thứ của Tùy Văn Đế, đáng không được lập làm thái tử, nhưng v́ hoàng
thái tử là Dương Dũng tính nết kiêu xa. Văn Đế ghét. Quảng biết ư,
vờ tỏ ra có đức hạnh để chiếm ḷng yêu của Văn Đế, quả nhiên Văn Đế
bỏ Dũng, lập Quảng làm thái tử. Sau đó Văn Đế hối, muốn sửa lại,
Quảng bèn giết cả Văn Đế và Dũng để làm vua.
420 Ba phu nhân nói đây
là Cảm Thánh, Nhật Phong, Phụng Thánh, đều là vợ của Lư Thần Tông.
Trước Thần Tông đă cho Thiên Lộc làm hoàng thái tử, đến khi Thần
Tông ốm nặng, ba phu nhân đến xin đổi lập Thiên Tộ làm thái tử (Xem
BK3, 42a). Tham tri chính sự Từ Văn Thông nhận lời giúp ba phu nhân,
nhưng cầm bút chờ Thần Tông đổi ư chứ không tự ư sửa di chiếu (Cũng
xem BK2, 42a).
421 Có sự lầm lẫn về cách
ghi họ tên người cha của Đinh hoàng hậu. Ở trên ghi: cha của Mai
hoàng hậu là Hựu th́ có thể hiểu người đó là Mai Hựu..., cha của
Đinh hoàng hậu là Ngô Thượng th́ có thể hiểu người đó là Đinh Ngô
Thượng. Ở đây Toàn thư lại ghi Ngô Thượng Đinh? Đại Việt sử lược
(q2, tờ 5a) cũng ghi là Ngô Thượng Đinh. Chưa rơ nhầm lẫn do đâu.
422 Đại Việt sử lược chép
là Liêu Gia Chân (Chân và Trinh có thể lầm với nhau).
423 Nguyên văn là "linh
nhân".
424 Thất tinh: tức là
cḥm sao Bắc đẩu (có 7 sao).
425 Lạng Châu: tên châu
thời Lư, nay là đất Lạng Sơn.
426 Đản Năi: tên giáp, có
lẽ là vùng Đan Nê, huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa, nơi có núi Đồng
Cổ (xem BK1, 16b).
427 Phụng Thiên: Cương
mục chép là Phụng Tiên (CMCB2, 34a).
428 Đại liêu ban: tên
tước của triều Lư.
429 Nguyên văn: "Điểu Lộ
điền". Tên đất này được nhắc đến hai lần trong Toàn thư, ở đây và
cách 3 tờ sau (BK2, 25a), đều khắc in rơ chữ "Điểu". Các bản in sau
bản Chính Ḥa như bản VHv. 2330 (BK2, 20b và 25a), và các bản in của
Quốc tử giám triều Nguyễn
430 Nguyên văn: "...
Chiếu phát tiền nhầm công tạo tự quán vu hương ấp, phàm bách ngũ
thập sở". Các bản in của Quốc tử giám thời Nguyễn (A. 3v.v...) và
các bản VHv. 2330 (sau bản Chính Ḥa) đều in là "... vu hương ấp,
cửu bách ngũ thập sở" (... ở các hương ấp, tất cả 950 chỗ). Chữ
"phàm" và chữ "cửu" dáng chữ gần giống nhau, dễ đọc và chép nhầm. Có
thể trước do bản VHv. 2330 in phỏng theo bản Chính Ḥa, sau các bản
in đời Nguyễn theo đó nhầm tiếp. Cương mục có thể đă dùng một bản
Toàn thư thuộc loại nói trên cho nên cũng chép như thế (cửu bách
thập sở. CMCB2, 35b). Nhưng Đại Việt sử kư tân biên bản in thời Tây
Sơn, vẫn chép là "... phàm bách ngũ thập sở" (ĐVSKTB BK2, 26b). Đại
Việt sử lược (q.2, 5b) cũng chép rơ hơn: "tạo tự quán phàm nhất bách
ngũ thập xứ". Xét về kết cấu ngữ pháp, câu "... phàm bách ngũ thập
sở" chưa được chuẩn xác, nhưng kết hợp với Đại Việt sử lược, chúng
tôi dịch là "150 sở".
431 Nguyên văn: "thụ kư
lục"; có nghĩa là nhận sự đăng kư, được chính thức thừa nhận việc tu
hành.
432 Nguyên văn: ưu đàm
thụ, tên loài cây phiên âm từ tiếng Phạn: Udumbara (cũng phiên là ưu
đàm loát). Cây này có quả mà không có hoa, truyền thuyết Phật giáo
nói đó là điềm lành, 3.000 năm mới một lần nở hoa. Có thể coi cây
sung tương ứng với cây ưu đàm, nhưng cây sung ở ta không có truyền
thuyết như cây Udumbara của Ấn Độ.
433 Định Nguyên: tên châu
thời Lư, có lẽ là miền tỉnh Yên Bái.
434 Nguyên văn: "Bát
nguyệt" (tháng 8). Nhưng ở dưới ghi tiếp lại là: "mùa thu, tháng 7".
Như vậy chữ "nguyệt" ở đây là khắc in nhầm, đúng ra phải là chữ
"nhật" (ngày).
435 Chân Đăng: tên châu
thời Lư. Cương mục chua là "thuộc tỉnh Sơn Tây, tức phủ Lâm Thao bây
giờ" (CMCB2, 37a). Phủ Lâm Thao thời Nguyễn là đất huyện Phong Châu
và một phần đất các huyện Thanh Ḥa và Sông Thao tỉnh Vĩnh Phú ngày
nay. Nhưng có thể châu Chân Đăng thời Lư gồm cả một phần đất huyện
Tam Thanh (Tam Nông cũ)
436 Nguyên văn: "Đào đại
di". Đại di là Bà d́. Cương mục chỉ chép "Hữu Đào thị giả" (có người
họ Đào..., CMCB2, 37a).
437 Nguyên bảin in: "lục
châu", có lẽ là khắc in nhầm chữ "bản châu".
438 Trệ Nguyên: tên châu
thời Lư, Cương mục chua "không thảo được" (CMCB2, 38a), có thể ở gần
châu Định Nguyên.
439 Thất bảo: bảy thứ
quư. Theo Pháp hoa kinh, bảy thứ ấy là: vàng, bạc, lưu ly, xà cừ,
ngọc, mă năo, trân châu (ngọc trai) mai khôi (ngọc đỏ). Các kinh
khác như Vô lượng thọ, A Di Đà, Bát Nhă đều nói đến thất bảo với một
vài thứ khác.
440 Nhắc việc sư Trí
Thông, thị gia hầu bảo tháp xá lị của Trần Nhân Tông ở núi Yên Tử,
tự thiêu thời Trần Minh Tông (1314-1329).
441 Núi Tiên Du: ở huyện
Tiên Du, nay là huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc, c̣n có tên là núi Phật
Tích, lại có tên là núi Lạn Kha (do truyền thuyết nó Vương Chất vào
núi đốn củi, chống cán ŕu xem hai ông già đánh cờ, tan cuộc nh́n
lại thấy cán ŕu đă mục nát).
442 Nguyên văn: "chế kim
bát giác tiêu dao". Như vậy trong câu này tiêu dao phải là một danh
từ chỉ đồ vật nhưng hai chữ tiêu dao không hề có nghĩa đó. Đại Việt
sử kư tiền biên (bản in thời Tây Sơn) có chú thích: "Tiêu dao là tên
mũ... cách làm thế nào không khảo được" (BK2, 29a). Tham khảo Vân
đài loại ngữ th́ biết câu trên in thiếu một chữ "tọa" ở cuối câu:
"chế kim bát giác tiêu dao tọa". Lê Quư Đôn viết: "Ghế ngồi của
người Hồ (Hung Nô) khoan chốt, để chéo chân, xỏ dây làm mặt ghế, mở
ra gấp lại chóng lắm, nặng không đến và cân, gọi là "tiêu dao tọa",
tương truyền người hầu của vua Đường Minh Hoàng đă làm chiếc ghế
theo kiểu ấy để đem theo cho tiện ngồi khi theo hầu vua đi chơi ở
ngoài" (Bản dịch, tr.133). Như vậy có lẽ "tiêu dao" không phải là
tên chiếc mũ như ĐVSKTB đă chú, cũng không phải là chiếc kiệu tiêu
dao như ở bản dịch cũ, mà là tiêu dao tọa, có nghĩa là chiếc ghế kéo
như Lê Quư Đôn đă mô tả.
443 Nguyên văn: trường
lang, dăy nhà dài.
444 Chùa Trùng Quang: ở
núi Tiên Du (Tiên Sơn, Hà Bắc).
445 Lâm Tây: tên đạo thời
Lư, Cương mục chú, nhà Trần gọi là đạo Đà Giang, thời thuộc Minh gọi
là châu Gia Hưng, nhà Lê đổi là phủ Gia Hưng. Nay là đất hai tỉnh
Sơn La, Lai Châu.
446 Đô Kim, Thường Tân,
B́nh Nguyên: xem chú thích ??
447 Nguyên văn: "Điểu Lộ
tang viên", xem chú thích ??? tr.????
448 Hoằng Thánh đổi là
Hồng Thánh là do kiêng húy miếu hiệu của chúa Trịnh Tạc (Hoằng Tổ
Dương Vương, ở ngôi chúa 1657-1682).
449 Quảng Nguyên: tên
châu thời Lư, thời thuộc Minh thuộc về đất Uyên huyện, thời Lê đổi
là châu Lộng Nguyên. Nay là đất các huyện Quảng Uyên, Phúc Ḥa,
Thạnh An, tỉnh Cao Bằng.
450 Tây Nông: tên châu,
nay là huyện Tư Nông, tỉnh Bắc Thái.
451 Thảng
Do: tên châu, xem chú BK2, 9b.
452 Vạn
Nhai: tên châu thời Lư, nay là phần đất huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn
và một phần huyện Vơ Nhai, tỉnh Bắc Thái.
453 Vũ
Lặc: tên châu, chưa rơ ở đâu. Cương mục dẫn Đường thư, Địa lư chí:
"Nhà Đường đặt Lung Châu quản lĩnh huyện Vũ Lặc" và cho rằng hai
châu Thảng Do, Vũ Lặc có lẽ ở vào địa hạt tỉnh Cao Bằng và tỉnh Lạng
Sơn ngày nay (CMCB2, 43a).
454 Lănh
Kinh: có lẽ là khúc sông Cầu chảy qua Thị Cầu, tỉnh Hà Bắc.
455 Động
Vũ Kiến: Đại Việt sử lược chép là động Vũ Kiện, thuộc đất huyện
Quảng Ḥa, tỉnh Cao Bằng hiện nay, nhưng chưa biết rơ ở đâu?
456 Huyện
Liên: Đại Việt sử lược chép là huyện Hạ Liên, có lẽ thuộc đất huyện
Ngân Sơn, tỉnh Bắc Thái ngày nay.
457 Lộng
Thạch: tên châu, có lẽ thuộc đất huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng ngày
nay.
458 Định
Biên: tên châu, nay là đất huyện Định Hóa, tỉnh Bắc Thái.
459
Nguyên văn: ngân huyệt.
460 Nghĩa
là: Vàng nổi bạc sinh, họ Nùng dẹp, nước Phiên (chỉ Chiêm Thành) quy
phục.
461 Đại
liêu ban và Thân vương ban: đều là tên tước của nhà Lư.
462 Lư
Nhật Quang: tước Uy Minh hầu, con thứ 8 của Lư Thái Tổ. Đại Việt sử
lược (q2, 7a) chép là Minh Uy hầu.
463 Lôi
Hỏa: tên động, ở phía tây bắc tỉnh Cao Bằng ngày nay. Các động B́nh,
An, Bà đều thuộc về đất tỉnh Cao Bằng.
464 Tư
Lang: nay là đất huyện Trùng Khánh và phần đất đông bắc huyện Quảng
Ḥa (vùng quanh Hạ Lang), tỉnh Cao Bằng.
465 Có lẽ
cũng là địa danh Kha Lăm nhắc ở BK2, 29b.
466 Quan
chức đô: Bản dịch cũ chú là các chức quan chỉ huy quân cận vệ.
467
Nguyên văn: "Đồ tội chư quân sĩ", chỉ những người trước đă phạm tội
đồ (đi đày) sang làm lính.
468 Châu
Văn: xem chú Bk1, 10b.
469 Theo
Lê Quư Đôn, bộ H́nh thư này gồm 3 quyển, nay không c̣n (Đại Việt
thông sử, Nghệ văn chí).
470 Đại
công là hạng tang phục thứ ba trong năm hạng tang phục, chỉ quan hệ
anh em con chú con bác (để tang 9 tháng). Hai hạng trên là Tê thôi
(cháu nội), Trám thôi (các con).
471 Đại
nam: tức đại hoàng nam. Theo Ngô Th́ Sĩ, thời Lư dân đinh đến 18
tuổi th́ ghi tên vào "hoàng sách" (sổ b́a vàng), gọi là "hoàng nam";
20 tuổi trở lên gọi là "đại hoàng nam". Ai nuôi nô bộc riêng chỉ
được nuôi người chưa đến tuổi "hoàng nam".
472 Vũ
Ninh: tên châu từ thời Lư, đến đầu đời Lê Trung hưng kiêng úy của
Trang Tông (Lê Duy Ninh) đổi là Vũ Giang, lại kiêng úy của Uy Nam
Vương Trịnh Giang đọc chệch âm là Vũ Giàng. Nay là đất huyện Quế Vơ,
tỉnh Hà Bắc.
473 Cổ
Lăm: tên gọi thời Đinh Lê của châu Cổ Pháp, xem thêm chú thích 2
tr.??
474 Vua cúng đàn xă tắc
th́ dâng cỗ thái lao (trâu, dê, lợn mỗi thứ 1 con), cúng thần sông
núi th́ dâng cỗ thiếu lao (dê, lợn mỗi thứ 1 con).
475 Đại An: tên cửa biển,
tức Cửa Liêu ở huyện Hải Hậu, tỉnh Hà Nam Ninh, Xem thêm phần chú
thích tr.??
476 Núi Ma Cô: theo Cương
mục, c̣n có tên núi là Lễ Đễ, ở ngoài biển huyện Kỳ Anh (CMCB3, 9a),
tỉnh Hà Tĩnh ngày nay.
477 Vụng Hà Năo (Hà Năo
loan): Cương mục chua sông, Ngũ Bồ, vụng Hà Năo đều không khỏa được
(CMCB3, 10a). Theo Đào Duy Anh, vụng Hà Năo có thể là Vụng Chùa, tên
chữ Hán là Tự Loan, Đại Việt sử lược chep là Vũng Truy (Đất nước
Việt Nam qua các đời, tr.175).
478 Đại Tiểu Trường Sa:
băi cát từ cửa Nhật Lệ đến Cửa Tùng là Đại Trường Sa; băi cát từ Cửa
Việt đến cửa Tư Hiền, là Tiểu Trường Sa.
479 Tư Khách: tên cửa
biển đúng tên thời Lư gọi là cửa Ô Long, thời Trần đổi gọi là cửa Tư
Dung (do tên huyện Tư Dung, châu Hóa); đời Mạc, v́ kiêng húy Mạc
Đăng Dung nên đổi gọi là Tư Khách. Thời Nguyễn đổi là Tư Hiền như
tên gọi hiện nay, ở phía đông nam tỉnh Thừa Thiên - Huế.
480 Sông Ngũ Bồ: Cương
mục chú không rơ ở đâu. Theo Đào Duy Anh (Bản dịch cũ 1, 342), sông
Ngũ Bồ có thể là sông Chợ Củi (hạ lưu sông Thu Bồn) chảy ra cửa Đại
Chiêm, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
481 Sạ Đẩu: tức vua Chiêm
Jaya Sinhavarman II (ở ngôi 1042-1044).
482 Thành Phật Thệ, xem
chú BK1, 18b.
483 Tây Thiên khúc điệu:
ở đây có thể là những khúc hát và múa Chiêm Thành có nguồn gốc Ấn Độ
(Tây Thiên, chỉ Ấn Độ).
484 Trại Bà Ḥa: theo
Cương mục (CB3, 10) ở sông Bà Ḥa, nay là xă Đông Ḥa, huyện Tĩnh
Gia, tỉnh Thanh Hóa.
485 Ly Nhân: nay là đất
huyện Ly Nhân, tỉnh Nam Hà.
486 Vĩnh Khang: nay là
đất huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An.
487 Đăng Châu: tên châu
thời Lư, nay thuộc đất tỉnh Yên Bái và Lào Cai.
488 Quyến khố ty: ty coi
việc kho lụa.
489 Đại Việt sử lược (q2,
8a) chép cung này tên là cung Ngân Hán.
490 Động Vật Ác: ở phía
tây tỉnh Cao Bằng.
491 Chùa Diên Hựu: tức
chùa Một Cột ở Hà Nội ngày nay.
492 Nguyên văn: "lập
thạch trụ vu địa trung". Bản Chính Ḥa và bản VHv.2330 đều in rơ chữ
"địa". Nhưng các bản in của Quốc tử giám (triều Nguyễn) như bản A.3
v.v... sử chữ địa thành chữ tŕ (ao, hồ). Xét ra nguyên bản Chính
Ḥa để chữ địa hợp lư hơn: Khi mới làm chùa chỉ dựng cột đá ở giữa
đất, đến lần trùng tu năm 1105 mới đào hồ "Liên Hoa Đài" ở xung
quanh cột đá (xem: BK3, 15a). Cũng có người giải thích chữ "địa" ở
đây là chữ Nôm, đọc là đ́a tức là ao, hồ. Chúng tôi theo văn bản,
dịch là đất trong khi chờ đợi sự xác minh.
493 Diên Hựu: nghĩa là
kéo dài cơi phúc (chỉ tuổi thọ).
494 Vật Dương: tên động,
ở phía bắc huyện Thạch Lâm, tỉnh Cao Bằng.
495 Kênh Lẫm (Lẫm Cảng):
theo Đại Nam nhất thống chí (q. 14, tỉnh Ninh B́nh), ở địa phận các
xă Thần Phù, Phù Sa và Ngọc Lâm, huyện Yên Mô, nay thuộc tỉnh Hà Nam
Ninh. Kênh đă bị bồi lấp thành đất bằng, chỉ c̣n lại cái đầm gọi là
đầm Lẫm.
496 Trại Hoành Sơn: nay
là huyện Hoành, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
497 Các châu: Ung, Quư,
Đằng, Ngô, Củng, Tầm nay đều thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Hai
châu: Khang, Đoan, nay thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
498 Nguyên văn: "chí
Quảng Châu thành truyền thành công chi ". Hai chữ "truyền thành" ở
đây chưa rơ nghĩa ǵ, ngờ chữ vi (vây), lầm ra chữ truyền; tạm dịch
như trên.
499 Nước Đại Lư: một nước
ở vùng Vân Nam, Trung Quốc, trên địa bàn của nước Nam Chiếu đời
Đường, cư dân chủ yếu là người Di, mà thư tịch cổ Trung Quốc thường
chép là người Thoán, Bặc. Việc quân của Vũ Nhị cứu viện cho Nùng Trí
Cao đánh quân Tống không thấy tài liệu nào nói đến; có thể chỉ mới
có dự định, chưa kịp thực hiện th́ Trí Cao đă chết.
500 Đạo Đặc Ma: tức phủ
Quảng Nam, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc.
501 Chỉ việc Lư Thái Tông
tha tội cho Nùng Trí Cao.
Quyển III
[1a]
Thánh
Tông Hoàng Đế
Tên húy
là Nhật Tôn, con trưởng của Thái Tông. Mẹ là Kim Thiên Thái Hậu họ
Mai, khi trước chiêm bao thấy mặt trăng vào bụng rồi có mang, ngày
25 tháng 2 năm Quư Hợi, Thuận Thiên thứ 14 [1023], sinh vua ở cung
Long Đức. Năm Thiên Thành thứ 1 [1028], được sách phong làm Đông
Cung Thái Tử. Thái Tông băng, bèn lên ngôi báu, ở ngôi 17 năm [1054-
1072], thọ 50 tuổi [1023-1072], băng ở điện Hội Tiên.
Vua khéo
kế thừa, thực ḷng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị
h́nh, vỗ về thu phục người xa, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm,
sửa sang việc văn, pḥng bị việc vơ, trong nước yên tĩnh, đáng gọi
là bậc vua tốt. Song nhọc sức dân xây tháp Báo Thiên, phí của dân
làm cung Dâm Đàm đó là chỗ kém.
Ất Mùi ,
Long Thụy Thái B́nh năm thứ 2 [1055], (Tống Chí Ḥa năm thứ 2). Mùa
xuân, tháng giêng, sửa sang các cung điện trong đại nội.
Tháng 2,
lấy ngày sinh nhật làm thánh tiết Thừa Thiên.
Nước
Chiêm Thành sang cống.
Mùa đông,
tháng 10, [1b] đại hàn, vua bảo các quan tả hữu rằng: "Trẫm ở trong
cung, sưởi than xương thú, mặc áo lông chồn c̣n rét thế này, nghĩ
đến người tù bị giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa rơ ngay
gian, ăn không no bụng, mặc không kín thân, khốn khổ v́ gió rét,
hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy lệnh cho
Hữu ty phát chăn chiếu, và cấp cơm ăn ngày hai bữa.
Nhà Tống
phong cho vua làm Giao chỉ Quận Vương.
Bính
Thân, [Long Thụy Thái B́nh] năm thứ 3 [1056], (Tống Gia Hựu năm thứ
1). Mùa xuân, tháng giêng nước Chân Lạp sang cống.
Mùa hạ,
tháng 4, xuống chiếu khuyến nông.
Làm chùa
Sùng Khánh Báo Thiên, phát 1 vạn 2 ngh́n cân đồng để đúc chuông lớn.
Vua thân làm bài minh502 .
Đinh Dậu,
[Long Thụy Thái B́nh] năm thứ 4 [1057], (Tống Gia Hựu năm thứ 2).
Mùa xuân, tháng giêng, xây bảo tháp Đại Thắng Tự Thiên cao vài [2a]
chục trượng, theo kiểu 12 tầng (tức là tháp Báo Thiên).
Sai sứ
đem con thú lạ sang biếu nhà Tống nói là con lân. Tư Mă Quang nói:
"Nếu là con lân thực mà đến không phải thời cũng chẳng lấy ǵ làm
điềm tốt, nếu không phải lân, th́ làm cho người phương xa chê cười.
Xin hậu thưởng rồi bảo đem về".
Mùa đông,
tháng 12, làm hai chùa Thiên Phúc và Thiên Thọ. Đúc hai pho tượng
Phạn Vương và Đế Thích bằng vàng để phụng thờ. (Triều nhà Trần làm
lễ yết chùa, tức là ở hai chùa này).
Mậu Tuất,
[Long Thụy Thái B́nh] năm thứ 5 [1058], (Tống Gia Hựu năm thứ 3).
Mùa xuân, sửa chữa cửa Tường Phù.
Kỷ Hợi ,
[Chương Thánh Gia Khánh] năm thứ 1 [1059], (Tống Gia Hựu năm thứ 4).
Mùa xuân, tháng 3, đánh Khâm Châu nước Tống, khoe binh uy rồi về, v́
ghét nhà Tống phản phúc.
Mùa thu,
tháng 8, vua ngự điện Thủy Tinh cho các quan vào chầu, truyền các
quan đội mũ phốc đầu503 , đi hia, mới cho vào. Đội mũ phốc đầu, đi
hia bắt đầu từ đấy.
[2b] Định
hiệu quân, gọi là Ngự Long, Vũ Thắng, Long Dực, Thần Điện, Bổng
Thánh, Bảo Thắng, Hùng Lược, Vạn Tiệp đều chia làm tả hữu, thích vào
trán ba chữ "Thiên tử quân".
Canh Tư,
[Chương Thánh Gia Khánh] năm thứ 2 [1060], (Tống Gia Hựu năm thứ 5).
Mùa xuân, châu mục Lạng Châu là Thân Thiệu Thái đi bắt những binh
lính bỏ trốn vào đất Tống, bắt được chỉ huy sứ là Dương Bảo Tài và
quân lính, trâu ngựa đem về.
Mùa thu,
tháng 7, quân Tống sang xâm lấn, không được, bèn sai Thị Lang bộ lại
là Dư Tĩnh đến Ung Châu để hội nghị. Vua sai Phí Gia Hựu đi. Tĩnh
hậu tặng cho Gia Hựu và đưa thư xin trả Bảo Tài cho họ, vua không
nghe.
Tháng 8,
phiên dịch nhạc khúc và điệu đánh trống của Chiêm Thành, sai nhạc
công ca hát.
Làm hành
cung cạnh hồ Dâm Đàm504 để xem đánh cá.
Tân Sửu,
[Chương Khánh Gia Thánh] năm thứ 3 [1061], (Tống Gia Hựu năm thứ 6).
Mùa xuân, tháng 2, chọn con gái dân gian 12 người vào hậu [3a] cung.
Châu La Thuận dâng voi
trắng.
Nhâm Dần, [Chương Thánh
Gia Khánh] năm thứ 4 [1062], (Tống Gia Hựu năm thứ 7).
Mùa xuân, quận Gia Lâm
dâng con rùa 3 chân, mắt có 6 con ngươi.
Quư Măo, [Chương Thánh
Gia Khánh] năm thứ 5 [1063], (Tống Gia Hựu năm thứ 8).
Bấy giờ vua xuân thu đă
nhiều, tuổi 40 mươi mà chưa có con trai nối dơi, sai Chi hậu nội
nhân Nguyễn Bông làm lễ cầu tự ở chùa Thánh Chúa, sau đó _ Lan phu
nhân có mang, sinh hoàng tử Càn Đức tức Nhân Tông, (Tục truyền rằng
vua cúng khấn cầu tự chưa thấy hiệu nghiệm, nhân đi chơi khắp các
chùa quán, xa giá đi đến đâu, con trai con gái đổ xô đến xem không
ngớt, duy có một người con gái hái dâu cứ nép trong bụi cỏ lan. Vua
trông thấy, gọi đưa vào cung, được vua yêu, phong làm _ Lan phu
nhân. Vua muốn có con trai, sai Bông đem hương cầu đảo ở chùa Thánh
Chúa. Nhà sư dậy cho Bông thuật đầu thai thác hoá. Bông nghe theo.
Việc phát giác, đem chém Bông ở trước cửa chùa. Người sau gọi chỗ
ấy505 là Đồng Bông. Chùa ở xă Dịch Vọng, huyện Từ Liêm506 , Đồng
Bông ở phía Tây trước cửa chùa, nay hăy c̣n.
Giáp Th́n, [Chương Thánh
Gia Khánh] năm thứ 6 [1064], (Tống Anh Tông Thự, Trị B́nh năm thứ
1). Mùa xuân, tháng giêng sai sứ sang Tống.
Mùa hạ, tháng 4, [3b] vua
ngự ở điện Thiên Khánh xử kiện. Khi ấy công chúa Động Thiên đứng hầu
bên cạnh, vua chỉ vào công chúa, bảo ngục lại rằng: "Ta yêu con ta
cũng như ḷng ta làm cha mẹ dân. Dân không hiểu biết mà mắc vào h́nh
pháp, trẫm rất thương xót, từ nay về sau, không cứ ǵ tội nặng hay
nhẹ đều nhất luật khoan giảm".
Bính Ngọ, [Long Chương
Thiên Tự] năm thứ 1 [1066], (Tống Trị B́nh năm thứ 3). Mùa xuân,
tháng giêng, ngày 25, giờ Hợi, hoàng tử Càn Đức sinh. Ngày hôm sau,
lập làm hoàng thái tử, đổi niên hiệu, đại xá phong mẹ thái tử là _
Lan phu nhân làm Thần phi.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói :
thái tử là căn bản của nước, không lập sớm không được. Kinh Xuân thu
chép: "Con là Đồng sinh" ư cũng bởi đó. Vua tuổi đă cao, may mà sinh
hoàng tử, [4a] mừng vui bội phần, vội lập làm hoàng thái tử, đại xá
thiên hạ, để yên ḷng mong mỏi của muôn dân là phải lắm.
Mùa thu, tháng 9, sai
lang tướng là Quách Măn xây tháp ở núi Tiên Du507 .
Lái buôn người nước Trảo
Oa508 dâng ngọc châu dạ quang, trả tiền giá 1 vạn quan.
Đinh Mùi, [Long Chương
Thiên Tự] năm thứ 2 [1067], (Tống Trị B́nh năm thứ 4). Mùa xuân,
tháng 2, các nước Ngưu Hống509 , Ai Lao dâng vàng bạc, trầm hương,
sừng tê, ngà voi và các thứ sản vật địa phương.
Nhà Tống gia phong vua
làm Khai phủ nghi đồng tam ti, rồi lại gia phong làm Nam B́nh Vương.
Cho Viên ngoại lang là Ngụy Trọng Hoà và Đặng Thế Tư làm Đô hộ phủ
sĩ sư510 , đổi mười người thư gia511 làm án ngục lại512 . Cho Trọng
Hoà và Thế Tư mỗi người bổng hàng năm là 50 quan tiền, 100 bó lúa và
các thứ cá muối v..v.. [4b] ngục lại mỗi người 20 quan tiền, 100 bó
lúa để nuôi đức liêm khiết của họ.
Mậu Thân513 , [Long
Chương Thiên Tự] năm thứ 3 [1068], (từ tháng 2 về sau là niên hiệu
Thiên Huống Bảo Tượng thứ 1; Tống Thần Tông Hy Ninh năm thứ 1). (Xét
bài kư tháp Thăng B́nh, Thanh Hoá lấy năm này làm Thần vũ năm thứ 1
là sai).
Mùa xuân, tháng 2, hoàng
tử là Minh Nhân vương (không rơ tên) sinh, đó là người em cùng mẹ
của Nhân Tông.
Châu Chân Đăng514 dâng 2
con voi trắng, nhân đó đổi niên hiệu là Thiên Huống Bảo Tượng515 năm
thứ 1.
Đổi hương Thổ Lỗi làm
Hương Siêu Loại516 , v́ là nơi sinh của Nguyên Phi.
Chiêm thành dâng voi
trắng, sau lại quấy nhiễu biên giới.
Kỷ Dậu517 , [Thiên Huống
Bảo Tượng] năm thứ 2 [1069], (Từ tháng 7 về sau là niên hiệu Thần Vũ
năm thứ 1; Tống Hy Ninh năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 2, vua thân đi
đánh Chiêm Thành, bắt được
vua nước ấy là Chế Củ518
và dân chúng 5 vạn người. trận này vua đánh chiêm thành măi không
được, đem quân về đến châu Cư Liên, nghe tin Nguyên phi giúp việc
nội trị, ḷng dân [5a] cảm hoá hoà hợp. Trong cơi vững vàng, tôn
sùng Phật giáo, dân gọi là bà Quan Âm, vua nói: "Nguyên phi là đàn
bà c̣n làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng được việc ǵ hay
sao?". Bèn quay lại đánh nữa, thắng được.
Mùa hạ, tháng 6 đem quân
về. Mùa thu, tháng 7, vua từ Chiêm thành về đến nơi, dâng tù ở Thái
Miếu, đổi niên hiệu là Thần Vũ năm thứ 1. Chế Củ xin dâng ba châu
Địa Lư519 , Ma Linh520 , Bố Chính521 để chuộc tội. Vua bằng ḷng,
tha cho Chế Củ về nước (Địa Lư nay là tỉnh Quảng nam)522 .
Mùa đông, tháng 10, ngày
Đinh Sửu, có đám mây sắc đỏ sát mặt trời.
Canh Tuất, Thần Vũ năm
thứ 2 [1070], (Tống Hy Ninh, năm thứ 3). Mùa xuân, làm điện Tử Thần.
Mùa hạ, tháng 4 đại hạn,
phát thóc, và tiền lụa trong kho để chẩn cấp cho dân nghèo.
Mùa thu, tháng 8, làm Văn
Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối523 , vẽ tượng Thất
thập nhị hiền524 , bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến học ở đây.
[5b] Tân Hợi , [Thần Vũ]
năm thứ 3 [1071], (Tống Hy Ninh, năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng,
vua viết bia chữ "Phật" dài 1 trượng 6 thước đặt ở chùa Tiên Du525 .
Từ mùa xuân đến mùa hạ không mưa.
Chiêm Thành sang cống.
Định tiền chuộc tội theo
thứ bậc khác nhau.
Mùa đông, tháng 12, vua
không khỏe. Xuống chiếu cho Hữu ty ai vào lầm hành lang tả hữu quan
chức đô526 th́ đánh 80 trượng.
Nhâm Tư, [Thần Vũ] năm
thứ 4 [1072], (Từ tháng giêng về sau là Nhân Tông, Thái Ninh năm thứ
1; Tống Hy Ninh năm thứ 5). Mùa xuân, tháng giêng, ngày Canh Dần,
vua băng ở điện Hội Tiên. [Bầy tôi] dâng hiệu là Ứng Thiên Sùng Nhân
Chí Đạo Uy Khánh Long Tường Minh Văn Duệ Vũ Hiếu Đức Thánh Thần
Hoàng Đế, miếu hiệu là Thánh Tông.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
Xót thương v́ h́nh ngục, nhân từ với nhân dân, là việc đầu tiên của
vương chính. Thánh Tông lo tù nhân trong ngục hoặc có kẻ vô tội mà
chết v́ đói rét, [6a] cấp cho chiếu chăn ăn uống để nuôi sống, lo
quan lại giữ việc h́nh ngục hoặc có kẻ v́ nhà nghèo mà nhận tiền đút
lót, cấp thêm cho tiền bổng và thức ăn để nhà được giàu đủ. Lo dân
thiếu ăn th́ xuống chiếu khuyến nông, gặp năm đại hạn th́ ban lệnh
chẩn cấp người nghèo, trước sau một ḷng, đều là thành thực. Huống
chi lại tôn sùng đạo học, định rơ chế độ, văn sự thi hành mau chóng
bên trong; phía nam b́nh Chiêm; phía bắc đánh Tống, uy vũ biểu dương
hiển hách bên ngoài. Tuy có việc lầm lỗi nhỏ khác cũng vẫn là bậc
vua hiền. Hoặc có người bảo là vua nhân nhu có thừa mà cương đoán
không đủ, ngu ư chưa cho là phải.
Hoàng thái tử Càn Đức lên
ngôi trước linh cữu, đổi niên hiệu là Thái Ninh năm thứ 1. Bấy giờ
vua mới 7 tuổi, tôn mẹ đẻ là _ Lan nguyên phi làm Hoàng thái phi,
tôn mẹ đích là Thượng Dương thái hậu [6b] họ Dương làm Hoàng thái
hậu, buông rem cùng nghe chính sự, Thái sư Lư Đạo Thành giúp đỡ công
việc.
Mùa hạ, tháng 4, ngày
mồng 8, vua xem lễ tắm Phật.
Vua bắt đầu ngự điện
Thiên An coi chầu. Tha các tù ở phủ Đô hộ.
NHÂN TÔNG HOÀNG ĐẾ
Húy Càn Đức, con trưởng
của Thánh Tông, mẹ đẻ là thái hậu Linh Nhân, sinh vua ngày 25 tháng
giêng năm Bính Ngọ, Long Chương Thiên Tự thứ 1 [1066], ngày hôm sau
lập hoàng thái tử. Thánh Tông băng, vua lên ngôi hoàng đế, ở ngôi 56
năm [1072 - 1127], thọ 63 tuổi [1066 - 1127], băng ở điện Vĩnh
Quang. Vua trán dô mặt rồng, tay dài quá gối, sáng suốt thần vơ, trí
tuệ hiếu nhân, nước lớn sợ, nước nhỏ mến, thần giúp người theo,
thông âm luật, chế ca nhạc, dân được giàu đông, ḿnh được thái b́nh,
là vua giỏi của triều Lư. Tiếc rằng mộ đạo Phật, thích điềm lành, đó
là điều lụy cho đức tốt.
Qúy Sửu, Thái Ninh năm
thứ 2 [1073], (Tống Hy Ninh năm thứ 6). Bấy giờ mưa dầm, rước phật
Pháp Vân527 về kinh để cầu tạnh. Cúng thần núi Tản Viên.
Giam Hoàng thái hậu họ
Dương, tôn Hoàng thái phi làm Linh [7a] Nhân hoàng thái hậu. Linh
nhân có tính ghen, cho ḿnh là mẹ đẻ mà không được dự chính sự, mới
kêu với vua rằng: "Mẹ già khó nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú
qúy người khác được hưởng thế th́ sẽ để mẹ già vào đâu?". Vua bèn
sai đem giam Dương thái hậu và 76 người thị nữ vào cung Thượng
Dương, rồi bức phải chết chôn theo lăng Thánh Tông.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
Nhân Tông là người nhân hiếu, Linh Nhân là người sùng Phật, sao lại
đến nỗi giết đích thái hậu, hăm hại người vô tội, tàn nhẫn đến thế
ư? V́ ghen là thường t́nh của đàn bà, huống chi lại mẹ đẻ mà không
được dự chính sự. Linh Nhân dẫu là người hiền cũng không thể nhẫn
nại được, cho nên phải kêu với vua. Bấy giờ vua c̣n trẻ thơ, chỉ
biết chiều ḷng mẹ là thích, mà không biết là lỗi to. Thái sư Lư Đạo
Thành phải ra trấn bên ngoài, biết đâu chẳng v́ can gián [7b] việc
ấy?
Nhà Tống phong vua làm
Giao Chỉ Quận Vương.
Thái sư Lư Đạo Thành lấy
chức Tả gián nghị đại phu ra coi châu Nghệ An. Đạo Thành lập viện
Địa Tạng ở trong miếu Vương Thánh châu ấy, ở giữa viện đặt tượng
Phật và vị hiệu của Thánh Tông, sớm hôm thờ phụng.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
Đạo Thành là đại thần cùng họ, đương khi để tang Thánh Tông v́ có
việc ra trấn ở ngoài, ḷng cảm nhớ tiên đế là chân t́nh, nhân mượn
cớ thờ Phật để thờ vua, đó chỉ là việc nhất thời mà thôi. Về sau
những người trấn thủ châu Nghệ An vẫn lấy nơi ấy làm chỗ phụng thờ
Thánh Tông, suốt cả triều Lư không ai chê việc ấy là trái. Phàm vua
không được tế ở nhà bề tôi, cha không được tế ở nhà con thứ, huống
chi lại thờ chung với người Di. [8a] Đó là lỗi của nhà Lư sùng Phật.
Giáp Dần, [Thái Ninh] năm
thứ 3 [1074], (Tống Hy Ninh năm thứ 7). Mùa xuân có chim sẻ trắng
đậu ở cấm đ́nh. Chiêm Thành lại quấy rối biên giới.
Cho Lư Đạo Thành làm Thái
phó b́nh chương quân quốc trọng sự.
Xuống chiếu cho các công
thần 80 tuổi đều được chống gậy ngồi ghế khi vào chầu.
Ất Măo, [ Thái Ninh] năm
thứ 4 [1075], (Tống Hy Ninh năm thứ 8). Mùa xuân, tháng 2, xuống
chiếu tuyển Minh kinh bác học và thi Nho học tam trường. Lê Văn
Thịnh trúng tuyển, cho vào hầu vua học.
Vương An Thạch nhà Tống
cầm quyền, tâu [với vua Tống] rằng nước ta bị Chiêm Thành đánh phá.
Quân c̣n sót lại không đầy vạn người, có thể dùng kế chiếm lấy được.
Vua Tống sai Thẩm Khởi, và Lưu di làm tri Quế Châu528 ngầm dấy binh
người Man động529 , đóng thuyền bè, tập thủy chiến, cấm các châu
huyện không được mua bán với nước ta. Vua biết tin, sai Lư Thường
Kiệt, [8b] Tông Đản đem hơn 10 vạn binh đi đánh. Quân thủy, quân bộ
đều tiến530 . Thường Kiệt đánh các châu Khâm, Liêm; Đản vây châu
Ưng, Đô giám Quảng Tây nhà Tống là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu.
Thường Kiệt đón đánh ở cửa ải Côn Lôn (nay là phủ Nam Ninh, tỉnh
Quảng Tây của nhà Minh) phá tan được, chém Thủ Tiết tại trận. Tri
Ưng châu là Tô Giám cố thủ không hàng. Quân ta đánh đến hơn 40 ngày,
chồng bao đất trèo lên thành. Thành bèn bị hạ. Giám cho gia thuộc 36
người chết trước, chôn xác vào hố, rồi châm lửa tự đốt chết. người
trong thành cảm ân nghĩa của Giám, không một người nào chịu hàng,
giết hết hơn 5 vạn 8 ngh́n người, cộng với số người chết ở các châu
Khâm, Liêm th́ đến hơn 10 vạn. Bọn Thường Kiệt bắt sống người ba
châu ấy đem về. Vua Tống truy tặng Giám là Phụng quốc quân tiết độ
sứ, thụy là Trung Dũng, cho một khu nhà lớn ở kinh thành, 10 khoảnh
ruộng tốt cho thân tộc [9a] 7 người làm quan, cho con là Nguyên chức
Cáp môn chi hậu.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
Nhà Tống cho Tô Giám thụy là Trung Dũng cũng đủ nêu rơ sự trung dũng
của Lư Thường Kiệt, há có thể xem như hạng Túc Sa531 đâu?
Mùa thu, tháng 8, ngày
mồng 1 Canh Dần, nhật thực.
Sai Lư Thường Kiệt tổng
lĩnh các quân đi đánh Chiêm Thành, không thắng được. Thường Kiệt bèn
họa địa đồ h́nh thế núi sông của ba châu Bố Chính, Địa Lư, Ma Linh
rồi về. Đổi châu Địa Lư làm châu Lâm B́nh, châu Ma Linh là châu Minh
Linh, chiêu mộ dân chúng đến đấy ở. Cho Thường Kiệt làm Thái úy.
Bính Th́n, [Thái Ninh]
năm thứ 5 [1076], (từ tháng 4 về sau là niên hiệu Anh Vũ Chiêu Thắng
năm thứ 1; Tống Hy Ninh năm thứ 9). Mùa xuân, tháng 3, nhà Tống sai
tuyên phủ sứ Quảng Nam532 là Quách Quỳ làm Chiêu Thảo sứ, Triệu Tiết
làm phó, đem quân 9 tướng, hợp với Chiêm Thành và [9b] Chân Lạp sang
xâm lấn nước ta. Vua sai Lư Thường Kiệt đem quân đón đánh, đến sông
Như Nguyệt533 đánh tan được. Quân Tống chết hơn 1 ngh́n người. Quách
Quỳ lui quân, lại lấy châu Quảng Nguyên của ta (người đời truyền
rằng Thường Kiệt làm hàng rào theo dọc sông để cố thủ. Một đêm quân
sĩ chợt nghe ở trong đền Trương tướng quân có tiếng đọc to rằng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phân định tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
(Sông núi nước Nam, Nam
đế ở,
Rơ ràng phân định tại
sách trời Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm? Cứ thử làm xem, chuốc bại
nhơ!534 )
Sau đó quả nhiên như thế.
(Hai anh em Trương tướng quân, anh tên là Khiếu535 , em tên là Hát,
đều là tướng giỏi của Triệt Việt Vương. [Triệu] Việt Vương bị [Hậu]
Lư Nam Đế đánh bại mà mất nước. Nam Đế gọi cho làm quan, hai người
đều nói: "Tôi trung không thờ kẻ làm vua đă giết hại chủ ḿnh". Rồi
ẩn ḿnh trốn ở núi Phù Long, Nam Đế gọi mấy lần không chịu ra, mới
hạ lệnh ai chém được thủ cấp hai người th́ thưởng ngh́n vàng. Hai
người đều uống thuốc độc chết. Nam Tấn Vương nhà Ngô đi đánh giặc Lư
Huy ở châu Tây Long đóng quân ở cửa Phù La536 , chiêm bao thấy có
hai người xin theo giúp quân, nói rằng trời thương họ là trung thần
không thờ hai vua, bổ làm "Than hà Long quân phó tuần Vũ Lạng nhị
giang" và Chi mạn nguyên tuần giang đô phó sứ". Đến khi dẹp xong
giặc, Nam Tấn Vương nhà Ngô phong cho anh làm "Đại đương giang đô hộ
quốc thần vương", lập đền thờ ở cửa sông Như Nguyệt, em là "Tiểu
đương giang đô hộ quốc thần vương", lập đền thở ở cửa sông Nam quận
tức là đền thờ này).
Mùa hạ, tháng 4, đại xa,
đổi niên hiệu làm Anh Vũ Chiêu Thắng năm thứ 1.
Xuống chiếu cầu lời nói
thẳng.
[10a] Cất nhắc những
người hiền lương có tài văn vơ cho quản quân dân.
Chọn quan viên văn chức,
người nào biết chữ cho vào Quốc tử giám.
Đinh Tỵ, [Anh Vũ Chiêu
Thắng] năm thứ 2 [1077], (Tống Hy Ninh năm thứ 10). Mùa xuân, mở hội
Nhân Vương537 ở điện Thiên An.
Tháng 2, thi lại viện
bằng phép viết chữ, phép tính và h́nh luật.
Tháng 3, lại đem đại binh
sang đánh hai châu Khâm và Liêm nước Tống, nói lấy tiếng rằng nhà
Tống thi hành phép thanh miêu538 , tàn hại dân Trung quốc, cho nên
đem quân sang hỏi tội để cứu giúp nhau539 .
Mùa đông, tháng 12, Triệu
Tiết nhà Tống sang xâm lấn, không được lại đem quân về540 .
Mậu Ngọ, [Anh Vũ Chiêu
Thắng] năm thứ 3 [1078], (Tống Nguyên Phong năm thứ 1). Mùa xuân,
tháng giêng, sửa lại thành Đại La, sai Đào Tống Nguyên đem biếu nhà
Tống 5 con voi thuần, xin trả lại các châu Quảng Nguyên, Tô Mậu, và
những người các châu ấy bị bắt đi.
[10b] Kỷ Mùi, [Anh Vũ
Chiêu Thắng] năm thứ 4 [1079], (Tống Nguyên Phong năm thứ 2). Châu
Lạng dâng voi trắng.
Mưa đá.
Được mùa to.
Nhà Tống đem Thuận Châu
trả cho ta (tức là châu Quảng Nguyên, nhà Tống đổi làm Thuận Châu).
Canh Thân, [Anh Vũ Chiêu
Thắng] năm thứ 5 [1080], (Tống Nguyên Phong năm thứ 31). Mùa xuân,
tháng 2, đúc chuông lớn cho chùa Diên Hựu. Chuông đúc xong, đánh
không kêu, nhưng cho rằng nó đă thành khí, không nên tiêu hủy, bèn
đem bỏ ở Quy Điền [ruộng rùa] của chùa. Ruộng ấy, thấp ướt, có nhiều
rùa, người bấy giờ gọi là chuông Quy Điền.
Mùa thu, tháng 8, móc
ngọt xuống. Vua đem đua thuyền.
Tân Dậu, /Anh Vũ Chiêu
Thắng/ năm thứ 6 [1081], (Tống Nguyên Phong năm thứ 4). Mà xuân, mặt
trời có hai quầng sáng. Trả lại cho nhà Tống dân và lính bị bắt ở ba
châu Ung, Khâm, Liêm, v́ nhà Tống đă trả lại ta các châu Quảng
Nguyên.
Mùa đông, tháng 10, Thái
[11a] sư Lư Đạo Thành chết.
Nhâm Tuất, /Anh Vũ Chiêu
Thắng/ năm thứ 4 [1082] , (Tống Nguyên Phong năm thứ 5). Mùa xuân,
gả công chúa Khâm Thánh cho châu mục châu Vị Long là Hà Di Khánh.
Quư Hợi, /Anh Vũ Chiêu
Thắng/ năm thứ 8 [1083] , (Tống Nguyên Phong năm thứ 6). Mùa xuân,
vua thân duyệt các hoàng nam541 , định làm 3 bậc.
Rồng vàng bay từ điện Tử
Thần đến điện Hội Long.
Giáp Tư, /Anh Vũ Chiêu
Thắng/ năm thứ 9 [1084] , (Tống Nguyên Phong năm thứ 7). Mùa hạ,
tháng 6, sai thi lang bộ Binh Lê Văn Thịnh đến trại Vĩnh B́nh cùng
với người Tống bàn việc cương giới.
Xuống chiếu cho thiên hạ
nung ngói lợp nhà.
Định biên giới.
Nhà Tống trả lại cho ta 6
huyện 3 động. Người Tống có thơ rằng:"Nhân tham Giao Chỉ tượng,
khướt thất Quảng Nguyên kim" (v́ tham voi Giao Chỉ, bỏ mất vàng
Quảng Nguyên).
[11b] Ất sửu, /Quảng Hựu/
năm thứ 1 [1085] , (Tống Nguyên Phong năm thứ 8). Cho Lê Văn Thịnh
làm Thái sư. Bấy giờ thiên hạ vô sự, Hoàng hậu đi chơi khắp các nơi
núi sông, ư muốn xây dựng chùa tháp.
Bính Dần, /Quảng Hựu/ năm
thứ 2 [1086] , (Tống Triết Hú, Nguyên Hựu năm thứ 1). mùa xuân,
Nguyễn Viễn dâng con rùa 6 chân, trên lưng có vạch chữ.
Mùa thu, tháng 8, thi
người có văn học trong nước, sung làm quan ở Hàn lâm viện, Mạc Hiển
Tích trúng tuyển, bổ làm Hàn lâm học sĩ.
Làm chùa ở núi Đại Lăm542
.
Đinh Măo, /Quảng Hựu/ năm
thứ 3 [1087] , (Tống Nguyên Hựu năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 3, dựng
bí thư các.
Nhà Tống phong làm Nam
B́nh Vương.
Mùa đông, tháng 10, vua
ngự đến chùa Lăm Sơn. Đêm ban yến cho các quan, vua thân làm hai bài
thơ Lăm Sơn dạ yến.
Mậu Th́n, /Quảng Hựu/ năm
thứ 4 [1088] , (Tống Nguyên Hựu năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng,
phonh nhà sư Khô Đầu làm Quốc sư (có thuyết nói là cho [12a] tiết
việt, cùng với Tể tướng đứng trên điện, xét đoán công việc và đơn từ
kiện tụng của thiên hạ, chưa chắc là có thể, có lẽ bấy giờ Nhân Tông
sùng đạo Phật, phong làm Quốc sư để hỏi việc nước, cũng như Lê Đại
Hành đối với Ngô Khuông Việt mà thôi). Dặt chức thư gia mười hỏa543
.
Định các chùa trong nước
làm ba hạng đại, trung và tiểu danh lam, cho quan văn chức cao kiêm
làm đề cử544 . Bấy giờ nhà chùa có điền nô và kho chứa đồ vật, cho
nên đặt chức ấy.
Mùa đông, tháng 10, xây
tháp chùa Lăm Sơn.
Kỷ Tỵ, /Quảng Hựu/ năm
thứ 5 [1089] , (Tống Nguyên Hựu năm thứ 4). Mùa xuân, tháng 3, định
các chức văn vơ, quan hầu vua và các chức tạp lưu.
Quân nhà Tống /xâm phạm/
vào châu Thạch Tê545 .
Đào ng̣i lănh kinh546 .
Canh Ngọ, /Quảng Hựu/ năm
thứ 6 [1090] , (Tống Nguyên Hựu năm thứ 5). Làm cung hợp hoan.
Tân Mùi, /Quảng Hựu/ năm
thứ 7 [1091] , (Tống Nguyên Hựu năm thứ 6). Mùa xuân, vua ngự đến
Lạng Sơn xem bắt voi. Mùa Đông, tháng 11, cho Hà Ư làm Thiếu úy tri
điện tiền chư quân sự.
Lê Toàn Nghĩa dâng [12b]
con rùa năm sắc.
Nhâm Thân, /Quảng Hựu/
năm thứ 7 [1092] , (Tống Quang Hựu năm thứ 8), (Ừ tháng 8 về sau là
niên hiệu Hội phong năm thứ 1; Tống Nguyên Hựu năm thứ 7). Mùa Thu,
tháng 8 đổi niên hiệu làm Hội Phong năm thứ 1.
Được mùa to. Định sổ
ruộng, thu tô mỗi mẫu 3 thăng547 để cấp lương cho quân.
Qúy Dậu, /Hội Phong/ năm
thứ 2 [1093] , (Tống Nguên hựu năm thứ 8). Cây ưu bát đàm /cây
sung/548 nở hoa.
Giáp Tuất, /Hội Phong/
năm thứ 3 [1094] , (Tống Thiệu Thánh năm thứ 1). Mùa xuân, tháng
giêng, sai Hàn Lâm học sĩ Mạc Hiển Tích sang sứ Chiêm Thành đ̣i lễ
tuế cống.
Mùa Hạ, tháng 4, tháp
chùa Lăm Sơn xây xong.
Ất Hợi, /Hội Phong/ năm
thứ 4 [1095] , (Tống Thiệu Thánh năm thứ 2). Mùa xuân, các vương vào
chầu.
Mùa Hạ, tháng 6, đại hạn.
Thả tù, giảm hoặc miễn các khoản tang thuế543 .
Trời mưa.
Bính Tư, /Hội Phong/ năm
thứ 5 [1096] , (Tống Thiệu Thánh năm thứ 3). Mùa Xuân, tháng 3, Lê
Văn Thịnh mưu làm phản, tha tội chết, [13a] an trí ở Thao Giang550 .
Bấy giờ vua ra hồ Dâm Đàm, ngự trên thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có
mây mù nổi lên, trong đám mù nghe có tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái
chèo rào rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát mây mù tan, thấy trong
thuyền có con hổ, mọi người sợ tái mặt, nói: "Việc nguy rồi!". Người
đánh cá là Mạc Thận quăng lưới trùm lên con hổ, th́ ra là Thái sư Lê
Văn Thịnh. Vua nghĩ Thịnh là đại thần có công giúp đỡ, không nỡ
giết, đày lên trại đầu Thao Giang. Thưởng cho Mục Thận quan chức và
tiền của, lại cho đất ở Tây Hồ làm thực ấp. Trước đấy Văn Thịnh có
gia nô người nước Đại Lư551 có phép thuật kỳ lạ, cho nên mượn thuật
ấy toan làm chuyện thí nghịch.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
Kẻ làm tôi /phạm tội/ giết vua cướp ngôi mà được miễn tội chết, thế
là sai trong việc h́nh, lỗi ở vua tin sùng đạo Phật.
[13b] Đinh Sửu, /Hội
Phong/ năm thứ 6 [1097] , (Tống Thiệu Thánh năm thứ 4). Mùa xuân,
tháng giêng, xuống chiếu kiểm định các lệ, đều phỏng theo các điển
cũ.
Mùa Thu,
tháng 8, sao mọc ban ngày. Bấy giờ trong nước giàu đủ, Thái hậu làm
nhiều chùa Phật.
Mậu Dần,
/Hội Phong/ năm thứ 7 [1098] , (Tống Nguyên Phù năm thứ 1). Mùa Thu,
tháng 8, động đất.
Sao Chổi
hiện ra.
Kỷ Măo,
/Hội Phong/ năm thứ 8 [1098] , (Tống Nguyên Phù năm thứ 2). Rồng
thần hiện xuống ở cây mai.
Canh
Th́n, /Hội Phong/ năm thứ 9 [1100] , (Tống Nguyên Phù năm thứ 3).
Mùa Đông, tháng 12, bệnh dịch lớn.
Tân Tỵ,
Long Phù năm thứ 1 [1101] , (Tống Huy Tông Cát, Kiến Trung Tĩnh Quốc
năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, đổi niên hiệu. Cho Thái úy Lư
Thường Kiệt kiêm chức Nội thị phán thủ đô áp nha hành điện nội ngoại
đô tri sự.
Sửa chùa
Diên Hựu.
Nhâm Ngọ,
/Long Phù/ năm thứ 2 [1102] , (Tống Sùng Ninh năm thứ 1). Mùa xuân,
tháng giêng, ngày Lập xuân; tuyết lành xuống.
Tháng 2,
[14a] nước to. Sai Hoàng hậu và các phi tần trai giới lập đàn chay
để cầu tự.
Quí Mùi,
/Long Phù/ năm thứ 3 [1103] , (Tống Sùng Ninh năm thứ 2). Mùa xuân,
Thái hậu phát tiền ở kho Nội phủ để chuộc những con gái nhà nghèo đă
phải bàn đi ở đem gă cho những người góa vợ.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Con gái nhà nghèo đến phải cầm thân làm mướn, con
trai nhà nghèo đến nỗi không có vợ , đó là cùng dân trong thiên hạ.
Thái hậu đổi đời cho họ, cũng là việc làm nhân chính vậy.
Mùa Đông,
tháng 10, người Diễn Châu là Lư Giác mưu làm phản. Giác trước học
được thuật lạ, có thể biến cây cỏ làm người, bèn chiêu tập những kẻ
vô lại chiếm cứ châu ấy, đắp thành làm loạn. Việc tâu lên, vua sai
bọn Lư Thường Kiệt đi đánh. Giác thua trốn sang Chiêm Thành, dư đảng
đều bị dẹp yên.
Chiêm
Thành cướp [14b] biên giới.
Giáp
Thân, /Long Phù/ năm thứ 4 [1104] , (Tống Sùng Ninh năm thứ 3). Mùa
xuân, tháng 2, sai Lư Thường Kiệt đi đánh Chiêm Thành, nói t́nh h́nh
hư thực của nước ta. Vua Chiêm Thành là Chế Ma Na552 nhân thế đem
quân vào cướp, lấy lại 3 châu Địa Lư v.v... mà Chế Củ đă dâng. Đến
đây, sai Lư Thường Kiệt đi đánh, phá được, Chế Ma Na lại dâng nộp
đất ấy.
Tháng 3,
định lại binh hiệu của quân cấm vệ.
Ất Dậu,
/Long Phù/ năm thứ 5 [1105] , (Tống Sùng Ninh năm thứ 4). Mùa xuân,
cúng thần Cao Môi553 . Mùa hạ, tháng 6, Thái úy Lư Thường Kiệt chết,
tặng chức Nhập nội điện đô tri kiểm hiệu thái úy b́nh chương quân
quốc trọng sự, tước Việt quốc công, thực ấp 1 vạn hộ, cho người em
là Lư Thường Hiến được kế phong tước hầu (Thường Kiệt người phường
Thái Ḥa, thành Thăng Long, nối đời làm quan, nhiều mưu lược, có tài
làm tướng. Khi c̣n ít tuổi, v́ vẻ mặt tươi đẹp được sung làm Hoàng
môn chi hậu theo hầu Thái Tông, thăng dần đến chức Nội thị sảnh đô
tri. Thánh Tông phong chức Thái bảo, trao cho tiết [15a] việt để đi
thăm hỏi lại dân ở Thanh Hóa, Nghệ An. Đến khi vua thân đi đánh
Chiêm Thành, ấy làm tướng tiên phong, bắt được vua Chiêm là Chế Củ.
V́ có công, được phong làm Phụ quốc thái phó, dao thụ chư trấn tiết
độ, đồng trung thư môn hạ, thượng trụ quốc, thiên tử nghĩa đệ, phụ
quốc thượng tướng quân, tước Khai quốc công, sau lại có công nữa,
được phong làm Thái úy, rồi chết).
Mùa thu,
tháng 9, làm hai ngọn tháp chỏm trắng ở chùa Diên Hựu, ba ngọn tháp
chỏm đá ở chùa Lăm Sơn. Bấy giờ vua sửa lại chùa Diên Hựu đẹp hơn
cũ, đào hồ Liên Hoa Đài554 , gọi là hồ Linh Chiểu. Ngoài hồ có hành
lang chạm vẽ chạy chung quanh, ngoài hành lang lại đào hồ gọi là hồ
Bích Tŕ, đều bắc cầu vồng để đi qua. Trước sân chùa xây bảo tháp.
Hàng tháng cứ ngày rằm, mồng một và mùa hạ, ngày mồng 8 tháng 4, xa
giá ngự đến, đặt lễ cầu phúc, bày nghi thức tắm Phật, hàng năm lấy
làm lệ thường.
Bính
Tuất, /Long Phù/ năm thứ 6 [1106] , (Tống Sùng Ninh năm thứ 5). Mùa
xuân, tháng giêng, sao Chổi mọc ở Phương Tây, đuôi dài khắp trời.
Sao Thái Bạch mọc ban ngày. Đại xá cho thiên hạ, trừ những kẻ phe
đảng làm loạn.
[15b]
Đinh Hợi, /Long Phù/ năm thứ 7 [1107] , (Tống Đại Quan năm thứ
1).Mùa hạ, động đất.
Mậu tư,
/Long Phù/ năm thứ 8 [1108], (Tống Đại Quan năm thứ 2).Mùa xuân,
tháng 2, đắp đê ở phường Cơ Xá555 .
Các tháng
mùa hạ không mưa.
Kỷ Sửu,
/Long Phù/ năm thứ 9 [1109] , (Tống Đại Quan năm thứ 3). Mùa xuân,
đắp đài Động Linh.
Mùa thu,
kẻ nghịch là Tô Hậu và Đỗ Sùng mưu làm phản, bị giết.
Canh Dần,
/Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 1 [1110] , (Tống Đại Quan năm thứ
4).Mùa xuân có người đàn bà dâng con chim phượng non, có đủ 9 cḥm
ngũ sắc.
Từ Văn
Thông556 dâng hổ trắng, ngựa trắng có cựa và cây cau một gốc 12
thân.
Mùa thu,
tháng 8, Chiêm Thành dâng voi trắng
Tân Măo,
/Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 2 [1111] , (Tống Chính Ḥa năm thứ 1).
Mùa xuân, phủ Thanh Hóa dâng cây cau một gốc 9 thân.
[16a] Mùa
thu được mùa to.
Mặt trời
có hai quầng.
Nhâm
Th́n, /Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 3 [1112] , (Tống Chính Ḥa nam
thứ 2). Mùa xuân, móc ngọt xuống.
Chiêm
Thành dâng voi trắng.
Bấy giờ
vua tuổi đă nhiều mà chưa có con trai nối dơi, xuống chiếu chọn con
của tông thất để lập làm con nối. Em vua là Sùng Hiều hầu (không rơ
tên) cũng chưa có con trai. Gặp lùc nhà sư núi Thạch Thất557 là Từ
Đạo Hạnh đến chơi nhà, hầu nói với Đạo Hạnh về việc cầu tự. Đạo Hạnh
dặn rằng:" Bao giờ phu nhân sắp đến ngày sinh th́ báo cho tôi biết
trước để cầu khấn với sơn thần". Ba năm sau, phu nhân có mang sinh
con trai là [Lư] Dương Hoán.
Quư Tỵ,
/Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 4 [1113] , (Tống Chính Ḥa năm thứ 3).
Mùa hạ, tháng 6, phu nhân của châu mục châu Chân Đăng là công chúa
họ Lư mất. (Phu nhân tên là Ngọc Kiều, con gái lớn của Phụng Càn
Vương được Thánh Tông nuôi ở trong cung, lớn lên phong làm chúa, gả
cho châu mục châu Chân Đăng là người họ Lê, chồng chết, phu nhân tự
thề ở góa, đi tu làm sư nữ, đến đây mất, thọ 72 tuổi. Thần Tông tôn
làm Ni sư).
[16b]
Giáp Ngọ, /Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 5 [1114] , (Tống Chính Ḥa
năm thứ 4). Mùa xuân, tuyết điềm lành xuống.
Ất Mùi,
/Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 6 [1115] , (Tống Chính Ḥa năm thứ 5).
Mùa xuân, tháng giêng, phong ba hoàng hậu là Lan Anh, Khâm Thiên,
Chấn Bảo và 36 cung nhân, Bấy giờ vua không có con trai, cho nên lập
nhiều hoàng hậu và cung nhân, làm đàn chạy để cầu tự. Thái hậu dựng
chùa thờ Phật, trước sau hơn trăm chùa. (Tục truyền rằng thái hậu
hối về việc Thượng Dương thái hậu và các thị nữ vô tội mà bị chết,
làm nhiều chùa Phật để sám hối rửa oan).
Bính
Thân, /Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 7 [1116] , (Tống Chính Ḥa năm
thứ 6). Mùa hạ, nhà sư Từ Đạo Hạnh trút xác ở chùa núi Thạch Thất
(Thạch Thất là tên huyện, tức là huyện Ninh Sơn ngày nay, tên núi là
Phật Tích. Từ Đạo Hạnh đến chơi núi ấy, thấy tảng đá trong hang núi
có vết chân người, lấy chân ướm vào vừa đúng: tục truyền đó là chỗ
Đạo Hạnh trút xác). Trước là phu nhân của Sùng Hiến Hầu là Đỗ thị đă
có mang, đến đây trở dạ măi không đẻ. Hầu nhớ lại lời Đạo Hạnh dặn
khi trước, sai người chạy ngựa đi báo. Đạo Hạnh lập tức [17b] thay
áo tắm rửa, vào hang núi trút xác mà qua đời. Sau đó phu nhân sinh
con trai, tức là Dương Hoán. Người làng cho là việc lạ, để xác Đạo
Hạnh vào trong khám để thờ. Nay núi Phật Tích tức là chỗ ấy. Hàng
năm, mùa xuân, cứ đền ngày mồng 7 tháng 3, con trai, con gái hội họp
ở chùa, là hội vui có tiếng một vùng. Người đời sau ngoa truyền là
ngày giỗ của sư (xác Đạo Hạnh đến khoảng năm Vĩnh Lạc nhà Minh, bị
người Minh đốt cháy, người làng ấy lại đắp tượng lại thờ như cũ,
hiện nay hăy c̣n).
Đinh Dậu,
/Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 8 [1117] , (Tống Chính Ḥa năm thứ 7).
Mùa xuân, tháng giêng, Diên Thành hầu (không rơ tên) chết. Xuống
chiếu băi tṛ chơi "tàng câu"558 và cỗ bàn khao mừng; vẫn phát vàng
bạc tiền lụa ở kho để phúng điếu, việc tang rất hậu.
Tháng ấy,
người giữ Thái Đường559 dâng hươu trắng.
Người
giáp Cam Giá560 dâng hươu đen.
Tháng 2,
định rơ lệnh cấm giết trộm trâu. Hoàng thái hậu nói: "Gần đây ở kinh
thành, hương ấp, có nhiều người trốn tránh, [17b] lấy việc ăn trộm
trâu làm nghề nghiệp, trăm họ cùng quẫn, mấy nhà cày chung một con
trâu. Trước đây, ta đă từng nói đến việc ấy nhà nước đă có lệnh cấm.
Nay giết trâu lại càng nhiều hơn trước". Bấy giờ vua xuống chiếu kẻ
nạ mổ trộm trâu th́ phạt 80 trượng, đồ làm khao giáp561 , vợ xử 80
trượng, đồ làm tang thất phụ562 và bồi thường trâu; Láng giềng biết
mà không tố cáo, phạt 80 trượng.
Tháng 3,
ngày Bính Th́n, vua ngự đến núi Chương Sơn563 để khánh thành bảo
tháp Vạn Phong Thành Thiện. Có rồng vàng hiện.
Vua lại
ngự đến hành cung Ứng Phong564 (nay là phủ Nghĩa Hưng) xem cày ruộng
công.
Mùa hạ,
tháng 5, Viên ngoại lang là Ngô Thiệu dâng cây lúa chiêm một gốc 9
bông.
Pḥ mă
lang là Dương Cảnh Thông dâng hươu trắng.
Thủ lĩnh
châu Tư Nông565 là Hà Vĩnh Lộc dâng con ngựa hồng có cựa.
Sầm Tác
Hỏa đầu là Lê Binh và Tào Nhi cùng dâng hươu trắng. Người giáp Trực
Tà dâng con hoẵng trắng.
Tháng 6,
vua ngự đến hành cung [18a] Ứng Phong xem cày ruộng. Khi ấy không
mưa, cầu đảo ở hành cung.
Rồng vàng
hiện ở bảo đài, cầu đảo ở Động Linh.
Trung
Nghĩa hầu (không rơ tên) chết.
Mùa thu,
tháng 7, ngày 25, _ Lan hoàng thái hậu băng, Hỏa táng, bắt 3 người
hầu gái chôn theo. Tôn dâng tên thuy là Phù Thánh Linh Nhân Hoàng
Thái Hậu.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Hỏa táng là lễ đạo Phật, chôn theo là tục nhà Tần,
Nhân Tông đều làm theo, hoặc giả vâng lời dặn lại của thái hậu
chăng?
Mùa thu,
tháng 8, táng Linh Nhân hoàng thái hậu ở Thọ Lăng phủ Thiên Đức 566
.
Mùa đông,
tháng 10, vua ngự đến hành cung Khải Thuy xem gặt. Đêm hôm ấy, mặt
trăng có hai quầng.
T́m con
trai họ tông thất để nuôi ở trong cung. Xuống chiếu rằng:"Trẫm cai
trị muôn dân mà lâu không có con nối, ngôi báu của thiên hạ biết
truyền cho ai? [18b] ậy nên tẫm nuôi con trai của các hầu Sùng Hiền,
Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng, chọn người nào
giỏi th́ lập làm thái tử. Bấy giờ con Sùng Hiền hầu là Dương Hoan
mới lên 2 tuổi mà thông minh lanh lợi, vua rất yêu và bèn lập làm
hoàng thái tử.
Chiêm
Thành dâng 3 đóa hoa bằng vàng.
Mậu Tuất
,/Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 9 [1118] , (Tống Trùng Ḥa năm thứ
1). Mùa xuân, tháng giêng, xuống chiếu chọn hoàng nam trong dân
chúng và binh lính.
Tháng 2,
sử nước Chân lạp sang chầu. Đặt lễ yến tiệc mùa xuân và mở hội khánh
thành bảy bảo tháp. Bấy giờ xuống chiếu cho Hữu ty bày nghi trượng ở
điện Linh Quang, dẫn sứ giả đến xem.
Tháng 3,
lấy các đại hoàng nam khỏe mạnh sung vào làm binh các đội Ngọc Giai,
Hưng Thánh, [Vũ] Đô567 và Ngự Long, tất cả 350 người.
Tả thị
lang bộ Hộ là Lư Tú Quyền chết.
Mùa hạ,
tháng 5, biếm Hữu thị lang bộ Lễ là Lê Bá ngọc làm Nội nhân thư gia.
Đại hạn,
cầu đảo được mưa.
Mùa thu,
tháng 7, [19a] ăi ỗ àn tết Trung Nguyên568 v́ gặp ngay Lễ Vu lan
bồn569 [cầu siêu cho] Linh Nhân hoàng thái hậu.
Chiêm
Thành sang cống.
Tháng 9,
ngày Tân Tỵ, mở hội Thiên phật [Ngh́n Phật] để khánh thành chùa
Thắng Nghiêm Thánh Thọ, cho sứ Chiêm Thành đến xem.
Ngày Bính
Tuất, vua ngự điện Linh Quang xem đua thuyền, đặt lễ yến tiệc mùa
thu.
Muà đông,
tháng 11, sai Viên ngoại lang là Nguyễn Bá Độ570 và Lư Bảo Thần đem
biếu nhà Tống hai con tê giác trắng, đen và 3 con voi nhà.
Năm ấy,
có mọc ngọt xuống, vua tự tay viết tám chữ, "Thiên hạ thái b́nh,
thánh cung vạn tuế" vào bia, sai thợ khắc.
Cấm nô
bọc của các nhà dân trong ngoài kinh thành không được thích mực vào
ngực, vào chân như cấm quân cùng là xăm h́nh rồng ở ḿnh, ai phạm
th́ sung làm quan nô.
Kỷ Hợi,
/Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 10 [1119] , (Tống Tuyên Ḥa năm thứ
1). Mùa xuân, tháng giêng, vua ngự đến Khoái Trường bắt voi trắng.
Mùa hạ,
[19b] tháng 4, Đô tào là Phan Điền dâng hươu trắng.
Tháng 5,
mở hội khánh thành chùa Tịnh Lự. Rồng hiện ở hàng bán nước chè ở
Kinh sư.
Mùa thu,
tháng 7, đóng hai chiếc thuyền Cảnh Hưng và Thanh Lan. Xuống chiếu
cho các quân đóng thuyền chiến, sửa đồ binh giáp, vua muốn thân đi
đánh động Ma Sa571 .
Tháng 8,
ngày Giáp Thân, vua ngự điệnLinh Quang xem đua thuyền. Đặt lễ yến
tiệc mùa thu. Từ đó về sau, hàng năm tháng 8 đua thuyền th́ đặt yến
làm lệ thường.
Mùa đông,
tháng 10, duyệt sáu binh tào Vũ Tiệp, Vũ Lâm v.v..., người nào mạnh
khỏe cho làm hỏa đầu ở các đội quân Ngọc Giai, Hưng Thánh, Bổng
Nhật, Quảng Thành, Vũ Đô, c̣n bậc dưới th́ cho làm binh ở các quân
Ngọc Giai, Hưng Thánh, Bổng Nhật, Quảng Thành, Vũ Đô, Ngự Long.
Họp các
quân nhân cả nước thề ở Long Tŕ. Xuống chiếu rằng:"Trẫm nhận lấy cơ
nghiệp của một tổ hai tông, đứng trên dân đen, coi triệu họ trong
bốn biển đều như con đỏ, cả đến cơi xa cũng mến [20a] ḷng nhân mà
quy phụ, phương khác cũng mộ nghĩa mà lại chầu. Vả xét dân động Ma
Sa sống ở trong cơi của ta, động trưởng Ma Sa th́ đời đời làm phiên
thần của ta, thế mà nay kẻ tù trưởng ngu hèn ấy bỗng phụ ước của ông
cha, quên việc tuế cống khiếm khuyết lệ thường phép cũ. Trẫm vẫn
nghĩ măi, việc không đừng được, nay trẫm tự làm tướng đi đánh dẹp.
Nay các tướng súy sáu quân, các ngươi đều phải hết ḷng, tuân theo
mệnh lệnh của trẫm". Bèn ban khí giới cho tướng sĩ, vua ngự thuyền
Cảnh Hưng, xuất phát từ bến Thiên Thu, cờ xí rợp trời, gươm giáo rẽ
sương, quân sĩ đánh trống reo ḥ, khí
thế trăm
phần hăng hái. Ngày hôm ấy, rồng vàng hiện bay theo thuyền. Đến bờ
thác Long Thủy572 , Thành Khánh hầu dâng con rùa mắt có sáu con
ngươi, trên ức có chữ "Vương". Sóng lại nổi lên. Vua tự làm tướng
đánh động Ma Sa, phá tan được, bắt được bọn động trưởng Ngụy Bàng
vài trăm người, lấy được vàng lụa trâu dê không [20b] kể xiết. Sai
tỷ tướng vào các động dọc biên giới chiêu dụ những người trốn tránh
bảo về yên nghiệp.
Tháng 12,
ngày mồng 1, vua từ động Ma Sa về, dâng tù Ngụy Bàng ở Thái Miếu.
Khao thưởng tướng sĩ, ban tiền lụa theo thứ bậc khác nhau.
Canh Tư,
/Thiên Phù Dụê Vũ/ năm thứ 1 [1120] , (Tống Tuyên Ḥa năm thứ 2).
Mùa xuân,
tháng giêng, ngày mồng 1, bề tôi đang biểu khuyên gia thêm tôn hiệu
và xin đổi niên hiệu. Vua y theo.
Tháng 2,
mở hội đèn Quảng Chiếu.
Tháng 3,
nước Chân Lạp sang cống.
Mùa hạ,
tháng 6,chủ đô giáp Tất tác573 là Đặng An dâng chim sẻ trắng.
Mùa thu,
tháng 9, có rồng vàng hiện.
Nước
Chiêm Thành sang cống.
Được mùa
to.
Mùa đông,
tháng 10, đắp đài Chúng Tiên.
Tháng 12,
cho Nội nhân thư gia là Phan Cảnh và Mâu Du Đô làm Nội thường thị.
[21a] Tân
Sửu, /Thiên Dụê Vũ/ năm thứ 2 [1121] , (Tống Tuyên Ḥa năm thứ 3).
Mùa xuân, tháng 3, nhà sư Vương Ái dâng cây cau một gốc 7 thân. Thái
sư Trần Độ nói: "Vật này không lấy ǵ làm điềm lành". Vua không
nhận.
Mở hội
khánh thành chùa Bảo Thiên và điện Trùng Minh.
Mùa hạ,
tháng 5, nước to, tràn vào đến bên ngoài cửa Đại Hưng.
Mùa thu,
tháng 7, người phiên Tử Thảo là Hà Ngọ dâng con hoẵng trắng.
Làm chùa
Quảng Giáo.
Có nhiều
sâu cắn lúa.
Mùa đông,
tháng 10, lại lấy Lê Bá Ngọc làm Nội thường thị.
Nhâm Dần,
/Thiên Phù Duệ Vũ/ năm thứ 3 [1122] , (Tống Tuyên Ḥa năm thứ 4).
Mùa xuân, tháng 2, nhà sư Dương Tu dâng một đôi ngọc bích trắng.
Tháng 3,
ngày Mậu Dần, mở hội khánh thành bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh ở Đội
Sơn574 .
Cấm mọi
người không được dùng gậy tre gỗ và đồ sắc nhọn đánh nhau.
Mùa hạ,
tháng 4 cho bọn Lư Phụng 20 người làm ngục lại, xét việc kiện tụng
của dân gian.
Tháng 5,
người quảng Giao [21b] giáp là Phạm Ba Tư dâng hươu trắng.
Mùa thu,
tháng 8, ngày Kỷ Hợi, vua ngự điện Linh Quang xem đua thuyền.
Lấn đầu
chế dải mũ bằng bạc sung vào đồ nghi vệ.
Ngày Đinh
Mùi, Viên ngoại lang là Lư Nguyên dâng một viên ngọc châu tân
lang575 . Xuống chiếu không nhận.
Muà đông,
tháng 12, sai Viên ngoại lang là Đinh Khánh An và Viên Sĩ Minh đem
voi nhà biếu nhà Tống. Bấy giờ Viên Sĩ Minh vào có tang không được
thăng quan, cho con trai là Sủng làm Phụng tin lang.
Năm ấy,
xuống chiếu rằng: Những tên trộm cướp trốn tránh đă bắt được mà lại
bị nhà thế gia chiếm đoạt th́ nhà thế gia ấy cùng tội với người
trốn.
Kẻ lại đi
bắt trộm cướp, bắt được rồi mà giữ lại ở nhà ḿnh, không dẩn đến
quan, th́ phạt đánh 80 trượng.
Quư Măo,
/Thiên Phù Duệ Vũ/ năm thứ 4 [1123] , (Tống Tuyên Ḥa năm thứ 5).
Mùa xuân,
tháng giêng, ngày 25, là tiết Đản thánh576 , lần đầu làm nhà múa có
bánh xe đẩy, sai cung nữ múa ở trên để dâng rượu.
Tháng 2,
mở lễ [22a] yến tiệc mùa xuân ở điện Sùng Uyên.
Lần đầu
làm chiếc lọng che mưa cán cong.
Ngày Nhâm
Dần, vua ngự đến Long Thủy577 để bắt voi.
Ngày Đinh
Mùi, mở hội khánh thành chùa Phụng Từ. Ngày Bính Th́n, vua về đến
Kinh sư.
Tháng 3,
ngày Tân Tỵ, mở hội khánh thành chùa Quảng Hiếu ở Tiên Du. Truy dâng
lễ cúng Thánh Tông và Thượng Dương hoàng thái hậu.
Mùa hạ,
tháng 4, ngày Giáp Thân, 5 người nước Chân Lạp quy phụ.
Cấm giết
trâu. xuống chiếu rằng: "Trâu là vật quan trọng cho việc cày cấy,
làm lợi cho người không ít. Từ nay về sau ba nhà làm một bảo, không
được giết trâu ăn thịt, ai làm trái th́ trị tội theo h́nh luật".
Mùa thu,
tháng 7, nước Chân Lạp sang cống.
Tháng 8,
ngày mồng 1, vua ngự điện Thiên An, ban áo mùa thu cho các quan.
Vua ngự
điện Linh Quang xem đua thuyền. Đêm ấy vua ngự điện Sùng Uyên, đặt
lễ yến mừng chiếc lọng vàng.
Mùa đông,
tháng 10, vua ngự đến hành cung Ứng Phong xem gặt lúa. Chuyến đi này
bắc [22b] cầu vồng qua sông Ba Lạt578 .
Tháng 11,
vua đến kinh sư. Các nhà nho, đạo, thích đều dâng thơ mừng.
Xây đài
Tử Tiêu579 .
Năm ấy
được mùa to.
Giáp
Th́n, /Thiên Phù Duệ Vũ/ năm thứ 5 [1124] , (Tống Tuyên Ḥa năm thứ
6). Mùa xuân, tháng giêng, Diêu Sách dâng chim sẻ trắng.
Tháng
giêng nhuận, đóng thuyền Tường Quang, kiểu thuyền hai ḷng.
Vua ngự
đến hành cung ở Ứng Phong xem cày ruộng. Khi vua ngự ở hành cung,
người nước Chiêm Thành là Cụ Ông và ba người em họ đến chầu.
Tháng 2,
vua về Kinh sư.
Mùa hạ,
tháng 4, người nước Chân Lạp là Kim Đinh A Truyền cùng 4 người gia
đồng sang quy phụ.
Thủ lĩnh
châu Quảng Nguyên là Dương Tự Hưng dâng hươu trắng.
Dựng chùa
Hộ Thánh.
Tháng 5,
người nước Chiêm Thành là bọn Ba Tư Bồ Đà La 30 người sang quy phụ.
Mùa thu,
tháng 7, hạn, làm lễ cầu mưa.
Chủ đô
giáp Nội tác giám là Tô Ông dâng con rùa mắt có 6 con ngươi, trên ức
[23a] có hai chữ "Thiện đế".
Tháng 9,
Thành Khánh hầu (không rơ tên) chết.
Mùa đông,
tháng 10, đắp đài Uất la.
Tháng 11,
đô Ngọc Giai là Lư Hiệu dâng cá chiên vàng.
Tháng 12,
phu nhân của Thành Khánh hầu là Hà Thị uống thuốc độc chết theo
chồng.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Đàn bà chỉ theo một chồng mà chết th́ không gọi là
"tuẫn" [chết theo]. Hà thị theo t́nh mà đi thẳng, đến nỗi uống thuốc
độc chết theo, tuy là quá, nhưng khó với người khác mà Hà thị lấy
làm dễ, việc ấy cũng là khó làm. Hoặc giả Thành Khánh hầu đến lúc ấy
mới chôn mà Hà thị chết để chôn theo chăng?
Lại cho
Nội thường thị là Lê Bá Ngọc làm thị lang bộ Lễ. Tiểu thủ lĩnh châu
Quảng Nguyên là Mạc Hiền và phe đảng bộ thuộc trốn sang động Cống ở
địa giời Ung Châu nước Tống.
[23b] Ất
Tỵ, /Thiên Phù Duệ Vũ/ năm thứ 6 [1125] , (Tống Tuyên Ḥa năm thứ
7). Mùa xuân, tháng giêng, cho Nội thường thị là Mâu Du Đô580 làm
Trung thư thừa581 .
Ung Châu
bắt bọn Mạc Hiền, xin sai người đến Giang Nam để giao trả. Vua sai
người giữ phủ Phú Lương582 là trung thư Lư Hiến đến Giang Nam nhận
đem về kinh sư. Đày Mạc Hiền vào châu Nghệ An, vợ con đều sung làm
quan nô.
Phiên làm
giấy583 dâng ngọc châu tân lang, vua truyền không nhận.
Khánh
thành điện Sùng Dương, mở yến tiệc ba ngày đêm. Mùa hạ, tháng 4, vua
ngự đến hành cung Ứng Phong xem cày ruộng.
Tháng 6,
vua từ hành cung Ứng Phong đến hành cung Lư Nhân, Nhập nội thường
thị trung thừa là Mâu Du Đô vâng chỉ tuyên bảo các quan trong ngoài
rằng có rồng vàng hiện ở điện kín của hành cung, chỉ có các cung nữ
và hoạn quan trông thấy.
Mùa đông,
tháng 10, vua ngự đến hành cung Ứng Phong xem gặt.
Tháng 11,
sai Nhập nội Lễ bộ thị lang [24a] Lê Bá Ngọc đi đánh bọn Nùng Quỳnh
và Mạc Thất Nhân ở châu Quảng Nguyên. Khi sắp đi, Bá Ngọc họp quân
thề ở ngoài cửa Đại Hưng, tuyên bố quân lệnh.
Rồng vàng
lượn ở bảo đài kỳ thọ ở Động Vân.
Xuống
chiếu rằng phàm đánh chết người th́ xử 100 trượng, thích mặt 50 chữ,
đồ làm khao giáp.
Bính Ngọ,
/Thiên Phù Duệ Vũ/ năm thứ 7 [1126] , (Tống Khâm Tông Hằng, Tĩnh
Khang năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, mở hội đèn Quảng Chiều bảy
ngày đêm. Tha người có tội [giam] ở phủ Đô Hộ.
Cấm dân
chúng mùa xuân không được chặt cây.
Tháng 2,
ngày mồng 1, vua ngự điện Thiên An, xem các vương hầu đá cầu.
Tháng 3,
làm lễ khánh hạ năm bộ kinh ở chùa Thọ Thánh.
Mùa hạ,
tháng 5, ngày Nhâm tuất, mở hội Nhân Vương ở Long Tŕ. Ngày hôm ấy
rồng vàng hiện ở điện Vĩnh Quang.
Mùa thu,
tháng 7, hạn, từ tháng 6, đến đây càng dữ.
Con rùa
mắt có sáu con ngươixuất hiện.
Mưa dầm,
làm lễ cầu tạnh.
Tháng 9,
nước Chiêm Thành sang cống.
Mở [24b]
hội đèn Quảng Chiếu ở Long Tŕ, xuống chiếu cho sứ thần Chiêm Thành
vào xem.
Mùa đông,
tháng 11, vua ngự đến hành cung Ứng Phong xem gặt.
Tháng
[11] nhuận, sai lệnh thư gia là Nghiêm Thường, Ngự khố thư gia là Từ
Diên đem 10 con voi thuần và vàng bạc, sừng tê sừng bin sang biếu
nhà Tống để tạ ơn việc bắt Mạc Hiền. Thường và Diên đến Quế phủ584
vào ra mắt quan kinh lược ty. [Họ] bảo với Thường và Diên rằng: "Năm
nay ở Đông Kinh và các xứ Hồ Nam, Đĩnh Châu, Lễ Châu đều đă đem binh
mă đi đánh người Kim, chưa biết lúc nào về. Trong lúc này th́ ngựa
trạm, phu trạm dọc đường chổ nào cũng ít, xin sứ giả đem lễ vật về".
Thường và Diên phải trở lại. Năm ấy người nước Kim là Niêm Hăn, Cán
Lư Bất585 đem quân vây Biện Kinh nước Tống, bắt vua Tống là Huy Tông
và Khâm Tông đem về phương Bắc. Nước Tống loạn to. (Lúc ấy vua Kim
là Oa Khoát Đài dựng nước ở Mạc Bắc586 , đặt niên hiệu là Thiên
Hội)587
[25a]
Đinh Mùi, /Thiên Phù Khánh Thọ/ năm thứ 1 [1127] , (Tống Tĩnh Khang
năm thứ 2, từ tháng 5 về sau là Cao Tông Cấu, Kiến Viên năm thứ 1).
Mùa xuân, tháng giêng, cho Ngự khổ thư gia là Phạm Tín làm Phán sự
phủ Thanh Hóa.
Tháng 2,
các quan dâng tôn hiệu gia thêm bốn chữ: Khoan Từ Thánh Thọ.
Từ tháng
giêng đến tháng 2 mưa dầm, sai quan làm lễ cầu tạnh.
Viên
ngoại lang là Nguyễn Nghĩa Trường dâng con rùa ba chân, mắt sáu con
ngươi.
Tháng 3,
thủ lĩnh châu Nông588 là Dương Tuệ dâng hai khối vàng sống (gọi là
vàng) Trường thọ.
Mùa hạ,
tháng 4, vua ngự đến hành cung Ứng Phong xem gặt.
Mưa thóc.
Tháng 5,
nhà sư Cao Đ́nh dâng chim sẻ trắng.
Mùa thu,
tháng 7, ngày Đinh Tỵ, khánh thành chùa Trung Hưng Diên Thọ.
Mùa đông,
tháng 11, Khâm Châu nước Tống đưa trả nghịch đảng ở châu Quảng
Nguyên là bọn Mạc Thất Nhân.
Tháng 12,
sao Thiên Cẩu sa xuống, có tiếng kêu như sấm.
Gả công
chúa Diên B́nh cho thủ Lĩnh phủ Phú Lương là Dương Tự Minh.
[25b]Vua
không khỏe, gọi Thái úy Lưu Khánh Đàm vào nhận di chiếu rằng: "Trẫm
nghe phàm các loài sinh vật không loài nào không chết. Chết là số
lớn của trời đất, lẽ đương nhiên của mọi vật. Thế mà người đời không
ai là không thích sống mà ghét chết. Chôn cất hậu làm mất cơ nghiệp,
để tang lâu làm tổn tính mệnh, trẫm không cho là phải. Ta đă ít đức,
không lấy ǵ làm cho trăm họ được yên, đến khi chết đi lại khiến cho
thứ dân mặc áo xô gai, sớm tối khóc lóc, giảm ăn uống, bỏ cúng tế,
làm cho lỗi ta thêm nặng, thiên hạ sẽ bảo ta là người thế nào! Trẫm
xót phận tuổi thơ phải nối ngôi báu, ở trên các vương hầu, lúc nào
cũng nghiêm kính sợ hăi. Đă 56 năm nay, nhờ anh linh của tổ tông,
được hoàng thiên phù hộ, bốn biển yên lành, biên thùy ít biến, chết
mà được xếp sau các bậc tiên quân là may rồi, c̣n phải thương khóc
làm ǵ? Trẫm từ khi đi xem gặt lúa đến giờ, bỗng bị ốm, bệnh kéo
dài, [26a] sợ không kịp nói đến việc nối ngôi. Mà thái tử Dương Hoán
tuổi đă tṛn một kỷ589 , có nhiều đại đội, thông minh thành thật,
trung nghiêm kính cẩn, có thể theo phép cũ của trẫm mà lên ngôi
hoàng đế. Nay kẻ ấu thơ chịu mệnh trời, nối thân ta truyền nhgiệp
của ta, làm cho rộng lớn thêm công nghiệp đời trước. Nhưng cũng phải
nhờ quan dân các ngươi một ḷng giúp rập mới được. Này Bá Ngọc,
ngươi thật có khí lượng của người già cả, nên sửa sang giáo mác, để
pḥng việc không ngờ, chớ làm sai mệnh, trẫm dù nhắm mắt cũng không
di hận. Việc tang th́ chỉ 3 ngày bỏ aó trở, nên thôi thương khóc;
việc chôn th́ nên theo Hán Văn Đế, cốt phải kiệm ước, không xây lăng
mộ riêng, nên để ta hầu bên cạnh tiên đế. Than ôi! Mặt trời đă xế,
tấc bóng khó dừng; từ giă cơi đời, ngh́n thu vĩnh quyết. Các ngươi
nên thật ḷng kính nghe lời trẫm, báo rơ cho các vương công, bày tỏ
trong ngoài".
Ngày Đinh
Măo, vua băng ở điện Vĩnh Quang.
[26b]Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói: Về thời đại thuận ngày xưa, người làm vua biết
giữ tín đạt thuận, tới được mức trung ḥa, cho nên bấy giờ trời
không tiếc đạo, đất không tiếc của báu, móc ngọt tuân sa, rượu thơm
suối chảy, cỏ chỉ nảy mọc, mà các vật điềm lành như rồng, phượng,
rùa, lân, không giống ǵ không đến. Thời Nhân Tông, sao các vật điềm
lành nhiều đến thế? Là v́ nhà vua thích, cho nên bề tôi dâng xằng mà
thôi.
Hoàng
thái tử lên ngôi trước linh cữu. Hạ lệnh cho Vũ vệ Lệ Bá Ngọc truyền
bảo quân hầu và các quan văn vơ lui ra ngoài cửa Đại Hưng, sai các
người giữ thành đóng cửa canh pḥng cẩn mật, không cho ai ra vào.
Lại sai cấm quân cầm binh khí đứng ở dưới điện Thiên An, rồi cho
lệnh mở cửa nách bên hữu, gọi các quan vào long tŕ sai Bá Ngọc
truyền bảo các vương hầu và các quan văn vơ rằng: "Không may tiên đế
ĺa bỏ bầy tôi, ngôi trời không thể bỏ không lâu ngày. Ta c̣n ít
tuổi, cố gượng nối ngôi, các khanh nên bền măi một ḷng590 , giúp đỡ
nhà vua, không những để không phụ ḷng tiên đế chú ư trông mong mà
c̣n để con cháu các khanh đời đời hưởng lộc vị". Các quan đều lạy
mừng và thương khóc. Sai nội nhân là Đỗ Thiện, xá nhân là Bồ Sùng
đem việc ấy báo với Sùng Hiền hầu. xuống chiếu cho các hương ấp
trong nước đều yên nghiệp như cũ, không được chứa giấu giặc cướp
trốn tránh và những kẻ đánh nhau giết người.
Ngày Nhâm
Ngọ, các quan dâng biểu xin quàn linh cữu ở điện Hồ Thiên. Ngày Quư
Mùi, các quan mặc áo trở ở ngoài gác Vĩnh B́nh. Ngày Giáp Thân, các
quan dâng biểu xin vua ngự chính diện.
Ngày Ất
Dậu, vua bắt đầu ngự điên Thiên An coi chầu. xuống chiếu cho các
quan bỏ áo trở. Ngày hôm ấy vua ngự giá đi Na Ngạn591 xem các cung
nữ lên [27b] dàn thêu để chết theo Đại Hành Hoàng Đế.
Lê Văn
Hưu nói: Trẻ nhỏ lên 3 tuổi thôi bế ẵm mới rời khỏi cha mẹ, cho nên
từ thiên tử cho đến dân thường, tuy sang hèn khác nhau, mà t́nh
thương nhớ 3 năm th́ là một. Thế là để báo đền công khó nhọc của cha
mẹ vậy. Huống chi Thần Tông được Nhân Tông nuôi nấng trong cung,
không ơn ǵ hậu bằng, đáng lẽ phải tang hết mức buồn, tế hết mức
kính, để báo đáp mới phải. Nay chưa được một tháng mà đă bảo các
quan bỏ áo trở, chưa đến lễ tốt khốc mà đă đón hai phi hậu vào cung,
không hiểu bấy giờ lấy ǵ để làm khuôn mẫu cho thiên hạ và biểu đạt
với các quan? Thần Tông c̣n nhỏ tuổi, bầy tôi trong triều cũng lấy
việc để tang ngắn làm may, không ai có một lời nói đến. Có thể bảo
là trong triều không có người vậy
[28a].Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói: Nhân Tông thánh học cao minh, hiểu sâu cớ sống
chết, như lẽ tất nhiên có ngày th́ có đêm. Lời di chiếu nói rất thấu
lẽ, đủ biết cái ư "không gơ chậu hát ca, đến lúc tuổi già than
tiếc"592 . Dạy người như thế thật sâu xa vậy, tuy nhiên, ở Nhân Tông
th́ đó là lời nói sáng đạo, mà ở Thần Tông th́ lại là việc làm thất
hiếu. Văn Hưu bàn thế là phải.
THẦN TÔNG
HOÀNG ĐẾ
Húy Dương
Hoán, cháu gọi Thánh Tông bằng ông, cháu gọi Nhân Tông bằng bác, con
của Sùng Hiền hầu, do phu nhân họ Đỗ sinh ra. Khi mới lên 2 tuổi,
được nuôi trong cung, lập làm hoàng thái tử. Nhân Tông băng, bèn lên
ngôi báu. Ở ngôi 11 năm [1128 - 1138], thọ 23 tuổi [1116 - 1138]
băng ở điện Vĩnh Quang. Vua khi mới lên ngôi hăy c̣n trẻ dại, đến
khi lớn lên, tư chất thông minh, độ lượng nên việc sửa sang chính
sự, dùng người hiền tài, thủy chung đều chính, nhiệm nặt khúc nôi,
không ǵ sai lệch. Tuy thân mang ác tật nhưng rồi chữa lành, cũng là
nhờ có ư trời cả. Song quá thích điềm lành, tôn sùng đạo Phật, chẳng
đáng [28b] quư ǵ.
Mậu thân,
Thiên Thuận593 năm thứ 1 [1128], (Tống Kiến Viêm năm thứ 2). Mùa
xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, Bính Tuất, đổi niên hiệu, đại xá.
Tôn mẹ nuôi là Trần Anh phu nhân làm Hoàng Thái hậu.
Xuống
chiếu rằng: Phàm dân có ruộng đất bị sung công cùng là bị tội phải
làm điền nhi th́ đều được tha cả. Các tăng đạo và dân phải làm lộ
ông594 cũng được miễn.
Cho sáu
quân thay phiên nhau về làm ruộng, theo chế độ xưa.
Ngày Mậu
Tư, tôn thụy hiệu cho Đại Hành Hoàng Đế là Hiếu Từ Thánh Thần Văn vũ
Hoàng Đế, miếu hiệu là Nhân Tông.
Ngày Kỷ
Sửu, biếm Đại liêu ban Lư sùng Phúc v́ khi đi qua cửa thành Tây
Dương, người tuần lại hỏi mà không trả lời.
Ngày Tân
Măo, xuống chiếu rằng nước đang có tang, dân chúng không được cưỡi
ngựa và đi vơng màu lam, xe che màn.
Ngày Canh
Tư, vua bắt đầu ngự kinh diên [nghe giảng học].
Ngày Tân
Sửu, lấy Nội [29a] vũ vệ Lê Bá Ngọc làm Thái úy, thăng tước hầu; Nội
nhân hỏa đầu Lưu Ba, Dương Anh Nhĩ làm Thái Phó, tước Đại liêu ban;
Trung thừa Mâu Du Đô làm Gián nghị đại phu, thăng trật chư vệ; Nội
nhân hỏa đầu Lư Khánh, Nguyễn Phúc, Cao y làm Thái Bảo, tước Nội
thượng chế; Nội chi hậu quản giáp Lư Sơn làm Điện tiền chỉ huy sứ,
tước Đại liêu ban; Linh nhân595 Ngô Toái làm Thượng chế; Ngự khố thư
gia Từ Diên làm Viên ngoại lang. Lại ban tiền lụa cho Bá Ngọc, [Lưu]
Ba và [Mâu] Du Đô đến tận nhà đem lễ vật của Nhân Tông ban cho Sùng
Hiền hầu.
Ngày Quư
Măo, sai người ở Hoà Trại cáo phó với nhà Tống và báo việc lên ngôi.
(Khi ấy Tống Cao Tông lánh người Kim qua sông [Trường Giang] đóng đô
ở phủ Lâm An596 . Ngày Giáp Th́n, xuống chiếu cho Đô phi kỵ mang di
[29b] chiếu của Nhân Tông và việc vua lên ngôi sang báo cho Chiêm
Thành. Phát vàng và lụa trong kho ban cho các quan theo thứ bậc khác
nhau.
Ngày Mậu
Thân, trường Quang lang dâng 9 chiếc thuyền của người buôn nước Tống
trôi giạt.
Đỗ Vũ
Thắng là Quách Ti dâng cây đào cao 4 tấc có hoa.
Ngày Kỷ
Dậu, cho Đào Thuấn làm Trung thư sảnh viên ngoại lang hành tây
thượng cáp môn sứ, Thượng thư sảnh viện ngoại lang Lư Bảo thần hành
đông thượng cáp môn sứ, Phạm Thưởng, Đỗ Lục,
Khổng
Nguyên, Phạm Bảo, Kim Cát, Lư Khái, Đào Lăo, Nguyễn Hoàn làm Viên
ngoại lang thượng thư sảnh; Lương Cửu, Đào Sâm, Quách Thục, Nguyễn
Nhân, Nguyễn Khánh, Đào Tương, Quách Cự Tầm, Nguyễn Thối làm Trung
thư hoả; Lư Ngũ, Kiểu Nghĩa, Lư Cá, Nguyễn Biếm, Nguyễn Bộc, Nguyễn
Khoan, Đào Lục, Đỗ Kư, Kiểu Thiệu làm Chi hậu thư gia.
Ngày Quư
Sửu, xuống chiếu cho Gián nghị đại phu Mâu Du Đô chọn quân Long Dực
cũ làm các quân tả hữu Ngọc Giai, Hưng Thánh, Quảng Thành, vũ [30a]
Đô.
Ngày Giáp
Dần, hơn 2 vạn người Chân Lạp vào cướp bến Ba Đầu ở châu Nghệ An.
Xuống chiếu cho Nhập nội thái phó Lư Công B́nh đem các quan chức đô
cùng người châu Nghệ An đi đánh.
Tháng 2,
ngày Ất Măo, xuống chiếu tha cho cá tội nhân ở phủ Đô hộ. Ngày Nhâm
Tuất, xuống chiếu tha cho 130 người bị biếm truất.
Ngày Quư
Hợi, Lư Công B́nh đánh bại người Chân Lạp ở bến Ba Đầu, bắt được chủ
tướng và quân lính.
Ngày Ất
Sửu, các quan dâng tôn hiệu là Thuận Thiên Quảng Vận Khâm Minh Nhân
Hiếu Hoàng Đế. Vua bảo các quan rằng: "Trẫm c̣n trẻ thơ, nối nghiệp
lớn của tiên thánh, mà thiên hạ yên tĩnh, trong cơi sợ uy, đều là
nhờ sức của các khanh. Các khanh nên cẩn thận giữ chức, chớ có lười
biếng qua quít để giúp cho trẫm những chỗ c̣n thiếu sót".
Lập Lư
thị làm Hoàng hậu. Trước đó vua sai Viên ngoại lang Lư Khánh Thần và
[30b] vợ đi đón con gái của Điện tiền chỉ huy sứ Lư Sơn, Viên ngoại
lang Trần Ngọc Độ và vợ đi đón con gái của Lê Xương là cháu chú bác
của Thái úy Lê Bá Ngọc, sách lập con gái của Sơn làm Lệ Thiên Hoàng
hậu, con gái của Xương làm Minh Bảo phu nhân. Thăng trật kư hầu cho
Lư Sơn coi việc quân sự ở lạng Châu, ban cho [Lê] Xương tước Đại
liêu ban.
Mưa dầm.
Ngày Đinh
Măo, các quan dân biểu mừng vua lên ngôi.
Lá phướn
của hai chùa Thiên Long và Thiên Sùng không gió mà tự lay động như
múa. Vua ngự xa giá đến hai chùa ấy để lễ tạ.
Thư báo
thắng trận của Lư Công B́nh đến kinh sư.
Ngày Mậu
Th́n, vua ngự đến hai cung Thái thanh, Cảnh Linh và các chùa quán
trong thành để lễ tạ ơn Phật và Đạo đă giúp ngầm cho Công b́nh đánh
được người Chân Lạp.
Lê Văn
Hưu nói: Phàm việc trù tính ở trong màn trướng, quyết định được
chiến thắng ở ngoài ngh́n dặm, đều là [31a] công của người tướng
giỏi cầm quan làm nên thắng lợi. Thái phó Lư Công B́nh phá được quân
Chân Lạp cướp châu Nghệ An, sai người báo tin thắng trận. Thần Tông
đáng lẽ phải cáo thắng trận ở Thái Miếu, xét công ở triều đường để
thưởng cho bọn Công B́nh về công đánh giặc. Nay lại quy công cho
Phật và Đạo, đi các chùa quán để lạy tạ, như thế không phải là cách
để ủy lạo kẻ có công, cổ lệ chí khí của quân sĩ.
Ngày Canh
Ngọ, vua ngự điện thiên an xem quốc nhân hội thề ở Long Tŕ597 .
Nhân đó xuống chiếu phát quần áo, tiền lụa trong Nội phủ để ban cho.
Ngày Giáp
Tuất, xuống chiếu cấmgia nô và tạo lệ của các quan không được lấy
con gái lương dân.
Hoàng hậu
Lệ Thiên và phu nhân Minh Bảo về thăm nhà.
Sai Gián
nghị đại phu Mâu Du Đô đến phủ Thiên Đức chọn đất tốt để xây sơn
lăng của Nhân Tông.
Tháng 3 [
31b] Lư Công B́nh đem quân về kinh sư, dâng tù 169 người.
Cho nội
lệnh thư gia Phí Công Tín làm Phụng nghị lang, Nội thư gia Ngụy Quốc
Bảo làm Tả ty. Vua xem đại hội Linh quang, cho Công Tín và Quốc Bảo
làm Nội thường thị.
Mùa hạ,
tháng 4, hạn. Vua trai giới ăn chay cầu đảo, được mưa.
Tháng 5,
độ cho lăo binh đô tào là bọn Vũ Đại bốn người làm tăng.
Xuống
chiếu miễn thuế dịch cho 100 người họ của Thần Anh thái hậu có biên
tên ở sổ.
Xuống
chiếu rằng những việc kiện tụng đă phán xử dưới các triều Tổ,
Tông598 rồi th́ không được đem bàn tâu lên nữa, làm trái th́ bị tội.
Tháng 6,
xuống chiếu cho đại thần và các quan chức đô hội thề ở ngoài cửa Đại
Hưng. Dự định làm lễ đưa táng Nhân Tông.
An táng
Nhân Tông ở lăng Thiên Đức.
Lấy ngày
sinh nhật của vua là tiết Thiên thụy.
Mùa thu,
tháng 7, tiết Trung nguyên, vua ngự điện Thiên An, các quan dâng
biểu mừng. V́ [hôm ấy] là ngày lễ Vu Lan [32a] bồn cầu siêu cho Nhân
Tông nên không đặt lễ yến.
Tháng 8,
xuống chiếu cho Lưu Khánh Đàm và Mâu Du Đô chọn các quan chức đô.
Ngày Giáp
Tuất, đưa di chiếu của Nhân Tông cho các quan xem (chiếu này đă chép
ở trên).
Người
Chân Lạp vào cướp hương Đỗ Gia599 ở châu Nghệ An, có đến hơn 700
chiếc thuyền. Xuống chiếu sai bọn Nguyễn Hà Viêm ở Thanh Hoá và
Dương Ổ ở châu ấy đem quân đánh, phá được.
Mùa đông,
tháng 11, lấy Thái uư Lê Bá Ngọc làm Thái sư, đổi làm họ Trương.
Đày nguời
[phạm tội] ở châu Quảng Nguyên đến phủ Thanh Hoá.
Châu Nghệ
An đệ tâu một phong quốc thư của nước Chân Lạp, xin sai người sang
sứ nước ấy. Vua không trả lời.
Kỷ Dậu,
[Thiên Thuận] năm thứ 2 [1129], (Tống Kến Viêm năm thứ 3). Mùa xuân,
tháng giêng, nhập nội điện trung là Lư An Dậu dâng hươu trắng. Cho
An Dậu tước Đại liêu ban.
Thái úy
Dương Anh Nhĩ dâng hươu trắng.
Mở [32b]
hội khánh thành 8 vạn 4 ngh́n bảo tháp ở gác Thiên Phù600 .
Ngày Giáp
Ngọ, tôn thân phụ là Sùng Hiền hầu làm Thái thượng hoàng và thân mẫu
Đỗ thị làm Hoàng thái hậu, ở tại cung Động Nhân.
Lê Văn
Hưu nói: Thần Tông là con người tông thất, Nhân Tông nuôi làm con,
cho nối đại thống, đáng lẽ phải coi Nhân Tông làm cha mà gọi cha
sinh là Sùng Hiền hầu làm hoàng thúc, phong mẹ để là Đô thị làm
Vương phu nhân, như Tống Hiếu Tông đối với Tú An Hy Vương và phu
nhân Trương thị, để tơ ra một gốc mới phải. nay lại phong Sùng Hiền
hầu làm Thái thượng hoàng, Đỗ thị làm hoàng thái hậu,chả hoá ra hai
gốc ư? Bởi Thần Tông bấy giờ c̣n trẻ thơ mà các công khanh trong
triều như Lê Bá Ngọc, Mâu Du [33a] Đô lại không biết lễ nên mới như
thế.
Tháng 2,
vua trai giới để cầu mưa.
Thân
vương ban Lư Lộc tâu ở núi Tản Viên có hươu trắng. Vua sai Thái úy
Dương Anh Nhĩ đi bắt được. Cho Lộc tước Đại liêu ban.
Xuống
chiếu tha cho những người phạm tội trong nước.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Nhân Tông thường nhân việc mở hội [Phật] mà tha cho
người có tội, là không phải lẽ, nhưng mà c̣n mượn tiếng hội Phật.
C̣n như vua [Thần Tông] th́ không có việc ǵ mà cũng tha bổng. Phàm
người có tội phạm pháp, có kẻ nặng người nhẹ, năm bậc h́nh phạt, có
trên có dưới, sao lại có thể tha bổng được, nếu nhất loạt tha cả th́
kẻ tiểu nhân may mà được khỏi tội, đó không phải là phúc cho người
quân tử. Cho nên thời xưa nói về đạo trị nước, tuy nói rằng không
thể không xá tội, nhưng cũng cho rằng xá tội là có hại. Tha lỗi
[33b] th́ được, tha tội th́ không được. Kinh dịch nói: "tha lỗi,giảm
tội" Kinh thư nói: "Lầm lỗi th́ tha cho, cố phạm th́ trị tội". Thế
là phải.
Tháng 3,
Lư Tử Khắc dâng tâu rằng, rừng ở Giang Để601 có hươu trắng. Vua sai
Thái úy Lưu Khánh Đàm đi bắt được. Thăng Tử Khắc làm Khu mật sứ, xếp
vào hàng tước minh tự, được đội mũ bảy cầu.
Lê Văn
Hưu nói: Phàm người xưa gọi là điềm lành, là nói việc được người
hiền và được mùa, ngoài ra không có ǵ đáng gọi là điềm lành cả.
Huống chi chim quư thú lạ không nuôi ở quốc đô cũng là lời khuyên
răng của tiên vương để lại. Thần Tông nhân Nguyễn Lộc và Nguyễn Tử
Khắc (Lộc và Tử Khắc nguyên là họ Lư, Văn Hưu kiêng huư nhà Trần nên
gọi là họ Nguyễn) dâng hươu trắng, cho là vật điềm lành, cho Lộc
tước đại liêu ban, cho Tử Khắc tước [34a] minh tự, th́ cả người
thưởng và người nhận thưởng đều sai cả. Tải sao vậy? Thần Tông v́
dâng thú mà cho quan tước, thế là lạm thưởng. Lộc và Khắc không có
công mà nhận thưởng, thế là dối vua.
Đại thủ
lĩnh châu Tây Nông là Hà Văn Quảng dâng hai khối vàng sống cộng nặng
33 lạng 5 đồng cân.
Mùa Hạ,
tháng 6, Nhập nội Long đồ là Mâu Du Đô dâng ngựa trắng bờm đen, bốn
chân có cựa.
Cho Nội
thường thị Phí Công Tín làm Tả ty lang trung, Ngụy Quốc Bảo làm Viên
ngoại lang.
Mùa Thu,
tháng 8, làm thần chủ của Nhân Tông Hoàng Đế ở Linh Điện. Rắn thanh
trúc quấn ở ngai báu.
Tháng [8]
nhuận, ngày Nhâm Ngọ, rước thần vị của Nhân Tông Hoàng Đế vào thờ ở
Thái Thất.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Tiên vương đặt lễ thờ người chết cũng như hầu hạ
khi c̣n sống, cho nên làm [mộc] chủ để tượng trưng cho thần, thế th́
[mộc] chủ là chổ dựa của thần. Tế ngu rồi mới làm thần chủ, tế luyện
rồi mới đổi thần chủ, [34b] đổi thần chủ xong rồi mới thờ chung vào
Thái Miếu, lễ tiết là như thế. Nhân Tông đă chôn từ tháng 6 năm
trước, đến đấy đă mười bốn tháng, kỳ tế luyện cũng quá lâu rồi mà
bây giờ mới làm thần chủ để thờ chung vào Thái Miếu, thế là để chậm
và bất kính quá lắm.
Ngày Giáp
Thân, người nung ngói ở cung Động Nhân là Nguyễn Nhân dâng con rùa
mắt có sáu con ngươi, trên ức có hai chữ " Phổ nhạc".
Xuống
chiếu rằng nô tỳ của vương hầu và các quan không được cậy thế đánh
đập quan quân và bách tính, kẻ nào phạm th́ gia chủ phải tội đồ, nô
sung làm quan nô.
Mùa Đông,
tháng 10, thăng cho Tả ty Phí Công Tín làm Chư vệ, ban cho họ Lư.
Tháng 12,
người giữ voi là Chu Hội dâng rùa trắng.
Lấy Nội
thường Đỗ Nguyên Thiện làm Tham tri chính sự, giữ phủ Thanh Hoá; Ngự
khố thư gia Phạm Tín làm Viên ngoại lang.
[35a]
Canh Tuất, [Thiên Thuận] năm thứ 3 [1130], (Tống Kiến Viêm năm thứ
4).
Mùa Xuân,
tháng giêng, xuống chiếu cho con gái các quan không được lấy chồng
trước, đợi sau khi chọn sung vào hậu cung, người nào không trúng
tuyển mới được lấy chồng.
Lê Văn
Hưu nói: Trời sinh ra dân mà đặt vua để chăn dắt, không phải để cung
phụng riêng cho vua. Ḷng cha mẹ ai chẳng muốn con cái có gia thất,
thánh nhân thể ḷng ấy c̣n sợ kẻ sất phu sất phụ không được có nơi
có chốn.
Cho nên
Kinh Thi tả sự ấy trong thơ "Đào yêu" và thơ "Siếu hữu mai" để khen
việc lấy chồng kịp th́ và chê việc để lỡ th́ vậy. Thần Tông xuống
chiếu cho con gái các quan phải đợi xong việc tuyển người vào cung
rồi mới được lấy chồng, thế là để cung phụng cho riêng ḿnh, đâu
phải ḷng làm cha mẹ của dân?
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Vua bấy giờ chưa đến tuổi hai mươi, ra lệnh ấy là
muốn tuyển con gái các quan sung vào hậu cung thôi. Việc ấy chưa lấy
ǵ làm quá. C̣n như đánh được giặc mà [35b] quy công cho Phật, dâng
hươu mà làm đem tước trật cho người đều là do tính trẻ thơ mà không
ai giúp can ngăn. Nếu có người lấy chí thành mà cảm, dùng lời nói
khéo mà khuyên, th́ vua vốn tư chất thông minh, tất thế nào cũng
nghe theo.
Quản giáp
nội tác là Chu Thủy dâng cá diếc vàng. Lấy ngự khố thư gia Lương Cải
giữ phủ Thanh Hoá.
Tháng 3,
người nước Chiêm Thành là Ung Ma, Ung Câu sang quy phụ.
Tháng 5,
quản giáp Phù Thu Liễu là Phí Nguyên dâng chim sẻ trắng.
Thái
thượng hoàng băng, thụy là Cung Hoàng.
Tháng 6,
hạn, làm lễ cầu mưa.
Mùa Thu,
tháng 9, mưa dầm, làm lễ cầu tạnh.
Vua ngự
điện Linh Quang xem đua thuyền.
Xuống
chiếu tha tù giam ở phủ Đô hộ.
Mùa Đông,
tháng 10, vua ngự điện Thiên Linh duyệt sáu quân, định các cấp bậc.
Nhà Tống
sai sứ mang ấn báu và sắc vàng sang phong vua làm Giao Chỉ Quận
Vương602 .
Tháng 11,
Chiêm Thành sang cống.
Tháng 12,
vua đánh cầu ở Long Tŕ, cho sứ nước Chiêm Thành vào hầu xem. Mở hội
khánh thành chùa Quảng Nghiêm Tư Thánh. Tha cho những người có tội.
Sai Viên ngoại lang là Lư Phụng Ân và Lệnh thư gia là Doăn Anh Khái
sang nước Tống đáp lễ.
Tân Hợi,
[Thiên Thuận] năm thứ 4 [1131] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 1). Mùa
xuân, tháng giêng, dựng hai gác ở trong điện Diên Ḥa.
Tháng 2,
Hoàng đệ là Tinh chết (con của Sùng Hiền hầu).
Mùa hạ,
tháng 4, xuống chiếu cấm gia nô cuả các vương hầu, công chúa và các
quan không được lấy con gái của các quan chức đô và bách tính.
Cấm con
gái dân gian không được bắt chước kiểu búi đầu tóc như cung nhân.
Tháng 5,
hạn, cầu đảo được mưa to.
Chủ đô
Nhiễm hoành là Hà Nhi dâng chim sẻ trắng.
Dựng nhà
cho đại sư Minh Không.
Mùa thu,
tháng 7, các quan dâng biểu mừng [36b] được mùa.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói:Các triều thần bấy giờ xiểm nịnh quá lắm! Tháng 5,
đại hạn, cầu đảo may mà được mưa, đến tháng 7, th́ lúa hè đă quá vụ,
mà lúa thu chưa chín, đă vội cho là được mùa, dâng biểu chúc mừng.
Nếu đến tháng 9, tháng 10, mà gặp lụt hạn hay bị sâu cắn th́ đối với
tờ biểu mừng ấy thế nào?
Tháng 9,
mở vườn bảo hoa.
Xuống
chiếu cho Mâu Du Đô coi châu Nghệ An.
Tháng ấy
mưa lâu ngày, làm lễ cầu tạnh.
Muà đông
tháng 10, Ngự tiền chỉ huy sứ là Vương Cát tâu là có dấu vết thần
giáng ở Long Tŕ trước lầu chuông bên tả, dấu dài 9 tấc 5 phân, rộng
5 tấc.
Hoàng đệ là Chu Cá chết.
Tháng 12, người ở hương
Thái B́nh là Nguyễn Măi dâng hươu trắng. Người lính ở Tả Vũ Tiệp là
[37a] Đỗ Khánh dâng cá xương công (tức là cá hầu)603 sắc vàng. Vua
cho là điềm lành, xuống chiếu cho các quan chúc mừng. Cáp môn sứ Lư
Phụng Ân tâu rằng:"con cá ấy là vật nhỏ mọn mà bệ hạ lấy làm điềm
lành. Nếu có lân phượng đến th́ bệ hạ cho là vật ǵ?". Vua khen lời
nói phải.
Nhâm Tư, [Thiên Thuận]
năm thứ 5 [1132] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 2). Mùa hạ, tháng 4, đêm
có rồng vàng từ điện Vĩnh Quang hiện ra ở cung Lệ Quang604 .
Tháng 5, ngày mồng 1,
hoàng thứ trưởng tửlà Thiên Lộc sinh, sau phong làm Minh Đạo Vương.
Tháng [5], nhuận, hoàng
trưởng nữ sinh, rồi chết.
Tháng ấy, gió băo làm đắm
thuyền Diên Chương.
Mùa thu, tháng 7, người
nước Chiêm Thành là bọn Cụ Bàn trốn về nước, đến trại Nhật Lệ605 bị
người trại ấy bắt được, giải về Kinh sư.
Tháng 8, Chân Lạp và
Chiêm Thành đến cướp châu Nghệ An.
Hỏa đầu quân Tă Vũ Lâm và
Đỗ Quảng dâng cá xương công.
Xuống chiếu cho Thái uư
Dương Anh Nhĩ đem người ở phủ Thanh Hóa [37b] và châu Nghệ An đi
đánh quân Chân Lạp và Chiêm Thành, phá tan.
Châu mục châu Chân Đăng
là Lê Pháp Quốc dâng hươu đen.
Tháng 9, Lệnh hỏa đầu ở
đô Phụng vệ là Đinh Ngưu dâng hươu trắng.
Lệnh thư gia châu Nghệ An
là Trần Lưu dâng ba người Chiêm Thành. Trước đây bọn người này
thường ẩn nấp ở chổ hiểm yếu, bắt người châu Nghệ an đem bán cho
người nước Chân Lạp, Lưu đặt phục binh ở chổ ấy, bắt được đem dâng.
Mùa đông, tháng 10, sai
Viên ngọai lang Lư Phụng Ân và Phụng nghị lang Doăn Anh Khái sang
nước Tống đáp lễ.
Dựng điện Cảm Linh và gác
Phụng Thiên.
Tháng 12, vua đón xuân ở
đ́nh Quảng Văn. Khánh thành điện Cảm Linh, ban yến cho các quan.
Thượng thư Lư Nguyên bị
tội, chết ở trong ngục, v́ con gái của Nguyên là thứ phi Chương Anh
có lỗi.
Nhà Tống phong vua làm
Giao Chỉ Quận Vương.
[38a] Giáp Dần, Thiên
Chương Bảo Tự năm thứ 2 [1134] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 4). Mùa
xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, cho Viên ngoại lang Ngụy Quốc Bảo
tước Đại liêu ban.
Dựng hai chùa Thiên Ninh,
Thiên Thành và tô tượng Đế Thích. Vua ngự đến xem.
Lệnh thư gia Nguyễn Mỹ
dâng con ngựa màu hoa đào, đầu xanh, bốn chân mọc sáu cựa (hai chân
trước đều một cựa, hai chân sau đều hai cựa).
Tháng ấy mưa lâu, làm lễ
cầu tạnh.
Tháng 3, vua ngự đến quán
Ngũ Nhạc.
Mùa hạ, tháng 4, xuống
chiếu cấm các viên chi hậu và nội nhân hỏa đầu không được tự tiện ra
ngoài, ai trái th́ khép tội nặng, nếu có việc công phải tâu trước
rồi mới được ra.
Tháng 5, khánh thành điện
Vĩnh Quang mới sửa chữa.
Phạm Tín ở châu Nghệ An
và Lệnh tư gia là Trần Lưu dâng hươu trắng.
Hỏa đầu quân Hữu Ngự Long
là Quách Tư dâng ngọc thiềm thừ606 h́nh dạng như [38b] mắt cá. Vua
nói: "Đó là vật nhỏ mọn, không đáng quư". Không nhận.
Người lính ở quân Hữu
Hưng Vũ607 là Vương Cửu dâng con rùa mắt có sáu con ngươi, trên ức
có nét chũ Trựu608 , xuống chiếu cho các học sĩ và các tăng đạo biện
nhận, đọc thành tám chữ: "Thiên thư hạ thị thánh nhân vạn tuế".
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
Rùa là vật linh thiêng v́ nó có thể báo điềm trước, nhưng đời nào
cũng thường có, không như rồng phượng và kỳ lân ít thấy. Thế mà
đương thời cho rùa là điềm lành mà đem dâng cho nhiều thế là làm
sao? C̣n như trên ức có nét chữ chỉ là những vết trắng, nét đen xen
nhau mà thôi, bầy tôi nhận là văn tự, đó là chiều ư vua mà nói nịnh
thôi, có phải thực có chữ đâu. Cho nên người làm vua phải cẩn thận
sự ưa chuộng.
Táng 6, Hoàng bà là Vương
Bà Lịch chết.
Mùa thu, tháng 7, rồng
vàng ban đêm hiện ở điện Vĩnh [39a] Quang.
Mùa đông, tháng 11, sửa
lại điện Diên Sinh và quán Ngũ Nhạc.
Tháng 12, Thành Đạo hầu
(không rơ tên) chết.
Bầy tôi dâng thêm tôn
hiệu là Thuận Thiên Duệ Vũ Tường Linh Cảm Ứng Khoan Nhân Quảng Hiếu
Hoàng Đế. Đại xá cho thiên hạ.
Ất Măo, [Thiên Chương Bảo
Tự] năm thứ 3 [1135] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 5). Mùa xuân, tháng
giêng, lấy Ngự khố thư gia là Dương Chưởng giữ phủ Thanh Hóa.
Tháng 2, hai nước Chân
Lạp và Chiêm Thành sang cống.
Tháng 3, Khánh Thiện hầu
(không rơ tên)609 chết.
Mùa hạ, tháng 4, xuống
chiếu cho Tả ty lang trung Lư Công Tín ra vào cung cấm để tâu việc,
không được ngăn cấm.
Vua ngự đến quán Ngũ Nhạc
để khánh thành tượng Tam tôn610 bằng vàng bạc.
Cho Viên ngoại lang Ngụy
Quốc Bảo làm Tả y lang trung.
Từ mùa xuân đến mùa hè
không mưa.
Tháng 5, ngày mồng 1, có
mưa.
Tháng 6, Chi hậu thư gia
là Lư Xương và nhà sư ở chùa Quán Đính611 là Nguyễn Minh đều [39b]
dâng chim sẻ trắng.
Xuống chiếu rằng những
người đă bán ruộng ao không được trả tăng tiền lên mà chuộc lại, làm
trái th́ phải tội.
Mùa thu, tháng 7, Thái sư
Trương Bá Ngọc612 chết.
Mùa đông, tháng 12, mở
hội độ tăng613 ở Nghênh Tiên đường.
Mở đàn chay khánh thành ở
điện Diên Sinh.
Đóng 3
chiếc thuyền Nhật Đỉnh, Thanh Lan, Diên Minh.
Bính
Th́n, [Thiên Chương Bảo Tự] năm thứ 4 [1136] , (Tống Thiệu Hưng năm
thứ 6). Mùa xuân, tháng giêng, mở vườn Diên Quang tại hương Lănh
Kinh614 .
Thấy
chuông lớn thời xưa.
Tháng 2,
Thành Hưng hầu (không rơ tên) chết.
Tháng 3,
Thái uư Lưu Khánh Đàm chết.
Vua bệnh
nặng, chữa thuốc không khỏi. Nhà sư Minh Không chữa khỏi, phong làm
quốc sư. Tha thuế dịch cho vài trăm hộ. (Tục truyền khi nhà sư Từ
Đạo Hạnh sắp trút xác, trong khi ốm đem thuốc niệm thần chú rồi giao
cho học tṛ là Nguyễn Chí Thành tức Minh Không, dặn rằng 20 năm sau
nếu thấy quốc vương bị bệnh lạ th́ đến chữa ngay, có lẽ là việc
này).
Mùa hạ,
tháng 4, Hoàng bà là Lă A Măi ốm chết.
[40a]Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói: Sách chép các đế vương chưa có chỗ nào chép
việc hoàng bà chết, mà trong đời Thần Tông thấy chép hai lần, có lẽ
là vua đặt cách gia phong ân tứ trọng hậu cho các bảo mẫu, cho nên
sử thần theo đó mà chép chăng ?
Hoàng
trưởng tử Thiên Tộ sinh. Các quan dâng vàng bạc tiền lụa và biểu
mừng.
Tháng 6,
cho Tả ty lang trung Lư Công Tín615 làm Thiếu sư, tước Minh tự.
Mùa thu,
tháng 9, Gián nghị đại phu Mâu Du Đô bị băi chức.
Mùa đông,
tháng 10, Thái uư Dương Anh Nhĩ chết.
Tháng 12,
ngày lập xuân, vua ngự điện Sùng Uyên, các quan dâng biểu mừng. Ngày
ấy gặp ngày quốc kỵ, cho nên lại đặt biểu này.
Hỏa đầu
đo Tả Hưng Thánh là Tô Vũ dâng rùa thần, ở ức có nét chữ Trựu. các
quan nhận ra bốn chữ "Nhất Thiên Vĩnh Thánh".
Vua ngự
đến [40b] phủ Thanh Hóa xem bắt voi.
Đinh Tỵ,
[Thiên Chương Bảo Tự] năm thứ 5 [1137] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ
7). Mùa xuân, tháng giêng, châu Nghệ An chạy trạm tâu việc tướng
nước Chân Lạp là Phá Tô Lăng616 cướp châu ấy. Xuống chiếu cho thái
uư Lư Công B́nh đem quân đi đánh.
Tháng 2,
châu Nghệ An động đất, nước sông đỏ như máu. Công B́nh sai Nội nhân
hỏa đầu Đặng Khánh Hương về Kinh sư đem việc ấy tâu lên.
Công B́nh
đánh bại người Chân Lạp.
Tháng 3,
Đại liêu ban Nguyễn Công Đào dâng rùa trắng.
Vua ngự
đến chùa Báo Thiên, làm lễ Phật Pháp Vân để cầu mưa. Đêm ấy mưa to.
Mùa hạ,
tháng 4, hoàng tử thứ ba (không rơ tên) sinh.
Tháng 5,
Thiếu sư Lư Công Tín dâng một khối vàng sống, nặng 47 lạng.
Tháng 6,
hạn xuống chiếu cho Nguyễn Công Đào đến Vu đàn617 ở phía nam làm lễ
cầu mưa.
Mùa thu,
tháng 9 , mở hội khánh thành chùa Linh Cảm, tha [41a] người có tội
trong nước.
Xuống
chiếu rằng: Trong ngoài kinh thành cứ ba nhà làm một bảo, để giám
sát các quan chức đô coi triều ban không được đem con ḿnh cho người
khác nuôi làm con để nhờ cậy nhà quyền thế. Kẻ nào không có quan
ấm618 mà can phạm th́ bắt giữ tâu lên. Người một bảo mà không giám
sát nhau th́ cùng một tội với can phạm.
Mùa đông,
tháng 10, ngày Nhâm Ngọ, vua ngự đến hành cung Ly Nhân xem gặt.
Ngày Ất
Sửu, hoàng nữ thứ hai sinh, sau phong làm Thuỵ Thiên công chúa.
Tháng 12,
vua về đến Kinh sư.
Cho Ngự
khố thư gia coi phủ Thanh Hóa là Dương Chưởng làm Viên ngoại lang.
Mậu Ngọ,
[Thiên Chương Bảo Tự] năm thứ 6 [1138] , (từ tháng 10 về sau là niên
hiệu của Anh Tông, Thiệu Minh năm thứ 1; Tống Thiệu Hưng năm thứ 8).
Muà hạ, tháng 5, Nội nhân hỏa đầu là Hứa Viêm dâng một khối vàng
sống nặng 66 lạng.
Tháng 6,
hạn, sai Nhập nôi tả ty lang trung là Nguỵ Quốc Bảo triệu các quan
hội bàn. Chư vệ là Phạm Tín [41b] xin đến Vu đàn làm lễ cầu mưa. Vua
y theo.
Mùa thu,
tháng 7, không mưa. Vua sai Hửu ty làm lễ cầu ở Vu đàn và chùa Báo
Thiên.
Ban cho
các quan aó mùa đông.
Tháng 9,
vua không khỏe.
Lập Hoàng
trưởng tử Tiên Tộ làm Hoàng thái tử. Trước vua đă lập Thiên Lộc làm
con nối. Đến đây ốm, ba phu nhân là Cảm Thánh, Nhật Phụng và Phụng
Thánh muốn đổi lập thái tử khác, mới sai người đam của đút cho Tham
tri chính sự Từ Văn Thông, nói rằng nếu có vâng mệnh thảo di chiếu
th́ chớ bỏ lời của ba phu nhân. Văn Thông nhận lời. Đến khi vua ốm
nặng, sai soạn thảo di chiếu, Văn Thông tuy vâng mệnh vua, nhưng nhớ
lời dặn của ba phu nhân, cứ cầm bút mà không viết. một lát ba phu
nhân đến, khóc lóc nghẹn ngào nói rằng: "Bọn thiếp nghe rằng đời xưa
lập con nối ngôi th́ lập con đích chứ không lập con thứ. Thiên Lộc
là con của người thiếp được vua yêu, nếu cho nối ngôi th́ người mẹ
tất sẽ tiếm lấn, sinh ḷng nghen ghét làm hại, [42a] như thế th́ mẹ
con bọn thiếp tránh sao khỏi nạn? ". Vua v́ thế xuống chiếu
rằng:"Hoàng tử Thiên Tộ tuy tuổi c̣n thơ ấu, nhưng là con đích,
thiên hạ đều biết, nên cho nối nghiệp của trẫm, c̣n thái tử Thiên
Lộc th́ phong làm Minh Đạo Vương".
Ngày 26,
vua đăng ở điện Vĩnh Quang, quàn ở thềm phía tây điện ấy. Các quan
dâng tôn hiệu là Quảng Nhân Sùng Hiếu Văn Vũ Hoàng Đế, miếu hiệu là
Thần Tông.
Mùa đông,
tháng 10, ngày mồng 1, Hoàng thái tử Thiên Tộ lên ngôi ở trước linh
cữu, bấy giờ mới lên ba tuổi. đổi niên hiệu là Thiệu Minh năm thứ 1.
Đại xá cho thiên hạ. Tôn mẹ là Cảm Thánh phu nhân họ Lê làm Hoàng
thái hậu.
Hội thề
quốc nhân ở Long Tŕ.
Sai sứ
sang cáo phó với nhà Tống.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Thần Tông nối nghiệp lớn của tiên vương, làm thiên
tử đời thái b́nh [42b], bỏ con đích trưởng c̣n bú mớm, muốn lập con
thứ đă trưởng thành, là lấy việc lầm lỗi khi trước ḿnh c̣n non dạ
làm răn, nhưng rốt cuộc chí ấy không thành. Việc Từ Văn Thông ăn hối
lộ th́ đă rơ ràng. Lời nói của ba phu nhân thế là thẳng thắn, nhưng
tiếc rằng khi ấy không gọi ngay kẻ đại thần biết khuông pḥ xă tắc
mà uỷ thác con côi. Than ôi! Bề tôi gian tà giao kết với người ở
trong cung đ́nh để đến nỗi làm hỏng việc của người, từ xưa vẫn có.
Song việc Từ Văn Thông và ba phu nhân này chẳng c̣n hơn việc dạy Vệ
Vương619 phải vâng mệnh ư? Tuy thế truyền ngôi cho con đích là lẽ
thường xưa nay, nếu được người giúp là bậc hiền như Y Doản, Chu Công
giúp Thái Giáp và Thành ương th́ để tiếng khen đời sau măi măi.
502 Minh
văn: bài văn khắc trên các đồ kim khí như chuông, đỉnh hoặc trên bia
đá.
503 Phốc
đầu: tên mũ, tức là mũ cánh chuồn, có hai dải cánh giương ra hai
bên.
504 Dâm
Đàm: tức Hồ Tây ở Hà Nội, xem BK2, 35b.
505
Nguyên văn: "Hậu nhân mục kỳ xứ viết". Chữ ____ "mục" trong câu này
không hợp nghĩa (người sau nh́n xứ ấy (?), gọi là ......), có lẽ là
chữ ____ vị ( ... vị kỳ xứ viết ...)
506 Huyện
Từ Liêm: nay thuộc Hà Nội.
507 Núi
Tiên Du: xem chú thích BK2, 22B
508 Trảo
Oa: phiên âm tên đảo Java (Indonesia)
509 Ngưu
Hống: tộc người Thái ở vùng Sơn La, có thể là người Thái Đen. Ngưu
Hống có thể là phiên âm tên Ngù Háu trong tiếng Thái, có nghĩa là
"Rắn hổ mang". Theo Quắm tố mướu (truyện kể bản Mường) của người
Thái Đen th́ chúa Ḷ Rẹt ở Mường Muổi (khoảng thế kỷ XIV) lấy hiệu
là Ngù Háu. Nhưng Ngù Háu có thể là h́nh tượng của tộc Thái Đen từ
trước
510 Sĩ
sư: tên chức quan coi việc h́nh pháp ở Đô hộ phủ (Đô hộ phủ vốn là
tên gọi cơ quan cai trị cấp châu đời Đường, các triều đ́nh Đinh, Lê,
Lư vẫn giữ tên Đô Hộ Phủ, nhưng chỉ chuyên việc h́nh pháp)
511 Thư
gia: Theo Lê Quư Đôn, thư gia tức là ty lại (Kiến Văn Tiểu Lục, bản
dịch, Nxb Sử học, 1962, tr. 129 - 130), có thể cũng như tên gọi "thư
lại" đời sau. Phan Huy Chú ghi tên các thư gia như: Nội hỏa thư gia,
Ngự khố thư gia, Chi hậu thư gia, Nội thư gia, Lệnh thư gia v.v ...
(Lịch triều hiến chương loại chí, bản dịch, T.2, Nxb Sử học, 1962,
tr. 6)
512 Án
ngục lại: người giúp việc xét hỏi về công việc h́nh án.
513
Nguyên bản in lầm là "Giáp Thân", theo thứ tự niên hiệu và can chi
th́ ở đây phải là năm "Mậu Thân" (1068). Việt sử lược q.2, 13a cũng
chép "Mậu thân"
514 Châu
Chân Đăng: xem chú thích trang BK2, 21a.
515 Thiên
Huống Bảo Tượng nghĩa là "Trời cho con voi trắng".
516 Hương
Siêu Loại: nay thuộc địa phận huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc.
517
Nguyên bản in nhầm là "Ất Dậu". Theo thứ tự niên hiệu và can chi ở
đây phải là năm "Kỷ Dậu" (1069). Việt Sử Lược Q.2, 13b cũng chép "Kỷ
Dậu"
518 Chế
Củ: tức vua Chiêm Thành Rudravarman IV.
519 Châu
Địa Lư: năm Thái Ninh thứ 4 (1075) đời vua Lư Nhân Tông đổi gọi là
châu Lâm B́nh, nay là đất huyện Lệ Ninh, tỉnh Quảng B́nh
520 Châu
Ma Linh: năm 1075 đời Lư Nhân Tông đổi gọi là châu Minh Linh, nay là
đất huyện Bến Hải, tỉnh Quảng Trị
521 Châu
Bố Chính: nay là đất các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa,
tỉnh Quảng B́nh
522 Lời
chú thích trong nguyên bản nói: "Địa Lư nay là Quảng Nam" là không
đúng. Xem chú thích về châu Địa Lư ở trên.
523 Tứ
phối: chỉ Nhan Uyên, Tăng Sâm, Tử Tư, Mạnh Tử là bốn học tṛ của
Khổng Tử được thờ với thầy ở Văn Miếu.
524 Thất
thập nhị hiền: 72 học tṛ giỏi của Khổng Tử.
525 Chùa
Tiên Du: ở núi Tiên Du, xem chú thích (4) trang 256)
526 Tức
dăy hành lang đă quy định chỉ có các quan chức đô (chỉ huy các đô
quân cấm vệ) mới được phép lui tới
527 Phật
Pháp Vân: là Phật ở chùa Pháp Vân, tức chùa Dâu, ở huyện Thuận
Thành, tỉnh Hà Bắc ngày nay
528 Quế
Châu: nay là đất huyện Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
529 Người
man động: ở đây chỉ chung người các dân tộc thiểu số ở miền núi biên
giới Việt - Tống.
530 Cương
mục dẫn Cương mục tục biên của Trung Quốc, ghi cuộc hành quân của Lư
Thường Kiệt bắt đầu vào mùa đông năm Ất Măo (1075), đánh châu Khâm
và châu Liêm vào tháng 11 năm ấy, đánh châu Ung vào tháng giêng năm
Bính Th́nh (1076) để đính chính việc Toàn Thư ở đây ghi dưới đoạn
chép việc tháng 2, trước đoạn chép việc mùa thu tháng 8 (CMCB3, 36a)
531 Túc
Sa: chỉ Túc Sa Vệ, tướng nước Tề thời Xuân Thu, theo lệnh của Tề
Tương Công đem quân đi đánh đất Lai, thế thắng, nhưng Vệ nhận hối lộ
rồi đem quân trở về
532 Quảng
Nam: tên lộ của nhà Tống, sau chia làm Quảng Nam Đông lộ, tức tỉnh
Quảng Đông và Quảng Nam Tây lộ, tức tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
533 Sông
Như Nguyệt: tức sông Cầu
534 Bài
thơ này có nhiều dị bản chép trong Việt Điện U Linh, Trương tôn thần
sự tích, Thiên Nam vân lục liệt truyện, Hoàng Việt thi tuyển v.v...
ở đây chúng tôi dịch nghĩa theo văn bản của Toàn Thư
535 Về
tên nhân vật truyền thuyết, người anh của Trương Hải, Việt điện u
linh, Hoàng Việt thi tuyển v.v... chép là Trương Hống, nhưng ở đây
nguyên bản Toàn Thư in rơ là Khiếu (Hống và Khiếu đều có nghĩa là
kêu to, nhưng Hống riêng dùng với loài vật lớn). Ngoài Toàn Thư c̣n
có Toàn Việt thi lục cũng chép là Trương Khiếu. Chúng tôi dịch theo
văn bản Toàn Thư và nêu vấn đề để xác minh sau.
536 Châu
Tây Long và cửa Phù Lan: chưa rơ ở đâu, Lê Đại Hành phong cho con là
Cân làm Ngự Bắc Vương, đóng ở Phù Lan, Cương Mục ghi Phù Lan là tên
trại ở xă Phú Vệ, huyện Đường Hào, Hải Dương (CMCB1,27a). Đường Hào
nay là huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Dương.
537 Nhân
Vương Hội: tức hội tụng kinh Phật thuyết Nhân Vương Bát Nhă Bà La
Mật Kinh, trong đó có đoạn nói rằng vua các nước cầu nguyện kinh này
th́ muôn dân được tai qua nạn khỏi.
538 Chỉ
biện pháp kinh tế của nhà Tống do Vương An Thạch đề xướng: mỗi năm
hai vụ xuân hè, nhà nước cho dân vay tiền lúc lúa c̣n non, khi gặt
trả lăi 2 phân.
539 Như
Toàn Thư ghi đây th́ quân nhà Lư trước sau hai lần sang đánh châu
Khâm, châu Liêm (lần trước vào năm Ất Măo, 1075, và lần này vào
tháng 3 năm Đinh Tỵ, 1077). Cương Mục theo các tài liệu của Trung
Quốc như Cương Mục tục biên, Giao Chỉ di biên đă sửa lại, ghi cuộc
hành quân năm Ất Măo diễn ra vào tháng 11 và kết thúc sau khi hạ
thành Ung Châu tháng giêng năm Bính Th́n (1076), trước sau chỉ một
lần chứ không phải hai lần như Toàn Thư đă chép lầm (CMCB3, 36a)
540 Theo
Cương Mục, Triệu Tiết chỉ là phó tướng của Quách Quỳ đem quân sang
xâm lược nước ta năm Bính Th́n, 1076 (Toàn Thư đă ghi ở BK3, 9a) chứ
không phải lại sang lần nữa vào năm này (Đinh Tỵ, 1077) như Toàn Thư
đă chép nhầm ở đây.
541 Tức
là dân đinh từ 18 tuổi trở lên, xem chú thích (1), tr. 264.
542 Chùa
Đại Lăm Sơn hay chùa Lăm Sơn: tức là chùa Giạm trên núi Giạm (Lăm
Sơn) ở xả Nam Sơn, huyện Quế Vơ, tĩnh Hà Bắc, nay vẫn c̣n các lớp
nền và cột đá chạm rồng thời Lư.
543
Nguyên văn: "thư gia thập hỏa". Thư gia theo Lê Quư Đôn là ty lại
(người giúp việc văn thư giấy tờ ở các nha môn. Kiến văn tiểu tục
Bản dịch, NXB Sử học, 1962, tr. 189). Phan Huy Chú kể tên một số
"thư gia" như nội hỏa thư gia, ngự khố thu gia, chi hậu thư gia, nội
thư gia, lệnh thư gia (Lịch triều hiến chương loại chí, t.2: Quan
chức chí, NXB Sử học ,1961, tr.6). Các "thư gia" khác đều chưa rơ.
544 Đề
cử: tên chức quan thời Lư, quản lư ruộng đất và tài sản của nhà
chùa.
545 Châu
Thạch Tê: có lẽ miền huyện Thạch Lâm cũ của tỉnh Cao Bằng (theo
Hoàng Xuân Hăn, Lư Thường Kiệt, Sđd). Thạch Lâm là đất các huyện Ḥa
An và Nguyên B́nh, tỉnh Cao Bằng.
546 Lănh
Kinh Xuyên: khúc sông qua bến Lănh Kinh, xem chú thích ở BK1, 26b.
547 Thăng
: đơn vị đo lường, chưa rơ tương đương đơn vị ngày nay như thế nào.
548 Ưu
bát đàm: đúng tên là ưu đàm bát, c̣n gọi là ô - đàm - bạt - ha, ưu -
đàm - ba - la, đều là chữ phiên âm tiếng Phạn: Udumbara; xem chú
thích (3), tr. 255.
549 Tang
thuế: chưa rơ nội dung từ này, theo nghĩa chữ có thể hiểu là thuế và
tang. Tang có nghĩa là bẩn thỉu, bỉ ổi, có thể là từ dùng để chỉ các
khoản phụ thu thuế bất chính.
550 Thao
Giang: tên trại thời Lư, thời Trần đổi là lộ (Phạm Sư Mạnh có bài
thơ Án Thao Giang lộ), nay là vùng huyện Tam Thanh, Sông Thao, tỉnh
Vĩnh Phú.
551 Nước
Đại Lư: xem chú thích (1) tr. 270.
552 Vua
Chiêm Thành thời gian này là jaya Indravarman II (1086-1113) (theo
G. Maspéro, sđd).
553 Cao
Môi, cũng gọi là Giao Môi: tên vị thần chủ việc sinh con trai.
554 Liên
Hoa Đài tŕ: hồ ở dưới đài hoa sen.
555 Tức
là đoạn đê sông Hồng ở phường Cơ Xá, nay là ở khoảng gần cầu Long
Biên (ở đó c̣n băi Cơ Xá) thuộc Hà Nội.
556 Việt
sử lược (q2, 20b) chép là Tham chính Từ Văn Thông.
557 Núi
Thạch Thất: thức núi Thầy (Sài Sơn), huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây.
558 Tàng
câu: tên gọi một tṛ chơi t́m vật giấu trong nắm tay, tương tự như
tṛ chơi "tay nào có tay nào không".
559
Nguyên văn: "Thủ Thái Đường nhân". Thái Đường có lẽ là tên giáp, vị
trí vào khoảng huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây ngày nay.
560 Cam
Giá: tức vùng mía ở huyện Ba V́, tỉnh Hà Tây.
561 Đồ
khao giáp: đây làm kẻ phục dịch trong quân.
562 Tang
thất phụ: đàn bà làm việc ở nhà chăn tằm.
563 Núi
Chương Sơn: là núi Ngô Xá ở xă Yên Lợi, huyện Ư Yên, tỉnh Hà Nam
ngày nay. Dấu vết của ngôi tháp thời Lư nay vẫn c̣n.
564 Ứng
Phong: tên phủ thời Lư, tương đương với phủ Nghĩa Hưng thời Lê, tức
là đất ba huyện Nghĩa Hưng, Ư Yên, Vụ Bản, tỉnh Nam Định ngày nay.
565 Tư
Nông: tên châu thời Lư, nay là huyện Phú B́nh, tỉnh Thái Nguyên.
566 Phủ
Thiên Đức:Tức là châu Cổ Pháp trước năm 1010, xem chú thích (1) tr.
240.
567
Nguyên bản in sót chữ Vũ, ỡ đoạn sau (BK3, 19b) có ghi rơ Vũ Đô.
568 Tiết
Trung Nguyên: tức lễ rằm tháng bảy.
569 Lễ Vu
Lan bồn: lễ cúng Phật ngày rẳm tháng bảy, cầu siêu cho cha mẹ khỏi
bị khổ h́nh ở địa ngục.
570 Đại
Việt sử lược (q.2, 22b) chép tên người này là Nguyễn Bá Khánh (hai
chữ) Khánh và Độ dễ sao chép lầm).
571 Động
Ma Sa: thuộc địa phận huyện Đà Bắc, tỉnh Ḥa B́nh ngày nay.
572 Long
Thủy hiệp: tức là Thác Bờ ở gần thị xă Ḥa B́nh, tỉnh Ḥa B́nh.
573 Tất
tác giáp: giáp thợ sơn.
574 Đội
Sơn: Tức là núi Đọi, ở xă Đội Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Nam Hà.
575
Nguyên văn: "tân lang châu", chưa rơ là thứ ngọc ǵ, có lẽ chỉ là
cách để nói viên ngọc châu to bằng quả cau (tân lang)?
576 Đản
thánh tiết: lễ sinh nhật của vua.
577
Nguyên bản in là "Long Thủy hải", có thể ở đây vẫn chỉ địa điểm Long
Thủy hiệp (Thác Bờ) là nơi Lư Nhân Tông đă dừng thuyền khi đi đánh
động Ma Sa ba năm trước để bắt voi.
578 Sông
Ba Lạt: là khúc sông Hồng chảy ra biển ở cửa Ba Lạt ngày nay.
579 Việt
sử lược chép là đài Thông Tiêu (q2,23a).
580 Mâu Du Đô: Việt sử
lược chép là Mâu Đô Du (q2, 23a).
581 Việt sử lược chép là
trung tướng (q2, 23a).
582 Phú Lương: tên phủ
đời Lư, gồm miền đất tỉnh Thái Nguyên cũ và cả huyện Đa Phúc cũ.
583 Nguyên văn: "Chỉ tác
phiên", đơn vị thợ chuyên làm giấy viết.
584 Quế phủ: tức phủ Quế
Châu, nay là Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
585 Cán Lư Bất, (đúng tên
là Oát Ly Bất 2 chữ Oát và Can dễ sao chép lầm, con thú hai của Kim
Thái Tô (A Cốt Đả), cùng với Niêm Hăn đem quân đánh kinh đô nhà
Tống.
586 Mạc Bắc: tức phía bắc
sa mạc Gôbi (từ chân núi Hưng An Lĩnh đến phía đông núi Thiên Sơn).
587 Ở đây có nhiều nhầm
lẫn trong lời chú thích nguyên bản. Việc tướng nước Kim chiếm Biện
Kinh, bắt sống Huy Tông và Khâm Tông nhà Tống mà toàn thư nhắc đến
đây là sự kiện vào năm Thiên Hội thứ 3 (1125) đời Kinh Thái Tông,
c̣n lập nước Kim là việc của Kim Thái Tổ (không có niên hiệu Thiên
Hội). Kim Thái Tổ họ Hoàn Nhan, tên là A Cốt Đả, sau đổi là Mân, c̣n
Oa Khoát Đài (Ogodai) là tên của hăn Mông Cổ (1228- 1241).
588 Nông Châu: tức châu
Tư Nông (hoặc c̣n gọi là Tây Nông như ở BK3, 34a ), nay là huyện Phú
B́nh, tỉnh Bắc Thái.
589 tức 12 tuổi.
590 Nguyên văn: "Vĩnh
kiên năi tâm"; chữ kiên là vững bền cho đồng âm mà khắc lầm ra chữ
kiên là vai.
591 Na Ngạn: nay là đất
huyện Lục Ngạn, tỉnh Hà Bắc.
592 Dẫn lời quẻ Ly trong
Kinh Dịch
593 Đại Việt Sử Lược chép
niên hiệu này là Đại Thuận (Q.3, 1a)
594 Điền nhi và lộ ông:
Cương Mục dẫn lời Ngô Th́ Sĩ chua rằng: Điền Nhi và Lộ Ông đều là
những người bị tội đồ dịch. C̣n phép phối dịch ra sao bây giờ không
thể khảo được (CMCB4, 19a).
595 Linh Nhân: tương
truyền thời Hoàng Đế có người tên là Linh Luân chế tạo ra âm nhạc,
v́ vậy đời sau gọi là nhạc quan và các diễn viên ca kịch là "linh
nhân"
596 Nay là Hàm Châu, tỉnh
Chiết Giang, Trung Quốc.
597 Nguyên văn: "quan
quốc nhân minh vu Long Tŕ" (xem người trong nước thề ở Long Tŕ).
Hai chữ "quốc nhân" trong câu này không được xác định rơ, thường
hiểu là số đông người thuộc nhiều tầng lớp xă hội.
598 Chỉ các đời vua Thái
Tổ, Thánh Tông và Nhân Tông đời Lư
599 Đỗ Gia: tên hương
thời Lư, nay là huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tỉnh
600 Đây là những cái tháp
nhỏ bằng đất nung cao 20 - 50 cm, thường t́m được trong các di tích
thời Lư
601 Nguyên bản in là
Giang Để, có thể là Để Giang, tức sông Đáy, Để Giang cũng là tên
đất. Theo cương mục, từ thời Trần trở về trước gọi là Để Giang, nhà
Lê đổi gọi là huyện Sơn Dương, tỉnh Hà Tuyên.
602 Việc Nhà Tống phong
Lư Thần Tông làm Giao Chỉ Quận Vương, Toàn thư chép hai lần: ở đây
(năm 1130) và ở BK3, 37b (năm 1132). Có lẽ Toàn thư ghi thừa ở năm
1130, v́ Tống sử (q.488) cũng ghi việc này vào năm 1132. Việt sử
lược ghi việc nhà Tống phong tước Quận Vương cho Lư Thần Tông vào
năm Tân Hợi, 1131 (q.3, 1b) có lẽ cũng không chính xác.
603 Xương công ngư: lời
chú nguyên bản nói cá "xương công" tức là cá "hầu". Cương mục cũng
chép việc này, nhưng chua rằng "xương" và "công" là hai loài cá khác
nhau. Cá Xương tức cá hầu, phần trên đầu gồ lên liền với sống lưng,
ḿnh tṛn, chỉ có 1 xương sống, thịt mềm, ăn được; cá Công là loài
cá giống như con cua, ăn được (CMCB4, 28b).
604 Nguyên bản khắc sai
nét chữ "cung" thành ra h́nh như chữ "quản".
605 Nhật Lệ: là tên sông
ở tỉnh Quảng B́nh, trại Nhật Lệ chỉ miền ấy.
606 Thiềm thừ châu: cũng
như ở trên đă nói đến tân lang châu (ngọc cau), ở đây nói thiềm thừ
châu (ngọc cóc), chưa rơ là thứ ngọc ǵ (chú thích 2, tr. 291).
607
Nguyên bản in là Thạch Hưng Vũ. Tên cai đội quân thường có chữ Tả,
Hữu; ở đây chữ Thạch do chữ Hữu khắc lầm.
608 Trựu
văn: tức là chữ đại triện (tương truyền là do quan thái sử Sử Trựu
đời Chu Tiên Vương, Trung Quốc, đặt ra.
609 Khánh
Thiện hầu mà Toàn thư ghi tại đây là Tăng thống Khánh Hỷ có tiểu
truyện trong Thiền uyển tập anh (tờ 61a); chữ Thiện và chữ Hỹ, nét
chữ gần giống nhau, có thể chép lầm.
610 Tam
tôn: thường là tượng phật A Di Đà và tượng hai bồ tát Quan Thế Âm,
Đại Thế Chi.
611 Theo
Thiền uyển tập anh, chùa Quán Đính ở núi Không Lộ, lại theo Đại Nam
nhất thống chí (tỉnh Sơn Tây, núi Không Lộ ở địa phận huyện Thạch
Thất, trên núi có chùa Lạc Lâm, là chỗ Thiền sư Không Lộ trút xác mà
hóa. Như thế th́ chùa Quán Đính c̣n có tên là chùa Lạc Lâm và núi
không Lộ, tức là Sài Sơn (núi Thầy), nay ở huyện Quốc Oai, tỉnh Hà
Tây.
612
Trương Bá Ngọc: tức là Lê Bá Ngọc, do Lư Thần Tông đổi làm họ Trương
(xem BK3, 32a).
613
Nguyên văn: "độ nhân hội", tức lễ độ cho những người đủ tư cách tăng
nhân.
614 Hương
Lănh Kinh: có lẽ là miền Thị Cầu, thị xả Bắc Ninh ngày nay, xem thêm
chú thích (4) tr.260.
615 Lư
Công Tín: tức Phí Công Tín, được ban họ Lư (BK3, 34b).
616 Việt
sử lược chép là Tô Phá Lăng và chép việc vào năm 1136 (q.3, 2a).
617 Vu
đàn: đàn tế trời để cầu mưa. Theo Công Dương truyện, vua thân đến
đàn Nam Giao cầu đảo, cho đồng nam đồng nữ vừa múa vừa hô "Vu!
Vu!...", v́ thế gọi là "Vu đàn".
618 Quan
ấm: theo chế độ cũ, con cháu các nhà quan có công với triều đ́nh
hoặc chết v́ việc nước, được bổ làm quan, gọi là quan ấm.
619 Chỉ
Vệ Vương Đinh Toàn, con Đinh Tiên Hoàng.
Quyển IV
[1a]
Anh Tông
Hoàng Đế
Tên húy
là Thiên Tộ, con đích trưởng của Thần Tông, mẹ là Hoàng hậu họ Lê,
sinh tháng 4 năm Bính Th́n, Thiên Chương Bảo Tự thứ 4 [1136], tháng
9 năm Mậu Ngọ [1138] lập làm Hoàng Thái Tử. Thần Tông băng, bèn lên
ngôi báu. Ở ngôi 37 năm [1138-1175], thọ 40 tuổi [1136-1175], băng ở
điện Thụy Quang. Trong việc phế lập, vua không mê hoặc lời nói của
đàn bà, kư thác được người phụ chính hiền tài, có thể gọi là không
thẹn với việc gánh vách. Song không phân biệt được kẻ gian tà, h́nh
phạt không sáng suốt, cho nên trời xuống tai biến để răn, giặc cướp
nổi lên, giềng mối rối loạn, không thể nói xiết.
Kỷ Mùi ,
Thiệu Minh năm thứ 2 [1139], (Tống Thiệu Hưng năm thứ 9)620 . Nhà
tống phong vua làm Giao Chỉ Quận Vương.
Canh Thân
, [Thiệu Minh] năm thứ 3 [1140], (Từ tháng 2 về sau là niên hiệu Đại
Định năm thứ 1; Tống Thiệu Hưng năm thứ 10). Mùa xuân, tháng giêng,
châu mục châu Chân Đăng là Lê Pháp Viên dâng hươu trắng.
Tháng 2,
đổi niên hiệu là Đại Định năm thứ 1.
Tháng 3,
Ngọc bệ [1b] viên ngoại lang là Nguyễn Nghĩa Minh dâng hươu đen.
Lấy Đỗ
Anh Vũ làm cung điện lệnh tri nội ngoại sư. Anh Vũ là em của Đỗ thái
hậu, nên Lê thái hậu trao cho chức này.
Mùa hạ,
tháng 4, lấy ngày sinh của vua làm tiết Thọ Ninh.
Từ mùa
xuân sang mùa hạ, không mưa.
Tháng 5,
có mưa.
Mùa đông,
tháng 10, được mùa to.
Người
thầy bói Thân Lợi tự xưng là con của Nhân Tông621 đem đồ đảng theo
đường thủy đến châu Thái Nguyên622 , từ châu Tây Nông623 kéo ra, qua
châu Lục Lệnh, vào chiếm châu Thượng Nguyên và châu Hạ Nông620 , thu
nạp những kẻ trốn tránh, chiêu mộ thổ binh, có đến hơn 800 người,
cùng mưu làm loạn.
Tân Dậu,
[Đại Định] năm thứ 2 [1141] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 11). Mùa
xuân, tháng giêng, Thân Lợi tiếm xưng là B́nh Vương, lập vợ cả, vợ
lẽ làm hoàng hậu và phu nhân, con làm vương hầu, cho đồ đảng quan
tước theo thứ bậc[2a] khác nhau. khi ấy đồ đảng của Thân Lợi chỉ hơn
ngh́n người, đi đến đâu nói phao là Lợi giỏi binh thuật để hiếp chế
người miền biên giới. Người các khe động dọc biên giới đều khiếp sợ,
không dám chống lại.
Tháng 2,
quan coi biên giới dâng thư cáo cấp. Xuống chiếu cho Gián nghị đại
phu Lưu Vũ Nhĩ625 đem quân do đường bộ tiến đi, Thái phó là Hứa Viêm
đem quân ngược đường thủy để tiến đánh. Khi ấy Vũ Nhĩ sai tướng tiên
phong là Thị vệ đô Tô Tiệm và Chủ đô trại Tuyên Minh là Trần Thiềm
đem quân đi trước, đóng ở sông Bác Đà626 , gặp thủy quân của Lợi
cùng giao chiến. Tiệm thua, bị Lợi giết, Lợi trở về giữ châu Thượng
Nguyên, đắp đồn ải ở huyện Bác Nhự để chống quan quân. Vũ Nhĩ đánh
nhổ được ải Bác Nhự, tiến đến Bồ Đinh627 , gặp thủy quân của Lợi,
đánh lớn, Vũ Nhĩ thua trận, tướng sĩ chết đến quá nửa, phải rút về.
Mùa hạ,
tháng 4, ngày Mậu Th́n, Vũ Nhĩ về đến Kinh sư. Ngày Tân Mùi, Lợi ra
chiếm châu Tây Nông, sai người ở các châu Thượng Nguyên [2b] Tuyên
Hóa628 , Cảm Hóa629 , Vĩnh Thông630 đánh lấy phủ Phú Lương631 . Lợi
chiếm giữ phủ trị, ngày đêm hợp bè đảng mưu cướp kinh sư. Ngày Kỷ
Mảo, vau sai thái úy Đỗ Anh Vũ đem quân đi đánh Lợi.
Tháng 5,
ngày Tân Măo, quân của Lợi kéo về cướp kinh sư, đóng ở Quảng Dịch632
, gặp quân của Anh Vũ, đánh lớn. Quân của Lợi thua, chết không kể
xiết. Anh Vũ sai chém lầy đầu bêu lên ở cạnh đường suốt từ quan B́nh
Lỗ633 đến sông Nam Hán.
Bắt được
thủ lĩnh châu Vạn Nhai634 là Dương Mục, thủ lĩnh động Kim Kê là Chu
Ái, đóng củi giải về Kinh sư. Lợi chỉ chạy thoát một ḿnh về châu
Lục Lệnh. Ngày Nhâm Ngọ, giải bọn Mục và Ái về trói giam ở huyện phủ
của chúng. Xuống chiếu cho Anh Vũ chiêu tập bọn tàn tốt của Lợi ở
cửa quan B́nh Lỗ. Phát muối kho công cho bọn Mục và Ái.
Mùa thu,
tháng 8, quốc sư Minh Không chết (sư người xă Đàm Xá, huyện Gia
Viễn, phủ Trường Yên, rất linh ứng, phàm khi có tai ương hạn lụt,
cầu đảo đều nghiệm cả. Nay hai chùa Giao Thủy và Phả Lại đều có
tượng thờ)635 .
[3a]Mùa
đông, tháng 10, ngày mồng 1, lại sai Anh Vũ đi đánh châu Lục Lệnh,
bắt được bọn bè đảng của Lợi hơn 2.000 người. Lợi trốn sang châu
Lạng, Thái phó Tô Hiến Thành bắt được Lợi, giao cho Anh Vũ đóng củi
giải về kinh sư. Sai Lư Nghĩa lâm chiêu tập vỗ yên dư đảng của Lợi.
Xuống chiếu cho quan Đ́nh úy xét tội Lợi. Án xét xong, vua ngự điện
Thiên khánh xử tội Lợi và bọn đồng mưu 20 người
đều xử
trảm, những kẻ c̣n lại đều theo tội nặng nhẹ mà xử, tha cho những kẻ
v́ ép buộc mà phải theo. Các quan dâng biểu mừng.
Lưu Vũ
Nhĩ dâng hươu trắng, lại dâng ngọc tân lang [ngọc cau].
Sử thần
Ngô Sĩ liên nói: Bấy giờ Lưu Vũ Nhĩ có tội về sai quân luật mà bại
trận, lại dâng những vật điềm lành để che lỗi, thế mà không một
người nào dám bàn đến, có thể biết h́nh pháp chính sự bấy giờ nhiều
việt sai trái. Đỗ Anh Vũ lăng loàn dữ tợn đâu phải không có nguyên
do.
[3b] Nhâm
Tuất, [Đại Định] năm thứ 3 [1142] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 12).
Mùa xuân, tháng 2, Lưu Vũ Nhĩ dâng ngọc thiềm thừ [ngọc cóc].
Mùa đông,
tháng 10, sai thủ Lĩnh phủ Phú Lương là Dương Tự Minh đến châu Quảng
Nguyên để chiêu tập người châu ấy.
Tháng 12,
xuống chiếu rằng những người cầm đợ ruộng thục636 trong ṿng 20 năm
th́ cho phép chuộc lại; việc tranh chấp ruộng đất th́ trong ṿng 5
năm hay 10 năm c̣n được tâu kiện; ai có ruộng đất bỏ hoang bị người
khác cấy cày trồng trọt trong ṿng một năm th́ được kiện mà nhận,
quá hạn ấy th́ cấm. Làm trái th́ xử 80 trượng. Nếu tranh nhau ruộng
ao mà lấy đồ binh khí nhọn sắc đánh chết hay làm bị thương người th́
đánh 80 trượng, xử tội đồ, đem ruộng ao ấy trả lại người chết hay bị
thương.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Giết người th́ phải xử tội chết, đó là phép của đời
xưa, nay tôi giết người cũng xử như tội khác thực là không phân biệt
mức độ, mất sự cân nhắc nặng nhẹ.
[4a]
Xuống chiếu rằng những người bán đoạn ruộng hoang hay ruộng thục đă
có văn khế rồi th́ không được chuộc lại nữa, ai làm trái bị phạt
đánh 80 trượng.
Xuống
chiếu tha tội lưu cho các bè đảng của Thân Lợi.
Quư Hợi,
[Đại Định] năm thứ 4 [1143] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 13). Mùa
xuân, tháng 2, xuống chiếu thiên hạ từ nay về sau cứ ba nhà làm một
bảo, không được mổ riêng ḅ trâu, nếu có việc cúng tế phải tâu xin
được chỉ rồi mới cho mổ, kẻ làm trái th́ trị tội nặng, láng giềng
không cáo giác cũng xử cùng tội.
Từ mùa
xuân đến mùa hạ, đại hạn, vua thân làm lễ cầu đảo. Tháng 6, ngày
Đinh Sửu, có mưa.
Mùa thu,
tháng 8, xuống chiếu cho Dương Tự Minh cai quản việc công các khi
động dọc theo biên giới về đường bộ.
Tháng 9,
xuống chiếu rằng, các nhà quyền thế ngoài đầm ao của ḿnh không được
ngăn cấm xằng bậy, làm trái th́ có tội.
Mùa đông,
tháng 10, sai Thái phó Hoàng Nghĩa Hiền và Viên ngoại lang Khổng
Trường đem quân các khe động dọc biên giới về đường bộ đi đăi vàng ở
các xứ Như Cá v. v...
Giáp Tư
[Đại Định] năm thứ 5 [1144] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 14). Gả công
chúa Thiều Dung cho Dương Tự Minh, phong Tự Minh làm Pḥ mă lang.
Tháng 5,
Mâu Du Đô dâng chim sẻ trắng. Cho Mâu Du Đô làm Thái sư, xa lĩnh
việc các khe động dọc biên giới về đường bộ.
Ất Sửu,
[Đại Định] năm thứ 6 [1145] , (Tống thiệu Hưng năm thứ 15). Mùa hạ,
tháng 4, mưa dầm, làm lễ cầu tạnh.
Phụng
chức là Nguyễn Phụng dâng rùa mắt có sáu con ngươi, ức có hai hàng
chữ triện các quan nhận ra bốn chữ "Vương dĩ công pháp"637 .
Xống chếu
rằng những người tranh nhau ruộng ao của cải không được nhờ cậy nhà
quyền thế, làm trái đánh 80 trượng, xử tội đồ.
Muà thu,
tháng 7, dựng đền thần núi Tản Viên và các đền Bố Cái, Ông Nghiêm,
Ông Mẫu.
Tháng 8,
kẻ có yêu thuật người nước Tống là Đàm Hửu Lượng trốn sang châu Tư
[5a] Lang638 , tự xưng là Triệu tiên sinh639 , nói dối là vâng lệnh
đi sứ để dụ nước An Nam640 . Các khe động ở dọc biên giới nhiều
người theo. Hữu Lượng bèn đem đồ đảng đến cướp châu Quảng Nguyên.
Bấy giờ Kinh lược suư ty lộ Quảng Tây nước Tống đưa thư nhờ đuổi bắt
Hữu Lượng. Vua xuống chiếu cho Pḥ mă lang Dương Tự Minh và văn thần
là Nguyễn Nhữ Mai, Lư Nghĩa Vinh đi đánh. Không bao lâu lại sai Thái
sư Mâu Du Đô đem quân các khe động dọc biên giới về đường bộ tiếp
đánh. Khi ấy Tự Minh đă lấy được ải Lũng Đổ, châu Thông Nông641 bắt
được bè đảng của Hữu Lượng và bọn Bá Đại 21 người, duy có Hữu Lượng
chạy thoát, trốn vào núi chằm. Xuống chiếu cho Quản quân sứ là [Lư]
Nghĩa Vinh trông coi áp giải bọn Bá Đại giao trả về nước Tống. Trước
đó Ung Châu làm cáo sắc giả sai người đi gọi Hữu Lượng, Hữu Lương
cho là thực, cùng với bọn thủ lĩnh châu Tự Minh hơn 20 người mang ấn
đồng, địa đồ và vật thổ sản quy phụ nhà Tống. Khi đến [5b] trại
Dương Sơn, viên thủ Ung Châu là Triệu Nguyệt bắt Hữu Lượng và bè
đảng giải đến suư ty. Người Tống thấy trong bọn ấy có Dương ở ngực
có thích h́nh rồng đen, và bọn thủ lĩnh ở châu Bồ năm người, biết là
người nước Việt ta, đều trả về.
Dựng cung
Quảng Từ để hoàng thái hậu ở.
Dựng các
chùa Vĩnh Long, Phúc Thánh.
Cấm các
thợ bách tác642 không được làm đồ dùng theo kiểu của nhà nước tự
tiện bán cho dân gian.
Bính Dần
[Đại Định] năm thứ 7 [1146] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 16). Mùa
xuân, tháng giêng, An Trung hầu (không rơ tên) ở châu Lạng dâng hươu
trắng.
Tháng 3,
Viên ngoại lang Lư Ngọ dâng hươu trắng.
Thái sư
Mâu Du Đô chết.
Muà hạ,
tháng 4, trâu và gia súc chết dịch.
Hạn, cầu
đảo được mưa.
Sao Chổi
mọc.
Tháng 6
nhuận, xuống chiếu cho các ty xử án, kẻ nào tranh bậy không hợp điều
luật pháp chế th́ xử 60 trượng.
Mùa thu,
[6a] tháng 7, dựng 6 sở kho Thiên Tư.
Tháng 8,
xuống chiếu rằng các quan quản giáp và chủ đô, phàm sung bổ cấm
quân, phải chọn những hộ nhiều người, không được lấy người cô độc,
làm trái th́ trị tội.
Đinh Măo,
[Đại Định] năm thứ 8 [1147] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 17). Mùa thu,
tháng 8, đóng hai thuyền Vĩnh Long, Thanh Lan và hai thuyền lớn
Trường Quyết, Phụng Tiên.
Tháng 9,
thư gia là Lư Chiêu dâng con quạ trắng. Mùa đông, tháng 10,ngày Canh
Th́n, tiểu thị vệ là Lư Sùng dâng con rùa mắt có sáu con ngươi, ức
có tám chữ triện.
Dựng hành
dinh ở trại Yên Hưng643 .
Xuống
chiếu cho Đỗ Anh Vũ đi phủ Phú Lương khảo xét quan liêu và định số
mục hộ tịch.
Tháng 11,
làm nhà cho Công chúa Thuỵ Thiên ở châu Lạng.
Hoàng
thái hậu họ Đỗ băng, thuỵ là Chiêu Hiếu hoàng hậu.
Mậu Th́n,
[Đại Định] năm thứ 9 [1148] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 18). Mùa
xuân, tháng 2, vua ngự đến hành cung ly Nhân cày ruộng tịch điền
[6b] rồi đến hành cung Ứng Phong.
Mùa hạ,
tháng 6, xuống chiếu cấm các thủ lĩnh và quan lang người Man Lư và
người Sơn Lăo ở hai trấn Đại Thông và Quy Nhân644 không có việc ǵ
không được về Kinh.
Công chúa
Thuỵ Thiên về châu Lạng.
Mùa đông,
tháng 10, khánh thành cung quảng Từ.
Kỷ Tỵ,
[Đại Định] năm thứ 10 [1149] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 19). Mùa
xuân, tháng 2, thuyền buôn ba nước Trảo Oa645 , Lộ Lạc646 , Xiêm
La647 vào hải Đông648 , xin cư trú buôn bán, bèn cho lập trang ở nơi
hải đảo, gọi là vân Đồn, để mua bán hàng hoá quư, dâng tiến sản vật
địa phương.
Mùa hạ,
tháng 4, mở hội Nhân Vương ở Long Tŕ, đại xá người có tội.
Vua ngự ở
Long Tŕ xem bắt voi.
Mùa đông,
tháng 11, Công chúa Thiên Thành mất.
Cho trung
thư hoả giữ phủ Phú Lương làm Nguyễn Quyền là Trung thư xá nhân, đến
Na Dâm Điền ở đầu phía nam châu Văn, hội với Triều phụng lang châu
Thất Nguyên là Nông Ngạn Cương [7a] để bàn việc, v́ người châu Quảng
Nguyên bắt Liêu Ngũ ở châu Thất Nguyên.
Dựng hành
cung ở Ly Nhân.
Canh Ngọ,
[Đại Định] năm thứ 11 [1150] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 20). Mùa
xuân, tháng 3, hạn.
Mùa thu,
tháng 7, hạn.
Tháng 9,
người Chân Lạp cướp châu Nghệ An, đến núi Vụ Thấp649 gặp nắng nóng
ẩm thấp, phần nhiều chết v́ lam chướng bèn tự tan vỡ.
Khi trước
vua c̣n trẻ thơ, chính sự không cứ việc lớn, việc nhỏ đều uỷ cho Đỗ
Anh Vũ cả. Anh Vũ sai vợ là Tô thị ra vào cung cấm hầu hạ Đỗ thái
hậu, do đó mà Anh Vũ tư thông với Lê thái hậu, nhân thế lại càng
kiêu rông, ở triều đ́nh th́ khoát tay lớn tiếng, sai bảo quan lại
th́ hất hàm ra hiệu, mọi người đều liếc nhau nhưng không ai dám nói.
Điện tiền đô chỉ huy sứ là vũ Đái, Hoả đầu đô Quảng Vũ là Lương
Thượng Cá, Hoả đầu đo Ngọc Giai là Đồng Lợi, Nội thị là Đỗ Ất, cùng
với bọn Trí Minh Vương, Bảo Ninh hầu, Pḥ mă lang Dương Tự Minh cùng
mưu bắt giam Anh Vũ. Bàn tính xong, bọn Đái[7b] đem quân lính đến
ngoài cửa Việt Thành hô to rằng: "Anh Vũ ra vào cấm đ́nh, làm nhiều
đều ô uế, tiếng xấu đồn ra ngoài, không tội ǵ to bằng. Bọn thần xin
sớm trừ đi, khỏi để mối lo về sau". Bèn có chiếu sai cấm quân đến
bắt Anh Vũ trói giam ở hành lang Tả Hưng Thánh, giao cho Đ́nh uư tra
xét. Thái hậu sai người mang cơm rượu cho Anh Vũ, ngầm để vàng vào
trong đồ đựng món ăn để đút cho Vũ Đái và các người canh giữ. Hoả
đầu ở đô Tả Hưng Thánh là Nguyễn Dương nói: "Các ông tham của đút,
tôi với các ông tất không thoát khỏi tay Anh Vũ đâu, chi bằng cứ
giết trước đi cho khỏi tay hoạ về sau". bèn cầm giáo định đâm. Đô Tả
Hưng [Thánh]650 là Đàm Dĩ Mông ôm Dương, cướp lấy giáo, ngăn rằng:
"Điện tiền bảo Anh Vũ tội đáng chết, nhưng c̣n phải đợi mệnh lệnh
của vua, không nên tự tiện". Dương giận, chửi: "Điện tiền Vũ cứt chứ
chẳng phải Đái! (chữ Cát Đái phương ngôn651 nói là cứt đái). [8a]
Sao tham của đút mà không tiếc đến mạng ḿnh!". Nói xong, tự biết
không khỏi chết, bèn nhảy xuống giếng tự tử.
Bấy giờ
vua xét án của Anh Vũ, đày Anh Vũ làm Cảo điền nhi652 . Thái hậu lo
buồn, cố nghĩ làm thế nào để phục hồi chức nhiệm cho Anh Vũ, mới
nhiều lần mở hội lớn để xá cho tội nhân, mong Anh Vũ được dự vào
đấy. Anh Vũ được mấy lần xá tội, lại làm Thái uư phụ chính như cũ,
càng được yêu dùng hơn, do đấy chuyên làm oai, làm phúc, sinh sát mà
ḷng báo thù lúc nào cũng tỏ rơ, c̣n sợ rằng bọn quân lại đi bắt bớ
phần nhiều không được như ư, mới dâng hơn một trăm người thủ hạ để
làm đô Phụng quốc vệ, người nào phạm tội đều giao cho đô Phụng quốc
vệ đi bắt. Anh Vũ mật tâu với vua rằng: "Trước kia bọn Vũ Đái tự
tiện đem cấm quân xông vào cung đ́nh, tội ấy không ǵ to bằng, nếu
không sớm trừng trị, sợ một ngày kia sinh biến, không thể lường
được". Vua chẳng biết ǵ cả, [8b] bèn chuẩn tâu. Anh Vũ sai đô Phụng
quốc về đi bắt bọn Vũ Đái giam vào ngục để trị tội. Hạ chiếu giáng
Trí Minh Vương xuống tước hầu, Bảo Ninh hầu xuống tước minh tự, Bảo
Thắng hầu xuống tước phụng chức, Nội thị là bọn Đỗ Ất 5 người bị
"cưỡi ngựa gỗ"653 , bọn Hoả đầu đô Ngọc Giai là Đồng lợi 8 người bị
chém ở chợ Tây Giai, bọn Điện tiền đô chỉ huy Vũ Đái 20 người chém
bêu đầu ở các bến sông, bọn Pḥ mă lang
dương Tự
Minh 30 người bị tội lưu ở nơi xa độc, những người dự mưu đều bị tội
đồ làm điền hoành, khao giáp, quả như lời nói của Nguyễn Dương.
Lê Văn
Hưu nói: Đỗ Anh Vũ ra vào cấm đ́nh, tư thông với mẫu hậu, không tội
ǵ to bằng. Bọn Vũ Đái nên tâu bày gian trạng rồi bắt giam vào ngục
mà giết đi là phải. Nay lại đem quân đột nhập cửa Việt Thành, hiếp
vua nhỏ tuổi, ép lấy chiếu chỉ. [9a] Đến khi bắt được Anh Vũ rồi,
lại nhận vàng của thái hậu mà không nghe lời nói của Nguyễn Dương,
đến sau rốt cuộc bị Anh Vũ giết, liên lụy đến mấy mươi người, thế là
nuôi hổ để hoạ về sau vậy.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Anh Vũ là kẻ đại ác. Bọn [Vũ] Đái đă cùng với người
tông thất hiệp mưu mà không biết tuyên bố tội trạng ở triều đ́nh để
trị tội cho đàng hoàng, lại đem binh lính bằt hiếp vua c̣n nhỏ tuổi.
Ngay lúc bấy giờ. Anh Vũ đă mừng có cớ để nói rồi, biết đâu không
lập kế thông với thái hậu để đút lót nhiều cho bọn Đái, mong khỏi
chết để thỏa ḷng báo thù chăng? May mà Nguyễn Dương bảo rơ tai hoạ.
Khi bọn Đái không chịu nghe lời, [Dương] lại nhảy xuống giếng mà
chết để cảnh cáo, thế mà vẫn c̣n không tính, để sau bị tai vạ th́
c̣n trách ai nữa? Thế th́ thái hậu không có tội ư? Trả lời rằng: tội
nặng lắm. Người không có tài đức quyền [9b] vị như Y Doăn, Chu Công
mà muốn ngăn sửa th́ khó tránh cái lỗi làm việc sừa lớn th́ hỏng.
Xuống
chiếu cấm bọn hoạn quan không được tự tiện vào trong cung, ai phạm
th́ bị tội chết. Nếu [canh giữ] không cẩn thận để người khác vào
cung cũng bị tội như thế.
Cấm các
quan trong triều không được đi lại nhà các vương hầu, ở trong cung
cấm không được hội họp nhau năm, ba người bàn luận chê bai, ai phạm
th́ trị tội. Kẻ nào phạm việc qua lại bên ngoài phía đầu hành lang
chứa khí giới của đô Phụng quốc vệ th́ xử 80 trượng, tội đồ; nếu vào
trong hành lang ấy th́ xử tử. Lính Phụng [quốc] vệ ở trong hành lang
ấy có chiếu chỉ mới được cầm khí giới, không có chiếu chỉ mà tự tiện
mang khí giới đi quá ra ngoài phía đầu [hành lang] th́ xử tử.
Tân Mùi,
[Đại Định] năm thứ 12 [1151] , (Tống thiệu Hưng năm thứ 21). Mùa
xuân, tháng giêng, Nội nhân hoả đầu là Đỗ Th́ dâng rùa vàng có lông
xanh.
Tháng 2,
vua ngự đến Long Thủy654 bắt voi trắng, bắt được, các quan dâng
[10a] biểu mừng.
Mùa hạ,
tháng 4, Đỗ Anh Vũ dâng cây cau một gốc 28 nhánh. Tháng 5, Đỗ Anh Vũ
dâng hươu trắng.
Mùa thu,
tháng 8, vua ngự đến cung Quảng Từ xem đua thuyền.
Mùa đông,
tháng 10, công chúa Thuỵ Minh mất.
Tháng 11,
hoàng trưởng tử Long Xưởng sinh ở hành cung Ứng Phong, sau được sách
phong là Hiển Trung Vương.
Dựng gác
Vĩnh Thanh ở điện phía tây và hai chiếc thuyền VĨnh Diệu, Thanh Lan.
Nhâm
Thân, [Đại Định] năm thứ 13 [1152] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 22).
Muà xuân, tháng 2, Nội sư ông là Lư Nguyên dâng rùa ba chân, mắt có
sáu con ngươi, trên ức có chữ triện. Các quan nhận thành bốn chữ:
"Vương dĩ bát phương"655 .
Mùa hạ,
tháng 4, động đất.
Tháng 5,
trời mưa cát vàng.
Bá Đại
Vương (chưa rơ là ai) mất.
Mùa thu,
tháng 7, trời mưa cát vàng.
Mùa đông,
tháng 10, thi Điện.
Người
nước Chiêm Thành [10b] là Ung Minh Ta Điệp656 đến cửa khuyết xin
mệnh cho làm vua nước ấy. Xuống chiếu cho Thượng chế Lư Mông đem hơn
5.000 người ở phủ Thanh Hoá và châu Nghệ An sang Chiêm Thành lập Ung
Minh Ta Điệp làm vua. Mông đến Chiêm Thành bị vua nước ấy là Chế B́
La Bút657 chống cự, bọn Ung Minh Ta Điệp và [Lư] Mông đều chết.
Quư Dậu,
[Đại Định] năm thứ 14 [1153] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 23). Dựng
cửa Tân Quan.
Giáp
Tuất, [Đại Định] năm thứ 15 [1154] , (Tống thiệu Hưng năm thứ 24).
Muà xuân, tháng giêng, An Trung hầu (không rơ tên) dâng con hoẵng
trắng.
Người Sơn
Lăo ở Chàng Long làm phản.
Từ Dần
dâng quạ trắng.
Tháng 2,
xuống chiếu cho Anh Vũ đi đánh người Sơn Lăo ở Chàng Long, hàng phục
được.
Mùa thu,
tháng8, thủ lĩnh bọn Sơn lăo ở Đại Hoàng giang (nay là phủ Trường
yên) là Nông Khả Lai làm phản.
Tháng 9,
vua ngự ra cửa Nam Thành Đại la xem đắp đàn Viên Khâu658 .
[11a] Mùa
đông, tháng 10, vua nước Chiêm Thành là Chế B́ La Bút dâng con gái,
vua nhận659 .
Lê Văn
Hưu nói: Các bậc đế vương đối với người Di Địch, nếu họ chịu phục
th́ lấy đức mà vỗ yên, nếu làm phản th́ lấy uy mà tỏ cho biết. Anh
Tông sai Lư Mông đem hơn 5 ngh́n người để giúp lập Ung Minh Ta Điệp
làm Vua nước Chiêm Thành mà bị Chế B́ la Bút giết, đáng lẻ phải đem
quân hỏi tội, chọn lập một người khác để thay làm vua nước ấy, th́
mới có thể gia uy với cơi xa, mà vua sau phải nhớ đức. Nay lại nhận
con gái của họ mà không hỏi tội, có thể gọi là lầm lỗi. Về sau Chiêm
Thành và Chân Lạp liền năm vào cướp một lộ Nghệ An, mối hại không kể
xiết, thực là do Anh Tông khơi mối vậy.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Nước nhỏ nhờ vào nước lớn để cho ḿnh được yên tĩnh
mà thôi.[11b] Không may gặp loạn, công tử660 chạy ra ngoài th́ cũng
có thể đưa về nước, nhưng không chính đáng th́ chưa bao giờ nên
việc. Nước Lỗ đưa công tử Củ về là thế661 . Đưa về mà biết không
chính đáng th́ như việc nước Tấn đưa Tiệp Tri về662 , [Lư] Anh Tông
đưa Ung Minh Ta Điệp về, nếu quả là chính đáng mà kẻ kia chống mệnh
giết càn ư? Th́ không thể không cất quân hỏi tội. Nếu quả là không
chính đáng th́ sao không tự xét ngay ở ḿnh? Song việc đă đến th́
nên sai một sứ giả sang hỏi tội, đợi cho họ phục t́nh hối lỗi mà tạ
tội th́ mới phải. Sao lại say đắm t́nh riêng nữ sắc, quên mất việc
lớn của nước nhà, mà những người ăn thịt663 bấy giờ không ai nói ǵ
là làm sao?
Tháng 11,
ngày Đinh Mùi, vua thân đi đánh Nông Khải lai. Ngày Canh Tuất, xuất
phát từ Kinh sư. Ngày Giáp Dần [12a] thắng trận. Ngày Bính Th́n, đem
quân về. Ngày Kỷ Mùi, về đến Kinh.
Dựng hành
cung Ứng Phong, hành cung Ly Nhân và đóng thuyền Vĩnh chương.
Ất Hợi,
[Đại Định] năm thứ 16 [1155] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 25). Mùa hạ,
tháng 5, công chúa Thiệu Dung mất.
Mùa thu,
tháng 8, đua thuyền.
Nước to.
Động đất.
Tháng 9,
thu tô ruộng chiêm.
Mùa đông,
tháng 10, sao Mộc phạm và sao Kim.
Sai thợ
làm phủ đệ ở Phú Lương.
Tháng 11,
nước Chiêm Thành sang cống.
Tháng 12,
động đất.
Làm cung
Lệ Thiên và hành lang triều cận ở điện Long Khánh.
Bính Tư,
[Đại Định] năm thứ 17 [1156] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 26). Mùa
xuân, tháng 2, ngày tân Mùi, trời mưa cát vàng.
Mùa hạ,
tháng 4, xuống chiếu làm phủ đệ ở châu Quảng Nguyên.
Mùa đông,
tháng 12, ngày đinh Mùi, ban đêm kho ngự cháy.
Làm hành
cung Ngự Thiên664 , điện Thuỵ Quang, gác Ánh vân, cửa Thanh Ḥa,
thềm Nghi Phượng, [12b] gác Diện Phú, đ́nh Thưởng Hoa, thềm Ngọc
Hoa, hồ Kim Liên, cầu Minh Nguyệt và đóng thuyền to bản của ngự
trù665 , thuyền to bản của cung nội.
Thái phó
Lư Du Đô dâng sớ xin hưu trí, thăng làm Thái sư, ban cho vàng bạc về
quê.
Dựng miếu
khổng Tử.
Năm ấy
đói to, một thăng gạo giá 70 đồng tiền.
Đinh Sửu,
[Đại Định] năm thứ 18 [1157] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 27). Xuống
chiếu định luật lệnh.
Mậu Dần,
[Đại Định] năm thứ 19 [1158] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 28). Mùa
xuân, tháng 2, Nguyễn Quốc sang sứ nước Tống về, dâng tâu rằng:
"Thần sang nước Tống thấy ở giữa sân vua có cái ḥm bằng đồng để
nhận các chương tấu của bốn phương, thần xin bắt chước mà làm như
thế để bề trên rơ được t́nh người dưới". Vua y theo, cho đặt cái ḥm
ở giữa sân để ai có tŕnh bày việc ǵ th́ bỏ thư vào ḥm ấy. Bấy giờ
có người ngầm bỏ thư nặc danh nói là Anh Vũ làm loạn, t́m xét [13a]
không biết là ai. Anh Vũ vu cho Quốc làm, đày Quốc đến trại đầu ở
Thanh Hóa. Không bao lâu, vua gọi Quốc về. Anh Vũ lại đưa cho Quốc
rượu có thuốc độc, Quốc tự nghĩ không khỏi bị hại, bèn uống thuốc
độc chết666 .
Sai Thiếu
bảo Phí Công Tín tuyển dân đinh, định các hạng và lấy người sung
việc thờ cúng ờ thái miếu và sơn lăng.
Mùa thu,
tháng 8, Đỗ Anh Vũ chết.
Kỷ Măo,
[Đại Định] năm thứ 20 [1159] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 29). Mùa
xuân, cột chùa Thiên Phù chảy máu.
Nước Ngưu
Hồng dâng voi hoa.
Mùa hạ,
tháng 5, Ngưu Hồng và Ai Lao làm phản. Sai Tô Hiến Thành đi đánh,
bắt được người và trâu ngựa voi, vàng bạc châu báu rất nhiều. Phong
Hiến Thành làm Thái uư.
Canh
Th́n, [Đại Định] năm thứ 21 [1160] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 30).
Mùa xuân, tháng giêng làm đền Hai Bà và đền Xuy Vưu667 ở phường Bố
Cái.
Tháng 2,
sai Tô Hiến Thành và Phi Công Tín tuyển dân đinh, người mạnh khỏe
th́ sung [13b] vào quân ngũ. Chọn các tướng hiệu, người nào thông
thạo binh pháp, am tường vơ nghệ th́ chia cho cai quản.
Tân tỵ,
[Đại Định] năm thứ 22 [1161] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 31). Mùa
xuân, sai đem voi thuần sang biếu nhà Tống. Vua Tống bảo các đại
thần rằng:
"Trẫm
không chuộng thú vật lạ, làm khó nhọc người xa, nên sai suư thần bảo
họ từ nay về sau bất tất phải mang vật ấy tiến cống".
Dựng chùa
Pháp Vân668 ở châu Cổ Pháp.
Mùa đông,
tháng 10, Thái phó Hoàng nghĩa Hiền chết, nghỉ thiết triều 5 ngày,
v́ Nghĩa Hiền có công giúp vua lên ngôi, nên đặt ân làm hơn lễ
thường.
Tháng 11,
vua sai Tô Hiến thành làm Đô tướng, Đỗ An Di làm phó, đem 2 vạn quân
đi tuần các nơi ven biển tây nam, để giữ yên miền biên giới. Vua
thân đi tiễn đến cửa biển Thần Đầu ở Đại An (nay là cửa biển Thần
Phù) mới trở về.
Thái uư
Lưu Khanh Đàm chết.
Nhâm Ngọ,
[Đại Định] năm thứ 23 [1162] , (Tống Thiệu Hưng năm thứ 32). Mùa
xuân, tháng giêng, xuống chiếu rằng kẻ nào tự hoạn th́ xử [14a] 80
trượng, thích 23 chữ vào cánh tay bên trái.
Động đất.
Tháng 2,
khảo khóa các quan văn vơ, người nào đủ niên hạn khảo mà không có
lỗi th́ thăng trật, định làm phép thường, cứ 9 năm là một kỳ khảo.
Quư Mùi,
[Chính Long Bảo Ứng] năm thứ 1 [1163] , (Tống Hiếu Tông Vĩ, Long
Hưng năm thứ 1). Cấm người trong nước không được dùng trân châu giả.
Mùa thu,
tháng 8, lính chốn rủ nhau tụ họp thành bọn cướp bóc cư dân trên
đường bộ. Vua sai Phu Công Tín đem 10 vạn quân đi đánh dẹp yên được.
Giáp
Thân, [Chính Long Bảo Ứng năm thứ 2] [1164] , (Tống Hưng Long năm
thứ 2). Mùa xuân, tháng 3, nước Chiêm Thành sang cống.
Mùa thu,
tháng 7, nước to quá mức thường, lúa bị ngập hết.
Nhà Tống
phong vua làm An Nam Quốc Vương, đổi Giao Chỉ làm An Nam Quốc Vương
đổi Giao Chỉ làm An Nam Quốc Vương.
Ất Dậu, 3
[1165], (Chính Long Bảo Ứng năm thứ 3 [1165]) , (Tống Càn Đạo năm
thứ 1). Mùa hạ, tháng 6, đại hạn, dân bị nạn dịch lớn, trâu ḅ gia
súc chết nhiều, [14b] giá gạo cao vọt.
Mùa thu,
tháng8, thi học sinh.
Bính
Tuất, [Chính Long Bảo Ứng] năm thứ 4 [1166] , (Tống Càn Đạo năm thứ
2). Mùa xuân, tháng 3, sứ Chiêm Thành đi đến miền Ô Lư, dùng quân
phong thủy (ma thuật của thầy tăng) mà vượt biển, cướp bóc nhân dân
ven biển nước ta rồi về.
Dân có
người dâng con rùa ở ức có bốn chữ "Thiên tử vạn niên", cũng có
người dâng quạ trắng.
Đinh Hợi,
[Chính Long Bảo Ứng] năm thứ 5 [1167] , (Tống Càn Đạo năm thứ 3).
Mùa thu, tháng 7 , sai Thái uư Tô Hiến Thành đi đánh Chiêm Thành.
Mùa đông,
tháng 10, Chiêm Thành sai sứ sang dâng trân châu và sản vật địa
phương để xin hoà.
Xuống
chiếu cho Tô Hiến Thành đem quân về. Từ đấy nước Chiêm Thành giữ lễ
phiên thần, dâng cống không thiếu.
Đóng
thuyền Nhật Long.
Mậu Tư,
[Chính Long Bảo Ứng] năm thứ 6 [1168] , (Tống Càn Đạo năm thứ 4).
Mùa thu, tháng 8, sứ nhà Tống sang sứ Thát Đạt (tức là sứ của nhà
Nguyên), cũng sang669 . Đều thưởng hậu để dụ, ngầm lấy lễ tiếp đăi
cả hai sứ, không cho họ gặp nhau.
[15a] Kỷ
Sửu, [Chính Long Bảo Ứng] năm thứ 7 [1169] , (Tống Càn Đạo năm thứ
5). Mùa xuân, tháng 3, ngày rằm nguyệt thực. Cá ở cửa biển chết. Sai
tăng ni, đạo sĩ các chùa quán ở Kinh và các nơi tụng kinh cầu đảo.
Thái sư
trí sĩ là Lư Du Đô chết.
Mùa hạ,
tháng 4, làm điện Thanh Hoà để đặt thần vị của tiên đế và tiên hậu,
theo thời cúng tế.
Sửa lại
chùa Chân Giáo.
Canh Dần,
[Chính Long Bảo Ứng] năm thứ 8 [1170] , (Tống càn Đạo năm thứ 6).
Vua tập bắn và cưỡi ngựa ở phía nam thành Đại La, đặt tên là Xạ
Đ́nh, sai các quan vơ hàng ngày luyện tập phép công chiến phá trận.
Tân Măo,
[Chính Long Bảo Ứng] năm thứ 9 [1171] , (Tống Càn Đạo năm thứ 7).
Mùa xuân, tháng 2, điện Vĩnh Nguyên vô cớ tự rung động.
Làm miếu
điện thờ Văn Tuyên Vương670 và đền thờ Hậu Thổ.
Vua đi
tuần các hải đảo, xem các h́nh thế núi sông, muốn biết dân t́nh đau
khổ và đường đi xa gần thế nào.
[15b]
Nhâm Th́n, [Chính Long Bảo Ứng] năm thứ 10 [1172] , (Tống Càn Đạo
năm thứ 8). mùa xuân, tháng 2, vua lại đi tuần các hải đảo ở địa
giới các phiên bang Nam Bắc, vẽ bản đồ và ghi chép phong vật rồi về.
Quư Tỵ,
[Chính Lonh Bảo Ứng] năm thứ 11 [1173] , (Tống càn Đạo năm thứ 9).
Mùa xuân, làm lại cầu Thái Hoà.
Mùa hạ,
tháng 5, ngày 25, Hoàng thái tử Long Trát sinh.
Mùa thu,
đóng thuyền Ngoạn thủy.
Giáp Ngọ,
[Chính Long Bảo Ứng] năm thứ 12 [1174] , (Từ tháng 2 về sau là niên
hiệu Thiên Cảm Chí Bảo năm thứ 1; Tống Thuần Hy năm thứ 1). Mùa
xuân, tháng giêng động đất.
Tháng 2,
đổi niên hiệu là Thiên Cảm Chí Bảo năm thứ 1671 .
Muà thu,
tháng 9, Thái tử Long Xưởng có tội, phế làm thứ dân và bắt giam.
Trước đó, Long Xưởng thông dâm với cung phi, vua không nỡ bắt tội
chết, cho nên có mệnh này. Một hôm, vua gọi tể tướng đến bảo rằng:
"Thái tử là gốc lớn của nước, Long Xưởng đă làm điều trái đạo, trẫm
muốn Long Trát nối giữ nghiệp lớn, nhưng nó c̣n nhỏ tuổi, [16a] sợ
không đương nổi, nếu đợi lớn th́ trẫm đă tuổi già suy yếu, biết làm
thế nào?". Bấy giờ có nội nhân ẵm Long Trát ra, thấy vua đội mũ,
khóc đ̣i đội, vua chưa kịp tháo mũ đưa cho th́ càng khóc to hơn. Vua
bèn tháo mũ đội cho, Long Trát cả cười. Vua càng lấy làm lạ, ư lập
Long Trát làm thái tử bèn quyết định.
Mùa đông,
tháng 11, động đất.
Tháng 12,
sao Chổi mọc phương nam.
Ất Mùi,
[Thiên Cảm Chí Bảo] năm thứ 2 [1175] , (Tống Thuần Hy năm thứ 2). ùa
xân, tháng giêng, sách lập long Trát làm Hoàng thái tử, ở đông cung.
Phong Tô Hiến Thành làm Nhập nội kiểm hiệu thái phó b́nh chương quân
quốc trọng sự, tước vương, giúp đỡ đông cung.
Mùa hạ,
tháng tư, vua không khỏe, cố gượng sai Tô Hiến Thành ẵm thái tử mà
quyền nhiếp chính sự.
Mùa thu,
tháng 7, ngày Ất Tỵ, vua băng ở điện Thuỵ Quang. Trước đó, khi vua
ốm nặng, hoàng hậu lại xin lập Long Xưởng, vua nói: "Làm con [16b]
bất hiếu c̣n trị dân sao được". Di chiếu cho Tô Hiến Thành giúp rập
thái tử, công việc quốc gia nhất nhất tuân theo phép cũ. Bấy giờ
thái hậu muốn làm việc phế lập, sợ Hiến Thành không nghe, mới đem
vàng bạc đút cho vợ là Nữ thị. Hiến Thành nói: "Ta là đại thần nhận
mệnh tiên đế dặn lại giúp rập vua bé, nay lấy của đút mà làm việc
phế lập th́ c̣n mặt mũi nào trông thấy Tiên đế ở suối vàng?". Thái
hậu lại gọi Hiến Thành đến dỗ dành trăm cách. Hiến Thành trả lời:
"Làm việc bất nghĩa mà được giàu sang, kẻ trung thần nghĩa sĩ đâu có
vui làm, huống chi lời của Tiên đế c̣n ở bên tai, điện hạ lại không
nghe việc của Y Doăn, Hoắc Quang hay sao? Thần không dám vâng
chiếu". Việc bèn thôi.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Anh Tông nối ngôi tuổi c̣n thơ ấu, việc của Đỗ Anh
Vũ làm ǵ mà biết được, đến khi tuổi ngoại hai mươi, sai bọn Hiến
Thành đem quân đi tuần nơi biên giới, [17a] lại thân đi xem khắp
t́nh thế núi sông, muốn biết sự đau khổ của dân gian và đường đi
xa672 gần, về mặt giữ dân giữ nước, quy mô đă thấy rơ. Lại đặt Xạ
Đ́nh, sai các quan vơ hàng ngày luyện tập phép đánh trận, về mặt sửa
binh giăng vơ, mưu lược đă thấy rơ. Thái tử Long Xưởng có tội th́
phế đi mà lập Long Trát làm thái tử, cho ở đông cung, để ḷng người
có chỗ gắn bó. đến khi ốm nặng, hoàng hậu xin lập lại Long Xưởng,
th́ lấy lễ nghĩa mà bác bẻ, không mê hoặc lời nói của đàn bà, lại cố
gượng gọi Hiến Thành nhận di chiếu giúp thái tử quyền nhiếp chính
sự, phó thác được người giỏi để pḥng lo sau, rốt cuộc mưu phế lập
của thái hậu không thể làm được, trên yên dưới thuận, không phải là
sức của Anh Tông sao? C̣n như Cao Tông không phải là người hiền th́
ngay lúc bấy giờ đă biết trước thế nào được? Vua chỉ thuận theo lẽ
phải mà làm [17b] thôi.
Thái tử
Long Trát lên ngôi trước linh cữu, bấy giờ mới lên 3 tuổi, tôn mẹ là
Đỗ thị làm Chiêu Thiên Chí lư hoàng thái hậu.
Cho Đỗ An
Di673 (em trai hoàng thái hậu) làm thái sư đồng b́nh chương sự, Tô
Hiến Thành làm thái uư671 .
Họp quốc
nhân thề ở Long Tŕ.
Cao Tông
Hoàng Đế
Tên huư
là Long Trát con thứ sáu của Anh Tông, mẹ là hoàng hậu họ Đỗ675 ,
sinh ngày 25 tháng 5 năm Quư Tỵ, Chính Long Bảo Ứng thứ 11 [1173].
Năm Thiên Cảm Chí Bảo thứ 2 [1175] sách lập làm hoàng thái tử. Anh
Tông băng, bèn lên ngôi báu, ở ngôi 35 năm [1176- 1210], băng ở cung
Thánh Ngọ.
Vua chơi
bời vô độ, chính sự h́nh pháp không rơ ràng, giặc cướp nổi như ong,
đói kém liền năm, cơ nghiệp nhà Lư từ đấy suy.
Bính
Thân, [Trinh Phù] năm thứ 1 [1176] , (Tống Thuần Hy năm thứ 3). Mùa
xuân, tháng giêng, đổi niên hiệu, đại xá thiên hạ.
[18a]Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói: Cao Tông lên ngôi từ tháng 7 năm ngoái, đến
đây mới đổi niên hiệu, là v́ có Tô Hiến Thành phụ chính, biết trở
lại lễ cổ.
Đinh Dậu,
[Trinh Phù] năm thứ 2 [1177] , (Tống Thuần Hy năm thứ 4). Mùa xuân,
tháng 3, Chiêm Thành đến cướp châu Nghệ An.
Mậu Tuất,
[Trinh Phù] năm thứ 3 [1178] , (Tống Thuần Hy năm thứ 5). Hết quốc
tang. Chiêu Linh hoàng thái hậu ban yến cho các quan ở biệt điện,
bảo rằng: "Hiện nay Tiên đế đă chầu trời, vua nối c̣n thơ ấu, nước
Chiêm Thành thất lễ, người phương Bắc cướp biên. Các khanh chịu ơn
nặng của triều đ́nh, nên lo việc của nước nhà. Kế sách ngày nay
không ǵ bằng lập lại thái tử, để vận nước được lâu, ḷng dân được
yên". Các quan đều chắp tay cuối đầu nói: "Thái phó nhận mệnh lệnh
rơ ràng của thiên tử. Bệ hạ cũng đă nhiều lần dỗ bảo rồi, bọn thần
không dám trái lệnh". Đều lạy tạ rồi lui ra. Hiến Thành quản Lĩnh
cấm binh, nghiêm hiệu lệnh, thưởng phạt công bằng, [18b] người trong
nước đều quy phục.
Mùa hạ,
tháng 5, lấy ngày sinh của vua làm tiết Càn hưng.
Kỷ Hợi,
[Trinh Phù] năm thứ 4 [1179], (Tống Thuần Hy năm thứ 6). Mùa xuân,
tháng giêng, tuyển các đinh nam, người nào mạnh khỏe sung vào quân
ngũ.
Tháng 2,
động đất.
Tháng 3,
khảo xét công trạng các quan, người giữ chức siêng năng tài cán
nhưng không thông chữ nghĩa làm một loại, người có chữ nghĩa tài cán
làm một loại, người tuổi cao hạnh thuần, biết rơ việc xưa nay làm
một loại, cứ theo thứ tự mà trao cho chức vụ trị dân coi quân, khiến
cho quan chức không lạm nhũng.
Mùa hạ,
tháng 6 (không rơ ngày nào), hai mặt trời cùng mọc.
Thái uư
Tô Hiến Thành chết. Vua bớt ăn ba ngày, nghĩ thiết triều 6 ngày.
Trước đây khi Tô Hiến Thành nằm bệnh, Tham tŕ chính sự Vũ Tán Đường
ngày đêm hầu bên cạnh, Gián nghị đại phu Trần Trung Tá v́ bận việc
không lúc nào rỗi để tới thăm hỏi. Đến khi bệnh nặng, thái hậu thân
đến thăm, hỏi rằng: "Nếu có mệnh hệ nào th́ ai là người có thể thay
ông?". Hiến Thành trả lời: "Trung Tá [19a] có thể thay được". Thái
hậu nói: "Tán Đường hàng ngày hầu thuốc thang, sao không thấy ông
nhắc đến?". Hiến Thành trả lời: "V́ bệ hạ hỏi người nào có thể thay
thần nên thần nói đến Trung Tá, c̣n như hỏi người hầu dưỡng th́ phi
Tán Đường c̣n ai nữa?". Thái hậu khen là trung, nhưng cũng không
dùng lời ấy.
Lấy Đỗ An
Di làm phụ chính.
Sử thần
Ngô Sỉ Liên nói: Tô Hiến Thành nhân việc kư thác con côi, hết ḷng
trung thành, khéo xử trí khi biến cố, tuy bị gió lay sóng đập mà vẫn
đứng vững như cột đá giữa ḍng, khiến trên yêu dưới thuận, không
thẹn với phong độ của đại thần đời xưa. Huống chi đến lúc sắp chết
c̣n v́ nước tiến cử người hiền, không v́ ơn riêng, thái hậu không
dùng lời nói của Hiến Thành là việc không may cho nhà Lư vậy.
Xuống
chiếu cấm không được đem mắm muối và đồ sắt lên bán đổi ở đầu nguồn.
Canh Tư,
[Trinh Phù] năm thứ 5 [1180] , (Tống Thuần Hy năm thứ 7). Mùa xuân,
định lệ các vương hầu vào chầu.
Mùa thu,
tháng 8, nước to.
[19b]
Động đất ở hai điện Vĩnh Nguyên, Hội Tiên.
Tân Sửu,
[Trinh Phù] năm thứ 6 [1181] , (Tống Thuần Hy năm thứ 8). Mùa xuân,
tháng giêng, thái tử củ là Long Xưởng cầm đầu bọn gia thuộc nô lệ
trộm cướp bừa băi, muốn mưu làm loạn.
Mùa hạ,
tháng 4, sao Huỳnh Hoặc676 đi vào cḥm Nam Đẩu. Đói to, dân chết gần
một nửa.
Nhâm Dần,
[Trinh Phù] năm thứ 7 [1182] , (Tống Thuần Hy năm thứ 9). Mùa xuân,
tháng giêng, xuống chiếu cầu người hiền lương.
Đắp đàn
phong tướng, lấy Ngô Lư Tín làm Thượng tướng quân, đem quân thủy bộ
đi tuần bắt trộm cướp.
Lấy Lư
Kinh Tu làm Đế sư677 , trong th́ hầu việc giảng sách, ngoài th́ dạy
dân trung hiếu, từ đấy Chiêu Linh thái hậu không dám manh tâm mưu
khác nữa.
Cấm người
trong nước không được mặc áo sắc vàng.
Nước Xiêm La sang cống.
[20a] Quư Măo, [Trinh
Phù] năm thứ 8 [1183] , (Tống Thuần Hy năm thứ 10).Mùa xuân, tháng
giêng, cho Ngô Lư Tín làm Đốc tướng đi đánh Ai Lao.
Mùa đông, tháng 11, ngày
mồng 1 Nhâm Ngọ, nhật thực.
Giáp Th́n, [Trinh Phù]
năm thứ 9 [1184] , (Tống Thuần Hy năm thứ 11). Mùa xuân, tháng 3,
nước Chiêm Thành sang cống.
Người buôn các nước Xiêm
La và Tam Phật Tề678 vào trấn Vân Đồn dâng vật báu để xin buôn bán.
Mùa đông, tháng 10, các
sách Tư Mông v. v... làm phản, đánh lẫn nhau679 .
Ất Tỵ, [Trinh Phù] năm
thứ 10 [1185] , (Tống Thuần Hy năm thứ 12). Mùa xuân, tháng giêng,
thi sĩ nhân trong nước, người nào từ 15 tuổi mà thông thi thư th́
được vào hầu học ở ngự điện. Lấy đỗ bọn Bùi Quốc Khái, Đặng Nghiêm
30 người, c̣n th́ đều ở lại học.
Mùa thu, tháng 7, sai
Kiến Khang Vương Long Ích đem quân đánh người Man ở sách Viêm, dẹp
được.
[20b] Bính Ngọ, [Trinh
Phù] năm thứ 11 [1186] , (Từ tháng 7 về sau là niên hiệu Thiên Tư
Gia Thuỵ năm thứ 1, Tống Thuần Hy năm thứ 13). Mùa xuân, tháng
giêng, nhà Tống phong vua làm An Nam Quốc Vương, chế thư đại khái
nói: "Ngay bắt đầu đă phong cho tước ấp ở một nước yên vui, được
theo lệ cha truyền con nối ban sắc mệnh cho được thực thụ tước
vượng, cần ǵ phải đợi thăng dần theo thứ tự"680 . Đó là lễ đặc
biệt.
Tháng 3, sách phong Đàm
thị làm An Toàn nguyên phi (Phi là con gái của tướng quân [Đàm] Th́
Phụng).
Mùa thu, tháng 7, bắt
được voi trắng, đặt cho tên là Thiên Tư. Xuống chiếu đổi niên hiệu
là Thiên Tư Gia Thuỵ năm thứ 1.
Sai Lê Ḥe Khanh sang nhà
Tống đáp lễ.
Đinh Mùi, [Thiên Tư Gia
Thuỵ] năm thứ 2 [1187] , (Tống Thuần Hy năm thứ 14). Mùa hạ, tháng
4, sét đánh nhà Thái Miếu.
Có nhà sư Tây Vực681 đến.
Vua xuống chiếu hỏi sư ấy có tài năng ǵ, trả lời là có tài phục
được hổ. Bảo làm thử, không hiệu nghiệm.
Mậu Thân, [Thiên Tư Gia
Thuỵ] năm thứ 3 [1188] , (Tống Thuần Hy năm thứ 15). Mùa hạ, tháng
5, đại hạn.Vua thân ngự đến chùa Pháp Vân ở Duềnh Bà682 [21a] để đảo
vũ,nhân rước tượng phật Pháp Vân về chùa Báo Thiên. (Buổi đầu bản
triều [Lê] vẫn c̣n theo tục cũ này).
Tháng 6, động đất, gió
băo.
Mùa thu, tháng 7, ngày
mồng 1 Giáp Tư, nhật thực.
Thái sư Đỗ An Di chết,
lấy Thái phó Ngô Lư Tín làm Phụ chính.
Kỷ Dậu, [Thiên Tư Gia
Thuỵ] năm thứ 4 [1189] , (Tống Thuần Hy năm thứ 16). Mùa xuân, tháng
2, ngày mồng 1 Tân Dậu, nhật thực, mặt trời mặt trăng sắc đỏ như
máu.
Động đất,
Tháng 3, vua ngự đi khắp
núi sông, phàm xe vua đến đâu mà có thần linh đều cho phong hiệu và
lập miếu để thờ.
Canh Tuất, [Thiên Tư Gia
Thuỵ] năm thứ 5 [1190] , (Tống Thiệu Hy năm thứ 1). Mùa xuân, tháng
giêng, hoàng thái hậu họ Đỗ băng.
Mùa thu, tháng 7, Thái
phó ngô Lư Tín chết, lấy Đàm Dĩ Mông làm Thái phó.
Mùa đông, tháng 10, vua
lễ yết Sơn Lăng, rước tượng mới tô của Hoàng thái hậu thờ phụ vào
Thái Miếu.
Đóng thuyền Ngoạn Dao.
[21b] Tân Hợi, [Thiên Tư
Gia Thuỵ] năm thứ 6 [1191] , (Tống Thiệu Hy năm thứ 2). Mùa xuân,
nước Chân Lạp sang cống.
Mùa đông, tháng 12, sao
Huỳnh Hoặc phạm vào sao Thái Bạch683 .
Nhâm Tư, [Thiên Tư Gia
Thuỵ] năm thứ 7 [1192] , (Tống Thiệu Hy năm thứ 3). Mùa hạ, tháng 6,
động đất.
Mùa thu, tháng 7, sét
đánh vào điện Vĩnh Ninh hai chỗ.
Người giáp Cổ Hoằng684 ở
Thanh Hóa làm phản, sai tướng đi đánh, dẹp được. Trước đó có người
giáp ấy thấy vệt chân trâu [trèo lên] cây muỗm, nh́n lên thấy con
trâu bạc, hồi lâu, nó lại theo ngả khác đi xuống. Có người lính ở
giáp ấy là Lê Văn đoán rằng: 'Trâu trắng là vật ở dưới, nay lại ở
trên cây, thế là điềm kẻ dưới lên ở trên". Nhân đó bèn rủ nhau làm
phản. Đến đây đánh dẹp yên được.
Đào sông Tô Lịch.
Quư Sửu, [Thiên Tư Gia
Thuỵ] năm thứ 8 [1193] , (Tống Thiệu Hy năm thứ 4). Khảo khóa các
quan văn vơ trong ngoài, để rơ nên giáng hay thăng. [22a]thi các sĩ
nhân trong nước để [chọn người] vào hầu vua học.
Giáp Dần, [Thiên Tư Gia
Thuỵ] năm thứ 9 [1194] , (Tống Thiệu Hy năm thứ 5). Mùa thu, tháng
7, hoàng thái tử Sảm sinh. Phong Đàm nguyên phi làm An Toàn hoàng
hậu. Đại xá thiên hạ. ban cho người già từ 70 tuổi trở lên mỗi người
một tấm lụa. Mở tiệc rượu hai ngày ở miếu.
Mùa đông, tháng 10, mưa
đá, có tảng to bằng đầu ngựa.
Đóng thuyền Thiên Long.
Ất Măo, [Thiên Tư Gia
Thuỵ] năm thứ 10 [1195] , (Tống Ninh Tông Khuếch, Khánh Nguyên năm
thứ 1). Nùa xuân, tháng 2, động đất.
sét đánh gác Ly Minh.
Thi Tam giáo, cho đỗ xuất
thân.
Đinh Tỵ, [Thiên Tư Gia
Thuỵ] năm thứ 12 [1197] , (Tống Khánh Nguyên năm thứ 3). Mùa hạ,
tháng 6, hạn.
Dựng cung Nghênh Thiềm.
Mậu Ngọ, [Thiên Tư Gia
Thuỵ] năm thứ 13 [1198] , (Tống Khánh Nguyên năm thứ 4). Mùa xuân,
tháng giêng, xuống chiếu sa thải các tăng đồ, theo lời tâu của Đàm
Dĩ [22b] Mông.
Mùa thu, tháng 7, nước
lớn.
Sứ Chiêm Thành sang cống
và cầu phong.
Người hương cao Xá685 ở
câu Diễn là Ngô Công Lư chiêu tập những kẻ vô lại, cùng với người
châu Đại Hoàng là bọn Đinh Khả tự xưng là con cháu của Đinh Tiên
Hoàng và Bùi đô đồng thời làm loạn. Đều dẹp yên được.
Kỷ Mùi, [Thiên Tư Gia
Thuỵ] năm thứ 14 [1199] , (Tống Khánh Nguyên năm thứ 5). Mùa thu,
tháng 7, nước to, lúa mạ ngập hết.
Đói to.
Mùa đông, tháng 10, vua
ngự đến phủ Thanh Hóa bắt voi. Sai sứ sang phong vua nước Chiêm
Thành.
Canh Thân, [Thiên Tư Gia
Thuỵ] năm thứ 15 [1200] , (Tống Khánh Nguyên năm thứ 6). Mùa xuân,
tháng giêng, đem thóc chẩn cấp cho dân nghèo.
Mùa thu, tháng 7, Chiêm
Linh Thái hậu băng.
Nhâm Tuất, [Thiên Tư Gia
Thuỵ] năm thứ 17 [1202] , (Từ tháng 8 về sau là niên hiệu Thiên Gia
Bảo Hựu năm thứ 1; Tống Gia Thái năm thứ 2).
Mùa xuân, tháng 3, động
đất.
Mùa thu, tháng 8, hoàng
thái tử Thầm sinh. Đổi niên hiệu là Thiên Gia Bảo Hựu năm thứ 1.
Sai nhạc [23a] công chế
khúc nhạc gọi là nhạc Chiêm Thành, tiếng trong trẻo, ai oán buồn
rầu, người nghe phải chảy nước mằt. Tăng phó Nguyễn Thường nói: "Ta
nhge bài tựa Kinh Thi nói rằng: Âm thanh của nước loạn nghe như ai
oán giận hờn. Nay dân loạn nước nguy, chúa thượng th́ rong chơi vô
độ, triều đ́nh rối loạn, ḷng dân trái ĺa, đó là triệu bại vong".
Quư Hợi, [Thiên Gia Bảo
Hựu] năm thứ 2 [1203] , (Tống Gia Thái năm thứ 3). Mùa xuân, tháng
2, làm nhiều việc thổ mộc, dựng các cung điện.
Mùa hạ, tháng 4, gác Kinh
Thiên làm sắp xong, có chim khách vào làm tổ đẻ chim con ở đấy. Các
quan can rằng: "Ngày xưa Nguỵ Minh Đế làm gác Lăng Tiêu, có con chim
khách đến làm tổ, Cao Đường Long can rằng "Thần từng nghe câu: Chim
khách có tổ, chim cưu đến ở686 . Nay chim khách đến làm tổ nơi cung
khuyết, theo ngu kiến của thần th́ gác ấy có làm xong nữa tất có
người họ khác đến ở". Xin bệ hạ xét lời của Cao Đường Long, [23b]
trước cốt sửa đức, sau hăy khởi công mới phải". [Nhưng] vua nghe lời
của hoạn quan là Phạm Bỉnh Di, giục làm càng gấp, trăm họ khốn khổ.
Mùa thu, tháng 7, Điện
tiền chỉ huy sứ tri châu Nghệ An là Đỗ Thanh và châu mục là Phạm
Diên tâu rằng: "Vua nước Chiêm Thành là Bố Tŕ687 bị chú là Văn Bố
Điền688 đuổi, nay đem cả vợ con đến ngụ ở cửa biển Cơ La689 , ư muốn
cầu cứu". Tháng 8 vua sai Đàm Dĩ Mông và Đỗ An đi liệu tính việc ấy.
Sắp đến cửa biển Cơ La, đỗ An nói: "Kẻ kia đem quân đến đây, ḷng nó
khó tin được. Tục ngữ có câu: "Lỗ kiến có thể vỡ đê, tấc khói có thể
cháy nhà". Nay Bố Tŕ há phải là lỗ kiến, tấc khói mà thôi đâu". Dĩ
Mông nói lại ư ấy với Thanh và Diên, bảo phải pḥng bị. Bọn Thanh
nói: "Kẻ kia v́ hoạn nạn đến xin cầu cứu, c̣n phải nghi ngờ ǵ?". Dĩ
Mông giận, đem quân về. Thanh và Diên cùng mưu đánh úp Bố Tŕ để làm
kế tự bảo toàn. Mưu tiết lộ, thành ra bị Bố Tŕ giết. Quân Nghệ
[24a] An tan vỡ, chết không xiết kể. Bố Tŕ thả sức cướp bóc rồi về.
Tháng 9, người ở Đại
Hoàng giang690 lại làm phản. Trước đây người Đại Hoàng giang là Phí
Lang và Bảo Lương691 tâu các tội mọt nước hại dân của Đàm Dĩ Mông,
Dĩ Mông giận lấy roi đánh. Bọn Lang v́ thế chứa chất oán giận, nhân
khi thiên hạ sầu khổ muốn làm loạn, mới cùng nhau phản, Vua sai chi
hậu Trần Lệnh Hinh làm Nguyên soái đem quân đi đánh. Lại sai Thượng
thư Từ Anh Nhữ đem quân phủ Thanh Hóa đồng thời tiến đánh Phí Lang,
giao chiến ở cửa sông Lộ Bố692 , bị thua, [Lệnh Hinh và Anh Nhữ] đều
chết cả.
Giáp Tư, [Thiên Gia Bảo
Hựu] năm thứ 3 [1204] , (Tống Gia thái năm thứ 4). Mùa xuân, tháng
giêng, sai Đỗ Kính Tu đi đánh bọn làm phản ở Đại Hoàng giang, không
thắng.
Ất Sửu, [Thiên Gia Bảo
Hựu] năm thứ 4 [1204] , (Từ tháng 3 về sau là niên hiệu Trị B́nh
Long Ứng năm thứ 1; Tống Khai Hy năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 3, đổi
niên hiệu làm Trị B́nh [24b] Long Ứng năm thứ 1.
Người Tống sang cướp ở
biên giới. Dân ta mệt nhọc chạy nạn, gặp cướp dần nổi. Vua th́ ham
thích tiền của, các quan phần nhiều bán quan buôn ngục.
Bính Dần, [Trị B́nh Long
Ứng] năm thứ 2 [1206] , (Tống Khai Hy năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 2,
phong Đàm Dĩ Mông làm Thái bảo, được đội mũ củng thần.
Bấy giờ vua xây dựng
không ngớt, rong chơi vô độ, hàng ngày cùng cung nữ dạo chơi làm
vui, nghe ngoài thành có trộm cướp th́ lờ đi như không biết, tính
lại sợ sấm, nghe sấm là kinh hoảng. Người bề tôi được vua yêu là
Nguyễn Dư nói ḿnh có phép cấm được sấm. Gặp khi sấm động, vua sai
Dư thử phép, Dư ngửa mặt lên trời đọc thần chú, mà sấm càng to thêm.
Vua vặn hỏi, Dư trả lời: "Thần răn cấm măi rồi, nhưng v́ trời cao
nên nó c̣n dữ tợn như thế!".
Đinh Măo, [Trị B́nh Long
Ứng] năm thứ 3 [1207] , (Tống Khai Hy năm thứ 3). Mùa Xuân, tháng
giêng, giặc cướp nổi như ong. Xuống chiếu chọn các đinh nam, người
nào khỏe mạnh, [25a] sung vào quân ngũ, sai quan các lộ thống quản
để bắt [giặc cướp]. Mùa đông, tháng 10, người Man ở núi Tản Viên
châu Quốc Oai693 làm giặc, cướp bóc hương Thanh Oai694 , bè lũ rất
đông, không thể ngăn được.
Mậu Th́n, [Trị B́nh Long
Ứng] năm thứ 4 [1208] , (Tống Gia Định năm thứ 1). Mùa xuân, tháng
giêng, sách lập hoàng tử Sảm làm Hoàng thái tử, ở đông cung.
Đói to, người chết đói
nằm gối lên nhau.
Cho Phạm Du coi việc quân
ở Nghệ An. Du bèn làm phản, thu nạp những kẻ vong mệnh và trộm cướp,
gọi là "hậu nhân"695 , chia đi cướp bóc các nơi. Người châu Quốc Oai
cũng đem bè lũ đến đóng ở Tây Kết, đường sá v́ thế không thông. Vua
sai Thượng phẩm phụng ngự Phạm Bỉnh Di đem quân châu Đằng696 đến
đánh.
Kỷ Tỵ, [Trị B́nh Long
Ứng] năm thứ 5 [1209] , (Tống Gia Định năm thứ 2). Mùa xuân, tháng
giêng, Phạm Bỉnh Di đem người châu Đằng và châu Khoái697 đi đánh bọn
Du. Du thua trận, chạy sang châu Hồng. Bỉnh Di tịch biên gia sản của
Du rồi đốt hết. Du oán giận càng sâu. [25b] vua sai phụng ngự gọi Du
về kinh. Mùa thu, tháng 7, Bỉnh Dư về đến Kinh sư, sắp vào tâu, có
người ngăn lại nói rằng: "Lời của Du đă đến tai vua trước rồi, vua
c̣n chưa nguôi giận"698 . Bỉnh Di nói; "Ta thờ vua hết trung mà bị
kẻ gian tặc gièm pha ư? Huống chi là có mệnh vua đ̣i, ta cón tránh
vào đâu?", rồi Bỉnh Di vào. Vua sai bắt, đem giam cùng với con là
Phụ699 ở Thuỷ viện. sắp đem hành h́nh th́ tướng của Bỉnh Di là bọn
Quách Bốc nghe tin đem quân đánh trống ḥ reo tiến vào, đến ngoài
cửa Đại Thành bị người coi cửa chống cự. Bọn
Bốc phá cửa tiến vào. Vua
thấy việc kíp quá, sai đem Bỉnh Di và Phụ vào chỗ bệ đá mát700 lấy
xe ngự chở xác Bỉnh Di, lấy chiếu ngự bọc xác của Phụ, theo cửa Việt
Thành ra bến Đông Bộ Đầu701 rồi lại trở vào cung Vạn Diên, lập Hoàng
tử Thầm làm vua. Bọn Đàm Dĩ Mông, Nguyễn Chính Lại đều chịu nguỵ
chức của Thầm. [26a] Vua [lánh] đến miền Quy Hóa giang702 .
Người ở động Trư là
Nguyễn Phá Lân đem bộ khúc đêm đến lấy trộm của kho công ở Đội
Sơn703 .
Hoàng thái tử [Sảm] đến
thôn Lưu Gia704 ở Hai Ấp nghe tiếng con gái của Trần Lư có nhan sắc,
bèn lấy làm vợ. Nhà Trần Lư nhờ nghề đánh cá nên giàu, người quanh
vùng theo về, nhân có quân chúng, cùng nổi lên làm giặc. Thái tử đă
lấy con gái của Lư, trao cho Lư tước minh tự, phong cho cậu người
con gái ấy là Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
Thái tử [Sảm] đi lần này là v́ nước loạn mà tránh nạn, sao lại buông
ḷng dâm dục ở ngoài mà tự tiện phong tước cho người? Bởi cao Tông
rong chơi vô độ, giường mối bỏ hỏng, cho nên mới thế. Nhưng họ Lư
nhân thế mà vong, họ Trần nhân thế mà hưng, ấy là do trời cả.
Anh em họ Trần họp hương
binh để dẹp loạn, rước vua về kinh, khôi phục chính thống. [26b]
Trừng trị bọn Quách Bốc làm loạn, xử tội theo mức độ khác nhau.
Canh Ngọ, [Trị B́nh Long
Ứng] năm thứ 6 [1210] , (Tống Gia Định năm thứ 3). Mùa xuân, tháng
3, vua sai Thượng phẩm phụng ngự là Đỗ Quảng đem quân đến nhà Tô
Trung Từ đón Hoàng thái tử về Kinh sư, c̣n người con gái [Trần thị]
th́ về nhà cha mẹ. [Bấy giờ] trần Lư đă bị bọn giặc khác giết, con
thứ là Trần Tự Khánh thay đem quân chúng về Kinh, được phong là
Thuận Lưu Bá.
Mùa thu, tháng 7, Đỗ Anh
Triệt705 kể tội Dĩ Mông rằng: "Người làm đại thần mà ôm ḷng vô
quân, nhận tước phong của giặc, nay lại đứng ngang hàng với ta, ta
dù bất tài nhưng mặt mĩi nào mà nh́n người!". Dĩ Mông thẹn sợ mà lui
ra.
Sao chổi mọc.
Mùa đông, tháng 10, vua
không khỏe, gọi Đỗ Kính Tu và nhận mệnh kư thác. Ngày 28 Nhâm Ngọ,
vua băng ở cung Thánh Thọ.
[27a]Sử thần Ngô Sĩ Liên
nói: Cao Tông tuổi bé nối ngôi, Chiêu Linh Thái hậu rắp ḷng phế
lập, thân vua suưt nữa bị nguy. Nhờ có Tô Hiến Thành vốn có quyền
vị, nhận kư thác con côi, hết ḷng phù hộ, ngôi báu không lay, thiên
hạ quy phục, tất phải có mưu hay chước giỏi tâu riêng với vua rồi.
Đến khi Hiến Thành chết, Đỗ Kính Tu hầu hạ nơi màn trướng, giúp vua
sửa đức, đâu phải là không có người? Thế mà vua mê măi rong chơi,
say đắm thanh sắc, ham tiền của, thích xây dựng, dạy tính lười tham
cho các quan, gây ḷng oán giận ở trăm họ, làm cho cơ đồ nhà Lư phải
hao ṃn, đến nỗi mất nước. Kinh thư có câu: "Ở trong mê sắc đẹp, ra
ngoài mê săn bắn, ham rượu, thích nhạc, xây nhà cao, trổ tường đẹp,
phạm một trong các điều ấy tất phải bại vong". Vua phạm đủ các điều
ấy, c̣n nói ǵ được nữa?
Lại xét sử cũ [chép việc
an táng] các vua triều Lư, chỉ đối với Thái [27b] Tổ có chép táng ở
Thọ Lăng; với Nhân Tông tuy có chép việc táng nhưng lấy tên đất làm
tên lăng. Phàm việc an táng thiên tử là
việc lớn của nước, quốc
sử không thể không chép được. Có lẽ Lê Văn Hưu thấy đều gọi là Thọ
lăng, cho là không đúng lễ nên bỏ đi, nhưng thế không phải là phép
làm sử.
Hoàng thái tử Sảm lên
ngôi ở trước linh cữu bấy giờ mới 16 tuổi. Tôn mẹ là Đàm thị là
Hoàng thái hậu, cùng nghe chính sự. Lại đem thuyền rồng đi đón Trần
thị. Anh Trần thị là Trần Tự Khánh cho rằng bấy giờ đương lúc loạn
lạc, chưa đưa đi ngay được.
Sai sứ cáo phó với nhà
Tống, nhà Tống sai người sang làm lễ tế điếu.
Huệ Tông Hoàng Đế
Tên huư là Sảm706 , con
trưởng của Cao Tông, mẹ là hoàng hậu họ Đàm, sinh tháng 7 năm Giáp
Dần [1194], năm Mậu Th́n, Trị B́nh Long Ứng thứ 4 [1208], tháng
giêng, sách lập hoàng thái tử. Cao Tông băng, bèn lên ngôi báu, ở
ngôi 14 năm [1211-1224], truyền ngôi cho Chiêu Hoàng, sau bị Trần
Thủ Độ [28a] giết, thọ 33 tuổi [1194-1226]. Vua gặp buổi loạn lạc,
giặc cướp tứ tung, ḿnh bị bệnh nặng, không biết sớm cầu con nối, họ
Lư bèn mất.
Tân Mùi, [Kiến Gia] năm
thứ 1 [1211] , (Tống Gia Định năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, đổi
niên hiệu.
Tháng 2,, vua lại sai
Phụng ngự là Phạm Bố đi đón Trần thị. Tự Khánh bèn sai bọn Phùng Tá
Chu đưa Trần thị đi. Gặp khi Tô Trung Từ và Đỗ Quảng đang đánh nhau
ở [bến] Triều Đông707 , Tá Chu bèn đỗ thuyền ở bến Đại Thông. Đến
khi Đỗ Quang bị thua, vua sai Bố và Trung Từ đón Trần thị vào cung,
lập làm nguyên phi;cho Trung Từ làm Thái uư phụ chính; phong Thuận
Lưu bá Trần Tự Khánh làm Chương Thành hầu708 .
Bấy giờ thừa hưởng thái
b́nh đă lâu ngày, giường mối dần bỏ, dân không biết việc binh, giặc
cướp nổi lên không ngăn cấm được. Vua mới lên ngôi, đem việc nước
giao cho Thái uư Đàm Dĩ Mông. Dĩ Mông là người không có học thức,
không có mưu thuật, lại nhu nhược không quyết đoán, chính sự ngày
một đổ nát.
[28b] Nhâm Thân, [Kiến
Gia] năm thứ 2 [1212] , (Tống Gia Định năm thứ 5).
Mùa xuân, tháng 2, sai
người cùng một vú nuôi là Đoàn Thượng chiêu mộ dân châu Hồng đi bắt
giặc cướp. Bấy giờ thế nước suy yếu, triều đ́nh không có chính sách
hay, đói kém luôn luôn, nhân dân cùng khốn, [Đoàn] Thượng thừa thế
tự tiện làm oai làm phúc, không ai dám nói ǵ. Sau tội trạng tỏ rơ,
bị các quan hặc, phải giam vào ngục để hỏi tội. Thượng mới rút gươm,
cởi trần chạy về châu Hồng, nhóm họp bè đảng, đắp thành xưng vương,
cướp bóc lương dân, triều đ́nh không thể ngăn được.
Quư Dậu, [Kiến Gia]
nămthứ 3 [1213] , (Tống Gia Định năm thứ 5). Mùa xuân, tháng 2, Trần
Tự Khánh đem quân xâm phạm cửa khuyết xin đón xa giá. Vua lấy làm
ngờ, xuống chiếu lấy quân các đạo đi bắt Tự Khánh, giáng nguyên phi
làm ngự nữ.
Giáp Tuất, [Kiến Gia] năm
thứ 4 [1214] , (Tống Gia Định năm thứ 7). Mùa xuân, tháng giêng,
Trần Tự Khánh đem quân đến [bến] Triều Đông, tự vào quân [29a] môn
tạ tội, lại xin đón xa giá. Vua
càng ngờ, bèn cùng với
thái hậu và ngự nữ chạy đến núi Trĩ Sơn ở châu Lạng. Tự Khánh nghe
tin xa giá long đong mà ngự nữ th́ lâu nay bị thái hậu làm khổ, lại
đem quân đến xin đón xa giá như trước. Vua cũng chưa tin, lại cùng
với thái hậu và ngự nữ chạy sang huyện Binh Hợp709 .
Mùa hạ, tháng 5, Tự Khánh
đánh Đinh Khả và Bùi Đô ở châu Đại Hoàng, phá tan được.
Bính Tư, [Kiến Gia] năm
thứ 6 [1216] , (Tống gia Định năm thứ 9). Mùa xuân, sách phong ngự
nữ làm Thuận Trinh phu nhân. Thái hậu cho Trần Tự Khánh là kẻ phản
trắc, thường chỉ phu nhân mà nói là bè đảng của giặc, bảo vua đuổi
bỏ đi; lại sai người nói với phu nhân bảo phải tự sát. Vua biết mới
ngăn lại. Thái hậu bỏ thuốc độc vào món ăn uống của phu nhân. Mỗi
bữa ăn vua chia cho phu nhân một nữa và không lúc nào cho rời bên
cạnh. Thái hậu lại [29] sai người cầm chén thuốc độc bắt phu nhân
phải chết. Vua lại ngăn không cho, rồi đêm ấy cùng với phu nhân lẻn
đi đến chổ quân của Tự Khánh; gặp khi trời đă sáng, phải nghĩ lại ở
nhà tướng quân Lê Mịch ở huyện Yên Duyên, gặp tướng của Tự Khánh là
Vương Lê đem binh thuyền đến đón. Vua mới đỗ lại ở băi Cửu Liên710 .
Truyền cho Tự Khánh đến chầu.
Mùa hạ, tháng 6, hoàng
trưởng nữ sinh ở băi Cửu Liên, sau phong làm công chúa Thuận Thiên.
Mùa đông, tháng 12, sách
phong [Thuận Trinh] phu nhân làm hoàng hậu, phong Tự Khánh làm Thái
uư phụ chính, cho anh trai Tự Khánh là Trần Thừa (tức thượng hoàng
nhà Trần) làm Nội thị phán thủ. Tự Khánh cùng với Thượng tướng quân
Phan Lân xếp đặt quân ngũ, chế tạo binh khí, luyện tập vơ nghệ, quân
thế dần dần phấn chấn.
Vua có bệnh trúng phong,
chũa thuốc không khỏi mà chưa có thái tử, trong cung chỉ sinh công
chúa mà thôi.
Chiêm Thành và Chân Lạp
đến cướp châu Nghệ An, châu bá là Lư Bất Nhiễm đánh phá được.
[30a] Đinh Sửu, [Kiến
Gia] năm thứ 7 [1217] , (Tống Gia Định năm thứ 10). Mùa xuân, tháng
3, vua dần dần phát điên, có khi tự xưng là Thiên tướng giáng, tay
cầm giáo và mộc, cắm cờ nhỏ vào búi tóc, đùa múa từ sớm đến chiều
không nghỉ, khi thôi đùa nghịch th́ đổ mồ hôi, nóng bức khát nước,
uống rượu ngủ li b́ đến hôm sau mới tỉnh. Chính sự không quyết đoán,
giao phó cả cho Trần Tự Khánh. Quyền lớn trong nước dần dần về tay
kẻ khác.
Mậu Dần, [Kiến Gia] năm
thứ 8 [1218] , (Tống Gia Định năm thứ 11). Mùa xuân, tháng 3, động
đất.
Sao chổi mọc ở phương tây
nam.
Mùa thu, tháng 8, xuống
chiếu bằt cư sĩở chùa Phù Đổng là Nguyễn Nộn, v́ bắt được vàng ngọc
mà không đem dâng.
Tháng 9, hoàng thứ nữ
sinh, sau phong làm công chúa Chiêu Thánh.
Mùa đông, tháng 10, Trần
Tự Khánh đi đánh người Man ở Quảng Oai711 không được.
Chiêm Thành và Chân Lạp
đến cướp châu Nghệ An, Lư Bất Nhiễm đánh tan được, thăng tước hầu,
ban thực ấp 7.500 hộ, thực phong 1.500 [30b] hộ.
Kỷ Măo, [Kiến Gia] năm
thứ 9 [1219] , (Tống Gia Định năm thứ 12). Mùa xuân, tháng 2, Trần
Tự Khánh tâu xin tha cho Nguyễn Nộn, cho đi theo quân đánh giặc để
chuộc tội. Vua y cho. Mùa đông, tháng 10, sai Nguyễn Nộn đem quân đi
đánh người Man ở Quảng Oai.
Canh Th́n, [Kiến Gia] năm
thứ 10 [1220] , (Tống Gia Định năm thứ 13). Mùa xuân, tháng 3,
Nguyễn Nộn giữ hương Phù đổng, tự xưng là Hoài Đạo Vương, dâng biểu
xưng thần, xin đi dẹp loạn để
chuộc tội. Vua sai người
đem sắc thư đến tuyên dụ. Song v́ vua có bệnh phong, không thể chế
ngự được.
Tân Tỵ, [Kiến Gia] năm
thứ 11 [1221] , (Tống Gia Định năm thứ 14). Mùa xuân, tháng giêng,
t́m khắp thầy thuốc trong nước để chữa bệnh cho vua, nhưng không
hiệu nghiệm ǵ. Vua th́ ở tít trong cung, giặc cướp bừa băi, nhân
dân ở ngoài thành lưu ly cực khổ lắm.
[31a] Nhâm Ngọ, [Kiến
Gia] năm thứ 12 [1222] , (Tống Gia Định năm thứ 15). Mùa xuân, tháng
2, chia trong nước làm 24 lộ, lộ chia cho công chúa ở, lấy các hoành
nô thuộc lệ và quân nhân bản lộ, chia nhau làm giáp.
Làm đồ binh khí và ghe
thuyền để tuần bắt giặc cướp.
Quư Mùi, [Kiến Gia] năm
thứ 13 [1223] , (Tống Gia Định năm thứ 16). Mùa xuân, tháng 10, hạn,
lúa bị sâu cắn.
Tháng 12, thế quân của
Nguyễn Nộn ngày càng mạnh.
Trần Tự Khánh chết, truy
phong làm Kiến Quốc Đại Vương; lấy Trần Thừa làm Phụ quốc Thái uư,
khi vào chầu không xưng tên.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
Năm đầu niên hiệu Kiến Gia, giặc cướp đua nhau nổi dậy, Huệ Tông nhu
nhược không đánh dẹp được. Trần Tự Khánh v́ cớ Huệ hậu bị thái hậu
làm khổ mà đem quân phạm cửa khuyết xin đón xa giá. Đương lúc bấy
giờ, ḷng người không thể không ngờ vực, cho nên Huệ [31b] Tông có
lệnh bắt Tự Khánh mà không bắt được. Tự Khánh muốn làm cho kỳ được
mới nhiều lần làm kinh động đến vua, xa giá phải dời chổ mấy lần,
tội rơ ràng rồi. Nhưng mà Huệ Tông và Huệ hậu rốt cuộc phải nhờ Tự
Khánh mới được yên, th́ tội ấy không kể đến. Thế là việc tuy là trái
nhưng t́nh th́ thuận, sử chép không nêu lên nhưng thực cũng có nêu
đấy. Nếu không thế th́ chỉ là kẻ đầu sỏ giặc cướp mà thôi.
Giáp Thân, [Kiến Gia] năm
thứ 14 [1224] , (Từ tháng 10 về sau là niên hiệu cuả Chiêu Hoàng
Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 1; Tống Gia Định năm thứ 17). Bệnh của
vua ngày càng tăng mà không có con trai để nối nghiệp lớn, các công
chúa đều được chia các lộ làm ấp thang mộc, uỷ nhiệm cho một ḿnh
chỉ huy sứ Trần Thủ Độ quản lĩnh các quân điện tiền hộ vệ cấm đ́nh.
Mùa đông, tháng 10, xuống
chiếu lập công chúa Chiêu Thánh làm Hoàng thái tử để truyền ngôi
cho. Vua xuất gia ở chùa Chân Giáo trong đại nội. Chiêu Thánh lên
ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 1, tôn hiệu là
Chiêu [32a] Hoàng.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
Đạo trời có khi thường có khi biến. Thánh nhân phối với trời đất,
giúp việc hoá dục th́ có đạo xử trí lúc biến mà vẫn không mất phép
thường. Như Đan Chu con vua Nghêu là kẻ bất tiếu712 , th́ vua Nghêu
tiến vua Thuấn với trời, mà thiên hạ thịnh trị. Thương Quân con vua
Thuấn là kẻ bất tiếu không thể truyền ngôi, th́ vua Thuấn tiến vua
Vũ với trời, mà xă tắc được yên, đều là xử trí lúc biến mà không mất
phép thường cả. Đời sau chỉ truyền ngôi cho con mà không truyền ngôi
cho người hiền, v́ là không có người nào được như Thuấn và Vũ. Nếu
không may mà không có con th́ chọn con của người tông thất nuôi làm
con ḿnh để nối giữ nghiệp lớn, đó cũng là một cách xử trí trong lúc
biến vậy. Lư Nhân Tông đă làm như thế rồi, Huệ Tông sao không xét
việc cũ mà làm theo, lại để [32b] đến sau lúc tật bệnh mới lập con
gái mà truyền ngôi cho, thế có phải lẽ không? Các quan bấy giờ không
ai nghĩ ǵ đến xă tắc, để cho Phùng Tá Chu viện dẫn việc Lữ hậu và
Vũ hậu làm cớ mà thành ra việc Chiêu Hoàng nhường ngôi cho họ Trần,
ấy là người có tội với họ Lư.
Chiêu Hoàng
Trước tên huư là Phật
kim, sau đổi là Thiên Hinh, con gái thứ của Huệ Tông. Huệ Tông không
có con trai nối, lập làm hoàng thái tử để truyền ngôi713 , ở ngôi
được 2 năm [1224- 1225] rồi nhường ngôi cho họ Trần.
Ất Dậu, Thiên Chương Hữu
Đạo năm thứ 2 [1125] , (Từ tháng 12 về sau là niên hiệu Trần Thái
Tông Kiến Trung năm thứ 1; Tống Lư Tông Hú, Bảo Khánh thứ 1). mùa
ông, tháng 10, xuống chiếu tuyển con em của quan viên trong ngoài
sung vào các sắc dịch trong nội, như lục hỏa thị cung ngoại, Chi
hậu, Nội nhân thị nội714 , ngày đêm thay phiên nhau chầu hầu. Điện
tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ coi giữ mọi việc quân sự trong ngoài
thành thị. Cháu gái Thủ Độ bằng chú là Trần Bất Cập làm Cận thị thự
lục [33b] cục chi hậu715 , Trần Thiêm làm Chi ứng cục, Trần Cảnh làm
Chính thủ (Cảnh sau là Trần Thái Tông). Cảnh lúc ấy mới lên 8 tuổi,
chực hầu ở bên ngoài. Một hôm phải giữ việc bưng nước rửa, nhân thế
vào hầu bên trong. Chiêu Hoàng trông thấy làm ưa, mỗi khi chơi đêm
cho gọi Cảnh đến cùng chơi, thấy Cảnh ở chỗ tối th́ thân đến trêu
chọc, hoặc nắm lấy tóc, hoặc đứng lên bóng. Có một hôm, Cảnh bưng
chậu nước hầu, Chiêu Hoàng rửa mặt lấy tay vốc nước té ướt cả mặt
Cảnh rồi cười trêu, đến khi Cảnh bưng khăn trầu th́ lấy khăn ném cho
Cảnh. Cảnh không dám nói ǵ, về nói ngầm với Thủ Độ. Thủ Độ nói:
"Nếu thực như thế th́ họ ta thành hoàng tộc hay bị diệt tộc đây?".
Lại một hôm, Chiêu Hoàng lại lấy khăn trầu ném cho Cảnh, Cảnh lạy
rồi nói: "Bệ hạ có tha tội cho thần không? Thần xin vâng mệnh".
Chiêu Hoàng cười và nói: "Tha tội cho ngươi. Nay ngươi đă biết nói
khôn đó". Cảnh lại về nói với Thủ Độ. Thủ độ sợ việc [33b] tiết lộ
th́ bị giết cả, bấy giờ mới tự đem gia thuộc thân thích vào trong
cung cấm. Thủ Độ đóng cửa thành và các cửa cung, sai người coi giữ,
các quan vào chầu không được vào. Thủ Độ loan báo rằng: "Bệ hạ đă có
chồng rồi". Các quan đều vâng lời, xin chọn ngày vào chầu. Tháng ấy,
ngày 21, các quan vào chầu lạy mừng. Xuống chiếu rằng: "Từ xưa nước
Nam Việt ta đă có đế vương trị thiên hạ. Duy triều Lư ta vâng chịu
mệnh trời, có cả bốn biển, các tiên thánh truyền nối hơn hai trăm
năm, chỉ v́ thượng hoàng có bệnh, không người nối dơi, thế nước
nghiêng nguy, sai trẫm nhận minh chiếu, cố gượng lên ngôi, từ xưa
đến giờ chưa từng có việc ấy. Khốn nổi trẫm là nữ chúa, tài đức đều
thiếu, không người giúp đỡ, giặc cướp nổi lên như ong, làm sao mà
giữ nổi ngôi báu nặng nề? Trẫm dậy sớm thức khuya, chỉ sợ không cáng
đáng nổi, vẫn nghĩ t́m [34a] người hiền lương quân tử để cùng giúp
chính trị, đêm ngày khẩn khoản đến thế là cùng cực rồi, Kinh thi có
nói "Quân tử t́m bạn, t́m măi không được, thức ngủ không nguôi, lâu
thay lâu thay". Nay trẫm suy đi tính lại một ḿnh, duy có Trần Cảnh
là người văn chất đủ vẻ, thực thể cách quân tử hiền nhân, uy nghi
đường hoàng, có tư chất thánh thần văn vơ, dù đến Hán Cao Tổ, Đường
Thái Tông cũng không hơn được. Sớm hôm nghĩ chín từ lâu nghiệm xem
nên nhường ngôi báu, để thỏa ḷng trời, cho xứng ḷng trẫm, mong
đồng ḷng hết sức, cùng giúp vận nước, hưởng phúc thái b́nh. Vậy bố
cáo thiên hạ để mọi người điều biết". Tháng 12, ngày mồng một Mậu
Dần, Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, ngự trên sập báu, các
quan mặc triều phục vào chầu, lạy ở dưới sân.
Chiêu Hoàng bèn trút bỏ
áo ngự mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế. Đổi niên hiệu là Kiến [34b]
trung năm thứ 1, đại xá thiên hạ, xưng là Thiện Hoàng716 , sau đổi
là Văn Hoàng. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Khải Thiên Lập Cực Chí Nhân
Chương Hiếu Hoàng Đế. Phong Trần Thủ Độ làm Quốc thượng phụ, nắm giữ
mọi việc cai trị trong nước. Thủ Độ nói: "Hiện nay giặc cướp đều
nổi, họa loạn ngày tăng. Đoàn Thựng giữ mạn đông, Nguyễn Nộn giữ mạn
bắc, các châu Quảng Oai, Đại Viễn717 cũng chưa dẹp yên. Nhà Lư suy
yếu, thế nước nghiêng nguy, nữ chúa Chiêu Hoàng không gánh vác nổi,
mới uỷ thác cho nhị lang [Chàng Hai]. Nhưng Nhị lang chưa am hiểu
việc nước, chính sự nhiều chổ thiếu sót, vận nước mới mở,
ḷng dân chưa phục, mối
họa không phải là nhỏ. Ta tuy là chú nhưng không biết chữ nghĩa ǵ,
c̣n phải rong ruổi đông tây để chống giặc cướp, không ǵ bằng mời
thánh phụ làm thượng hoàng tạm coi việc nước, một hai năm sau thiên
hạ nhất thống, lại giao quyền chính cho Nhị lang". Các quan đều cho
là phải, mời thánh phụ Trần Thừa nhiếp chính.
[35a] Sử thần Ngô Sĩ Liên
nói: "Đến thời Huệ Tông, cái độc hại cho thiên hạ đă ăn sâu lắm, mà
vua không phải người giỏi giang cứng cáp, bề tôi giúp nước th́ nhu
nhược hèn kém, muốn chữa cái độc đă sâu th́ làm thế nào được. Huống
chi vua lại bị chứng hiểm, chữa không khỏi, lại không có con trai để
nối nghiệp lớn, thế là điểm nguy vong đă hiện ra rồi. Tục truyền
rằng Lư [Thái] Tổ khi mới được thiên hạ, xa giá về Cổ Pháp ngự chơi
chùa ở hương Phù Đổng, có thần nhân đề thơ ở cột chùa rằng: "Nhất
bất công đức thủy, Tuỳ duyên hoa thế gian. Quang quang trùng chiếu
chúc. Một ảnh nhật đăng san". [Một bát nước công đức [của Phật],
theo duyên sinh hoá ở thế gian. Sáng rực hai lần đuốc rọi, mặt trời
gác núi là hết bóng]. Sư chùa là vạn hạnh đem bài thơ ấy dâng lên.
Lư Thái Tổ xem xong rồi nói: "Việc của thần nhân th́ không thể hiểu
được". Người đời truyền tụng, không ai biết thơ ấy nói thế nào. Đến
khi nhà Lư mất, mới cho bài thi8 ấy là nghiệm. V́ từ đời Huệ Tông
trở lên đến Thái Tổ là tam đời mà Huệ Tông [35b] tên là Sảm, tức là
mặt trời gác núi, hết bóng718 . Thế th́ nhà Lư được nước là tự trời,
mất nước cũng là tự trời vậy.
Trở lên triều Lư, 9 vua,
từ Thái Tổ năm canh Tuất [1010] đến Chiêu Hoàng năm Ất Dậu [1225],
cộng 216 năm.
620 Việt Sử Lược chép năm
Kỷ Mùi (1139) là niên hiệu Thiệu Minh thứ 3. Sở dĩ có sự chênh lệch
đó, có lẽ là do việc ghi năm mất của Lư Thần Tông. Việt Sử Lược chép
Thần Tông chết tháng 9 năm Đinh Tỵ (1137). Toàn Thư chép Thần Tông
chết ngày 26 tháng 9 năm Mậu Ngọ (1138). Đến điều chép về năm Tân
Dậu (1141) th́ không có sự khác biệt ấy: cả hai tài liệu đều chép
Tân Dậu (1141) là niên hiệu Đại Định thứ 2.
621 Theo Việt sử tiêu án
của Ngô Th́ Sĩ, niên hiệu Thiệu Hưng thứ 9 (1139) đời Tống, Quảng
Tây suư ty nói: "Vua Nhân Tông nhà Lư có người con của cung thiếp
sinh ra, vua không nhận. Khi Lư Thần Tông lên ngôi, người con ấy
chạy sang nước Đại Lư, đổi họ là Triệu, tên là Trí Chi, tự xưng là
Nam B́nh Vương. Khi Thần Tông mất, [Trí Chi] bèn trở về tranh ngôi
với Anh Tông, xin mượn quân của nhà Tống. Quan tỉnh Quảng Tây đem
việc ấy tâu lên, vua Tống từ chối". Vậy có lẽ Trí Chi và Thân Lợi
chỉ là một người, khi trần t́nh để xin viện binh của nhà Tống th́
nói dối [là con Nhân Tông] để lừa nhà Tống.
622 Thái Nguyên: tên châu
thời Lư, tức đất tỉnh Bắc Thái ngày nay.
623 Châu Tây Nông: nay là
đất huyện Phú B́nh, tỉnh Bắc Thái.
624 Châu Hạ Nông: miền
Thượng Nông và Hạ Nông huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Thái. Như vậy châu
Lục Lệnh và châu Thượng Nguyên ở vào khoảng giữa huyện Phú B́nh và
huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Thái.
625 Lưu Vũ Nhĩ, Cương mục
chép là Lưu Vũ Xứng (CMCB4,25a).
626 Sông Bác Đà: chưa rơ
ở đâu, nhưng chắc chỉ là một đoạn sông Cầu, trong vùng đất các huyện
Phú Lương, Bạch Thông ngày nay. Phải chăng là đoạn sông ở vùng Bắc
Thắm, chợ mới?
627 Bác Nhự, Bồ Đinh:
chưa rơ ở đâu, nhưng hẳn ở cạnh khúc sông Cầu từ Chợ Mới đến thị xă
Bắc Cạn.
628 Tuyên Hóa: nay là đất
huyện Định Hóa, tỉnh Bắc Thái.
629 Cảm Hóa: nay là đất
huyện Ngân Sơn, Na Ŕ và một phần phía Bắc huyện Bạch Thông, tỉnh
Bắc Thái.
630 Vĩnh Thông: nay là
huyện Phú Lương, tỉnh Bắc Thái.
631 Phú Lương: nay là
huyện Phú Lương, tỉnh Bắc Thái.
632 Quảng Dịch: (trạm
Quảng): Việt sử lược chép là Khoảng Dịch (q.3,3a), chưa rơ ở đâu.
633 B́nh Lỗ quan: cữa
quan ở sông B́nh Lỗ. Sông B́nh Lỗ có lẽ là sông Cà Lồ.
634 Vạn Nhai: nay là đất
huyện Vơ Nhai, tỉnh Bắc Thái.
635 Hai chùa này đều gọi
là chùa Keo, ở huyện Giao Thủy, tỉmh Nam Định cũ. Chùa Keo Giao
Thủy, hay chùa Keo Dưới, nay ở xă Vũ Nghĩa, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái
B́nh. Chùa Keo Phả Lại hay chùa Keo Trên, nay ở xă Hành Thiện, huyện
Xuân Trường, tỉmh Nam Hà.
636 Nguyên văn: điển thục
điển, điển tức là điển mại, nghĩa là bán nhưng c̣n có quyền được
chuộc lại (khác với tuyệt mại nghĩa là bán đoạn tức là bán hẳn,
không được chuộc lại). Thục điền là ruộng đă cày cấy thành thục,
khác với ruộng đất mới khai khẩn.
637 "Vương dĩ công pháp"
vua theo việc công.
638 Châu Tư Lang: nay là
đất huyện Trùng Khánh và một phần đất huyện Quảng Ḥa, tỉnh Cao
Bằng.
639 Việt sử lược chép là
Lữ tiên sinh (q.3, 3b). Hai chữ "Lữ" và "Triệu" có thể lầm với nhau.
640 Đối chiếu th́ thấy
một số sự việc từ năm 1140 đến năm 1157, toàn thư phần nhiều chép
lùi 2 năm so với Đại Việt sử lược như việc Đàm Hửu Lượng nói ở trên,
Đại Việt sử lược (ĐVSL) chép vào năm Quư Hợi (1143); làm kho Thiên
Tư, ĐVSL chép năm Giáp Tư (1144), Toàn thư chép vào năm Bính Dần
(1146); hoàng hậu họ Đỗ (Chiêu Hiến) mất. ĐVSL chép năm Ất Sửu
(1145), Toàn thư chép năm Đinh Măo (1147) v. v... Sở dĩ có sự chênh
lệnh như vậy có lẽ v́ Toàn thư chép năm Lư Thần Tông mất nuộn một
năm với ĐVSL (xem chú BK4, 1a) và về khoảng thời gian này, ĐVSL lại
chép sớm lên một năm nữa (Trong bản dịch Việt sử lược Trần Quốc
Vượng đă so điều ghi về việc sao Chổi xuốt hiện, ĐVSL chép vào tháng
4 năm Giáp Tư (1144), Mà Tống sử th́ ghi tháng 4 năm Ất Sửu (1145),
cho thấy ĐVSL chép sớm một năm). Sự chênh lệnh ấy đến năm Mậu Dần
(1158), kể từ việc Nguyễn Quốc (ĐVSL chép là Nguyễn Quốc Dĩ) đi sứ
về tâu xin làm hộp thơ bằng đồng, lại tiếp tục ăn khớp.
641 Châu Thông Nông: nay
là huyện Thông Nông, tỉnh Cao Bằng.
642 Tức thợ thủ công làm
các đồ dùng cho vua và nhà nước.
643 Yên Hưng: nay là đất
huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh.
644 Địa danh thời Lư-
Trần không thấy tài liệu nào ghi tên Quy Nhân, ngờ là Quy Hóa mà bản
in khắc lầm. Quy Hoá là tên phủ thời Lư, cuối thời Trần đổi làm
trấn, đầu thời Lê đổi làm lộ, từ đời Hồng Đức (1470- 1497) về sau
lại đổi làm phủ: nay thuộc tỉnh Yên Bái, Lao Cai, Đại Thông là tên
phủ thời Lư (có ghi trong Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi) chỉ
miền Hưng Hoá, phía tây sông Hồng. Như vậy, hai trấn Đại Thông và
Quy Nhân (sửa là Hoá) đại thể là đất tỉnh yên Bái, Lao Cai, Lai Châu
và một phần Vĩnh phú ngày nay.
645 Trảo Oa: tức đảo
Java, (Inđônêxia). Cương mục chép là Qua Oa (CMCB4,33a), cũng tức là
Java, theo cách phiên âm thường dùng trong Nguyên sử và Minh sử.
646 Lộ lạc: chưa rơ chỉ
nước nào. Thời trần, có thuyền buôn Lộ hạc đến Vân Đồn. Có lẽ Lộ Lạc
chính là Lộ Hạc. Dựa vào âm đọc, có thể cho rằng Lộ Hạc là nước La
Hộc được nhắc đến trong thư tịch Trung Quốc thời Nguyên-Minh (xem
thêm chú thích về Xiêm la ở dưới). La Hộc là quốc gia Lavo ở
Lopburi, Thái Lan. Lộ Hạc có khả năng là nước Locac được nhắc đến
trong du kư của Marco Polo.
647 Xiêm La: quốc gia của
người Thái vùng thượng lưu sông Mê Nam thời trung đại. Điểm đáng chú
ư là Toàn thư đả chép tên Xiêm La vào năm 1149. Trong khi đó, thư
tịch Trung Quốc chỉ nhắc đến nước này vào cuối thế kỷ XIII (xem
Nguyên sử, Xiêm quốc truyện) nhưng trong suốt thời Nguyên, chỉ gọi
là Xiêm chứ không phải là Xiêm La. Sang thời Minh, từ năm Hồng Vũ
thứ 4 (1371), mới thấy nhắc đến tên Xiêm la. Minh sử, Minh nhất
thống chí, Quảng Đông thống chí giải thích rằng vào khoảng niên hiệu
Chí Chinh (1341-1368), nước Xiêm đầu hàng nước La Hộc (tức Lavo) bên
cạnh, hai nước mới hợp nhất thành nước Xiêm La. Nguyễn Thiên Túng
chú Dư địa chí của Nguyễn Trăi cũng theo thuyết đó mà nói rằng Xiêm
La xưa là hai nước Xiêm La và La Hộc. Nếu đúng như thế th́ phải
chăng tên Xiêm La chép ở Toàn thư năm 1149 là do Ngô Sĩ Liên và các
sử thần thời Lê chữa từ tên xiêm? Nhưng chưa có căn cứ để nói rằng
thuyết đó đúng. Nước Xiêm nói trong Nguyên sử rơ ràng là vương quốc
Sukhothai h́nh thành vào thế kỷ XIII ở Thái Lan. Măi đến thế kỷ XV,
Sukhothai mới trở thành thuộc quốc của vương quốc Ayuthya.
648 Hải Đông: vùng đất
tỉnh Quảng Ninh ngày nay.
649 Núi Vụ Thấp: c̣n gọi
là Vụ Ôn, tức là núi Vụ Quang ở huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh.
650 Nguyên văn: "tả Hưng
đô" tức là Tả Hưng thánh đô, "đô" vừa là tên đơn vị đội quân cấm vệ
(đô Ngọc Giai đô Quảng Vũ v. v...) vừa là tên quan chức của viên chỉ
huy đội quân cấm vệ ấy.
651 Chỉ cách đọc hai chữ
"cát đái" thêm âm Nôm.
652 Việc này, Cương mục
chỉ chép là Đỗ Anh Vũ bị đày làm "điền nhi" (CMCB5, 3a) tức là những
người có tội bị bắt buộc phải làm ruộng cho nhà nước. Chữ "cảo",
Cương mục chữa làm Tảo và chú thích là "Tảo xả" nay là xă Nhật Tảo
huyện Từ Liêm (CMCB6,9). Vậy "Cảo điền nhi" là những người bị tội
đày phải cày ruộng cho nhà nước ở địa phương ngày nay là xă Nhật tảo
huyện Từ Liêm, Hà Nội. Vùng này BK10, 28a gọi là Cảo Động.
653 Cưỡi ngựa gỗ (thượng
mộc mă): thứ h́nh phạt thời cổ, đem tội nhân đóng đinh lên tấm ván,
đem đi bêu chợ rồi đem ra pháp trường tùng xẻo.
654 Long Thủy: vùng Thác
Bờ, tỉnh Ḥa B́nh.
655 Nghĩa: vua theo tám
phương.
656 Đại Việt sử lược chép
là Ung Minh Điệp (ĐVSL3,5a), tức ông Vangsaraja.
657 Chế B́ La Bút: tức
Jaya Harivarman I (ở ngôi: 1145-1170).
658 Viên Khâu: đàn tế
trời vào tiết Đông Chí hàng năm.
659 Đại Việt sử lược
chép: Chế B́ La Bút nước Chiêm Thành đến cống (ĐVSL3,5b).
660 Thời Xuân Thu, con
các vua chư hầu gọi là công tử v́ cha nhận tước công của nhà Chu.
661 Công tử Củ: em Tề
Tương công lánh nạn, nương nhờ nước Lỗ. Sau khi Tương công bị giết.
Lỗ Trang công cho quân đưa công tử Củ về lập làm vua, nhưng bấy giờ
Tiêu Bạch (là anh của củ) đă lên ngôi (tức Tề Hoàn Công), nước Lỗ
phải rút quân về.
662 Tiệp Tri: con Văn
công nước Trâu (mẹ là con vua nước Tấn), sau khi Văn công chết, Tấn
cho quân đem Tiệp Tri về nước, nhưng con trưởng của Văn công là Quắc
Thư đă nối ngôi, người nước Tấn biết là trái đạo, phải rút về.
663 Chỉ quan lại.
664 Ngự Thiên: nay là một
phần đất huyện Hưng Hà, tỉnh Thái B́nh (vùng huyện Hưng Nhân cũ).
665 Ngự trù: bếp của nhà
vua.
666 Về việc này, Toàn thư
và Cương mục đều chép người đi sứ về là Nguyễn Quốc, nhưng Đại Việt
sử lược chép là Nguyễn Quốc Dĩ, giữ chức Tả ty và kể sự việc kỷ hơn:
Người giữ việc đọc thư nói lại với Đỗ Anh Vũ về bức thư nặc danh,
Anh Vũ nói: "Ông v́ ta tâu vua xin xét việc đó". T́m không ra người
viết thư, Anh Vũ tâu rằng: "Thư ấy tất do người xướng xuất ra việc
làm ḥm viết ". Vua lấy làm phải, sai bắt Quốc Dĩ và em là Nghi Giao
cho quan xét xử, sau đó, đày Quốc Dĩ lên trại Quy Hóa (Toàn thư, ghi
là Thanh Hóa?). Khi biết vua có ư định cho gọi Quốc Dĩ về, Anh Vũ
sai người đem thuốc độc cho Quốc Dĩ (ĐVSL3,6b).
667 Xuy Vưu: theo truyền
thuyết Trung Quốc, là hậu duệ của Viêm Đế, làm vua nước Cửu Lê thời
thượng cổ, thua trận ở Trác Lộc, bị Hoàng Đế bắt giết.
668 Chùa Pháp Vân: tức là
chùa Dâu ở xă Thanh Khương,Hà Bắc.
669 Có nhầm lẫn ở điều
ghi này của Toàn thư. Phải đến năm 1206 quốc gia Mông Cổ mới thành
lập. Sứ đến nước ta bấy giờ có lẽ là sứ nước Kim. Cương mục cũng
chữa là sứ thần nước Kim. (CMCB5, 14a).
670 Văn Tuyên Vương: tức
Khổng Tử.
671 Đại Việt sử lược chép
đổi niên hiệu vào tháng giêng (ĐVSL3,8a).
672 Nguyên bản khắc nhầm
chữ đạo lư với chử lư (lẽ) đúng ra là chữ lư (dặm đường).
673 Đại Việt sử lược chép
là Đỗ An Thuận (ĐVSL3, 9b).!Chữ Di và chữ Thuận gần giống nhau, dễ
lầm lẫn.
674 Năm Đại Định thứ 20
(1159), Tô Hiến Thành đă phong làm thái uư, lúc này lại là đại thần
nhận di chiếu của Anh Tông làm phụ chính cho Cao Tông, ở đây lại ghi
phong lại chức vụ cũ, Cương mục ngờ rằng Toàn thư có thể chép nhầm
(CMCB5, 18a).
675 Đại Việt sử lược chép
hoàng hậu họ Đỗ tên là Thuỵ Châu (ĐVSL3, 8b).
676 Huỳnh Hoặc: tức sao
Hỏa.
677 Đế sư: thầy của vua.
678 Tam Phật tề: tức
vương quốc Srivijaya ở đảo Smatra, được nhắc đến với tên Thất Lợi
Phật Thệ từ thế kỷ VII trong thư tịch Trung Quốc và với tên Tâm Phật
Tề từ thế kỷ V trong thư tịch Trung Quốc.
679 Các sách Tư Mông...:
Đại Việt sử lược chép sách Tư Mông, sách Trịnh, sách Ô Mễ, vua sai
thái phó Vương Nhân Từ đi đánh. Nhân Từ lấy người trong châu là Phạm
Phẩm đóng ở ải Ông trọng, Trương Nhạn, Phạm Đỗ đóng ở hương Bái,
Đoàn Tùng đóng ở ải Khả Lăo. Khi đến trại La Biều, quan quân bị
người Lăo đánh úp, thua to, Nhân Từ chết trận. Cuộc hành quân năm
sau (1185) do Kiến Khang Vương (Đại Việt sử lược chép là Kiên Ninh
Vương) chỉ huy là để báo thù việc thất trận ở La Biều
(ĐVSL3,10b,11a). các sách, trại ghi ở đây đều chưa rơ ở đâu, nhưng
có khả năng là ở vùng núi Hà Sơn B́nh. Đại Việt sử lược chép đến các
quan lang họ Đinh ở vùng này.
680 Nhà Tống đối với các
vua nước ta lúc mới lên ngôi thường chỉ phong tước Giao Chỉ Quận
Vương, rồi Nam B́nh Vương, sau mới phong An Nam Quốc Vương. Riêng
với Lư Cao Tông, ngay lần đầu nhà Tống đă phong tước ấy, v́ vậy chế
thư có câu: "Tức lạc quốc dĩ triện phong..." (ngay bắt đầu đă
phong...). Theo Tống sử (q.488) th́ tước ấy đă phong ngay năm đầu
khi Cao Tông mới lên ngôi (1177).
681 tây Vực: chỉ các nước
ở miền Trung và Nam Á.
682 Chùa Pháp Vân: tức
chùa Dâu, ở xă Thanh Khương, tỉnh Hà Bắc. Đào Duy Anh chú bản dịch
cũ đoán Duềnh Bà là chép nhầm từ chữ Luy Lâu. Nhưng Duềnh bà cũng có
thể là tên Nôm thời bấy giờ của vùng này. (Duềnh chỉ sông Dâu, Bà
chỉ Bà Dâu, nữ thần thờ ở chùa Dâu).
683 Sao Huỳnh Hoặc tức
sao Hỏa. Sao Thái Bạch tức sao Kim.
684 Cổ Hoằng: nay là đất
huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
685 Nay là Diễn Thịnh
huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
686 câu này dẫn thơ
"Thước sào": Duy thước hữu sào, duy cưu cư chi" (Kinh Thi Thiệu
nam).
687 Bố Tŕ: tức
Suryavarmadeva.
688 văn Bố Điền: tức
ôngDhanapatigrama: Đại Việt sử lược (Q3,14b), ghi là Bố Do.
689 Cơ La: tên cửa biển,
thời Trần đổi là Kỳ La, tức là cửa Nhượng ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà
Tĩnh.
690 Đại Hoàng: là tên
châu, vừa là tên sông ở châu ấy, nay là sông Hoàng Long ở huyện
Hoàng Long, tỉnh Ninh B́nh.
691 Đại Việt sử lược
(q.3, 14b) ghi Bảo Lương họ Nguyễn, tức họ Lư (văn bản đại việt sử
lược theo lệ kiêng huư đời Trần đổi Lư thành Nguyễn), giữ chức
Thượng tướng quân.
692 Sông Lộ Bố: Cương mục
dẫn Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư nói Lộ Bố là sông ở địa phận Y
Yên, (CMCB3, 30a). Xác định như vậy khá hợp lư. Dựa vào các chi tiết
được chép rơ hơn ở Đại Việt sử lược, có thể cho rằng sông Lộ Bố là
đoạn sông Đáy chảy qua huyện Ư Yên, tỉnh Nam Hà và cửa sông Lộ Bố là
ở chổ sông Hoàng Long gặp sông Đáy.
693 Quốc Oai: nếu châu
Quốc Oai thời Lư tương đương với phủ Quốc Oai thời Lê th́ là đất các
huyện Hoài Đức, Đan Phượng, Phúc Thọ, Thạch Thất và huyện Quốc Oai,
tỉnh Hà Tây ngày nay. Nhưng theo đây th́ núi Tản Viên cũng thuộc
châu Quốc Oai, vậy Quốc Oai thời Lư có một phần đất huyện ba V́ ngày
nay.
694 Thanh Oai: tên hương
thời Lư, nay là huyện Thanh Oai, tỉnh Hà tây.
695 Hậu
nhân: người do thám.
696 Đằng
châu: ten châu thời Đinh Lê; năm 1005 Lê Long Đ́nh đổi gọi là phủ,
nhà Lư đổi lại là châu, nay là phần đất Hưng Yên (cũ), tỉnh Hải
Hưng.
697 Khoái
Châu: nhà Lư tách một phần Đằng Châu đặt ra Khoái Châu, nay là đất
các huyện Phù Tiên, tỉnh Hải Hưng.
698 Cương
mục chép: Du ngầm sai người đến kinh đô đem vàng bạc đút lót cho bọn
nội nhân để tâu vua rằng Bỉnh Di tàn ác giết người vô tội và bày tỏ
oan trạng của ḿnh (CMCB5, 32b).
699 Cương
mục có ư ngờ về điều ghi Phụ là con Bỉnh Di, v́ Bỉnh Di là hoạn quan
(CMCB5, 33b). Nhưng hoạn quan có thể vẩn có con từ trước khi chưa bị
hoạn.
700
Nguyên văn: "Lương thạch xứ". Đại Việt sử lược có chổ chép là "Lương
thạch toạ" (ĐVSL3,30b). Theo mặt chữ có thể hiểu đó là cái bệ đá để
ngồi mát, ở bên hoặc gần sát bậc thềm có tên là thềm Kim Tinh (Kim
Tinh giai).
701 Đông
Bộ Đầu: tức bến Đông ở Thăng Long, bên sông Hồng, ở vào khoảng gần
cầu Long Biên và dốc Hàng Than hiện nay.
702 Quy
Hóa Giang: một tên khác của sông Thao (tức sông Hồng từ Việt Tŕ trở
lên), ở đây chỉ miền núi Vĩnh Phú, Yên Bái. An Nam chí lược (q.12)
chép thêm là Cao Tông nương nhờ ở nhà Hà Vạn.
703 Đội
Sơn: c̣n gọi là núi Long Đội tức núi Đội ở huyện Duy Tiên, tỉnh Nam
Hà ngày nay.
704 Nay
là Lưu Xá, huyện Hưng Ḥa, tỉnh Thái B́nh.
705 Đại
Việt sử lược chép là Đỗ Anh Doăn (ĐVSL3, 20a).
706 Đại
Việt sử lược chép đủ tên huư của Lư Huệ Tông là Hạo Sảm (ĐVSL3,
20b).
707 Bến
Triều Đông: bến sông Hồng ở phía đông Thăng Long. cương mục chép là
Đông Bộ Đầu và chú là bến Đông Tân sông Nhị Hà.
708
Nguyên văn: "dĩ Trung Từ vi Thái uư phụ chính, phong Thuận Lưu bá
Trần Tự Khánh vi Chương Thành Hầu". Về việc này, Cương mục chép:
"Vua bèn phong cho Tự Khánh tước hầu, cho Tô Trung Từ làm Thái uư,
phong tước Thuận Lưu bá" (CMCB5, 35b). Đúng ra Lưu Thuận bá là tước
của Trần Tự Khánh (như Toàn thư đă chép ở BK4, 26b) và theo Đại Việt
sử lược đến năm này (Nhâm Thân 1212), ngày Canh Tuất tháng giêng
"vua cho Tự Khánh lên tước hầu, tước hiệu là Chương Thành hầu"
(ĐVSL3, 24a). Như vậy có thể nhận thấy rằng ở câu của Toàn thư (đă
dẫn), soạn giả Cương mục đă đặt nhầm một dấu ngắt đoạn ở sau chữ
"bá", cho nên mới chép Thuận Lưu bá là tước của Tô Trung Từ.
709 Huyện
Binh Hợp: chưa rơ ở đâu.
710 Cửu
Liên châu: có lẽ là băi tả ngạn sông Hồng, gần Cửu Cao, trong đất
huyện Văn Giang cũ, nay thuộc huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Hưng.
711 Quảng
Oai: vùng đất ở huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây ngày nay.
712 Bất
tiếu: không giống, không bằng (như con không giống cha), chuyển
nghĩa là không phải người hiền không thể truyền ngôi.
713 Theo
Cương mục, Chiêu Hoàng khi nối ngôi mới lên 7 tuổi (CMCB5, 41b).
714 Lục
hỏa thị cung ngoại: sáu hỏa (có lẽ là sáu đội lính) hầu ngoài cung;
Chi hậu, Nội nhân thị nội: các chức chi hậu và nội nhân hầu bên
trong.
715 Cận
thị thự lực cục chi hậu: chức chi hậu ở sáu cục của cận thị thự là
thự giữ việc hầu cận vua.
716 Thiện
hoàng: hoàng đế được nhường ngôi Thiện có nghĩa là nhường ngôi.
717 Châu
Đại Viễn: có lẽ muốn nói châu Đại Hoàng.
718 Loại
thơ sấm thường được dùng chữ theo lối đồng âm khác nghĩa và chiết
tự: chữ "bát" ở câu đầu có nghĩa là cái bát (bát nước0 đồng âm với
chữ "bát" là tam (tam đời). Chũ Sảm gồm phần trên là chữ "nhật" (mặt
trời), phần dưới là chữ "sơn" núi= mặt trời gác núi.
Quyển V
[1a]
K ỷ N h à T r ầ n
Thái Tông Hoàng Đế
Họ Trần, tên húy là Cảnh,
trước tên húy là Bồ, làm Chi hậu chính triều Lư, được Chiêu Hoàng
nhường ngôi, ở ngôi 33 năm [1226-1258], nhường ngôi 19 năm, thọ 60
tuổi [1218- 1277] băng ở cung Vạn Thọ, táng ở Chiêu Lăng. Vua khoan
nhân đại độ, có lượng đế vương, cho nên có thể sáng nghiệp truyền
ḍng, lập kỷ dựng cương, chế độ nhà Trần thực to lớn vậy. Song quy
hoạch việc nước đều do Trần Thủ Độ làm và chốn buồng the cũng có
nhiều điều hổ thẹn.
Trước kia, tổ tiên vua là
người đất Mân (có người nói là người Quế Lâm), có người tên là Kinh
đến ở hương Tức Mặc719 , phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra
Lư, Lư sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua là con thứ của
Thừa, mẹ họ Lê, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần, Kiến Gia thứ 8
triều Lư720 . Vua mũi cao, mặt rộng, giống như [1b] Hán Cao Tổ. Khi
mới 8 tuổi, làm Chi hậu chính chi ứng cục triều Lư. V́ có chú họ là
Trần Thủ Độ làm Điện Tiền Chỉ Huy Sứ, nên vua được vào hầu trong
cung. Chiêu Hoàng thấy vua th́ ưa.
Năm Ất Dậu [1225], mùa
đông, tháng 12, ngày 12 Mậu Dần, nhận thiền vị của Chiêu Hoàng, lên
ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung.
Bính Tuất, Kiến Trung năm
thứ 2 [ 1266], (Tống Bảo Khánh năm thứ 2) mùa xuân, tháng Giêng,
sách phong Chiêu Hoàng làm hoàng hậu, đổi gọi là Chiêu Thánh.
Phong Trần Thủ Độ làm
Thái sư thống quốc hành quân vụ chinh thảo sư.Phế thượng hoàng nhà
Lư ra ở chùa Chân Giáo, gọi là Huệ Quang đại sư.
Tháng 2, định luật lệnh,
điều lệ.
Sai Trần Thủ Độ đem quân
đi đánh Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng và các man.
Lúc ấy, nhân thế suy yếu
của triều Lư, giặc cướp tụ tập nhiều. Người Man ở vùng núi Tản Viên,
vùng núi Quảng Oai xâm phạm đánh lẫn nhau. [2a] Nguyễn Nộn chiếm cứ
Bắc Giang721 , Đoàn Thượng chiếm cứ Hồng Châu 722 . Thủ Độ điều động
các quân đi đánh dẹp.
Bấy giờ Nộn và Thượng
binh thế c̣n mạnh, chưa dễ hàng phục được, mới phong cho Nộn làm
Hoài Đạo Vương, chia cho các huyện Bắc Giang Thượng, Bắc Giang Hạ,
Đông Ngạn723 cũng hẹn phong làm vương cho Thượng định ngày đến thề,
nhưng Thượng không đến.
Mùa hạ, tháng 5, phong em
là Nhật Hiệu làm khâm Thiên Đại Vương (khi ấy mới 2 tuổi).
Trao phẩm cấp cho các
quan văn vơ theo hẫu theo thứ bậc khác nhau.
Tháng 6, lấy ngày sinh
làm tiết Càn Ninh.
Mùa thu, tháng 8, ngày
mồng 10, Trần Thủ Độ giết Lư Huệ Tông ở chùa Chân Giáo.
Trước đó, Thượng hoàng
nhà Lư có lần ra chơi chợ Đông, dân chúng tranh nhau chạy đến xem,
có người thương khóc. Thủ Độ sợ ḷng người nhớ vua cũ, sinh biến
loạn, cho dời đến ở chùa Chân Giáo; bề ngoài giả vờ là để phụng sự,
mhưng bên trong thực ra là để dễ bề giữ chặt.
Có lẫn Thủ Độ qua trước
cửa chùa, thấ Huệ Tông ngồi xổm nhổ cỏ, Thủ Độ nói: "Nhổ cỏ th́ phải
nhổ cả [2b] rễ sâu".
Huệ Tông đứng dậy, phủi
tay nói: "Điều ngươi nói, ta hiểu rồi".
Đến nay, sai người bày
biện hương hoa đến bảo [Huệ Tông]: "Thượng phụ sai thẫn đến mời"..
Thượng hoàng nhà Lư nói:
"Ta tụng kinh xong sẽ tự tử".
Nói rồi vào buồng ngủ
khấn rằng: "Thiên hạ nhà ta đă vào tay ngươi, ngươi lại c̣n giết ta,
ngày nay ta chết, đến khi thác con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế".
Bèn thắt cổ tự tử ở vườn
sau chùa.
Thủ Độ ra lệnh cho các
quan đến khóc, khoét tường thành phía nam cửa (người bấy giờ gọi là
"cửa khoét"), đưa linh cữu ra phường Yên Hoa để thiêu, chứa xương
vào tháp chùa Bảo Quang, tôn miếu hiệu là Huệ Tông. Giáng hoàng hậu
của Huệ Tông làm Thiên Cực công chúa, gả cho Trần Thủ Độ, cho châu
lạng làm ấp thang mộc.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
Tam Đại xưa lấy được thiên hạ là v́ ḷng nhân. Cho nên [3a] những
vua có đức lớn mà không làm nhiễu việc ác quá lắm th́ trời chưa bao
giờ vội dứt bỏ họ. Nhà Hạ nếu không có Kiệt, nhà Thương có Trụ, th́
việc truyền ngôi hẵn cũng chưa hết. Xem như cuối đời nhà Chu, các
nước chư hẫu cưỡng bức, tiếm lấn mà ngôi chính thống vẫn truyền nối
măi măi không dứt. Đó là do nhân sâu ơn dày của tổ tông để lại măi
đến đời sau vậy.
Họ Lư được nước không kém
ǵ Tam Đại, truyền nối nhiều đời, đến Huệ Tông không có con trai,
lại mắc bệnh tật, chắc là ơn trạch của tiên vương đến đây là hết
rồi, cho nên họ Trẫn mới có thể lấy được nước. Đă lấy nước của người
ta, lại giết vua của người ta th́ thực bất nhân quá lắm.
Sau này, Phế Đế phải thắt
cổ chết, Nguyên Quân bị giết724 , ḿnh làm thế nào th́ phải chịu thế
ấy, đạo trời là như vậy đó. Dù không có lời nguyền của Huệ Tông,
cũng tin là phải thế. Thủ Độ coi việc đó là hết ḷng trung, lo việc
nước, nhưng có biết đâu thiên hạ đời sau chỉ mặt [3b] gọi là giặc
giết vua, huống chi lại c̣n làm thói cho lợn725 .
Đưa các cung nhân và con
gái họ hàng nhà Lư Huệ Tông gả cho các tù trưởng người Man.
Mùa đông, tháng 10, tôn
cha là Thừa làm Thượng hoàng, ở cung Phụ Thiên, phường Hạc Kiều phía
bên tả. Hễ khi nước có việc lớn, th́ ở trong đó xem xét, quyết định.
Tôn mẹ là Lê thị làm Quốc Thánh hoàng thái hậu ( có sách chép là Bảo
Thánh Quốc mẫu).
Xuống chiếu cho dân gian
dùng tiễn "tỉnh bách"726 mỗi tiễn là 69 đỗng. Tiền nộp cho nhà nước
( tiễn " thượng cung") th́ mỗi tiễn là 70 đồng.
Tuyển thục nữ trong nước
sung làm cung nhân.
Sai Phụ quốc thái phó
Phùng Tá Chu quyền Tri phủ Nghệ An, cho phép ban tước từ tá chức, xá
nhân trở xuống cho người khác, rồi sau về triều tâu lê .
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
Ban tước cho người là quyễn của thiên tử, không phải là quyền của kẻ
làm tôi [4a]. Phùng Tá Chu là bề tôi cũ triều Lư, không có việc cần
phải chuyên quyễn như ra ngoài cương giới, làm lợi cho quốc gia, vỗ
yên trăm họ, mà lại cho phép chuyên quyền th́ cả người cho phép đều
sai cả.
Bễ tôi nhà Trẫn mà biết
đạo ấy, phải chăng chỉ có Quốc công Hưng Đạo Đại Vương. Thánh Tông
v́ thấy ông có công lao to lớn, cho phép được tự tiện phong tước cho
người, nhưng chưa bao giờ ông phong cho một ai cả. Giữa lúc giặc Hỗ
vào cướp, cầm quân chuyên chế, lấy thóc của người giàu để cấp lương
quân, nhưng cũng chỉ cho người đó làm giả Lang tướng mà không dám
cho làm Lang tướng thực.
Đinh Hợi [Kiến Trung] năm
thứ 3 [1227] , (Tống Bảo Khánh năm thứ 3). Thi tam giáo tử (nghĩa là
những nối nghiệp Nho giáo, Đạo giáo, Thích giáo).
Xuống chiếu rằng tất cả
các đơn từ văn khế đều dùng phép in ngón tay vào nửa tờ giấy.
Tuyên bố các điều khoản
lễ minh thệ, theo như lệ cũ của triều Lư và bắt đẫu định việc thực
hiện. Nghi thức lễ đó như sau:
Hàng năm vào ngày mồng 4
tháng 4, tể tướng và trăm quan đến trực ngoài cửa thành từ lúc gà
gáy, [4b] tờ mờ sáng th́ tiến vào triều. Vua ngự ở cửa Hữu Lang điện
Đại Minh trăm quan mặc nhung phục lạy hai lạy rồi lui ra. Ai nấy đều
thành đội ngũ, nghi trượng theo hầu ra cửa Tây thành, đến đền thờ
thần núi Đồng Cổ727 , họp nhau lại uống máu ăn thề. Quan Trung thư
kiểm chính tuyên đọc lời thề rằng:
"Làm tôi tận trung, làm
quan trong sạch, ai trái thề này, thần minh giết chết".
Đọc xong, tể tướng sai
đóng cửa điểm danh, người vắng mặt phải phạt 5 quan tiền. Ngày hôm
ấy, trai gái bốn phương đứng chật ních bên đườngđể xem như ngày hội
lớn.
Mậu Tư, [Kiến Trung] năm
thứ 4 [1228]. (Tống Thiệu Định năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng,
phong Khâm Thiên Vương Nhật Hiệu làm Quận vương.
Tháng 2, thi lại viên
bằng thể thức công văn (bạ đầu cách).
Mùa thu, tháng 8, phong
anh là Liễu làm thái úy.
Xác định số đinh tỉnh
Thanh Hóa.
Lệ cũ, hằng năm vào đầu
mùa xuân, xă quan (nay là xă trưởng) [5a] khai báo nhân khẩu gọi là
đơn sổ, rồi căn cứ vào sổ, kê rơ các loại tông thất, văn quan văn
giai, vơ quan vơ giai, quan theo hầu, quân nhân, tạp lưu, hoàng nam,
già yếu, tàn tật, phụ tịch, xiêu tán v.v... Người có quan tước, con
cháu được tập ấm mới được ra làm quan, người giàu có khoẻ mạnh mà
không có quan tước th́ sung quân đội, đời đời làm lính.
Tháng 9, thi lại viên
bằng thể thức công văn gọi là bạ đầu. Người trúng tuyển được sung
làm thuộc lại ở các sảnh viện. (Việc này đă chép vào tháng 2 rồi).
Mùa đông, tháng 10, nước
Chiêm Thành sang cống.
Tháng 12, Nguyễn Nộn đánh
giết Đoàn Thượng.
Nộn đă phá được Thượng,
nhân gộp cả quân của Thượng, cướp bắt con trai, con gái, tài sản,
trâu ngựa đất Hồng Châu. Con của Thượng là Văn đem gia thuộc đến
hàng.
Thanh thế của Thượng rất
lừng lẫy. Thủ Độ lo lắm, chia quân chống giữ và sai sứ đem thư đến
chúc mừng, gia phong Nộn làm Hoài Đạo Hiếu Vũ Vương, đưa công chúa
Ngoạn Thiềm gả cho hắn để ngầm [5b] ḍ la tin tức. Nộn cũng chia nha
tướng riêng cho công chúa ở. V́ thế công chúa không thể báo được tin
ǵ.
Kỷ Sửu,[ Kiến Trung] năm
thứ 5[1229] , (Tống Thiệu Định năm thứ 2, Nguyên Thái Tông Oa Khoát
Đài năm thứ1. Mùa xuân, tháng 3, nhật thực.
Nguyễn Nộn ốm chết.
Sau khi kiêm tính quân
của Thương, Nộn tự xưng là Đại Thắng Vương, chè chén chơi bời bừa
băi. Nhưng Nộn cũng biết là thế không thể cùng đối lập với nhàTrần,
định đến tháng 10 sẽ vào chầu, song c̣n do dự chưa quyết.
Đến khi ốm nặng, vua sai
nội nhân tớihỏi thăm, Nộn cố gượng ăn cơm, phi ngựa để tỏ ra c̣n
khoẻ mạnh, không bao lâu th́ chết. Người dưới quyền là Phan Ma Lôi
Ngầm phóng ngựa chạy trốn, không biết là đi đâu.
Ma Lôi là người Chiêm
Thành, buôn bán ở Ai Lao, được Nộn nhận làm nô, có tài chủ động đánh
thắng, dùng binh như thần. Sau khi Nộn chết, thiên hạ lại quy về một
mối.
Sai sứ sang thăm nước
Tống.
Nha Tống
phong vua làm An Nam Quốc Vương.
[6a] Canh
Dần, [Kiến Trung] năm thứ 5 [1230 ], (Tống Thiệu Đinh năm thứ 3).
Mùa xuân, tháng 3, khảo xét các luật lệ của triều trước, soạn thành
Quốc triều thống chế và sửa đổi h́nh luật lễ nghi, gồm 20 quyển.
Định bị
đồ có mức độ khác nhau:
Loại bị
đồ làm Cảo điền hoành th́ thích vào mặt 6 chữ, cho ở Cảo xẵ (nay là
xă Nhật Cảo), cày ruộng côn, mỗi người 3 mẫu, mỗi năm phải nộp 300
thăng thóc.
Loại bị
đồ làm Lao thành binh th́ thích vào cổ 4 chữ, bắt dọn cỏ ở Phượng
Thành, thành Thăng Long, lệ vào quân Tứ sương729 .
Định các
phường về hai bên tả hữu của kinh thành, bắt chước đời trước chia
làm 61 phường.
Đặt ty
B́nh bạc730 .
Lại mở
rộng phía ngoài thành Đại La, bốn cửa thành giao cho quân Tứ sương
thay phiên nhau canh giữ.
Sửa đổi
quan chức các phủ lộ. Đặt 2 viên An phủ sứ và An phủ phó sứ.
Trong
thành dựng cung, điện, lầu, các và nhà lang vũ ở hai bên phía đông
và tây. Bên tả là cung Thánh Từ ( nơi thượng hoàng ở), bên hữu là
cung Quan Triều (nơi vua ở).
Chép công
việc của quốc triều làm bộ Quốc triều thường lễ, 10 quyển.
[6b] Mùa
xuân, tháng 7, xuống chiếu rằng phàm người coi tục đi đ̣i người kiện
tụng, th́ cho lấy tiềncước lục tùy theo quăng đường gần hay xa.
Tháng 9,
Quốc Thánh hoàng thái hậu băng, truy tôn làm Thuận Từ hoàng thái
hậu.
Tân Măo,
[ Kiến Trung] năm thứ 7 [1231] , (Tống Thiệu Định năm thứ 4). Mùa
xuân, tháng giêng, sai NộI minh tự Nguyễn Bang Cốc (hoạn quan) chỉ
huy binh lính phủ ḿnh đào vét kênh Trầm và
kênh
Hào731 từ phủ Thanh Hóa đến địa giớI phía nam Diễn Châu. Việc xong,
thăng Bang Cốc làm Phụ Quốc thượng hầu.
Mùa thu,
tháng 8, vua ngự đến hành cung Tức Mặc, dâng lễ hưởng ở tiên miếu,
thết yến và ban lụa cho bô lăo trong hương theo thứ bậc khác nhau.
Thượng
hoàng xuống chiếu rằng trong nước hễ chổ nào có đ́nh trạm đều phải
đắp tượng phật để thờ.
Trước
đây, tục nước ta v́ nóng bức, nên làm nhiều đ́nh cho người đi đường
nghỉ chân, thường quét vôi trắng, gọi là đ́nh trạm. Thượng hoàng khi
c̣n hàn vi từng nghỉ ở đó, có một nhà sư bảo rằng : "Người trẻ tuổi
này ngày sau sẽ đại quư". Nói xong [7a] th́ không thấy nhà sư đâu
nữa. Đến nay vua lấy được thiên hạ mới có lệnh này.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói : Việc này của Trần Thái Tông cũng giống như việc
Vạn Hạnh với Lư Thái Tổ. Đó là mầm đầu tiên của sự sùng Phật ở đời
Lư, đời Trần. Kể ra, người thức giả mọi việc đều biết trước, có ǵ
lạ đâu.
Nhâm
Th́n, [Kiến Trung] năm thứ 8 [1232], (Từ tháng 7 về sau là Thiên Ứng
Chính B́nh năm thứ 1, Tống Thiệu Định năm thứ 5).
Mùa xuân,
tháng giêng, bắt đầu định triều nghi.
Phong con
của thượng hoàng là Bà Liệt làm Hoài Đức Vương.
Xưa
Thượng hoàng c̣n hàn vi, lấy người con gái thôn Bà Liệt (thuộc huyện
Tây Chân)732 . Người đó có mang th́ bị ( Thượng hoàng) ruồng bỏ. Đến
khi Bà Liệt ra đời, Thượng hoàng không nhận con. Lớn lên Bà Liệt
khôi ngô, giỏi vơ nghệ, xin sung vào đội đánh vật. Một hôm, bà Liệt
đánh cầu với người trong đội, người kia vật ngă Bà Liệt, bóp cổ Liệt
đến suưt tắt thở. Thượng hoàng thét lên : " Con ta đấy". Người ấy
[7b] sợ hăi lạy tạ.
Ngay hôm
đó, Thượng hoàng nhận Bà Liệt làm con, cho nên có lệnh này.
Tháng 2,
thi thái học sinh. Đỗ đệ nhất giáp là Trương Hanh, Lưu Diễm; đệ nhị
giáp là Đặng Diễn, Trịnh Phẫu; đệ tam giáp là Trần Chu Phổ.
Mùa hạ,
tháng 6, ban bố các chữ quốc húy và miếu húy.
V́ Nguyên
tổ tên húy là Lư, mới đổi triều Lư làm triều Nguyễn, vả lại cũng để
dứt bỏ ḷng mong nhớ của dân chúng đối với nhà Lư.
Tháng 8,
gió lớn, dân gian phát dịch lệ, nhiều người chết.
Trần Thủ
Độ giết hết tôn thất nhà Lư.
Khi ấy,
Thủ Độ chuyên chính lâu ngày, đă giết Huệ Tông, tôn thất nhà Lư đều
bùi ngùi thất vọng.
Mùa đông
năm ấy, nhân người họ Lư làm lễ tế các vua Lư ở Thái Đường, Hoa
Lâm733 , Thủ Độ ngầm đào hố sâu, làm nhà lên trên, đợi khi mọi người
uống rượu say, giật máy chôn sống hết.
(Xét thời
Trần Anh Tông c̣n có người họ Lư làm tướng, hơn nữa [Phan] Phu Tiên
không ghi lại, việc này chưa chắc đă có thực, hăy tạm [8a] chép vào
đây).
Quư Tỵ,
Thiên Ứng Chính B́nh năm thứ 2 [1233], (Tống Thiệu Định năm thứ 6),
sai Phùng Tá Chu duyệt định các ấp lớn phủ Nghệ An.
Hoàng
Thái tử Trịnh mất.
(Xét phép
chép sử: Hoàng thái tử sinh, tất phải chép rơ ngày, tháng, năm sinh;
khi mất cũng thế. Đây chỉ chép khi mất, có lẽ là vừa mới sinh đă
chết ngay, nên không chép ngày tháng sinh).
Nước to.
Giáp Ngọ,
[Thiên Ứng Chính B́nh] năm thứ 3 [1234], (Tống Đoan B́nh năm thứ 1).
Mùa xuân, tháng giêng, ngày 18, thượng hoàng băng ở cung Phụ Thiên,
thọ 51 tuổi.
Mùa thu,
tháng 8, ngày 28, táng [Thượng hoàng] ở Thọ Lăng phủ Long Hưng.
(Lăng ở hương Tinh Cương734 . Ba lăng Chiêu, Dụ Đức735 đều ở hương
ấy). Miếu hiệu là Huy Tông, tên thụy là Khai Vận Lập Cực Hoằng Nhân
Ứng Đạo Thuần Chân Chí Đức Thần Vũ Thánh Văn Thùy Dụ Chí Hiếu Hoàng
Đế.
Lấy thái
úy [ Trần] Liễu làm phụ chính, sách phong làm Hiển Hoàng.
[8b] Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói: Thái Tông đối với anh là Liễu, có ư muốn tôn
kính khác thường, cho nên làm việc việc quá đáng này. Sách phong là
Hiển Hoàng, thế là danh không chính rồi. Đă danh không chính th́ nói
không thuận, nói không thuận th́ việc không thành. Liễu manh tâm làm
loạn, vị tất đă không phải do đấy.
Phong
Trần Thủ Độ làm Thống quốc thái sư, tri Thanh Hóa phủ sự.
Gia phong
thái phó triều Lư là Phùng Tá Chu làm Hưng Nhân Vương; Quan nội hầu
Phạm Kính Ân làm Thái phó, tước Bảo Trung quan nội hầu.
Ất Mùi ,
[Thiên Ứng Chính B́nh] năm thứ 4 [1236], (Tống Đoan B́nh năm thứ 2).
Mùa xuân, tháng giêng, sét đánh 30 chỗ trong thành Đại Xá.
[9a] Bính
Thân, [Thiên Ứng Chính B́nh] năm thứ 5 [1236], (Tống Đoan B́nh năm
thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, định lệ cấp lương bổng cho các quan
văn vơ trong ngoài và các quan ở cung điện, năng miếu, chia tiền
thuế, ban cấp theo thứ bậc.
Tháng 2,
định quan hàm cho các đại thần.
Phàm
người tôn thất vào chính phủ, hoặc là Thái sư, Thái phó, Thái bảo,
Thái uư, hoặc là Tư đồ, Tả Hữu tướng quốc, đều kiêm hàm Kiểm hiệu
đặc tiến nghi đồng tam ty b́nh chương sự736 .
Mùa hạ,
tháng 6, nước to, vỡ tràn vào cung Lệ Thiên.
Bấy giờ
Hiển Hoàng [Trần] Liễu làm tri Thánh Từ cung, nhân nước to, đi
thuyền vào chầu, thấy người phi cũ của triều Lư liền cưỡng dâm ở
cung Lệ Thiên. Đ́nh thân hặc tâu, v́ thế mới đổi tên cung Thưởng
Xuân, giáng Hiển làm Hoài Vương.
Mùa thu,
tháng 8, chọn các nho sinh đă thi đỗ vào chầu, sau làm định lệ.
Mùa đông,
tháng 10, cho Phạm Ứng Thần làm Thượng thư tri Quốc tử viện, đưa con
em văn thần và tụng thần vào học.
[9b] Gia
phong Hưng Nhân Vương Phùng Tá Chu làm Đại Vương; Quan nội hầu Phạm
Kính Ân làm Thái úy, ban cho mũ áo đại vương.
Đinh Dậu,
[ Thiên Ứng Chính B́nh] năm thứ 6 [1237], (Tống Gia Hy năm thứ 1).
Mùa xuân, tháng giêng, xuống rằng: khi làm giấy tờ về chúc thư, văn
khế ruộng đất và vay mượn tiền bạc th́ người làm chứng in tay ở 3
ḍng trước, người bán in tay ở 4 ḍng sau.
Lập công
chúa Thuận Thiên họ Lư, là vợ của Hoài Vương Liễu, anh vua, làm
hoàng hậu Thuận Thiên. Giáng Chiêu Thánh làm công chúa.
Bấy giờ
Chiêu Thánh không có con mà Thuận Thiên đă có mang Quốc Khang 3
tháng. Trần Thủ Độ và công chúa Thiên Cực bàn kính với vua là nên
mạo nhận lấy để làm chổ dựa về sau, cho nên có lệnh ấy. V́ thế, Liễu
họp quân ra sông Cái làm loạn.
Vua trong
ḷng áy náy, ban đêm, ra khỏi kinh thành đến chỗ quốc sư Phù Vân
(quốc sư là bạn cũ của Thái Tông) trên núi Yên Tử rồi ở lại đó
[10a]737 .
Hôm sau,
Thủ Độ dẫn các quan đến mời vua trở về kinh sư. Vua nói: "V́ trẫm
non trẻ, chưa cáng đáng nổi sứ mạng năng nề, phụ hoàng lại vội ĺa
bỏ, sớm mất chỗ trông cậy, nên không dám giữ ngôi vua mà làm nhục xă
tắc".
Thủ Độ cố
nài xin nhiều lần vẫn chưa được vua nghe, mới bảo mọi người rằng:
"Xa giá ở
đâu tức là triều đ́nh ở đó".
Thế rồi
[Thủ Độ] cắm nêu trong núi, chỗ này là điện Thiên An, chỗ kia là các
Đoan Minh, sai ngườ xây dựng. Quốc sư nghe thấy thế bèn, tâu rằng:
"Bệ hạ
nên gấp quay xa giá trở về, chớ để làm hại núi rừng của đệ tư".
Vua bèn
trở về kinh đô. Được hai tuần, Liễu tự lượng thế cô, khó ḷng đối
lâp được, ngầm đi thuyền độc mộc giả làm người đánh cá, đến chỗ vua
xin hàng.
Lúc ấy
vua đang ở trong thuyền, vội vàng bảo Thủ Đô:
"Phụng
Càn Vương (Phụng Càn là tên hiệu [10b] cũ của Liễu hồi c̣n nhà Lư)
đến hàng đầy!" rồi lấy thân ḿnh che đỡ cho Liễu. Thủ Độ tức lắm,
ném gương xuống sông nói:
"Ta chỉ
là con chó săn thôi, biết đâu anh em các người thuận nghịch thế
nào?".
Vua nói
giải ḥa, rồi bảo Thủ Độ rút quân về.
Lấy đất
Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang738 cho Liễu làm ấp
thang mộc. Nhân đất được phong, mà Liễu có tên Hiệu là Yên Sinh
Vương. Binh lính [theo Liễu] làm loạn ở sông Cái đều bị giết.
Phan Phu
Tiên nói: Tam cương ngũ thường là luân lư lớn của loài người. Thái
Tông là ông vua khai sáng cơ nghiệp, đáng lẽ phải dựng phép tắc để
truyền lại cho đời sau, lại nghe mưu gian của Thủ Độ, cướp vợ của
anh làm hoàng hậu, chẳng phải là bỏ cả luân thường, mở mối dâm loạn
đó ư? Liễu từ đó sinh ra hiềm khích, cả gan làm loạn, là do Thái
Tông nuôi nên tội ác cho Liễu vậy. Có người bảo Thái Tông không giết
anh, thế là nhân, nhưng tôi th́ cho rằng cướp vợ của anh, tội ác đă
rơ ràng, không giết anh [11a] là v́ lẽ trời chưa mất mà thôi, sao
được gọi là nhân? Xét ra sau này Trần Dụ Tông dâm loạn làm càn chưa
hẳn không do Thái Tông đầu têu vậy .
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Thái Tông mạo nhận con của anh làm con của ḿnh.
Sau này Dụ Tông và Hiến Từ đều cho Nhật Lễ làm con của Cung Túc
Vương, đến nỗi cơ nghiệp nhà Trần suưt nữa bị sụp đỗ, há chẳng phải
là không có ngọn nguồn của nó sau?
Các quan
dâng tôn hiệu là Thống Thiên Ngự Cực Long Công Hậu Đức Hiền Công Hựu
Thuận Thánh Văn Thần Vũ Hiếu Nguyên Hoàng Đế.
Ban yến
cho các quan ở điện Thiên An.
Tháng 2,
dời dựng điện Linh Quang ở Đông Bộ Đầu, gọi là điện Phong Thủy. Khi
xa giá dừng ở đây, các quan đưa đón, đều dâng trầu cao và trà, nên
tục gọi là điện Trà.
[11b] Mùa
hạ, tháng 5, tết Đoan ngọ làm lễ điếu Khuất Nguyên và người hiền đời
xưa như Giới Tử Thôiv.v..Hằng năm cứ đến tháng này đều cử hành [lễ
điếu].
Mậu Tuất,
[Thiên Ứng Chính B́nh] năm thứ 7 [1238], (Tống Gia Hy năm thứ 2).
Mùa xuân, tháng 2, sai Thống quốc thái sư Trần Thủ Độ duyệt định sổ
đinh phủ Thanh Hoá.
Mùa thu,
tháng 7, nước to, vỡ tràn vào cung Thưởng Xuân.
Tháng 8,
định quy chế thuyền xe cho vương hầu, công chúa, các quan văn vơ và
người tông thất.
Ban yến
cho các quan từ ngũ phẩm trở lên ở điện Bát Giác.
Kỷ Hợi,
[Thiên Ứng Chính B́nh] năm thứ 8 [1239], (Tống Gia Hy năm thứ 3).
Mùa xuân, tháng giêng, lại cho Phùng Tá Chu chức Nhập nội thái phó.
Sai [Chu] về hương Tức Mặc xây dựng nhà cửa, cung điện.
Tháng 2,
thi thái học sinh. Đỗ đệ nhất giáp là Lưu Miễn, Vương Giát; đệ nhị
giáp là Ngô Khắc; đệ tam giáp là Vương Thế Lộc.
[12a]
Kiểu Hiền làm loạn.
Canh Tư,
[Thiên Ứng Chính B́nh] năm thứ 9 [1240], (Tống Gia Hy năm thứ 4).
Mùa xuân, tháng giêng, sai Phùng Tá Chu dựng 5 sở hành cung ở phủ
Thanh Hoá.
Mùa thu,
tháng 7, gió lớn, mưa to, động đất.
Tháng 9,
ngày 25, hoàng đích trưởng tử là Hoảng sinh, lập làm Đông cung thái
tử. Đại xá.
Mùa đông,
tháng 10, quan đóng giữ Lạng Giang sai chạy trạm tâu về việc người
phương Bắc đến bắt người cướp của dân cư trong hạt ấy. Vua sai thị
thần là Bùi Khâm đến biên giới phía bắc để bày tỏ.
Tân Sửu,
[Thiên Ứng Chính B́nh] năm thứ 10 [1241], (Tống Thuần Hựu năm thứ
1). Mùa xuân, tháng 2, chọn người có sức khoẻ, am hiểu vơ nghệ sung
làm quân Túc vệ thượng đô.
Mùa hạ,
tháng 4, hạn hán, núi nhiếu nơi bị lở, ở chợ Dừa739 , đất toác ra.
Tháng 9,
xuống chiếu cho các ty xét án được lấy tiền b́nh bạc740 (b́nh tức là
xét, trước có ty b́nh bạc cũng là thế).
Mùa đông,
tháng 10, người Man phương bắc đến cướp biên giới. Sai đốc tướng
Phạm Kính Ân đi đánh lấy được các động Man rồi về.
Hoàng tử
thứ ba Quang Khải sinh, là em cùng mẹ với thái tử Hoảng. Quốc Khang
là anh trưởng, sau đều phong đại vương. Thứ đến Nhật Vĩnh, Ích Tắc,
Chiêu Văn, đều phong vương. Thứ nữa th́ phong thượng vị hầu. Con
trưởng của các vương th́ phong vương, các con thứ th́ phong thượng
vị hầu, coi đó là chế độ lâu dài.
Vua thân
hành cầm quân đi đánh các trại Vĩnh An, Vĩnh B́nh741 của nước Tống
phía đường bộ, vượt qua châu Khâm, châu Liêm, tự xưng là Trai Lang,
bỏ thuyền lớn ở trong cơi, chỉ đi bằng các thuyền nhỏ Kim Phụng,
Nhật Quang, Nguyệt Quang. Người châu ấy không biết là vua, đều sợ
hăi chạy trốn. Đến sau biết là vua mới chăng xích sắt giữa sông để
chặn đường thủy. [13a] .Khi trở về, vua sai nhổ lấy vài chục cái neo
đem về.
Phùng Tá
Chu mất.
Nhâm Dần,
[Thiên Ứng Chính B́nh] năm thứ 11 [1242], (Tống Thuần Hựu năm thứ
2). Mùa xuân, tháng 2, chia nước làm 12 lộ742 . Đặt chức an phủ,
trấn phủ, có 2 viên chánh, phó để cai trị. Các xă, sách th́ đặt chức
đại, tiểu tư xă. Từ ngũ phẩm trở lên là đại tư xă, từ lục phẩm trở
xuống là tiểu tư xă. Có người làm kiêm cả 2, 3, 4, xă, cùng xă
chính, xă sử, xă giám gọi là xă quan.
Làm đơn
số743 hộ khẩu. Con trai lớn gọi là đại hoàng nam, con trai nhỏ gọi
là tiểu hoàng nam, 60 tuổi gọi là lăo, già lắm th́ gọi là long lăo.
Nhân đinh có ruộng đất th́ nộp tiền thóc, người không có ruộng đất
th́ miễn cả. Có 1, 2 mẫu ruộng th́ nộp 1 quan tiền, có 3, 3 mẫu th́
nộp 2 quan tiền, có từ 5 mẫu trở lên th́ nộp 3 quan tiền. Tô ruộng
mỗi mẫu nộp 100 thăng thóc.
Mùa hạ,
tháng 4, sai [13b] Thân vệ tướng quân Trần Khuê Ḱnh đem quân trấn
giữ biên giới phía bắc, đánh lấy các đất thuộc lộ Bằng Trường.
Trước
kia, từ sau khi Nguyên Thái Tông mất, th́ cửa ải thường không thông.
Nếu có sứ mệnh th́ chỉ có hai viên chánh phó sứ và hai bọn người đi
theo, c̣n sản vật tiến cống có bao nhiêu th́ gói bọc đưa đến địa đầu
biên giới, quan địa phương nhận giữ và chuyển nộp. Sứ thần đến kinh,
chỉ dâng biểu tâu thôi, các vật tiến cống không đến nơi cả được. Đến
nay, sai tướng chống giữ, đánh chiếm mới thông hiếu được với nước
Tống.
Tháng 5,
tháng 6, hạn hán, soát tù, đại xá.
Mùa thu,
tháng 7, mưa. Miễn một nửa tô ruộng.
Tháng 9,
ngày canh th́n, mồng 1, nhật thực.
Mùa đông,
tháng 10, Chiêm Thành sang cống.
Tháng 12,
rồng vàng hiện.
Quư Măo,
[Thiên Ứng Chính B́nh] năm thứ 2 [1243] , (Tống Thuần Hựu năm thứ
3). Mùa xuân, tháng giêng, lệnh cho quan các lộ làm sổ dân đinh,
[14a] hạn trong hai tháng phải xong.
Tháng 2,
đắp thành nội, gọi là thành Long Phượng và trùng tu Quốc tử giám.
Mùa hạ,
tháng 6, sai viên ngoại lang Trương Thất xét xử các án ở Đô vệ phủ.
Mùa thu,
tháng 8, nước to, vỡ thành Đại La.
Mùa đông,
tháng 10, chọn người bổ sung vào các quân bộ đ? sai khiến.
Giáp
Th́n, [Thiên Ưng Chính B́nh] năm thứ 13 [1244] , (Tống Thuần Hựu năm
thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, sai các văn thần chia nhau đi trị
nhậm các phủ, lộ trong nước gồm 12 nơi. Phủ có tri phủ, lộ có thông
phán, châu có tào vận sứ và phó sứ, giữ việc vận chở.
Định các
cách thức về luật h́nh.
Tháng 3,
cho Phùng Tá Khang, cha Phùng Tá Chu, làm tả nhai đạo lục, tước Tả
Lang.
Bấy giờ
các vương hầu bổ quan tăng đạo th́ gọi la Tả nhai, v́ không thể cho
đứng vào hàng ngũ các quan trong triều. Tả nhai là phẩm cao nhất của
tăng đạo. Không phải là người thông thạo [14b] tôn giáo của ḿnh th́
không được dự càn. Nay đem phong cho Tá Khang là lễ ưu hậu lắm.
Mùa đông,
tháng 10, qui định lương bổng cho các quan làm việc trong ngoài và
các quan túc vệ.
Ất Tỵ,
[Thiên Ứng Chính B́nh] năm thứ 14 [1245], (Tống Thuần Hựu năm thứ
5). Mùa xuân, tháng giêng, vua ngự hành cung Ứng Phong (nay là phủ
Kiến Hưng)744 .
Mùa thu,
tháng 8, nước to, vỡ đê Thanh Đàm745 .
Mùa đông,
tháng 12, gió to, mưa lớn 3 ngày, nước sông tràn ngập, rắn, cá chết
nhiều.
Bính Ngọ,
[Thiên Ứng Chính B́nh] năm thứ 15 [1246], (Tống Thuần Hựu năm thứ 6,
Nguyên Định Tông, Quư Do746 năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 2, định quy
chế các quận.
Chọn
người khoẻ mạnh sung làm quân Tứ thiên, Tứ thánh, Tứ thần747 . Đinh
tráng lộ Thiên Trường748 và Long Hưng749 , sung vào các quân Thiên
thuộc, Thiên cương, Chương thánh và Củng thần; lộ Hồng750 và lộ
Khoái751 sung quân tả hữu Thánh dực; lộ Trường Yên 752 và lộ Kiến
Xương753 sung vào Thánh dực, Thần sách. C̣n các lộ khác th́ sung vào
cấm quân trong Cấm vệ. Hạng thứ ba th́ sung vào đoàn đội trạo nhi754
[15a] (có sách chép là phong đội).
Tháng 3,
xét duyệt các quan văn, vơ, trong ngoài. .
Cứ 15 năm
1 lần xét duyệt, 10 năm thăng tước 1 cấp, 15 năm thăng chức 1 bậc.
Chức quan nào khuyết th́ chức chánh kiêm chức phó. Chánh phó đều
khuyết th́ lấy quan khác tạm giữ, đợi đủ hạn xét duyệt th́ bổ chức
ấy.
Bấy giờ
quốc gia vô sự, nhân dân yên vui, người làm quan giữ măi một chức,
người ở quán, các 10 năm mới được xuất thân, người ở sảnh, cục 15
năm mới được xuất thân, chức tể tướng th́ chọn người hiền năng trong
tôn thất, có đạo đức, tài nghệ, thông hiểu thi thư th́ cho làm.
Mùa hạ,
thạng, tháp trên núi Long Đội đổ.
Mùa thu,
tháng 7, định lệ thi tiến sĩ, cứ 7 năm 1 khoa.
Mùa đông,
tháng 12, cho Trương Mông làm Ngự sử đại phu (Mông người Thanh Hóa,
có hùng tài).
Đinh Mùi
, [Thiên Ứng Chính B́nh] năm thứ 16 [1247], (Tống Thuần Hựu năm thứ
7). Mùa xuân, tháng 2, mở khoa thi chọn kẻ sĩ. Ban cho Nguyễn Hiền
đỗ trạng nguyên [15b] Lê Văn Hưu đỗ bảng nhăn; Đặng Ma La đỗ thám
hoa lang. Cho 48 người đỗ thái học sinh, xuất thân theo thứ bậc khác
nhau.
Trước
đây, hai khóa Nhâm Th́n (1232) và Kỷ Hợi (1239) chia làm giáp, ất,
chưa có chọn tam khôi755 . Đến khoa này mới đặt [tam khôi].
Mùa hạ,
tháng 4, động đất.
Mùa thu,
tháng 8, thi các khoa thông tam giáo. Ngô Tần (người Trà Lô0 đỗ giáp
khoa, Đào Diễn, Hoàng Hoan (người Thanh Hóa) và Vũ Vị Phủ (người
Hồng Châu) đỗ ất khoa.
Mậu Thân
, [Thiên Ứng Chính B́nh] năm thứ 17 [1248], (Tống Thuần Hựu năm thứ
8). Mùa xuân, tháng giêng, đổi miế hiệu của Huy Tông gọi là Thái Tổ,
Thọ Lăng gọi là Huy Lăng.
Tháng 3,
lệnh các lộ đắp đê pḥng lụt, gọi là để quai vạc, từ đầu nguồn đến
bờ biển, để ngăn nước lũ tràn ngập.
Đặt hà đê
chánh phó sứ để quản đốc. Chỗ đắp th́ đo xem mất bao nhiêu ruộng đất
của dân, theo giá trả lại tiền [16a]. Đắp đê quai vạc là bắt đầu từ
đó.
Mùa hạ,
tháng 4, làm cầu Lâm Ba ở chùa Chân Giáo, qua hồ Ngoạn Thiềm, đến
quán Thái Thanh cung Cảnh Linh, cực kỳ tráng lệ.
Tháng 6,
hoàng hậu Thuận Thiên băng, truy tôn là Hiển Tử Thuận Thiên hoàng
thái hậu.
Sai các
nhà phong thủy đi xem khắp núi sông cả nước, chỗ nào có vượng khí đế
vương th́ dùng phép thuật để trấn yểm, như các việc đào sông Bà
Lễ756 đục núi Chiêu Bạc757 ở Thanh Hóa; c̣n lấp các khe ở kênh mở
đường ngang dọc th́ nhiều không kể xiết. Đó là làm theo lời Trần Thủ
Độ.
Sứ thần
Ngô Sĩ Liên nói: Từ khi có trời đất này, th́ đă có núi sông này, mà
khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời, đều có số cả. Khí trời từ
bắc chuyển xuống nam, hết nam rối lại quay về bắc. Thánh nhân trăm
năm mới sinh, đủ số lại trở lại từ đầu. Thời vận [16b] có lúc chậm
lúc chóng, có khi thưa khi mau mà không đều, đại lược là thế, có can
ǵ đến núi sông? Nếu bảo núi sông có thể lấy pháp thuật mà trấn áp,
th́ khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời có pháp thuật ǵ trấn áp
được không? Ví như Tần Thủy Hoàng biết là phương đông nam có vượng
khí thiên tử, đă mấy lần xuống phương ấy để trấn áp, mà rút cuộc Hán
Cao vẫn nổi dậy, có trấn áp được đâu.
Kỷ Dậu, [
Thiên Ứng Chính b́nh] năm thứ 18 [1249], (Tống Thuần Hựu năm thứ 9).
Mùa xuân, tháng giêng, trùng tu chùa Diên Hựu, xuống chiếu vẫn làm ở
nền cũ.
Đại xá.
Mùa hạ,
tháng 4, ngày Nhâm Dần mồng 1, nhật thực.
Mùa thu,
tháng 7, mưa đá lớn.
Canh
Tuất, [Thiên Ứng Chính B́nh] năm thứ 19 [1250], (Tống Thuần Hựu năm
thứ 10). Mùa xuân, tháng 3 động đất.
Xuống
chiếu cho thiên hạ gọi vua là quan gia758 .
Đổi Đô vệ
phủ làm Tam ty viện, gồm các viện Phụng tuyên, Thanh túc, Hiến
chính.
Mùa hạ,
tháng 5, xuống chiếu các việc kiện tụng đă thành án, phải cùng quan
thẩm h́nh viện xem xét định tội.
[17a] cho
Lê Phụ Trần làm Ngự sử trung tướng, tri Tam ty viện sự.
Mùa thu,
tháng 7, cho Minh tự Lưu Miễn làm an phủ sứ phủ lộ Thanh Hóa.
Tân Hợi,
[Thiên Ứng Chính B́nh] năm thứ 20 [1251] (Từ tháng 2 về sau là
Nguyên Phong năm thứ 1, Tống Thuần Hựu năm thứ 11, Nguyên Hiến Tông
Mông Kha năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 1, đổi nguyên hiệu là Nguyên
Phong (năm thứ 1).
Vua tự
viết bài minh ban cho các hoàng tử, dạy về trung, hiếu, hoà, tốn,
ôn, lượng, cung, kiệm.
Gả trưởng
công chúa Thiên Thành cho Trung Thành Vương (không rơ tên). Con trai
Yên Sinh Vương là Quốc Tuấn cướp lấy. Công chúa về với Quốc Tuấn.
Ngày 15
tháng ấy, vua mở hội lớn 7 ngày đêm, bày các tranh về lễ kết tóc759
và nhiều tṛ chơi cho người trong triều ngoài nội đến xem, ư muốn
cho công chúa Thiên Thành là lễ kết tóc với Trung Thành Vương.
Trước đó,
vua cho công chúa Thiên Thành đến ở trong dinh Nhân Đạo Vương (Nhân
Đạo Vương là cha Trung Thành Vương). Quốc Tuấn muốn lấy công chúa
Thiên Thành, nhưng không làm thế nào được, mới nhân ban đêm lẻn vào
[17b] chỗ ở của công chúa thông dâm với nàng.
Công chúa
Thụy Bà (chị ruột của Thái Tông, cô của Quốc Tuấn, nuôi Quốc Tuấn
làm con) liền đến gơ cửa điện cáo cấp. Người coi cửa vội vào tâu.
Vua hỏi có việc ǵ, Thụy Bà trả lời:
"Không
ngờ Quốc Tuấn ngông cuồng càn rỡ, đang đêm lẻn vào chỗ Thiên Thành,
Nhân Đạo đă bắt giữ hắn rồi, e sẽ bị hại, xin bệ hạ rủ ḷng thương,
sai người đến cứu"
Vua vội
sai nội nhân đến dinh Nhân Đạo Vương. Đến nơi, thấy yên lặng, bèn
vào chỗ Thiên Thành, th́ thấy Quốc Tuấn đă ở đấy. Nhân Đạo bấy giờ
mới biết chuyện.
Hôm sau,
Thụy Bà dâng 10 mâm vàng sống, tâu rằng: " V́ vội vàng nên không sắm
được đủ lễ vật".
Vua bắt
đắc dĩ phải gả công chúa Thiên Thành cho Quốc Tuấn, lấy 2000 khoảnh
ruộng ở phủ Ứng Thiên760 để hoàn lại sính vật cho Trung Thành Vương.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Con gái vua lấy kẻ bề dưới tất phải sai chư hầu
cùng họ đứng ra làm chủ hôn [18a] theo lễ phải thế. Thái Tông đem
Thiên Thành công chúa gả xuống cho Trung Thành Vương, nhưng công
chúa lại về với Hưng Đạo Vương, việc hôn nhân rất là bất chính. Thế
th́ lễ cưới này không ai đứng chủ ư? V́ vua đă bất chính trong đạo
vợ chồng, cho người làm tôi con cũng bắt chước. Vả lại, hôn nhân
không lấy người khác họ mà lấy người cùng họ, th́ chỉ có nhà Trần
làm thế. Trong việc trái lễ, lại trái lễ nửa.
Vua ban
yến ở nội điện, các quan đều dự. Đến khi say, mọi người đứng cả dậy,
dang tay mà hát. Ngự sử trung tướng ( sau đổi là Trung úy) Trần Chu
Phổ Cũng dang tay theo mọi người, nhưng không hát câu ǵ khác, chỉ
nói: "Sử quan ca rằng, sử quan ca rằng".
Sau này,
trong yến tiệc, có người đội mo nang, cầm dùi làm tửu lệnh th́ lại
càng thô bỉ lắm.
[18b] Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói: Xem thế đủ thấy, tuy bấy giờ vua tôi cùng vui,
không g̣ bó vào lễ pháp, cũng là điều giản dị, chất phát của phong
tục, nhưng không c̣n chừng mực ǵ nữa. Hữu Tử nói: "Biết được ḥa
đồng rồi ḥa đồng, nhưng không lấy lễ mà tiết chế, th́ cũng không
thể làm được" Ngự sử là bề tôi giữ việc can ngăn, chức
phận là
phải uốn nắn, đă không nói th́ thôi, lại c̣n vào hùa với họ th́ kỷ
cương của triều đ́nh để đâu?
Mùa hạ,
tháng 4, Yên Sinh Vương Liễu mất, thọ 41 tuổi, gia phong đại vương.
Phạm Kính
Ân mất (Kính Ân là thái úy quan nội hầu của triều Lư cũ).
Nhâm Tư,
Nguyên Phong năm thứ 2 [1252] , (Tống Thuần Hựu năm thứ 13). Mùa
xuân, tháng giêng, vua thân đi đánh Chiêm Thành, sai Khâm Thiên Đại
vương Nhật Hiệu làm lưu thủ.
Chiêm
Thành từ khi nhà Lư suy yếu, thường đem thuyền nhẹ [19a] đến cướp
bóc dân cư ven biển. Vua lên ngôi, lấy đức vỗ về, sai sứ sang dụ,
tuy họ có thường sang cống, nhưng lại đ̣i xin lại đất cũ, và có ư
ḍm ngó [nước ta]. Vua giận, nên có viễc thân chinh này.
Mùa đông,
tháng 12, bắt được vợ của chúa Chiêm Thành là Bố Da La và nhiều thần
thiếp, nhân dân của y rồi về.
(Có
thuyết nói bắt được chúa Chiêm Thành Bố Da La là sai. Nếu quả như
thế th́ Lê Văn Hưu làm Sử kư sao không dẫn để ca ngợi cùng với việc
bắt được Sạ Đẩu. Nay theo [Phan] Phu Tiên là phải).
Quư Sửu,
Nguyên Phong năm thứ 3 [1253], (Tống Bảo Hựu năm thứ 1). Mùa hạ,
tháng 4, cho Khâm Thiên Đại Vương Nhật Hiệu làm Thái úy.
Tháng 6,
lập Quốc học viện. Đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Á Thánh (Mạnh
Tử), vẽ tranh 72 người hiền761 để thờ.
Muà thu,
tháng 8, lập Giảng vơ đường.
Tháng 9,
xuống chiếu vời nho sĩ trong nước đến Quốc tử viện giảng tứ thư lục
kinh.
Giáp Dần,
[Nguyên Phong] năm thứ 4 [1254], (Tống Bảo Hựu năm thứ 2). Mùa hạ,
tháng 5, định quy chế xe kiệu, mũ áo và người hầu cho tôn thất và
các quan văn vơ [19b] theo thứ bậc khác nhau.
Từ tông
thất cho đến quan ngũ phẩm đều được đi kiệu, ngựa và vơng. Tôn thất
th́ kiệu đầu đ̣n chạm phượng sơn son, tướng quốc th́ kiệu đầu đ̣n
chạm vẹt sơn đen, lọng tía; từ tam phẩm trở lên th́ kiệu đầu đ̣n
chạm mây, lọng xanh; từ tứ phẩm đến lục phẩm th́ kiệu đầu đ̣n bằng
dầu; ngũ phẩm trở lên th́ lọng xanh; lục thất phẩm th́ lọng giấy
đen. Người theo hầu nhiều th́ 1.000 người, ít th́ 100 người.
Bấy giờ
các vương hầu phần nhiều coi việc đánh nhau bằng tay không và một
ḿnh đi cướp là dũng cảm. Vũ Uy vương Duy (con Thái Tông) cũng làm
thế. Một hôm, Vũ Uy [Vương] đánh nhau tay không ở Đông Bộ Đầu, vua
vi hành qua đấy trông thấy hỏi rằng:
"Người
béo và trắng kia là ai, bắt lại đây để sai bảo".
Vũ Uy
[Vương] nge thế trốn mất.
Tháng 6,
bán ruộng công762 , mỗi diện là 5 quan tiền (bấy giờ gọi mẫu là
diện), cho phép nhân dân mua làm ruộng tư.
[20a] Mùa
đông, tháng 10, ban tiền cho Phạm Ứng Mộng, bảo tự hoạn để vào hầu.
Trước đó,
vua nằm mơ đi chơi thấy thần nhân chỉ một người bảo vua: "Người này
có thể làm hànnh khiển". Tỉnh dậy, không biết là người nào.
Một hôm
tan buổi chầu, vua ngự ra ngoài thành, thấy một người con trai theo
học ở cửa nam thành, hiành dáng giống hệt người trong mộng, Vua gọi
đến hỏi, người đó ứng đối giống như những lời trong mộng.Vua muốn
trao cho chức hành khiển, nhưng thấy khó, mới cho 400 quan tiền bảo
tự hoạn,
ban tên
là Ứng Mộng. Sau này thăng dần đến chức hành khiển. Đó là bằt chước
lệ cũ của triều Lư, dùng Lư Thường Kiệt và Lư Thường Hiến vậy.
Ất Măo,
[Nguyên Phong] năm thứ 5 [1255], (Tống Bảo Hựu năm thứ 3). Mùa xuân,
tháng 2, sai Lưu Miễn bồi đắp đê sông các xứ ở Thanh Hóa.
Mùa hạ,
tháng 4, chọn tản quan làm hà đê chánh phó sứ các lộ. Khi việc làm
ruộng nhàn rỗi [20b] th́ đốc thúc quân lính đắp đê đập, đào mương
ng̣i đề pḥng lụt, hạn.
Hoàng tử
thứ 6 Nhật Duật sinh.
Trước đó,
đạo sĩ cung Thái Thanh tên là Thậm cầu tự cho vua. Đọc sớ xong [đạo
sĩ] tâu vua: "Thượng đế đă y lời sớ tấu, sắp sai Chiêu Văn đồng tử
giáng sinh, ở trần thế bốn kỷ". Thế rồi hậu cung có mang. Sau quả
nhiên sinh con trai, hai cánh tay có chữ "Chiêu Văn đồng tử", nét tử
rất rơ, v́ thế đặt hiệu là Chiêu Văn (Tức là Nhật Duật). Lớn lên,
nét chữ mới mất đi.
Đến năm
[Nhật Duật] 48 tuổi, bị ốm hơn 1 tháng, các con ông làm chay, xin
giảm tuổi thọ của ḿnh để kéo dài tuổi thọ cho cha. Đạo sĩ đọc sớ
xong, đứng dậy nói:
Thượng đế
xem sớ xong, cười bảo: "Sao hắn quyến luyến trần trục muốn ở lại lâu
thế, nhưng các con hắn thực ḷng hiếu thảo, cũng đáng cho. Thôi cho
thêm hai kỷ nữa".
Bệnh liền
khỏi. Sau Nhật Duật mất, thọ 77 tuổi, thế là được đủ 6 kỷ lẻ 5 năm.
[21a] Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói: Việc đaọ sĩ cầu tự, cho là đúng như thế chăng?
Th́ đạo trời xa, không thể biết được. Cho là không như thế chăng?
Th́ ḷng thành cảm hóa, xa mấy mà chẳng tới được. Song, khi đạo sĩ
rạp lạy đợi mệnh trời, có lẽ trời hiện vhiêm bao để bảo cho. Kể ra
số và lư nương tựa lẫn nhau, lư sinh ra từ số, số cũng chưa bao giờ
không sinh ra từ lư, mệnh dài ngắn là số, ḷng hiếu thành là lư. Có
người bảo rằng đạo sĩ có thể nắm tính mạng bay lên được, nhưng tôi
không tin.
Tháng 5,
trồng 500 trượng toàn cây muỗm (suốt từ bến Hồng đến đê quai vạc Cẩu
Thần).
Mùa thu,
tháng 8, nước to, vua ngự chơi Hồ Tây.
Mùa đông,
tháng 10, Vua ngự đến hành cung phủ Thiên Trường.
Bính
Th́n, [ Nguyên Phong] năm thứ 6 [1256], (Tống BẢo Hựu năm thứ 4).
Mùa xuân, tháng 2, mở khoa thi chọn kẻ sĩ. Ban cho Trần [21b] Quốc
Lặc đỗ kinh trạng nguyên; Trương Xán đỗ trại trạng nguyên; Chu Hinh
đỗ bảng nhăn; Trần Uyên đỗ thám hoa lang763 . Lấy đỗ thái học sinh
43 người (kinh 42 người, trại 1 người), xuất thân có thứ bậc khác
nhau.
Hồi quốc
sơ, cử người chưa phân kinh trại, người đỗ đầu ban cho [danh hiệu]
trạng nguyên. Đến nay, chia Thanh Hóa, Nghệ An làm trại, cho nên có
phân biệt kinh trại.
Tháng 3,
nhuận, đúc 330 quả chuông.
Mùa hạ,
tháng 5, sét đánh điện Thiên An, lại đánh cung Thái Thanh, tượng
Thiên Tôn găy mất một ngán tay.
Vét sông
Tô Lịch.
Mùa thu,
tháng 7, Vũ Thành Vương Doăn đem cả nhà trốn sang nước Tống. Thổ
quan Tư Minh là Hoàng Bính bắt lại đưa trả cho ta.
(Doăn là
con Yên Sinh Vương do Hiển Từ sinh. Yên Sinh có hiềm khích với vua,
đến khi Hiển Từ mất, bị thất thế, nên trốn sang nước Tống). Vua
thưởng vàng lụa cho Bính. Do đấy việc giữ pḥng quan ải càng thêm
nghiêm ngặt.
Đinh Tỵ,
[Nguyên Phong] năm thứ 7 [1257], (Tống Bảo Hựu năm thứ 5).Mùa xuân,
tháng 2, Hoàng Bính đem cả nhà đến cửa khuyết, dâng con gái [22a]
vào cung. Vua nhận, sách phong làm Huệ Túc phu nhân.
Mùa thu,
tháng 8, chủ trại Quy Hóa764 là Hà Khuất sai chạy trạm tâu [vua] là
có sứ Nguyên sang.
Tháng 9,
xuống chiếu, lệnh tả hữu tướng quân đem quân thủy bộ ra ngăn giữ
biên giới, theo sự tiết chế của Quốc Tuấn.
Mùa đông,
tháng 11, lệnh truyền cả nước sắm sửa vũ khí.
Tháng 12,
ngày 12, tướng Nguyên Ngột Lương Hợp Đải765 xâm phạm B́nh Lệ
Nguyên766 .
Vua thân
hành đốc chiến, xông pha tên đạn. Quan quân hơi núng, vua ngoảnh
trông tả hữu, chỉ có Lê Phụ Trần (tức Lê Trần) một ḿnh một ngựa, ra
vào trận giặc, sắc mặt b́nh thản như không.
Lúc ấy,
có người khuyên vua dừng lại767 để chỉ huy chiến đấu. Phụ Trần cố
sức can vua:
"Nay th́
bệ hạ chỉ đánh một ván dốc túi thôi! Hăy nên tạm lánh chúng, sao lại
có thể dễ dàng tin lời người ta thế!".
Bấy giờ,
vua mới lui quân đóng ở sông Lô768 . Phụ Trần giữ phía sau. Quân
giặc bắn loạn xạ, Phụ Trrần lấy ván thuyền che cho vua khỏi trúng
tên giặc.
Thế giặc
rất mạnh, [vua] lại phải lui giữ sông Thiên Mạc769 . Phụ Trần theo
vua bàn những việc cơ mật, rất ít người biết được đều đó.
[22b] Vua
ngự thuyền nhỏ đến thuyền Thái úy Nhật Hiệu hỏi kế sách (chống
giặc). Nhật Hiệu đương dựa mạn thuyền, cứ ngồi chứ không đứng dậy
nổi, chỉ lấy ngón tay chấm nước viết hai chỉ "nhập Tống"770 lên mạn
thuyền. Vua hỏi quân Tinh Cương ở đâu? (Tinh Cương là quân do Nhật
Hiệu chỉ huy). Nhật Hiệu trả lời:
"Không
gọi được chúng đến"
Vua lập
tức dời thuyền đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ, Thủ Độ trả lời:
"Đầu thần
chưa rơi xuống đất, bệ hạ đừng lo ǵ khác".
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Nhật Hiệu là đại thần cùng họ với vua. Giặc đến,
khiếp sợ, hèn nhát, không có kế sách chống giữ, lại c̣n kiếm cách
xui vua ḿnh chạy đi ở nhờ nước khác, th́ c̣n dùng hắn làm tướng làm
ǵ?
Ngày 24,
vua và Thái Tử ngự lâu thuyền, tiến quân đến Đông Bộ Đầu, đón đánh,
cả phá được quân giặc. Quân Nguyên chạy trốn về, đến trại Quy Hóa,
chủ trại là Hà Bổng chiêu tập người Man [23a] ra tập kích, lại cả
phá bọn chúng.
Khi ấy,
người Nguyên mới lấy được Vân Nam, bọn du binh771 cướp đến, không có
ư đánh chiếm, nên bây giờ người ta gọi chúng là "giặc Phật". Giặc
rút, ban cho Bồng tước hầu.
Tha tội
cho tiểu hiệu Hoàng Cự Đà.
Trước kia
có lần vua ban xoài cho những người hầu cận, Cự Đà không được ăn.
Đến khi quân Nguyên tới Đông Bộ Đầu, Cự Đà ngồi thuyền nhẹ chạy
trốn. Đến Hoàng giang772 gặp hoàng thái tử đi thuyền ngược lên, Đà
lánh sang bờ sông bên kia, thuyền chạy rất gấp. Quan quân gọi lớn:
"Quân Nguyên ở đâu".
Cự Đà trả
lởi:
"Không
biết, đi mà hỏi những người ăn xoài ấy".
Đến đây,
thái tử xin phép Cự Đà vào cực h́nh để răn những kẻ làm tôi bất
trung. Vua nói:
"Cự Đà
tội đáng giết cả họ, song đời xưa đă có chuyện Dương Châm không được
ăn thịt dê, đến nỗi làm quân nước Trịnh bị thua773 . Việc Cực Đà là
lỗi ở ta, tha cho hắn tội chết, cho phép hắn đánh giặc chuộc tội".
Khi vua
thân hành thống lĩnh sáu quân [23b] đi chống giặc, quan giữ ấn vội
vàng giấu ấn báu lên rường điện Đại Minh, chỉ đem ấn nội mật đi
theo. Giữa đường, ấn ấy lại mất. Giấy tờ trong quân không có ấn. Vua
sai thợ khắc gỗ làm ấn. Đến khi xa giá về kinh, lại có người đem
dâng con ấn bị mất, ấn báu giấu đi vẫn c̣n nguyên ở chổ cũ.
Mậu Ngọ,
[ Nguyên Phong] na8m thứ 8 [1258], (Từ tháng 3 về sau là Thánh Tông
Thiệu Long năm thứ 1, Tống Bảo Hựu năm thứ 6). Mùa xuân, tháng
giêng, ngày mồng một, vua ngự chínnh điện, cho trăm quan vào chầu.
Trăm họ yên nghiệp như cũ.
Định công
phong tước: cho Lê Phụ Trần làm Ngự sử đại phu; lại đem công chúa
Chiêu Thánh gả cho. Vua nói: "Trẫm không có khanh, th́ đâu có ngày
nay. Khanh hăy cố gắng để cùngđược trọn vẹn về sau".
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Vua tôi nhà Trần coi thường đạo vợ chồng lại thấy ở
đây [24a] lần nữa.
Sai sứ
sang thông hiếu với nhà Tống.
Sai Lê
Phụ Trần, Chu Bác Lăm sang Nguyên.
lúc này,
sứ Nguyên sang đ̣i lễ vật hằng năm, đ̣i tăng thêm tiến cống, lung
tung không định. Vua sai Lê Phụ Trần đi sứ, lấy Bác Lăm làm phó.
Cuối cùng qui định 3 năm một lần tiến cống, coi là thường lệ.
Tháng 2,
ngày 24, vua nhường ngôi cho Hoàng thái tử Hoảng, lui ở Bắc Cung.
Thái tử
lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiệu Long năm thứ 1. Đại xá.
Vua tự xưng là Nhân Hoàng, tôn thượng hoàng là Hiển Nghiêu Thánh Thọ
Thái Thượng Hoàng Đế.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Từ khi Hạ Vũ truyền ngôi cho con th́ cha chết con
nối, anh chết em thay, đă thành phép thường măi măi.
Gia pháp
họ Trần lại khác thế: con đă lớn [24b] th́ cho nối ngôi chính, c̣n
cha lui ở cung Thánh Từ, xưng là Thượng hoàng, cùng trông coi chính
sự. thực ra truyền ngôi chỉ để yên việc sau, pḥng lúc vội vàng, chứ
mọi việc đều do Thượng hoàng quyết định. Vua kế vị không khác ǵ
hoàng thái tử cả. Như vậy th́ có hợp đạo không?
Có lẽ là
lấy nghĩa quẻ Càn lui ở phương tây bắc và quẻ Chấn tiến ra phương
đông774 . Nhưng chưa đến lúc già nua th́ không được lười mỏi. Sao
bằng cứ truyền nối như Tam Vương để đúng lẽ thủy chung là hơn cả.
Mạnh Tử nói: "Theo phép của Tiên Vương mà lỗi lầm th́ chưa bao giờ
có thế".
Các quan
dâng tôn hiệu là Hiến Thiên Thể Đạo Đại Minh Quang Hiếu Hoàng đế.
Mùa thu,
tháng 8, gió to, đỉnh tháp Báo Thiên rơi xuống.
Lấy con
gái thứ năm của Yên Sinh Vương là Thiều làm Thiên Cảm phu nhân. Ít
lâu sau, phong làm hoàng hậu.
Mùa đông,
tháng 11, ngày 11, hoàng trưởng tử Khâm sinh.
Phong em
là Quang Khải làm Chiêu Minh Đại Vương.
[25a]
THÁNH TÔNG HOÀNG ĐẾ
Tên húy
là Hoảng, con trưởng ḍng đích của Thái Tông. Mẹ là Hiển Từ Thuận
Thiên hoàng thái hậu Lư thị, nhân Thái Tông chiêm bao thấy thượng đế
trao cho gươm báo, hậu có mang. Năm Canh Tư, Thiên Ứng Chính B́nh
năm thứ 9 (1240) tháng 9, ngày 25, giờ Ngọ sinh, sau đó lập làm
hoàng thái tử. Thái Tông băng775 , liền lên ngôi báu, ở ngôi 21 năm,
nhường ngôi 13 năm, thọ 51 tuổi, băng ở cung Nhân Thọ, táng ở Dụ
Lăng. Vua trung hiếu nhân thứ, tôn hiền trọng đạo, cha khai sáng
trước, con kế thừa sau, cơ nghiệp nhà Trần được bền vững vậy! Nhưng
ưu du tam muội776 , t́m dấu đạo nhất thừa777 th́ không phải phép trị
nước hay của đế vương.
Kỷ Mùi,
Thiệu Long năm thứ 2 [1259], (Tống Khai Khánh năm thứ 1). Mùa xuân,
tháng giêng, phu nhân Trần Thủ Độ là Linh Từ quốc mẫu Trần thị mất.
Trần thị
được gọi là quốc mẫu v́ đó vốn là hiệu của Ngô phu nhân trước kia,
tức là hoàng hậu [25b] Thái Tông thấy Linh Từ đă từng làm hoàng hậu
của Lư Huệ Tông, không nỡ gọi là công chúa, cho nên phong làm quốc
mẫu, cũng là biệt danh của hoàng hậu. Xe kiệu, mũ áo, quân hầu của
bà đều ngang với hoàng hậu.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Linh Từ trước lấy Lư Huệ Tông là bất chính, sau lấy
Trần Thủ Độ là thất tiết. Thế nhưng con gái bà là Chiêu Hoàng nhường
ngôi cho nhà Trần. Thuận Thiên lại là hoàng hậu của Thái Tông, sinh
ra thánh Tông. Yên Sinh Vương
có hiềm
khích với Thái Tông, Linh Từ đă điều đ́nh ḥa giải, lại t́nh nghĩa
anh em như xưa.
Đến khi
người Nguyên tắt đường vào cướp, kinh thành thất thủ, Linh Từ ở
Hoàng Giang, giữ ǵn hoàng thái tử, cung phi, công chúa và vợ con
các tướng soái thoát khỏi giặc cướp, lại khám xét thuyền các nhà
chứa giấu quân khí đều đưa dùng vào việc quân. Công của bà giúp nhà
Trần trong việc nội trị th́ nhiều mà phần báo đáp nhà Lư th́ [26a]
không được bằng. Thế mới biết trời sinh Linh Từ là để mở nghiệp nhà
Trần. Việc th́ giống như Đồ Sơn dấy nhà Hạ778 , mà đức th́ không
giống. Đạo biến của trời nhhư thế đấy, huyền vi thay!
Mùa hạ,
tháng 6, cho Nguyên Giới Huân làm Đại hành khiển, Thượng thư tả phụ,
Lê Phụ Trần làm Thủy quân đại tướng quân.
Mùa thu,
tháng 7, bái yết sơn lăng. Đặt quan sơn lăng và phong cung tần của
tiên đế để thờ phụng.
Tháng 9,
lấy ngày sinh làm tiết Hưng Thiên.
Mùa đông,
thánng 10, ngày mồng 4, Thượng hoàng ngự Bắc cung (tức cung Thánh
Từ), các quan đến chầu mừng.
Canh
Thân, [Thiệu Long] năm thứ 3 [1260], (Tống Cảnh Định năm thứ 1.
Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt 779 Trung Thống năm thứ 1). Mùa xuân,
tháng 3, ngày mồng 1 Mậu Th́n, nhật thực.
Ngày 25,
mặt trời có hai quầng, quầng bên trong có sắc vàng.
Tân Dậu,
[Thiệu Long] năm thứ 4 [1261], (Tống Cảnh Định năm thứ 2, Nguyên
Trung Tống năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 2, chọn đinh tráng các lộ làm
lính. [26b] c̣n th́ sung làm sắc dịch các sảnh, viện, cục và đội
tuyển phong các phủ, lộ, huyện.
Thi lại
viên bằng viết chử và làm tính. Người đỗ sung làm duyên lại nội lệnh
sử. Các ty thái y, thái chúc, khảo thi những người tinh thông nghề
ḿnh để bổ các chức.
Mùa hạ,
tháng 6, nhà Nguyễn sai Lễ bộ lang trung Mạnh Giáp, Viên ngoại lang
Lư Văn Tuấn, đưa thư sang dụ.
(Thư đại
lược nói: Quan liêu sĩ thứ An Nam, phàm các việc mũ áo, lễ nhạc,
phong tục đều căn cứ theo lệ cũ của nước ḿnh, không phải thay đổi.
Huống chi, nước Cao Ly mới rồi sai sứ sang xem, đă xuống chiếu cho
hết thảy đều theo lệ ấy. Ngoài ra đă răn bảo biên tướng ở Vân Nam
không được tự tiện đem quân lấn cướp nơi cương giới, quấy nhiễu nhân
dân. Quan liêu sĩ thứ nước ngươi hăy yên ổn làm ăn như cũ)780 .
Đăi yến
bọn Mạng Giáp ở cung Thán Từ.
Sai Thông
thị đại phu Trần Phụng Công, Chư vệ kư ban Nguyễn Thám, Viên ngoại
lang Nguyễn Diễn mang thư sang Nguyên thông hiếu.
Nhà
Nguyên phong vua làm An Nam Quốc Vương, ban cho 3 tấm gấm tây, 6 tấm
gấm kim thục.
Cho Chiêu
Minh Đại Vương Quang Khải làm Thái úy. Bấy giờ, anh vua [27a] là
Quốc Khang lớn tuổi hơn, nhưng tài năng tầm thường, nên phong Quang
Khải làm tướng.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Theo quy chế nhà Trần, các vương hầu đều ở phủ đệ
nơi hương ấp của ḿnh, khi chầu hầu th́ đến kinh đô, xong việc lại
về phủ đệ. Như Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp, Thủ Độ ở Quắc Hương, Quốc Chẩn
ở Chí Linh đều thế cả. Đến khi vào triều làm tể tướng, mới thống
lĩnh việc nước. Nhưng cũng chỉ nắm đại cương thôi, c̣n quyền th́
thuộc về hành khiển. Người khinh lại thành trọng, người trọng lại
thành khinh, mà không phải lo thêm một tầng công việc, cũng là có ư
bảo toàn vậy. Vả lại, như năm Đinh Tỵ đời Nguyên Phong, giặc Nguyên
sang cướp, các vương hầu cũng đem gia đồng và hướng binh thổ hào làm
quân cần vương. Trong sự biến đời Đại Định781 lại đem người thôn
trang sắm sửa nghi trượng đi đón vua, đó cũng làm vững cái thế"duy
thành"782 vậy.
[27b]
Nhâm Tuất, [ Thiệu Long] năm thứ 5 [1262] , (Tống Cảnh Định năm thứ
3, Nguyên Trung Thống năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 2, thượng hoàng
ngự đến hành cung Tức Mặc, ban tiệc lớn. Các hương lăo từ 60 tuổi
trở lên, mỗi người được ban tước hai tư783 , đàn bà được hai tấm
lụa.
Đổi hương
Tức Mặc làm phủ Thiên Trường, cung gọi là Trùng Quang. Lại xây riêng
một khu cung khác cho vua nối ngôi ngự khi về chầu, gọi là cung
Trùng Hoa. Lại làm chùa ở phía tây cung Trùng Quang gọi là chùa Phổ
Minh. Từ đó về sau, các vua nhường ngôi đều ngự ở cung này. Do đó,
đặt sắc dịch hai cung để hầu hạ, lại đặt quan lưu thủ để trông coi.
Tháng 3,
xuống chiếu cho các quân chế tạo vũ khí, chiến thuyền. Quân thủy,
lục tập trận ở chín băi phù sa sông Bạch Hạc 784 .
Mùa thu,
tháng 9, soát tù, kẻ nào khi giặc Bắc sang mà đầu hàng quân Nguyên
th́ không tha.
Chiêm
thành sang cống.
Mùa đông,
tháng 11, nước Nguyên sai bọn Mă Hợp Bộ785 10 người sang hỏi về lễ
khánh hạ.
Tháng 12,
[28a ] mưa gió to.
Quư Hợi,
[ Thiệu Long ] năm thứ 6 [1263], (Tống Cảnh Định năm thứ 4, Nguyên
Trung Thống năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, sai Điện tiền chỉ huy
sứ Phạm Cự Địa và Trần Kiều sang Nguyên. Vua Nguyên xuống chiếu ưu
đăi, cho 3 năm một lần cống.
Tháng 2,
mưa đá.
Tháng 3,
sét đánh điện Thiên An
Mùa hạ,
tháng 4, cho Lê Cư làm trại chủ Thanh Hoá
Mùa thu,
tháng 7, Thủ Độ đi tuần các nguồn sông ở Lạng Sơn.
Tháng 9,
có bệnh dịch
Mùa đông,
tháng 12, gió lớn, mưa to.
Thổ quan
phủ Tư Minh786 nước Tống là Hoành Bính dâng sản vật địa phương vàđem
1200 bộ thuộc sang quy phụ.
Giáp tư
,[ Thiệu Long] năm thứ 7 [1264], (Tống Cảnh Định năm thứ 5, Nguyên
Chí Nguyên năm thứ nhất ). Mùa xuân, tháng giêng, Thái sư Trần Thủ
Độ chết (thọ 71 tuổi), truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung Vũ Đại
Vương.
Thủ Độ
tuy không có học vấn, nhưng tài lược [28b] hơn người, làm quan triều
lư được mọi người suy tôn. Thái Tông lấy được lấy được thiên hạ đều
nhờ mưu sức của ông cả. V́ thế ông được nhà nước dựa cậy, quyền át
cả vua.
Bấy giờ
có kẻ đàn hặc ông, vào gặp Thái Tông khóc mà nói rằng :
"Bệ hạ
c̣n thơ ấu mà Thủ Độ qyuền át cả vua, xă tắc rồi sẽ ra sao"?.
Thái Tông
lập tức lệnh xe ngự đến dinh Thủ Độ, bắt cả người đàn hặc ấy đem
theo và nói hết những lời người ấy nói cho Thủ Độ biết. Thủ Độ trả
lời: "Đúng như nhữnglời hắn nói ".
Rồi lấy
ngay tiền lụa thưởng cho người ấy.
Linh từ
quốc mẫu có làn ngồi kiệu đi qua thềm cấm, bị quân hiệu ngăn lại,về
dinh khóc bảo Thủ Độ:
" Mụ này
làm vợ ông, mà bị bọn quân hiệu khinh nhờn đến thế ".
Thủ Độ
tức giận, sai đi bắt. Người quân hiệu ấy nghĩ rằng ḿnh chắc phải
chết. Khi đến nơi, Thủ Độ vặn hỏi trước mặt, người quân hiệu ấy cứ
theo sự thực trả lời. Thủ Độ nói:" Ngươi ở chức thấp mà giữ được
luật pháp, ta c̣n trách ǵ nữa ". Lấy vàng lụa thưởng cho rồi cho
về.
[29a] Thủ
Độ có lần duyệt định số hộ khẩu, quốc mẫu xin riêng cho một người
làm câu đương 787 . Thủ Độ gật đầu, rồi ghi họ tên quê quán của
người đó. Khi xét duyệt đến xă ấy, hỏi tên mỗ ở đâu, người đó mừng
rỡ bảo hắn:
"Ngươi v́
có công chúa xin cho được làm câu đương, không thể ví những câu
đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt với người
khác".
Người đó
kêu van xin thôi măi mới tha cho. Từ đó không ai dám đến thăm v́
việc riêng nữa.
Thái Tông
có lần muốn cho người anh của Thủ Độ là An Quốc làm tể tướng. Thủ Độ
tâu :
" An Quốc
là anh thần, nếu cho giỏi hơn thần th́ thần xin trí sĩ, nếu cho thần
giỏi hơn An Quốc th́ không thể cử An Quốc. Nếu anh em đều làm tể
tướng cả th́ việc triều đ́nh sẽ ra làm sao?".
Vua bèn
thôi.
Thủ Độ
tuy làm tể tướng, nhưng mọi việc không việc ǵ không để ư. V́ thế đă
giúp nên vương nghiệp và giữ được tiếng tốt cho đến lúc mất. Thái
Tông [29b]có làm bài văn bia ở sinh từ để tỏ ḷng đặc biệt quư mến
ông. Thế nhưng cái tội giết vua và thông dâm với hoàng hậu th́ khó
lẩn tránh với đời sau vậy.
Tháng 2,
sao Chổi hiện ở phương đông bắc.
Tháng 3,
lấy Khâm Thiên Đại Vương Nhật Hiệu làm Tướng quốc thái úy, nắm chung
việc nước.
Bấy giờ,
vua cho Nhật Hiệu làm Thái sư , nhưng Nhật Hiệu cố ư từ chối không
nhận v́ xấu hổ về việc viết chữ lên mạn thuyền. Vua tuy cho ông
không nhận chức Thái sư, nhưng lại ban thêm hai chữ "Tướng quốc",
thành "Tướng quốc thái uư".
Mùa thu,
tháng 7, ngày mồng 6, Thượng hoàng ban yến cho các quan ở điện Diên
Hiền. Yến chưa xong, bỗng có sao Chổi xuất hiện ở phương đông bắc,
đuôi dài suốt trời. Thượng hoàng ra xem và bảo :
" Ta xem
sao Chổi này rất sáng, mà đuôi rất dài, không phải là tai họa của
nước ta".
Lệnh cứ
dự xong yến.
Tháng 10,
mùa đông năm ấy, vua Tống băng.
719 Sau
là xă Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định cũ, nay thuộc tỉnh Nam
Hà.
720 Tức
năm 1218
721 Vùng
đất của tỉnh Bắc Ninh.
722 Vùng
đất phía tây bắc và phía nam tỉnh Hải Dương
723 Vùng
đất huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
724 Bản
chữ Hán chép Nguyên hậu, là đă nhầm chữ Quân thành chữ Hậu. Nguyên
Quân tức là vua Trần Thuận Tông, sau khi nhường ngôi cho thái tử Án
(Thiếu Đế), xưng vương là Thái Thượng Quân Hoàng Đế, thường được gọi
là Nguyên Quân. Xem BK7.
725 Chỉ
việc Trẫn Thủ Độ đă giết Huệ Tông lại lấy hoàng hậu của nhà vua
726 Tỉnh
bách: có người đọc là "tỉnh mạch". Ở Trung Quốc, từ đỡi Ngũ Đại về
sau, lấy 77 làm 100, gọi là "tỉnh bách" ( nghĩa là 100 thiếu, hay
100 bớt ).
727 Núi
Đồng Cổ: vốn ở THanh Hóa, tục gọi là núi Khả Phong. Đời Lư, các vua
cho rằng thẫn núi Đồng Cỏ đă có công giúp Thái Tông đánh thắng Chiêm
Thành, sau lại thác mộng báo cho biết âm mưu làm phản của ba vương
Vũ Đức, Đông Chinh, Dực Thánh, nên đă dựng đền thờ trong đại nội,
bên hữu chùa ThánhThọ. Hằng năm các quan phải đến thề ở đền để tỏ
ḷng trung thành với nhà vua. Nhà Trần cũng theo lệ ấy. (Xem Việt
điện u linh, xem thêm BK2)
728 Oa
Khoát Đài : hay Oát Ca Đài (đời Thanh đổi gọi là Ngạc Cách đức Y) là
phiên âm tên vua Mông Cổ Ô-gô-đây là con trai thứ ba của Thành Cát
Tư Hăn, Thiết Mộc Chân (Têmugin), lên ngôi năm 1228.
729 Trấn
binh của kinh đô, chuyên việc pḥng vệ, canh gác.
730 CMCB6
chú là chức kinh doăn, chuyên xét đoán việc kiện tụng ở kinh thành.
Thực ra, B́nh bạc ty (năm 1265 đổi thành đại an phủ sứ, sau lại đổi
thành Kinh sư đại doăn) là cơ quan hành chính và tư pháp ở kinh đô
Thăng Long lúc đó.
731 CMCB6
chú là tên hai con kênh, thuộc huyện Ngọc Sơn (nay là tỉnh Gia),
tỉnh Thanh Hóa.
732 Sau
là huyện Nam Chân, Nam Trực, tương với huyện Nam Ninh, tỉnh Hà Nam
ngày nay.
733 CMCB6
chú là thuộc huyện Đông Ngàn, nay là huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
734 Vùng
huyện Tiên Hưng cũ, nay thuộc huyện Đông Hưng, tỉnh Thái B́nh.
735 Chiêu
lang: lăng của Trần Thái Tông, Dụ lăng: lăng của Trần Thánh Tông,
Đức lăng: lăng của Trần Nhân Tông.
736 Nghi
đồng tam ty: nghĩa là nghi thức ngang với nghi thức của tam ty hay
tam công. B́nh chương sự: nghĩa là xếp đặt cho tốt đẹp, chỉ chức tể
tướng. Đồng b́nh chương sự: nghĩa là ngang với tể tướng.
737 Theo
Thiền Tông chỉ nam tự trong Khóa hư lục th́ Trần Thát Tông trốn khỏi
kinh thành vào đêm mồng 3 tháng 4 năm Bính Thân (1236) và lên đến
đỉnh Yên Tử vào ngày mồng 6 tháng 4 năm ấy. Như vậy là Toàn Thư chép
sự việc này muộn hơn một năm
738 Thuộc
hai huyện Đông Triều và Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh ngày nay.
739 CMCB6
chép là phường Thịnh Quang có ô Chợ Dừa ở phía nam Hà Nội nay thuộc
quận Đống Đa, Hà Nội.
740 Tức
tiền xét án.
741 Trại
Vĩnh An của Tống thuộc đất châu Khâm, giáp với vùng Móng Cái, Quảng
Ninh của ta. Trại Vĩnh B́nh của Tống thuộc đất châu Ung, giáp với
vùng Lộc B́nh, Lạng Sơn của ta.
742 CMCB6
chép danh sách 12 lộ là Thiên Trường, Long Hưng, Quốc Oai, Bắc
Giang, Hải Đông, Trường Yên, Kiến Xương, Hồng Khoái, Thanh Hoá,
Hoàng Giang, Diễn Châu. Danh sách này chưa hẳn đúng và đủ tên các lộ
thời Trần. An Nam chí lược của Lê Trắc đưa ra một danh sách 15 lộ,
nhưng chỉ có 6 lộ là có tên trong danh sách của Cương mục.
743 Xem
sự việc chép về năm Mậu Tư (1228) ở trên.
744 Phủ
Kiến Hưng: hay phủ Nghĩa Hưng đời Lê là gồm đất 3 huyện: Nghĩa Hưng,
Ư Yên, Vụ Bản, tỉnh Nam Hà ngày nay. Từ đời Lư đă có hành cung ở Ứng
Phong, có lẽ ở trong đất huyện Ư Yên.
745 Đê
Thanh Đàm: nay là đê Thanh Tŕ.
746 Quư
Do tức hăn Mông Cổ Guyuk. V́ các bản khắc Toàn thư bị sứt chữ hay in
không rơ, nên chữ Do ở đây dễ bị đọc nhầm thành chữ Diền (Bản dịch
cũ, tậ II, 1971, tr.20).
747 Bản
dịch cũ (tập II, 1971, tr.285) chú thích Tứ thiên là 4 vệ Thanh dực,
Tứ thần là 4 vệ Thần sách. Nhưng theo các quân hiệu được chép ở đây
th́ lại có thể nghĩ rằng: Tứ thiên là 2 vệ (tả và hữu) của quân
Thiên thuộc và 2 vệ của quân Thiên Chương; Tứ thánh là 2 vệ của quân
Thánh dực và 2 vệ của quân Chương thánh; Tứ thần là 2 vệ của quân
Thần sách và 2 vệ củ quân Củng thần. Chú ư là đời Trần chỉ thấy nói
đến các quân tả và hữu, chứ không gặp các quân tiền và hậu.
748 Vùng
tỉnh Nam Định cũ, nay thuộc tỉnh Nam Hà.
749 Gồm
phần lớn tỉnh Thái B́nh ngày nay.
750 Vùng
tây Hải Dương.
751 Vùng
nam Hưng Yên.
752 Vùng
tỉnh Ninh B́nh.
753 Vùng
nam Thái B́nh ngày nay.
754 Tức
là đội chèo thuyền, thuỷ thủ của thuyền trên.
755 Tam
khôi: là ba bậc đơ đầu gồm trạng nguyên, bảng nhăn và thám hoa.
756 CMCB6 chép là sông Bà
Mă. Nguyên văn: "Bà Lễ giang", có lẽ là sông Bà Mă và sông lễ gọi
tắt. Bà Mă tu'c sông Mă ở Thanh Hóa, c̣n sông Lễ th́ Cương mục chú
là sông Mă, nhưng có lẽ là sông Chu.
757 Núi Chiêu Bạc: Bản
dịch cũ chú có lẽ là núi Chiếu Bạch (hiện có sông Chiếu Bạch) ở
huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.
758 Nguyên văn là "quốc
gia", ngờ là bản in nhầm. V́ 'quan gia " là tiếng để gọi vua đời
Trần, thường hay gặp. Chưa có sách nào gọi vua là "quốc gia". Chúng
tôi sửa lại.
759 Nguyên văn là "trần
hợp kế đồ", có người hiểu "đồ" theo nghĩa Nôm là "đồ đạc". CMCb6
chép là "bày đồ quư báo".
760 Tức phủ Ứng Hoa đời
sau, tương ứng với các huyện Ứng Ḥa, Mỹ Đức, Chương Mỹ, Thanh Oai,
tỉnh Hà Tây ngày nay.
761 Chỉ 72 học tṛ xuất
sắc của Khổng Tử (Thất thập nhị hiền).
762 Nguyên văn chử Hán là
"quan điiền".
763 CMCB6 chú Quốc Lặc
người huyện Thanh Lâm (châu Hồng); Trương Xán người huyện Tế Giang
(lộ Bắc Giang); Trần Uyên người huyện Đường Hào (châu Hồng).
764 Trại Quy Hóa: thời
Trần gồm đất tỉnh Yên Bái, phần hữu ngạn sông Hồng và đất các huyện
sông Thao, Thanh Ḥa và Yên Lập, tỉnh Vĩnh Phú hiện nay.
765 Tên Mông Cổ là
Uy-ry-ang-kha-đai (Uriyangqadai), có sách phiên âm là Ngột Lương Hợp
Thai hay Ngột Lương Cáp Thai.
766 Có lẽ là chổ sông Cà
Lồ gặp quốc lộ số 2, tức là vùng gần Hương Canh, huyện B̀nh Xuyên
(nay là huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phú).
767 Nguyên văn: "Khuyến
đế trú dịch thị chiến". "Trú dịch" nghĩa là "ở lại dịch trạm", dùng
ở đây không phù hợp. Chúng tôi ngờ rằng đó là hai chữ "trú tất" có
nghĩa là "dừng lại", "dừng xe ngự", một kiểu nói đối với vua. Chữ
tất đă bị chép lầm thành chữ dịch do dạng chữ gần giống nhau.
768 Thời Trần, gọi đoạn
sông Hồng từ Bạch Hạc trở xuống là sông Lô.
769 Sông Thiên Mạc: theo
Cương mục là khúc sông Hồng chảy qua vùng băi Mạn Trù, nay thuộc xă
Tân Châu, huyện Châu Giang, tỉnh Hải Hưng.
770 'Nhập Tống" nghĩa là
chạy vào đất Tống. Bấy giờ nhà Tống c̣n giữ miền nam nước Tống.
771 Du binh: Cánh quân
nhỏ có nhiệm vụ tuần tra hay đột kích cũng gọi là du ky.
772 Khúc sông Hồng ở phía
trên Nam Định, khoảng ngă ba Tuần Vường.
773 Theo Tả truyện, Dương
Châm là người đánh xe cho hoa Nguyên nước Tống. Tống và trịnh sắp
đánh nhau, Hoa Nguyên làm thịt dê cho binh sĩ ăn, nhưng không cho
Dương Châm dự. Khi đánh nhau, Dương Châm nói: Thịt dê hôm trứơc là
quyền ở ngoài, đánh nhau hôm nay là việc của tôi, rối đánh xe chạy
theo quân Trịnh, nước Tống do vậy bị thua. Chữ "Trịnh" ở Toàn thư
phải sửa là chữ "Tống".
774 Trong Bát quái, quẻ
Càn chỉ cha, quẻ Chấn chỉ con trưởng.
775 Đúng ra là Thái Tông
nhường ngôi.
776Tam muội : (hay Tam ma
địa, Tam ma đế...) là phiên âm tiếng Phạn Samàdhi, có nghĩa là tập
trung tư tưởng cao độ, được coi là thiền định (dhyàna) ở bậc cao.
Theo Phật giáo, đạt được phép Tam muội th́ ĺa dứt được mọi tạp
niệm, tà đoan, tâm linh không c̣n bị xao động nữa.
777Nhất thừa : tiếng Phạn
là ekayàna, có nghĩa là "cỗ xe duy nhất". Phật giáo quan niệm giáo
pháp của ḿnh là cỗ xe duy nhất có thể chở người ta đến Nát Bàn. Ở
đây có nghĩa là giáo lư của nhà Phật.
778 Theo truyền thyết
Trung Quốc, Đại Vũ thay Cổn trị thủy, đến Đồ Sơn, gặp người con gái
biến thànnh con cáo trắng 9 đuôi, Vũ lấy người đó. Người con gái Đồ
Sơn đă giúp Vũ hoàn thành công việc trị thủy. Sau Vũ được vua Thuấn
truyền ngôi, trở thành ôn g vua đầu tiên của nhà Hạ.
779 Tên Mông Cổ là
Khu-bi-lai (Qubilai), thư tịch Trung Quốc phiên âm là Hốt Tất Liệt
hay Hốt Tất Lai. Hốt Tất Liệt lên ngôi năm 1260, miếu hiệu là Nguyên
Thế Tổ, niên hiệu là Trung Thống.
780 Đây là nội dung tóm
tắt tờ chiếu thư của Hốt Tất Liệt. Nguyên văm xem An Nam chí lược ,
quyển 2, phần Đại Nguyên chiếu thế.
781 Bản khắc Toàn thư đă
khắc nhầm chử Đại? thành chử Thiên?. Đại Định là niên hiệu của Dương
Nhật Lễ. Dương Nhật Lễ là con người phường chèo, cướp ngôi nhà Trần
(1369), các vương hầu tôn thất nhà Trần đem quân dàn các nơi đón
Trần Phủ (Trần Nghệ Tông) từ trấn Đà Giang về kinh đô giành lại ngôi
vau cho nhà Trần.
782Thi Kinh, Tiểu nhă có
câu: "Tông Tử duy thành" thường được hiểu với ư nghĩa là người tôn
thất như bức thành bảo vệ triều đ́nh, ư nói vương hầu tôn thất nhà
Trần là bức tường thành bảo vệ ngai vàng vua Trần.
783 Quan chức đời xưa,
mỗi cấp bậc chia làm nhiều tư, đủ số tư nhất định th́ thăng một cấp.
784 Nguyên văn: "Bạch Hạc
giang cửu phù sa", chưa rơ nghĩa, tạm dịch như trên.
785Mă Hợp Bộ : là phiên
âm của Mahmud (Ma-hơ-mút), một tín đồ HồI giáo làm quan cho Hốt Tất
Liệt.
786 Thuộc tỉnh Quảng Tây,
Trung Quốc.
787 Câu đương: chức dịch
trong xă, giữ việc bắt bớ, giải tống.
788 Nậu Lạt Đinh là phiên
âm từ Nu-rát-Din (Nurad-Din), một tín đồ Hồi Giáo làm quan cho nhà
Nguyên, Nguyên sử phiên âm là Nột Lạt Đinh.
789 Trước lần xâm lược
Đại Việt năm 1258, nhà Nguyên sai sứ sang doạ nạt, yêu sách. Nhà
Trần đă bắt giam bọn chúng.
790 Chỉ lần tiến quân xâm
lược Đại Việt năm 1258 của quân Nguyên do Ngột Lương Hợp Thai chỉ
huy.
791 Phả hệ của Hoàng gia
gọi là "ngọc diệp".
792 Cành vàng lá ngọc,
chỉ ḍng dơi quyền quí. Ở đây là ḍng dơi nhà vua.
793 Tức là đồ dẫn về tang
phục theo 5 bậc, ứng với quan hệ gần xa đối với người chết.
794 Nguyên sử, q.209 chép
việc này vào tháng 9 năm Chí Nguyên năm thứ 4 (1267).
795 Tức Hốt Lung Hải Nha
trong Nguyên sử, phiên âm từ tiếng M
796 Phiên âm từ tiếng
Mông Cổ U-ry-ang (Uriyang).
797 Nguyên văn chép:
"Khiển Đồng Từ Đỗ Dă Mộc như Nguyên". Có người hiểu là sai đồng tử
(tức trẻ con) tên là Đỗ Dă Mộc sang Nguyên (Bản dịch cũ q.II, 1971,
tr.42 và tr.290). Nhưng An Nam chí lược q.14, chép rơ: "Sai đại phu
Đồng Tử Dă, Đỗ Mộc Cống".
798 Lời chú Bản dịch cũ
(q.II, 1971, tr.209) ngờ rằng tên Hồi Kê ? là Hồi Cốt ?). Hồi Cốt
hay Hồi Hột, Hồi Hoạn là dân tộc Uigur ở Tân Cương. Chắn người Tống
nhận ḿnh là người Hồi Hột để tránh quân Nguyên.
799 Tức thái tử.
800 Trừ cung: cũng là
thái tử. Trừ cung giáo thụ là chức thày học của thái tử.
801 Tức nhật thực toàn
phần.
802 An Nam chí lược chép:
"...sai đại phu Lê Khắc Phục, Lê Văn Túy đi cống". Nguyên sử chép:
"...sai Lê Khắc Phục, Văn Túy vào cống". Lê Túy Kim chắc là Lê Văn
Túy.
803 Tức Kha-xa Kha-y-a
(Qasar Qaya), tên này được Hốt Tất Liệt cử làm Đạt lỗ hoa xích ở Đại
Việt từ tháng 3 năm 1275. Toàn thư chép lầm 1 năm.Yêu sách 6 điểm
của Hốt Tất Liệt là: quân trưởng phải vào chầu, con em phải làm con
tin, kê sổ hộ khẩu, thu nộp thuế má, điều động quân giúp việc binh,
đặt chức Đạt lỗ hoa xích để thống trị (Theo an Nam chí lược q.2, Đại
Nguyên chiếu chế).
804 CMCB7 chú là động Man
ở phủ lộ Bố Chính, tức vùng Quảng B́nh ngày nay.
805 Thái Tông nhà Đường
tên là Lư Thế Dân, sau khi cha là Lư Cao Tổ chết, Thế Dân đem quân
phục ở cửa Huyền Vũ, giết hai người anh là Kiến Thành và Nguyên Cát
để đoạt ngôi vua.
806 Yên Sinh: là thực
thấp của Trần Liễu, sau khi Liễu nổi loạn chống lại Trần Thái Tông.
Khi Trần Liễu chết, được truy phong tước vương, nhân đất phong mà
gọi là Yên Sinh Vương.
807 Chỉ Khổng giáo hay
Nho giáo.
808 Nguyên sử chép là Sài
Thung, hai chữ Thung và Xuân gần giống như nhau nên dễ lẫn. Trước
đây, các sứ bộ của Đại Việt và Mông Cổ đều đi qua đường Côn Minh
(Vân Nam). Lần này, bọn Sài Thung đi thằng từ Giang Lăng (Hồ Bắc),
qua Ung Châu (Quảng Tây) để vào nước ta, nên Toàn thư mới nói là đi
theo đường Hồ Quảng về nước.
809 Nguyên sử chép là
Trịnh Quốc Toản.
810 Thượng hoàng Thái
Tông và vua Thánh Tông.
811 Nhai Sơn: ở phía nam
huyện Tân Hội, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
812 Chỉ quân xâm lược
Nguyên Mông 3 lần sang đánh nước Đại Việt vào các năm 1258,1285,
1288 và đều bị thất bại.
813 An Nam chí lược và
Nguyên sử chép là: ... phong Di Ái làm An Nam Quốc Vương, Lê Mục làm
Hàn lâm học sĩ, Lê Tuân làm Thượng thư...
814 Bản dịch cũ (tập II,
1967. tr.47) in nhầm là 5.000 quân.
815 Từc Trần Di Ái
816 Có lẽ lả đạo quân
Tống lưu vong do nhà Trần thu nạp.
817 Tức Lạng Sơn.
818 Toa Đô: tên Mông Cổ
là Xôghetu (Sôgatu). Thực ra Toa Đô mang 5.000 quân đi đường thủy từ
Quảng Châu đánh Chiêm Thành từ tháng 11 năm Nhâm Ngọ (1282), c̣n kẻ
chỉ huy 50 vạn quân Nguyên xâm lược Đại Việt là Thoát Hoan và Lư Hải
Nha.
819 Tức sông Hồng.
820 Hán Dũ: tên tự là
Thối Chi, người Nam Dương, Trịnh Châu đời Đường, có tài văn thơ.
Tương truyền rằng: Khi làm quan ở Triệu Châu, thấy nơi đó có nhiều
cá sấu, Hàn Dũ làm bài văn tế cá sấu ném xuống nước, cá sấu liền bỏ
đi hết.
821 Đoạn sông Lục Đầu
chảy qua huyện Chí Linh tỉnh Hải Hưng ngày nay.
822 Vũng Trần Xá: (Trần
Xá loan), có lẽ là chổ hợp lưu hai con sông Thái B́nh và Kinh Thầy.
Chỗ này về sau vẫn c̣n xă Trần Xá.
823 Thiên tử nghĩa nam:
con nuôi của vua.
824 KHông có tên thái tử
Nguyên nào là A Thai. Cương mục q.7 cho là do sử của ta lầm. Trong
cuộc chiến tranh này, tướng chỉ huy của quân Nguyên là Thoát Hoan và
A Lư Hải Nha.
825 A Lạt: hay A Lư Hải
Nha, là phiên âm tên quan B́nh chương nhà Nguyên A-ríc Kha-y-a
(Ariq-Qaya). Toàn thư có chỗ lầm thành hai người.
826 Hồ Quảng: gồm Hồ Nam,
Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc ngày nay. Nhà Nguyên đặt Hồ
Quảng hành trung thư tỉnh, gọi tắt là hành tỉnh Hồ Quảng để thống
trị khu vực đất đai nói trên và phụ trách việc thôn tính các nước
Đông Nam Á, cũng gọi là hành tỉnh Kinh Hồ hoặc là hành tỉnh Kinh
Hồ-Chiêm Thành
827 Xă Đàn: tức Xă tắc
đàn là nơi vua chúa phong kiến tế lễ thần đất và thần mùa màng ngày
xưa, đắp bằng đất, có 2 bậc, nên gọi là "đàn".
828 Đông Bộ Đầu: tức bến
sông Hồng phía trên cầu cầu Long Biên gần dốc Hàng Than, Hà Nội ngày
nay.
829 Hành tỉnh Kinh Hồ
cũng là hành tỉnh Hồ Quảng: xem chú thích về Hồ Quảng ở BK5, 43b.
830 Theo An Nam chí lược
và Nguyên sử, Trần Phủ tức Trần Khiêm Phủ, tước trung đại phu.
831 Tên Mông Cổ là Tô-gan
(Toghan), thư tịch Trung Quốc phiêm âm là Thoát Hoan, là con của Hốt
Tất Liệt.
832 Ở đây Toàn thư nhầm,
A Lạt và A Lư Hải Nha chỉ là một người, tức Ariq-Qaya.
833 Ải Nội Bàng: vùng
Chũ, tỉnh Hà Bắc ngày nay, nơi đóng bản doanh của Hưng Đạo Vương
Trần Quốc Tuấn.
834 Ải Chi Lăng: thuộc
huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn ngày nay.
835 Vạn Kiếp: nay là vùng
Vạn Yên, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng.
836 Hải Đông: Chỉ chung
vùng Hải Dương cũ (nay thộc tỉnh Hải Hưng) và Hải Pḥng hiện nay.
837 Vân Trà, Ba Điểm: là
hai hương thuộc lộ Hải Đông bấy giờ. Hương Vân Trà hay Trà Hương là
vùng Kim Thành, tỉnh Hải Hưng ngày nay.
838 "Chuyện cũ Cối Kê":
là chuyện Câu Tiễn, vua nước Việt thời Chiến Quốc, đánh nhau với
nước Ngô, chỉ c̣n một ngàn quân lui giữ Cối Kê, mà sau đánh bại Ngô
Phù Sai, khôi phục được đất nước.
839 Hoan, Diễn: chỉ vùng
Nghệ Tỉnh ngày nay.
840 Bàng Hà: đất huyện
Thanh Hà cũ nay thuộc huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Hưng và huyện Tiên
Lăng, Hải Pḥng.
841 Na Sầm: tức Na Ngạn,
thuộc đất huyện Lục Ngàn, tỉnh Hà Bắc ngày nay.
842 Long Nhăn: nay thuộn
Yên Dũng, tỉnh Hà Bắc.
843 Dă Tượng: nghĩa là
voi rừng, Yết Kiêu: là tên loài chó săn ngắn mơm. Dùng tên thú đặt
cho người, nói lên địa vị làm "nô" thấp kém của họ. Trong cuộc kháng
chiến chống quân Nguyên đời Trần, các nô tỳ có một vai tṛ rất lớn.
844 Băi Tân: là một địa
điểm trên sông Lục Nam.
845 Bắc Giang: tức là
vùng đất tỉnh Bắc Ninh cũ, nay thuộc tỉnh Hà Bắc.
846 Ô Mă Nhi: phiên âm từ
tên Hồi giáo Omar.
847 Núi Phả Lại: tức là
núi ở xă Phả Lại, cạnh sông Lục Đầu, đối diện với thị trấn Phả Lại,
huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng.
848 Thực ra, ngày mồng 6
tháng giêng mới chỉ là ngày Ô Mă Nhi đánh vào pḥng tuyến sông B́nh
Than. Măi đến ngàu mồng 9 (14-2- 1258), sau trận thủy chiến lớn,
quân ta mới rút.
849 Vũ Ninh: sau là Vơ
Giàng, nay là huyện Quế Vơ, tỉnh Bắc Ninh.
850 Đông Ngàn: tức là
huyện Từ Sơn, nay là huyện Tiên Sơn, tỉnhBắc Ninh.
851 Thát: tức là Thát
Đát, phiên âm từ Ta-ta (Tatar hay Tarta) chỉ người Mông Cổ. Sát Thát
nghĩa là giết giặc Thát Đát.
852 Ngựa kỳ, ngựa kư: chỉ
những loại ngựa quư, ngựa tốt.
853 Hàn Tín: là tướng của
Hán Cao Tổ, muốn đánh nước Yên, theo kế của Lư Tả Xa viết thư dụ
trước, quả nhiên nước Yên đầu hàng.
854 Chích: Là một tên
cướp sừng sỏ trong truyền thuyết Trung Quốc.
855 Nghiêu: Là vị hoàng
đế lư tưởng trong truyền thuyết Trung Quốc.
856 Cánh quân do Toa Đô
chỉ huy, được lệnh từ Chiêm Thành, đánh chiếm các châu lộ phía nam
của ta, rối tiến ra bắc, phối hợp với các đạo quân của Thoát Hoan
bao vây tiêu diệt vua tôi và quân đội nhà Trần.
857 Trần Kiện vốn có hiềm
khích vơí hoàng tử Đức Việp. Khi giặc Nguyên sang, Kiện được lệnh
đóng giữ Thanh Hóa, Toa Đô tiến ra Thanh Hóa, Kiện đem bọn liêu
thuộc đầu hàng giặc.
858 Yên KInh: tức kinh đô
nhà Nguyên.
859 Lạng Giang: tức Lạng
Sơn ngày nay.
860 Trại Ma Lục: Ở Chi
L:ăng thuộc châu Lạng Giang thời đó, nay là tỉng Lạng Sơn.
861 Tam Trĩ nguyên: là
sông Ba Chẽ, ở huyện Ba Chẽ, thuộc tỉnh Quảng Ninh.
862 Ngọc Sơn: tên mũi
biển thuộc châu Vạn Ninh tỉnh Quảng Yên đời sau, gần Móng Cái, nay
thuộc tỉnh Quảng Ninh.
863 Chỉ việc Thái Tông
cướp vợ của Yên Sinh Vương Trần Liễu, thân phụ Hưng Đạo Vương.
864 Lời hào cửu tứ, quẻ
Tùy của Kinh dịch: "hữu phu, tại đạo, dĩ minh, bà cửu", nghĩa là:
"Thành thực, phải đạo, sáng suốt sử trí th́ sao có lỗi".
865 Thủy Chú: có lẽ ở vào
khoảng huyện lỵ Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh ngày nay.
866 Sông Nam Triệu: thời
bấy giờ là con sông từ ngă ba Nam Triệu nay là xă Vũ Yên, huyện Thủy
Nguyên, Hải Pḥng chảy ra biển.
867 Cửa biển Đại Bàng nay
là cửa Văn Úc thuộc huyện Kiến An, Hải Pḥng. Biển Đại Bàng là vùng
biển ngoài cửa Văn Úc.
868 Lăo Qua: tức nước Lào
ngày nay.
869 Các sử tịch Trung
Quốc đều chép là Toa Đô xuất phát từ Quảng Châu theo đường biển tiến
đánh Chiêm Thành vào tháng 11 năm Nhâm Ngọ (1282).
870 Ô Lư: tức vùng nam
tỉnh Quảng Trị và tỉnh Thừa Thiên-Huế ngày nay.
871 Châu Hoan: là vùng
Nghệ Tỉnh ngày nay, Châu Ái: là tỉnh Thanh Hóa ngày nay.
872 Tây Kết: ở ven sông
Hồng, khoảng thôn Đông Kết, xă Đông B́nh, huyện Châu Giang, tỉnh Hải
Hưng. Ngày nay, thôn này cách sông Hồng 3km, đất băi (tức băi Mạn
Trù, nay thhuộc xă Tân Châu), nhưng xưa kia sông kề thôn.
873 Hàm Tử Quan: ở xă Hàm
Tử, huyện Châu Giang, Hải Hưng bên sông Hồng.
874 Thát: tức Thát Đát,
xem chú thích 6, tr.50. Ở đây chỉ quân Tống tham gia hàng ngũ chiến
đấu của Nhật Duật.
875 Trường Yên: vùng đất
tỉnh Ninh B̀nh.
876 Chương Dương: theo
CMCB7 th́ Chương Dương là tên bến. Nay ở huyện Thường Tín, tỉnh Hà
Sơn B́nh c̣n có tên xă Chương Dương ở ven sông Hồng.
877 Sông Lô: tức sông
Hồng.
878 Phù Ninh: thuộc tỉnh
Phú Thọ. Cánh quân giặc đến Phù Ninh hẳn là cánh quân rút chạy về
Vân Nam.
879 Động Cự Đà: có lẽ
thuộc xă Tử Đà, huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú ngày nay. Theo thần
tích địa phương th́ Hà Đặc là người xă Tử Đà.
880 Đại Mang Bộ: là tên
bến trên sông Hồng, chưa rơ ở đâu.
881 Có tài liệu ghi là
Toa Đô phóng ngựa rơi xuống nước chết (An Nam chí lược), lại có tài
liệu ghi là Toa Đô chết ở sông Cầu (Nguyên sử)
882 Toa Đô xuất phát từ
Quảng Châu để đánh Chiêm Thành từ năm 1282, đến khi đánh bại, bị
chém đầu ở trận Tây Kết năm 1285, tức là đă 3 năm.
883 Phiên âm từ tiếng
Mông Cổ Kha-xa Kha-ya (Qasar - Qaya).
884 Tên MÔng Cổ là
A-gu-rúc-tri (Auruyvci).
885 Chỉ Lư Hằng và Lư
Quán bị chết trong cuộc chiến tranh 1285.
886 Quân Hán Nam: là quân
người Hán ở nam Trung Quốc, trong khu vực đất nhà Nam Tống cũ, thư
tịch Trung Quốc đời Nguyên thường gọi là quân tân phụ.
887 Tức bốn châu Nhai,
Quỳnh, Đạm, Vạn trên đảo Hải Nam.
888 Thạch: là đơn vị đo
lường thời xưa, mỗi thạch có 10 đấu.
889 Bồ Kiên: là vua tiền
Tần (một nước do tộc Đê lập nên ở bắc Trung Quốc) đem 100 vạn quân
đánh Đông Tấn (Hán tộc), bị các tướng Tấn như Tạ Thạch, Tạ Huyền
đánh tan tác trong trận Ph́ Thủy nổi tiếng. Bồ Kiên sau trận này chỉ
c̣n mười vạn tàn quân chạy trốn về Lạc Dương.
890 Theo Nguyên sử q.149,
trong lần xâm lược này có một chư vương A Thai đi theo cánh quân Vân
Nam do Ái Lỗ chỉ huy, có lẽ Toàn thư lầm ra là thái tử.
891 Ải Lănh Kinh: có lẽ
vào khoảng Đáp Cầu, trên sông Cầu (Hà Bắc), cấm quân đóng ở đây để
chặn đánh cánh quân Nguyên từ Vĩnh B́nh, Chi Lăng đánh xuống.
892 Đầy là trận chặn đánh
cánh quân thủy do Ô Mă Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy ở vùng mũi Ngọc gần
Móng Cái bây giờ.
893 Đại Than: là tên xă,
ở huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc, gần chỗ sông Đuống chảy ra sông Lục
Đầu. Cửa Đại Than tức là cửa sông Đuống.
894 Ở đây, Toàn thư đă
chép nhầm Thoát Hoan thành A Thai. Khi Thoát Hoan tiến quân đến Vạn
Kiếp, th́ cánh quân phía tây của Tŕnh Bằng Phi và cánh thủy quân
của Ô Mă Nhi, Phàn Tiếp cũng đến hội quân ở đấy.
895 Nhân Huệ Vương Trần
Khánh Dư chịu trách nhiệm giữ vùng bờ biển, không chặn nổi thủy quân
giặc, để chúng qua được cửa An Bang tiến về Vạn Kiếp. Vân Đồn nay
tức là Vân Hải, tỉnh Quảng Ninh.
896 Phủ Long Hưng: là đất
huyện Tiên Hưng cũ, nay thuộc huyện Đông Hưng, tỉnh Thái B́nh, nơi
có lăng mộ của họ Trần. Bọn Ô Mă Nhi đă khai quật lăng Trần Thái
Tông để trả thù lần thất bại trước.
897 Trận Đại Bàng là trận
thủy chiến giữa thủy quân nhà Trần với bọn Ô Mă Nhi khi bọn này đi
đón thuyền lương của Trương Văn Hổ. Cửa Đại Bàng nay là cửa Văn Úc ở
huyện Kiến An, Hải Pḥng.
898 Trại Yên Hưng: ở vùng
huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh ngày nay. Sau khi đón thuyền lương
của Trương Văn Hổ không kết quả. Ô Mă Nhi trở về Vạn Kiếp. Trên
đường về, hắn cho quân đi cướp phá một số nơi thuộc An Bang (nay
thuộc tỉnh Quảng Ninh) như trại Yên Hưng.
899 Thực ra, Áo Lỗ Xích
theo Thoát Hoan trốn thoát chứ không bị bắt.
900 Nhiều tài liệu khác
đều ghi là Tích Lê Cơ, hay Tích Lê Cơ Đại Vương. Viên tướng Mông Cổ
này tên là Tích Lê Cơ, c̣n Vương là tước hiệu. Chữ Ngọc? chép lầm từ
chữ Vương?.
901 Đoạn này có nhiều sai
lầm, đă chép lẫn lộn việc Ô Mă Nhi đi đón thuyền lương của Trương
Văn Hổ với trận phục kích đánh bọn Ô Mă Nhi khi chúng rút chạy về
nước.
902 Thoát Hoan theo đường
bộ chạy trốn, đă thoát được, chứ không bị bắt.
903 Âu vàng (kim âu): Là
biểu tượng sự toàn vẹn và vững chắc của lănh thổ một nước.
904 Trung quan: tức là
hoạn quan.
905 Thái Bá làm khanh sĩ
của nhà Chu, không có lệnh của vua nhà Chu, tự tiện sang nước Lỗ,
như vậy là tư giao (Xem Tả truyện, Lỗ An Công năm thứ nhất).
906 Thi Kinh có bài Mọc
qua, ngâm vịnh việc tặng dưa tặng mận cho nhau, ca ngợi quan hệ hữu
hảo tốt đẹp.
907 Bá thuật: là những
thủ đoạn xảo trá để đạt mục đích nhất thời, bất chấp nhân nghĩa. Đối
lập với bá thuật là vương đạo, vương chính, nghĩa là đường lối chân
chính, trọng nhân nghĩa, trọng tín lễ, làm cho người khác thực ḷng
tin phục.
908 Chỉ Lê Lợi: Trong khi
vây đánh thành Đông Quan, Lê Lợi nhiều lần viết thư dụ hàng bọn
Vương Thông, hứa sẽ cho chúng an toàn về nước. Có lần Vương Thông
định nghe theo, nhưng bọn nguỵ quan Lương Nhữ Hốt dẫn việc Hưng Đạo
Vương dùi thuyền giết tù binh, Vương Thông lại ngoan cố chống lại.
Sau khi hai cánh viện binh thất bại, Vương Thông mới chịu đầu hàng.
909 Thời Trần gọi vua là
Quan gia.
910 Thang mộc binh: Lính
hầu trong các ấp thang mộc, tức đất phong của vương hầu.
911 Sai sử hoành: nô tỳ
dùng để sai khiến.
912 Giặc Hồ ở đây chỉ
quân xâm lược Nguyên Mông.
913 Theo An Nam chí lược,
măi đến ngày 18 tháng 3 năm Nhâm Th́n (1292), Trương Lập Đạo mới tới
Khâu Ôn (Ôn Châu, Lạng Sơn).
944Yên Khang: là huyện
Yên Khánh, tỉnh Ninh B́nh.
915 Phùng Tiệp Dư, là một
cung nhân của Hán Nguyên Đế; đứng hầu Nguyên Đế xem chuồng gấu, gấu
bỗng xổng thoát, định trèo lên điện, Tiệp Dư đứng chắn trước vua,
ngăn không cho gấu đụng đến vua.
916 Theo tích Khương Hậu,
vợ Chu Tuyên Vương, Khương Hậu thấy vua hay dậy trưa, khuyên măi
không được, bèn cởi bỏ trâm hoa mà tạ tội. Tuyên Vương từ đấy chăm
chính sự, ra chầu sớm, băi chầu muộn.
917 Tức Lưu Quốc Kiệt,
Bạt Đô là phiên âm tiếng Mông Cổ (baatur), có nghĩa là "dũng sĩ".
"người dũng cảm", là danh hiệu của Lưu Quốc Kiệt.
918 Tĩnh Giang: tức là
huyện Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
919 Nguyên Thế Tổ Hốt Tất
Liệt chết ngày Quư Dậu, tháng giêng, năm Giáp Ngọ (18 tháng 2 năm
1294). Nguyên Thành Tông tức là Thiết Mộc Nhĩ (Tamur) lên ngôi, ra
lệnh băi binh đánh Đại Việt.
Ất Sửu, [ Thiệu Long] năm
thứ 8 [1265], (Tống Độ Tông Cơ, Hàm Thuần năm thứ nhất, Nguyên Chí
Nguyên năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 2, nước Chiêm Thành sai sứ [30a]
sang cống.
Tháng 3, đổi B́nh bạc ty
ở Kinh sư làm Đại an phủ sứ.
Theo chế độ trước, An phủ
sứ qua trị nhậm các lộ , đủ lệ khảo duyệt th́ vào làm An phủ sứ phủ
Thiên Trường, lại đủ lệ khảo duyệt nữa th́ bổ làm việc ở Thẩm h́nh
viện, rồi mới được làm An phủ sứ Kinh sư.
Mùa thu, tháng 7, nước
to, vỡ ở phường Cơ Xá. Người và súc vật bị chết đuối nhiều.
Đại xá.
Hoàng tử Đức Việp sinh .
Bính Dần, [Thiệu Long]năm
thứ 9 [1266], (Tống Hàm Thuần năm thứ 2, Nguyên Chí Nguyên năm thứ
3). Mùa xuân,tháng giêng, sứ thần Chiêm Thành là Bố Tin, Bố Hoằng,
Bố Đột đến cống.
Tháng 2,nhà Nguyên sai
Nậu Lạt Đinh788 sang bảo:
"Trước kia, ta đă sai sứ
sang thông hiếu, kẻ thừa hành u mê không cho sứ trở về789 do đó ta
mới có việc dụng binh năm trước790 "
Vua sai Dương An Dưỡng và
Vũ Hoàn sang Nguyên đáp lễ.
Tháng 3, mở khoa thi chọn
học tṛ, Ban đỗ kinh trạng nguyên Trần Cố, trại trạng nguyên Bạch
Liêu; bảng nhăn (khuyết tên họ); thám hoa lang Hạ Nghi; thái học
sinh [30b] 47 người, xuất thân theo thứ bậc khác nhau.
Liêu người Nghệ An, tính
thông minh nhớ lâu, đọc sách ngàn ḍng một mạch. Bấy giờ, thượng
tướng Quang Khải coi Nghệ An, Liêu làm môn khách mà không làm quan.
Tháng 2, thủy quân lộ
Đông Hải đi tuần biên giới đến núi Ô Lôi do đó biết được kỳ hạn quân
Nguyên sang xâm lược.
Mùa đông, tháng 10, xuống
chiếu cho vương hầu, công chúa, pḥ mă, cung tần chiêu tập dân phiêu
tán không có sản nghiệp làm nô tỳ để khai khẩn ruộng bỏ hoang, lập
thành điền trang.Vương hầu có trang thực bắt đầu từ đấy.
Đinh Măo, [Thiệu Long]năm
thứ 10 [1267] , (Tống Hàm Thuần năm thứ 3, Nguyên Chí Nguyên năm thứ
4). Mùa xuân, tháng 2, Chiêm Thành sang cống.
Tháng 3, định ngọc
diệp791 phái chính ḍng họ vua của vương hầu, công chúa để phong ấm,
gọi là "kim chi ngọc diệp"788 . Cháu 3 đời được phong tước hầu hay
quận vương, cháu 4 đời được ban tước minh tự , cháu đời ban tước
thượng phẩm [31a]. Tước phong theo ngũ phục đồ789 .
Mùa hạ, tháng tư, chọn
dùng nho sinh hay chữ sung vào quán, các, sảnh, viện.
Bấy giờ Đặng Kế làm Hàn
lâm viện học sĩ, Đỗ Quốc Tá làm trung thư sảnh trung thư lệnh, đều
là nho sĩ văn học.
Theo chế độ cũ, không
phải là nội nhân (hoạn quan ) th́ không được làm hành khiển, chưa
bao giờ dùng nho sĩ văn học. Bắt đầu từ đây, nho sĩ văn học mới giữ
được quyền bính.
Tháng 5, phong em là Ích
Tắc làm Chiêu Quốc Vương.
Ích Tắc là con thứ của
Thượng hoàng, thông minh hiếu học, thông hiểu lịch sử, lục nghệ, văn
chương nhất đời. Dù nghề vặt như đá cầu, đánh cờ, không nghề gh́
không thông thạo; từng mở học đường ở bên hữu phủ đệ, tập hợp văn sĩ
bốn phươngcho học tập, cấp cho ăn mặc, đào tạo thành tài như bọn Mạc
Đỉnh Chi ở Bàng Hà, Bùi Phóng ở Hồng Châu v.v . . . gồm 20 người,
đều được dùng cho đời.
Mùa thu, tháng 8, xuống
chiếu định quân ngũ, mỗi quân 30 đô, mỗi đô 80 người, [31b] chọn
người tôn thất giỏi vơ nghệ, tinh binh pháp để chỉ huy.
Phong em là Nhật Duật làm
Chiêu Văn Vương.
Bọn Dương An Dưỡng từ
nước Nguyên trở về, mang theo luôn lễ vật của vua Nguyên đáp lại794
.
Mậu Th́n, [Thiệu Long]
năm thứ 11 [1269], (Tống Hàm Thuần năm thứ 4, Nguyên Chí Nguyên năm
thứ 5 ). Mùa Xuân, tháng giêng, vua từng nói với tôn thất rằng:
"Thiên hạ là thiên hạ của
tổ tông, người nối nghiệp của tổ tông phải cùng hưởng phú quư với
anh em trong họ. Tuy bên ngoài có một người ở ngôi tôn, được cả
thiên hạ phụng sự, nhưng bên trong th́ ta với các khanh là đồng bào
ruột thịt. Lo th́ cùng lo, vui th́ cùng vui. Các khanh nên truyền
những lời này cho con cháu để chúng đừng bao giờ quên, th́ đó là
phúc muôn năm của tông miếu xă tắc ".
Đến đây, xuống chiếu cho
các vương hầu tôn thất, khi băi triều th́ vào trong điện và lan
đ́nh. Vua cùng ăn uống với họ. Hôm nào trời tối không về được th́
xếp gối dài, trải chăn rộng, kê giường liền cùng ngủ với nhau để tỏ
hết ḷng yêu quư nhau.
[32a] C̣n như trong các
lễ lớn như triều hạ, tiếp tân, yến tiệc th́ phân biệt rơ ngôi thứ,
cấp bậc cao thấp. V́ thế, các vương hầu thời ấy không ai là không
ḥa thuận, kính sợ và cũng không phạm lỗi khinh nhờn, kiêu căng.
Muà hạ, tháng 6, đại hạn.
Ngoại thích là Lư Cát
phạm tội ngồi vào ngai vua ở điện Thiên An. Khi xét hỏi trị tội thấy
hắn có chứng điên, bèn đánh trượng rồi tha.
Mùa thu,
tháng 7, nước to.
Tướng
quốc thái úy Nhật Hiệu chết, thọ 44 tuổi, truy tặng Tướng quốc thái
sư.
Mùa đông,
tháng 10, vua cùng anh là Tĩnh Quốc Đại Vương Quốc Khang cùng vui
đùa trước mặt Thượng hoàng. Thượng hoàng lúc bấy giờ mặc áo vải bông
trắng. Tĩnh Quốc múa điệu múa của người Hồ, Thượng hoàng cởi áo ban
cho Quốc Khang. Vua cũng múa điệu múa của người Hồ để xin chiếc áo
ấy. Quốc Khang nói:
"Cái quư
nhất là ngôi hoàng đế, hạ thần c̣n không tranh với chú hai. Nay đức
chí tôn ban cho thần một vật nhỏ mọn mà chú hai cũng muốn cướp lấy
chăng ?".
Thượng cả
cười nói:" Thế ra mày coi ngôi vua[32b] với cái áo xoàng này chẳng
hơn kém ǵ nhau".
Khen ngợi
hồi lâu rồi [thượng hoàng] cho Tĩnh Quốc chiếc áo ấy.Trong chỗ cha
con, anh em ḥa thuận vui vẻ như vậy đấy.
Đói to.
Kỷ Tỵ,
[Thiệu Long] năm thứ 12 [1269] , (Tống Hàm Thuần năm thứ 5, Nguyên
Chí Nguyên năm thứ 6). Mùa xuân, tháng 2, Chiêm Thành dâng voi
trắng.
Mùa hạ,
tháng 5, đất nứt, sao băng.
Tháng 6,
hạn hán. Soát tù. Có mưa. Đến tháng 7, mùa thu, dân mới cày cấy
được.
Tháng 8,
nước to.
Tháng 9,
phong Tĩnh Quốc Đại Vương Quốc Khang làm Vọng Giang phiêu kỵ đô
thượng tướng quân.
Mùa đông,
tháng 10, được mùa nhỏ.
Tháng 12,
sứ Nguyên Lung Hải Nha795 sang dụ về việc biên giới. Vua sai Lê Đà,
Đinh Củng Viên sang Nguyên.
Canh Ngọ,
[Thiệu Long] năm thứ 13 [1270], (Tống Hàm Thuần năm thứ 6, Nguyên
Chí Nguyên năm thứ 7). Mùa xuân, tháng 3, Tĩnh Quốc Đại Vương Quốc
Khang dựng phủ đệ ở Diễn Châu, hành lang, điện vũ băo quanh, tráng
lệ khác thường.Vua nghe tin ,sai người đến [33a] xem .Tĩnh Quốc sợ,
mới tạc tượng phật để đó (nay là chùa Thông).
Mùa hạ,
tháng 4, Chiêm Thành sang cống.
Mùa thu,
tháng 7, nước to. Các đường phố ở kinh đô phần nhiều phải đi lại
bằng thuyền bè.
Tháng 9
,Vua ngự đến hành cung Thiên Trường.
Tân Mùi,
[Thiệu Long] năm thứ 14 [1271], (Tống Hàm Thuần năm thứ 7, Nguyên
Chí Nguyên năm thứ 8 ). Mùa xuân, tháng giêng, soát tù.
Tháng 2,
ngày mồng 1, động đất.
Tháng 3,
phong Chiêu Minh Đại Vương Quang Khải làm Tướng quốc thái úy, nắm
giữ việc nước.
Năm ấy,
Mông Cổ đặt quốc hiệu là Đại Nguyên, sai sứ sang dụ vua vào chầu.
Vua lấy cớ có bệnh từ chối không đi.
Nhâm
Thân, [Thiệu Long] năm thứ 15 [1272], (Tống Hàm Thuần năm thứ 8,
Nguyên Chí Nguyên năm thứ 9) .Mùa Xuân, tháng giêng, Hàn lâm viện
học sĩ kiêm Quốc Sử viện giám tu Lê Văn Hưu vâng sắc chỉ soạn xong
bộ Đại việt sử kư từ Triệu Vũ [33b] đế đến Lư Chiêu Hoàng, gồm 30
quyển, dâng lên. Vua xuống chiếu khen ngợi.
Mùa hạ,
tháng 4, sứ Nguyên Ngột Lương796 sang dụ, hỏi giới hạn cột đồng cũ.
Vua sai Viên ngoại lang Lê Kính Phu đi hội khám. [Phu] trở về nói
rằng, cột đồng Mă Viện dựng lâu năm đă bị mai một, không c̣n tung
tích ǵ nữa.
Tháng 6,
ngày 23, giờ Mùi, mặt trời rung động.
Sai Đồng
Tử Dă, Đỗ Mộc sang Nguyên797 .
Mùa động,
tháng 10, xuống chiếu t́m người tài giỏi, đạo đức, thông hiểu kinh
sách làm Tư nghiệp Quốc tử giám, t́m người có thể giảng bàn ư nghĩa
của tứ thư , ngũ kinh sung vào hầu nơi vua đọc sách.
Quư dậu,
Bảo Phù năm thứ 1 [1273], (Tống Hàm Thuần năm thứ 9, Nguyên Chí
Nguyên năm thứ 10). Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, đổi niên
hiệu.
Tháng 3,
ngày 19, sét đánh 7 chỗ ngoài cửa Đại Hưng.
Mùa đông,
tháng 11, cho Nhân Túc Vương Toản làm Nhập nội phán đại tông chính
phủ đại tông chính.
[34a]
Giáp Tuất, Bảo Phù năm thứ 2 [1274], (Tống Hàm Thuần năm thứ 10,
Nguyên Chí Nguyên năm thứ 11 ). Mùa thu, tháng 7, nước to.
Mùa đông,
tháng 10, người Tống sang quy phụ.
(Trước
đó, nước Tống ở mé Giang Nam, người Nguyên thường hay lấn đánh. Đến
đây, họ đem 30 chiếc thuyền biển chở đầy của cải và vợ con, vượt
biển đến La Cát Nguyên. Đến tháng 12, dẫn về kinh, an trí ở phường
Nhai Tuân, họ tự xưng là người Hồi Kê798 . Người nưước ta gọi người
tống là kê quốc, v́ người tống có các hàng vải lụa, dược phẩm, bày
hàng mở chợ buôn bán riêng).
Tháng 12,
sách phong hoàng trưởng tử Khâm làm hoàng thái tử, lấy con gái
trưởng của Hưng Đạo Vương làm phi cho thái tử.
Chọn
người nho học có đức hạnh trong thiên hạ vào hầu Đông Cung799 .
Lấy Lê
Phụ Trần làm Thiếu sư, kiêm Trừ cung giáo thụ800 . lấy bọn Nguyễn
Thánh Huấn, Nguyễn Sĩ Cố sung Nội thị nội thị học sĩ (Phụ Trần người
Ái Châu ). Vua tự làm thơ để dạy hoàng tử và viết Di hậu lục 2
quyển.
Ất Hợi,
[Bảo Phù] năm thứ 3 [1275], (Tống Cung Đế Hiền Đức Hựu năm thứ 1,
Nguyên Chí Nguyên năm thứ 12 ). Mùa xuân, tháng 2, mở khoa thi chọn
học tṛ. [34b] Ban đỗ trạng nguyên Đào Tiêu ; bảng nhăn (khuyết họ
tên); thám hoa lang Quách Nhẫn ; thái học sinh 27 người, xuất thân
có thứ bậc khác nhau.
Hai Khoa
Bính Th́n, Bính Dần trước kia có chia kinh trạng nguyên và trại
trạng nguyên, đến nay lại hợp nhất.
Muà hạ,
tháng 6, ngày Canh Tư mồng 1, nhật thực, mặt trời bị che hết 801 .
Mùa đông,
tháng 11, tướng thần ở biên giới phía bắc chạy trạm tâu báo người
Nguyên đi tuần biên giới, xem xét địa thế.
Sai Lê
Khắc Phục và Lê Túy Kim sang Nguyên.802
Nguyên sử
q.209 cũng chép việc Đồng Tử Dă và Lê Văn Ân vào cống năm Chí Nguyên
thứ 11 (1274). Như vậy Đồng Tử Dă là tên người và được chép đúng. Ở
đây, Toàn thư đă chép lẫn lộn tên hai người. Phải sửa cho đúng là:
"Sai Đồng Tử Dă và Đỗ Mộc sang Nguyên".
Bính Tư,
[Bảo Phù] năm thứ 4 [1276], (Tống Đức Hựu năm thứ 2, từ tháng 5 về
sau là Tống Đoan Tông Cảnh ViêM năm thứ 1, Nguyên Chí Nguyên năm thứ
13 ). Mùa xuân, tháng 2, sai Đào Thế Quang sang Long châu mượn cớ đi
mua thuốc để thăm ḍ t́nh h́nh người nguyên.
Tháng 3,
mặt trời có chấm đen to bằng quả trứng gà, lay động hồi lâu. Có 2
ngôi sao đấu nhau ở giữa trời, một ngôi sa xuống.
Mùa hạ,
tháng 4, Nguyên Thế Tổ đánh Giang Nam, sai Hợp Tán Nhi Hải Nha 803
sang dụ 6 việc như điều dân, giúp quân v.v . . . Vua đều không nghe.
Mùa thu,
tháng 9, ngày 17, hoàng trưởng tôn Thuyên sinh, lập làm hoàng thái
tôn, ít lâu sau lập làm Đông cung hoàng thái tử.
Đinh Sửu,
[Bảo Phù] năm thứ 5 [1277], (Tống Cảnh Viêm năm thứ 2, Nguyên Chí
Nguyên năm thứ 14 ). Muà xuân, tháng 2, vua thân chinh đánh người
Man, Lạo ở động Nẫm Bà La804 , bắt sống bộ đảng hơn 1.000 người giải
về.
Mùa hạ,
tháng 4, ngày mồng 1 , Thượng hoàng băng ở cung Vạn Thọ
Trước đó,
Thượng hoàng đến ngự đường, bỗng thấy con rết ḅ trên áo ngự. Thượng
hoàng sợ, lấy tay phủi nó rơi đánh "keng" xuống đất, nh́n xem th́
hóa ra cái đinh sắt, đoán là điềm năm Đinh.
Lại có
lần đùa sai Minh tự Nguyễn Mặc Lăo dùng phép nghiệm quan nghiệm xem
điềm lành hay điềm dữ. Hôm sau Mặc lăo tâu : "Thấy một chiếc ḥm
vuông bốn mặt đều có [35b] chữ "nguyệt" , trên ḥm có một cái kim,
một chiếc lược".
Thượng
hoàng lại đoán: "Ḥm tức là quan tài, chữ " nguyệt" (tháng) ở bốn
bên tức là tháng 4, cái kim có thể cắm vào vật ǵ, tức là nhập vào
quan tài, chữ "sơ" là chiếc lược, đồng âm với "sơ" là xa tức là sẽ
xa rời các ngươi".
Lại lúc
ấy đương có tṛ múa rối, thường có câu : "Mau đến ngày mồng 1 thay
phiên". Thượng hoàng lại đoán : "Thế là ngày mồng 1 ta chết".
Năm
trước, có một hôm thượng hoàng chợt bảo tả hữu : "Tháng 4 sang năm
ta tất chết". Đến nay quả như vậy.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói : Điềm lành hay tai họa, chỉ có người thành tâm mới
biết trước được. V́ thế, Đại truyện trong kinh dịch có nói : "H́nh
dung sự vật th́ biết được vật thực, chiêm đoán sự vật th́ mới biết
được tương lai". Nhưng tất là phải sau khi đă suy xét trong ḷng,
nghiền ngẫm trong óc. Thái Tông biết được việc tương lai là chiêm
đoán sự vật đấy. Nhưng nếu không phải là người lư sáng, ḷng thành,
mà cứ thấy việc là phỏng đoán ṃ để rồi khẳng định, th́ chưa bao giờ
không chuốc lấy tai họa về sau .[36a]. Đó là chỗ khác nhau giữa cái
học sấm kư thuật số với cái học thánh hiền chăng?
Tháng 5,
nước to. Đất nứt sâu 7 trượng (chưa rơ chỗ nào), súc vật, tôm cá
chết nhiều.
Mùa đông,
tháng 10 ngày mồng 4, táng [thượng hoàng] ở Chiêu Lăng, miếu hiệu là
Thái Tông, tên thụy là Thống Thiên Ngự Cực Long Công Mậu Đức Hiền
Ḥa Hựu Thuận Thần Văn Thánh Vơ Nguyên Hiếu Hoàng đế.
Sử thần
ngô sĩ liên nói: Dụ Tông có thơ ca ngợi Thái Tông:
Đường
Việt khai cơ lưỡng Thái Tông
Bỉ xưng
Trinh Quán ngă Nguyên Phong.
Kiến
Thành tru tử Yên Sinh tại,
Miếu hiệu
tuy đồng đước bất đồng.
(Sáng
nghiệp Việt Đường hai Thái Tông
Kia xưng Trinh Quán, ta
Nguyên Phong
Kiến Thành805 bị giết,
Yên Sinh806 sống,
Miếu hiệu như nhau, đức
chẳng đồng).
Đức của Thái Tông sở dĩ
được thế, tuy tấm ḷng hiếu đễ bắt nguồn từ tính trời, nhưng cũng do
Linh Từ quốc mẫu điều đ́nh [B] ḥa giải. Việc cướp vợ của anh cũng
do Linh Từ và Thủ Độ. Thế là Thái Tông mắc vào tội lỗi là do người
dẫn lối, mà ẩn nhẫn để trọn nghĩa anh em cũng lại là do người dẫn
lối. Đó là v́ tuy có tư chất tốt đẹp trời phú cho, nhưng chưa có học
thức. Đến khi tuổi cao, lư lẽ sáng tỏ, đạo đức tăng tiến, th́ phải
chăng điều đó có được là từ thánh học807 ?
Hôm thượng hoàng băng,
công chúa Thiều Dương (con gái thứ của Thượng hoàng tên là Thúy )
đương ở cữ, bỗng nghe tiếng chuông liên hồi, mới hỏi: "Có thể nào
không phải là tin dữ chăng"?.
Những người hầu bên cạnh
nói dối, nhưng công chúc chúa không nghe, cứ thương khóc, kêu gào,
mắt nhắm nghiền rồi mất.
Trước đó, Thương hoàng
không khỏe. Lúc ấy công chú đă lấy thượng vị Văn Hưng hầu (khuyết
danh), công chúa nhiều lần sai người đến thăm hỏi, nhưng người hầu
cạnh đều trả lời là Thượng hoàng đă b́nh phục, không việc ǵ. Đến
khi nghe tiếng chuông, thương khóc kêu gào măi rồi mất. Người trong
nước ai cũng thương.
Bấy giờ Uy Văn Vương
[37a] Toại lấy con gái của Thượng Hhàng là công chúa Thụy Bảo. Toại
ham học, hay thơ, có câu:
Pha lạp ngũ hồ vinh bội
ấn , Tang ma tế dă thắng phong hầu. (Tơi nón năm bồ hơn giữ ấn, Dâu
giai nội vượt phong hầu ), [Toại] tự hiệu là Sầm Lâu, có Sầm Lâu tập
lưu hành ở đời.
Vua từng hỏi ông nghĩa
chữ "Quan gia". Ông đáp:
"Năm đời đế lấy thiên hạ
làm của công (quan), ba đời vương lấy thiên hạ làm của nhà (gia) nên
gọi là quan gia".
Vua khen ông kiến thức
rộng. Không may chết sớm (24 tuổi), người trong nước ai cũng thương
tiếc.
Mậu Dần, [Bảo Phù] năm
thứ 6 [1278], (Tống Cảnh Viêm năm thứ 3, từ tháng 5 về sau là Đế
Bính Tường Hưng năm thứ 1, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 15 ). Mùa xuân,
tháng 2, dân chết nhiều v́ bệnh đậu mùa.
Hồi đó, nhà dân ở kinh
thành thường bị cháy về ban đêm. Vua ra ngoại thành xem chữa cháy,
Nội thư gia Đoàn Khung đi theo. Vua sai điểm xem người nào đến chữa
cháy và kiểm xem ai đến trước . Khung ấn đầu từng người một bảo ngồi
xuống để đếm , đếm xong tâu rơ người nào đến trước , người nào đến
sau .
Vau hỏi : " Tại sao mà
biết ?".
Khung trả lời :" Thần ấn
đầu người nào mà thấy mồ hôi thấm tóc và có tro bụi bám [37b] vào
th́ đó là những người đến trước và cố sức chữa, người nào đầu tóc
không có mồ hôi mà tro bụi bay rơi là người đến sau không kịp chữa,
v́ thế mà biết ". Vua cho là giỏi , có ư cất nhắc để dùng .
( Thời Anh Tông, Khung
làm kiểm pháp quan, khi xét án , hễ Anh Tông hỏi về điển lệ cũ ,
Khung đều dẫn được án cũ làm chứng , có khi dẫn nhiều đến 5 , 6 án .
Anh Tông khen Khung thông minh nhớ lâu ).
Phong con thứ là Đức Việp
làm Tá Thiên Đại Vương .
Tháng 3, phu nhân Lê Phụ
Trần là công chúa Chiêu Thánh Lư thị mất
Công chúa lấy Phụ Trần
hơn 20 năm, sinh con trai là thượng vị hầu Tông, con gái là Ứng Thụy
công chúa Khuê. Đến nay 61 tuổi th́ mất .
Mùa hạ , lúa mất mùa.
Tháng 6, có ngôi sao lớn
sa về phương nam rơi xuống biển, hơn ngàn ngôi sao nhỏ rơi theo,
tiếng khêu như sấm đến vài khắc mới hết .
Mùa thu, tháng 8, động
đất 3 lần, nhiều súc vật chết .
Mùa đông, tháng 10, ngày
22, vua nhường ngôi cho hoàng thái tử Khâm.
[38a] Khâm lên ngôi Hoàng
đế, xưng là Hiếu Hoàng, tôn Thượng hoàng là Quang Nghiêu Từ Hiếu
Thái Thượng Hoàng Đế , tôn Thiên Cảm hoàng hậu làm Nguyên Thánh
Thiên Cảm Hoàng Thái Hậu . Bầy tôi dâng tôn hiệu là Pháp Thiên Ngực
Cực Anh Liệt Vũ Thánh Minh Nhân Hoàng Đế .
Vua Nguyên nghe tin Thái
Tông băng, có ư mưa tính nước ta, sai Lễ bộ thượng thư Sài Xuân808 (
tức Sài Trang Hương) sang ta.
Bấy giờ sứ nước ta là Lê
Khắc Phục đang trở về, gặp quân Nguyên đánh nước Tống, liền theo
đường Hồ Quảng mà về nước , Xuân cùng đi với Khắc Phục sang ta [ Nhà
Nguyên ] lấy cớ vua không xin mệnh mà tự lập, dụ bảo phải sang chầu.
Vua không nghe, sai Trịnh Đ́nh Toản, Đỗ Quốc Kế sang Nguyên. Nguyên
giữa Đ́nh Toản không cho về809 .
NHÂN TÔNG HOÀNG ĐẾ
Tên húy là Khâm, con
trưởng của Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu,
sinh năm Mậu Ngọ, Nguyên Phong năm thứ 8, tháng 11, ngày 11, được
tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất
hoàn hảo, thần khí tươi sáng. Hai cung810 đều cho là lạ, gọi là Kim
Tiên [38b] đồng tử. Trên vai bên trái có nốt ruồi đen, cho nên có
thể cáng đáng được việc lớn, ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất
gia 8 năm, thọ 51 tuổi, băng ở am Ngoạ Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở
Đức Lăng. Vua nhân từ ḥa nhă, cố
kết ḷng dân, sự nghiệp
trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần.
Song để tâm nơi kinh phật, tuy nói là để siêu thoát, nhưng đó không
phải là đạo trung dung của thánh nhân.
Kỷ Măo, [Thiệu Bảo] năm
thứ 1 [1279], (Tống Tường Hưng năm thứ 2, Nguyên Chí Nguyên năm thứ
16 ). Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, đổi niên hiệu, đại xá.
Chiêm Thành sai Chế Năng,
Tra Diệp sang cống. Bọn Chế Năng xin ở lại làm nội thần, vua không
nhận.
Lập bà phi Trần thị làm
hoàng hậu.
Người Nguyên đánh úp quân
Tống Nhai Sơn811 . Quân Tống thua, Tả thừa tướng nhà Tống là Lục Tú
Phu cơng vua Tống nhảy xuống biển chết. Hậu cung và các quan chết
theo rất nhiều. Qua 7 ngày có đến hơn 10 vạn xác chết nổi lên mặt
biển. Xác vua Tống cũng ở trong số đó. Thế là ứngv điềm sao sa xuống
biển. Năm ấy nhà Tống mất.
[39a] Sử thần Ngô Sĩ Liên
nói : Trong khoảng trời đất, chỉ có hai khí âm dương mà thôi. Người
làm vua đạt đến mức trung ḥa th́ trời đất định vị, vạn vật sinh
sôi, và hai khí cũng được điều ḥa. Nếu khí âm thịnh mà phạm bừa vào
khí dương, th́ trời đất tất xuất hiện tai biến để tỏ cho người làm
vua biết. Cho nên tai biến xuất hiện trước rồi sau đó sẽ có chứng
nghiệm ngay. Lúc bấy giờ nào nhật thực, nào mặt trời lay động, nào
đất nứt, nào mưa đá, sao sa, đều là khí âm thịnh hơn khí dương cả.
Nếu không phải là triệu chứng tôi con mưu hại vua cha th́ cũng là
điềm di địch xâm lấn Trung Quốc. Phàm người làm vua thận trọng trước
sự răn bảo của trời, lo lắng làm hết phận sự của người th́ đó là đạo
văn hồi tai biến của trời vậy. Nhà Tống đă không văn hồi được tai
biến của trời, mà nước Việt ta rồi cũng bị giặc Hồ812 xâm lấn. May
mà vua tôi cùng lo, quân dân chung sức, cuối cùng diệt trừ được giặc
Bắc và hoàn thành vơ công đại định. V́ thế mới nói: Thận trọng trước
sự răn bảo của trời, làm hết phận sự của người là cái đạo văn hồi
tai biến của trời vậy.
[39b] Mùa đông, tháng 10,
lấy ngày sinh làm tiết Thọ Thiên.
Canh Th́n, [Thiệu Bảo]
năm thứ 2 [1280], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ 17). Mùa xuân, tháng
giêng, ban thước gỗ, thước lụa cùng một kiểu.
Tháng 2, xét duyệt sổ
đinh và các sắc dịch trong nước.
Mùa đông,
tháng 10, được mùa to. Lúa ruộng ở Trà Kiều thuộc Khoái Lộ một gị 2
bông.
Em Đỗ
Khắc Chung là Đỗ Thiên Thư kiện nhau với người, t́nh lư đều trái.
Người kia đón xa giá để kêu bày. Vua hỏi quan xử kiện. [Viên quan
đó] trả lời:
" Án xử
đă xong, nhưng h́nh như quan thoái thác không chịu chuẩn định đó
thôi". Vua nói:
" Đó là
do sợ mà né tránh Khắc Chung đấy".
Lập tức,
đang trên đường đi, sai Chánh crưởng nội thư hỏa là Trần Hùng Thao
kiêm chức kiểm pháp quan để chuẩn định, th́ Thiên Thư quả thực là
trái, Quan áo xanh (tức là hoạn quan ) được làm việc kiểm pháp bắt
đầu từ Hùng Thao.
Sử Thần
Ngô Sĩ Liên nói: Người kiện có điều oan uổng mà được dễ dàng kêu
bày, h́nh quan để chậm [40a] án, không thấy có lời trách hỏi, hoạn
quan nội thần lạm cử làm pháp quan, vua làm việc này có có ba lầm
lỗi kèm theo, nhưng như vậy th́ dân t́nh được thấu lên trên. Việch
cai trị kẻ dưới thà sai để khoan thứ để cho án kiện đọng lại được xử
ngay, cũng thấy được ḷng trung hậu của vua.
Trịnh
Giác Mật ở đạo Đà Giang làm phản.
Vua sai
Chiêu Văn Vương Nhật Duật đi dụ hàng. Bấy giờ, Nhật Duật coi đạo Đà
Giang, ngầm đem quân thuộc hạ đến.
Trịnh
Giác Mật sai người đến quân doanh, bày tỏ ḷng thành:"Mật không giám
trái mệnh. Nếu ân chúa một ḿnh một ngựa đến th́ Mật xin hàng".
Nhật Duật
nhận lời, chỉ đem 5, 6 tiểu đồng cùng đi. Quân sĩ ngăn lại, Nhật
Duật nói:
"Nếu nó
giáo giở với ta th́ triều đ́nh c̣n có vương khác đến".
Khi tới
trại, người Man dàn vây mấy chục lớp và đều cầm đao thương chĩa vào
phía trong. Nhật Duật đi thẳng vào, trèo lên trại. Mật mời ông ngồi.
Nhật Duật thạo biết [40b] tiếng nói và am hiểu phong tục của nhiều
nước, cùng ăn bốc, uống bằng mũi với Mật. Người Man thích lắm. Khi
Nhật Duật trở về, Mật đem gia thuộc đến doanh trại đầu hàng. Mọi
người đều vui ḷng kính phục v́ không mất một mũi tên mà b́nh được
Đà Giang. Đến khi về kinh sư, [Nhật Duật ] đem Mật và vợ con hắn vào
chầu, vua rất khen ngợi ông. Sau đó, vua cho Mật về nhà, giữ con hắn
ở lại kinh đô. Nhật Duật mến nuôi hết ḷng, xin triều đ́nh ban tước
thượng phẩm và cho vào trông ao cá, sau cũng cũng cho về nhà.
Tân Tỵ, [
Thiệu Bảo] năm thứ 3 [1281], Nguyên Chí Nguyên năm thứ 18). Mùa
xuân, tháng giêng, ngày 29 hoàng tử Quốc Chẩn sinh.
Sai chú
họ là Trần Di Ái (tức Trần Ải) và Lê Mục, Lê Tuân sang Nguyên.
Nhà
Nguyên lập Di Ái làm Lăo hầu, cho Mục làm Hàn lâm học sĩ , Tuân làm
Thượng thư813 , lại sai Sài Xuân đem 1000 quân814 hộ tống về nước.
Xuân ngạo mạn vô lễ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh [41a].
Quân sĩ Thiên Trường ngăn lại, Xuân dùng roi ngựa quất họ bị thương
ở đầu. Đến điện Tập Hiền, thấy chăng bày màn trướng, hắn mới chịu
xuống ngựa. Vua sai Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Xuân nằm
khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong pḥng, hắn cũng không dậy
tiếp. Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán
xem Xuân làm ǵ. Lúc ấy Quốc Tuấn đă gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ
quán, ông đi thẳng vào trong pḥng. Xuân đứng dậy vái chào mời ngồi.
Mọi người đều kinh ngạc, có biết đâu gọt tóc, mặc áo vải là h́nh
dạng nhà sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn.
Người hấu của Xuân cầm cái tên đứng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu đến
chảy máu, nhưng sắc mặt Quốc Tuấn vẫn không hề thay đổi. Khi trở về,
Xuân ra cửa tiễn ông.
Lập nhà
học ở phủ Thiên Trường, cấm người hương Thiên Thuộc không được vào
học. (Lệ cũ nhà Trần, quân sĩ Thiên Thuộc không được học tập văn
chương nghệ thuật v́ sợ khí lực kém đi).
[41b]
Nhâm Ngọ, [ Thiệu Bảo] năm thứ 4 [1282], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ
19). Mùa xuân, tháng 2, Chiêm Thành sai bọn bọn Bố Bà Ma Các một
trăm người sang dâng voi trắng.
Mùa hạ,
tháng 4, bọn Trần Di Ái đi sứ về nước.
Tháng 6,
trị tội bọn phán thủ Trần Ải815 . Ải phải đồ làm khao giáp binh
Thiên Trường, Lê Tuân phải đồ làm Tống binh816 .
Mùa thu,
tháng 8, thú thần Lạng Châu817 , là Lương Uất chạy trạm tâu báo
rằng, Hữu thừa tướng Nguyên là Toa Đô đem 50 vạn quân, nói phao là
mượn đường đi đánh Chiêm Thành, nhưng thực ra là sang xâm lược nước
ta818 .
Bấy giờ
có cá sấu đến sông Lô819 . Vua sai H́nh bộ thượng thư Nguyễn Thuyên
làm bài văn ném xuống sông, cá sấu bỏ đi. Vua cho việc này giống như
việc của Hàn Dũ820 , bèn ban gọi là Hàn Thuyên. Thuyên lại giỏi làm
thơ phú quốc ngũ. Thơ phú nước ta dùng nhiều quốc ngữ, thực bắt đầu
từ đấy.
Mùa đông,
tháng 10, vua ngự ra B́nh Than821 đóng ở vũng Trần Xá822 họp vương
hầu và trăm quan, bàn kế sách công thủ và chia nhau đóng giữ [42a]
những nơi hiểm yếu.
Lấy Nhân
Huệ Vương Trần Khánh Dư làm Phó đô tướng quân.
Lần
trước, quân Nguyên vào cướp, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư nhân sơ hở
đánh úp quân giặc. Thượng hoàng khen ông có trí lược, lập làm Thiên
tử nghĩa nam823 . Sau đó, đánh người Man ở vùng núi, thắng lớn, được
phong làm Phiêu Kỵ đại tướng quân. Chức Phiêu Kỵ tướng quân nếu
không phải là hoàng tử th́ không được phong. V́ Khánh Dư là Thiên tử
nghĩa nam cho nên mới có lệnh đó. Rồi từ trật hầu thăng măi đến tử
phục thượng vị hầu, quyền chức phán thủ. Sau Khánh Dư thông dâm với
công chúa Thiên Thuỵ.
Bấy giờ
Hưng Vũ Vương Nghiễn v́ là con trai Quốc Tuấn, được lấy công chúa
Thiên Thuỵ, lại công đánh giặc. Vua sợ phật ư Quốc Tuấn, mới sai
người đánh chết Khánh Dư ở Hồ Tây, nhưng lai dặn chớ đánh đau quá,
để không đến nỗi chết. Ít lâu sau xuống chiếu đoạt hết quan tước,
quân tịch thu tài sản không để lại cho một chút ǵ. Châu Chí Linh
vốn là của riêng của Thượng tướng Trần Phó Duyệt, nên Khánh Dư mới
giữ lại được. Khánh Dư lui về ở [42b] Chí Linh, cùng bọn hèn hạ làm
nghề bán than.
Lúc đó,
thuyền vua đỗ ở bến B́nh Than, nước triều rút, gió thổi mạnh, có
chiếc thuyền lớn chở than củi, người lái thuyền đội nón lá, mặc áo
ngắn. Vua chỉ và bảo quan thị thần:
" Người
kia chẳng phải là Nhân Huệ Vương đó sao?".
Lập tức
sai người chèo thuyền nhỏ đuổi theo. Đến cửa Đại Than th́ kịp. Quân
hiệu gọi:
"Ông lái
ơi, có lệnh vua triệu".
Khánh Dư
trả lời:"Lăo là người buôn bán, có việc ǵ mà phải triệu".
Quân hiệu
trở về tâu thực như thế. Vua bảo:
"Đúng là
Nhân Huệ đấy, ta biết người thường tất không dám nói thế". Vua lại
sai nội thị đi gọi. Khánh Dư mặc áo ngắn, đội nón lá [đến gặp vua].
Vua nói:
" Nam nhi
mà đến nỗi này th́ thực là cùngcực rồi", bèn xuống chiếu tha tội cho
ông. Khánh Dư lên thuyền lạy tạ. Vua ban cho áo ngự, cho ngồi các
hàng dưới các vương, trên các công hầu, cùng bàn việc nước, nhiều
điều hợp ư vua.
Đến đây,
tháng 10, lại cho Khánh Dư làm Phó tướng quân. Nhưng rốt cuộc Khánh
Dư cũng không sửa đổi được những lỗi lầm cũ.
[43a] Lại
khi ấy, vua thấy Hoài Văn Hầu Quốc Toản, Hoài Nhân Vương Kiện đều
c̣n trẻ tuổi, không cho dự bàn. Quốc Toản trong ḷng hổ thẹn, phẫn
kích, tay cầm quả cam, bóp nát lúc nào không biết. Sau đó [Quốc
Toản] lui về, huy động hơn ngh́n gia nô và thân thuộc, sắm vũ khí,
đóng chiến thuyền, viết lên cờ 6 chữ :"Phá cường địch, báo hoàng ân"
(phá giặc mạnh, báo ơn vua). Sau này, khi đối trận với giặc, tự ḿnh
xông lên trước quân sĩ, giặc trông thấy phải lui tránh, không giám
đối địch. Đến khi mất, vua rất thương tiếc, thân làm văn tế, lại gia
phong tước vương.
Lấy Thái
úy Quang khải làm Thượng tướng thái sư, Đinh Củng Viên làm Hàn lâm
viện học sĩ phụng chỉ.
Quư Mùi,
[ Thiệu Bảo] năm thứ 5 [1283], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ 20). Mùa
xuân, tháng giêng, Tĩnh Quốc Đại Vương Quốc Khang dâng rùa vàng,
h́nh dáng như con trai lớn, trên lưng có 7 ngôi sao, ngực có chữ
"nhũng" bụng có chữ "Vương".
Tháng 2,
[42b] trị tội thượng vị hầu Trần Lăo, cho Lăo chuộc tội 1.000 quan
tiền, đồ làm lính, lăng tŕ tên Khoáng là gia nô của Lăo ở chợ Đông,
v́ tội làm thư nặc danh phỉ báng nhà nước.
Mưa đá
lớn.
Mùa hạ,
tháng 6, cá hồ Thủy Tinh chết.
Mùa thu,
tháng 7, sai trung phẩm Hoàng Ư Lệnh, nội thư gia Nguyễn Chương sang
Nguyên, gặp thái tử A Thai824 , B́nh Chương A Lạt825 , ở Hồ Quảng826
, hội 50 vạn quân ở các xứ định sang năm vào cướp nước ta.
Mùa đông,
tháng 10, vua thân hành dẫn các vương hầu điều quân thủy bộ tập
trận.
Tiến
phong Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh
quân đội toàn quốc, sai chọn các quân hiệu có tài chỉ huy, chia đi
nắm giữ các đơn vị.
Giáp
Thân, [Thiệu Bảo] năm thứ 6 [1284], Nguyên Chí Nguyên năm thứ 21).
Mùa xuân, tháng giêng, vét sông Tô Lịch.
Tháng 2,
đất ở Xă [44a] đàn827 nứt ra, dài 7 thước, rộng 4 tấc, sâu không thể
lường.
Mùa thu,
tháng 8, Hưng Đạo Vương điều các quân của vương hầu, duyệt binh lớn
ở Đông Bộ Đầu828 , chia các quân đóng giữ B́nh Than và những nơi
xung yếu khác.
Tháng 9,
ngày mồng 4, mặt trăng và sao Kim mọc ban ngày ở phương Tây Nam chỉ
cách nhau độ 1 thước .
Mùa đông,
tháng 11, sai Trần Phủ sang hành tỉnh Kinh Hồ829 , nước Nguyên xin
hoăn binh830 .
Tháng 12,
Trần Phủ từ Nguyên trở về, tâu rằng vua Nguyên sai bọn thái tử Trấn
Nam Vương Thoát Hoan831 , B́nh Chương A Lạt và A Lư Hải Nha832 đem
quân lấy cớ mượn đường đi đánh Chiêm Thành, chia đường vào cướp nước
ta.
Thượng
hoàng triệu phụ lăo trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng, ban yến và
hỏi kế đánh giặc. Các phụ lăo điều nói "đánh", muôn người cùng hô
một tiếng, như bật ra từ một cửa miệng.
Sử Thần
Ngô Sĩ Liên nói: Giặc Hồ vào cướp nước là nạn lớn nhất của đất nước.
Hai vua hiệp mưu, [44b] bầy tôi họp bàn há lại không có kế sách ǵ
chống giặc mà phải đợi đến ban yến hỏi kế ở các phụ lăo hay sao? Là
v́ Thánh Tông muốn làm thế để xét ḷng thành ủng hộ của dân chúng,
để dân chúng nghe theo lời dụ hỏi mà cảm kích hăng hái lên thôi. Đó
là giữ được cái nghĩa người xưa nuôi người già để xin lời hay vậy.
Ngày 26,
giặc đánh vào các ải Vĩn Châu, Nội Bàng833 , Thiết Lược, Chi Lăng834
, Quan quân đánh bất lợi lui về đóng ở bến Vạn Kiếp835 .
Lúc đó,
vua ngự thuyền nhẹ ra Hải Đông836 , chiều rồi mà vẫn chưa ăn cơm
sáng. Có người lính là Trần Lai dâng cơm gạo xấu, vua khen là trung,
ban cho chức thượng phẩm , kiêm chức tiểu tư xă xă Hữu Triều Môn ở
Bạch Đằng.
Hưng Đạo
Vương vâng mệnh điều quân dân các lộ Hải Đông, Vân Trà, Ba Điểm837 ,
chọn những người dũng cảm làm tiền phong, vượt biển vào Nam, thế
quân lên dần. Các quân thấy vậy, không đạo quân nào mà không tới tập
hợp. Vua làm thơ đề ở [45a] đuôi thuyền rằng:
Cối kK
cựu sự quân tu kư, Hoan Diễn do tồn thập vạn binh. ( Cối Kê838
chuyện cũ người lên nhớ, Hoan Diễn839 c̣n kia chục vạn quân) Hưng Vũ
Vương Nghiễn, Minh Hiến Vương Uất, Hưng Nhượng Vương Tảng, Hưng Trí
Vương Hiện đốc suất 20 vạn quân các xứ Bàng Hà840 , Na Sầm841 , Trà
Hương, Yên Sinh, Long Nhăn842 đến hội ở Vạn Kiếp, theo quyền điều
khiển của Hung Đạo Vương để chống quân Nguyên.
Trước
đây, Hưng Đạo Vương có người nô là Dă Tượngvà Yết Kiêu843 , đối xử
rất hậu. Khi quân Nguyên tới, Yết Kiêu giữ thuyền ở Băi Tân844 , Dă
Tượng th́ đi theo. Đến lúc quan quân thu trận, thuỷ quân tan cả.
[Hưng Đạo] Vương định rút theo lối chân núi. Dă Tượng nói:
"Yết Kiêu
chưa thấy Đại Vương th́ nhất định không dời thuyền".
Vương đến
Băi Tân, chỉ có thuyền Yết Kiêu vẫn c̣n ở đó. Vương mừng lắm, nói :
"Chim
hồng hộc muốn bay cao phải nhờ ở sáu trụ cánh. Nếu không có sáu
chiếc trụ cánh ấy th́ cũng chim thường thôi".
Nói xong
cho chèo thuyền đi, Kỵ binh giặc đuổi theo không kịp. Vương đến Vạn
Kiếp, chia quân đón giữ ở Bắc [45b] Giang833 .
Sai Hàn
lâm [viện] phụng chỉ Đinh Củng Viên quyền coi việc Bắc cung Nội sát
viện.
Ất Dậu,
[Thiệu Bảo] năm thứ 7 [1285], (từ tháng 9 về sau là Trùng Hưng năm
thứ nhất, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 22). Mùa xuân, tháng giêng, ngày
mồng 6, tướng Ô Mă Nhi846 đánh vào các xứ Vạn Kiếp và núi Phả Lại847
,
quan quân
vỡ chạy848 .
Ngày 12,
giặc đánh vào Gia Lâm, Vũ Ninh849 , Đông Ngàn850 , bắt được quân của
ta, thấy người nào cũng thích hai chữ "Sát Thát"851 bằng mực vào
cánh tay, chúng tức lắm, giết hại rất nhiều. Rồi chúng đến Đông Bộ
Đầu, dựng một lá cờ lớn:
Vua muốn
sai người ḍ xét t́nh h́nh giặc mà chưa t́m được ai. Chi hậu cục thủ
Đỗ Khắc Chung tiến lên tâu rằng:
"Thần hèn
mọn bất tài, nhưng xin được đi".
Vua mừng,
nói rằng:
"Ngờ đâu
trong đám ngựa xe kéo xe muối lại có ngựa kỳ, ngựa kư như thế!"852
Rồi sai
đem thư xin giảng hoà.
Ô Mă Nhi
hỏi [ Chung]:
"Quốc
Vương ngươi vô lễ, sai người thích chữ "Sát Thát", khinh nhờn thiên
binh, lỗi ấy to lắm".
Khắc
Chung đáp:
"Chó nhà
cắn người lạ không phải [46a] tại chủ nó. V́ ḷng trung phẫn mà họ
tự thích chữ thôi, Quốc Vương tôi không biết việc đó. Tôi là cận
thần, tại sao lại không có?".
Nói rồi
giơ cánh tay cho xem. Ô Mă Nhi nói:
"Đại quân
từ xa tới, nước ngươi sao không quay giáo đến hội kiến, lại c̣n
chống lệnh. Càng bọ ngựa cản bánh xe liệu sẽ ra sao?".
Khắc
Chung nói :
" Hiền
tướng không theo cái phương sách Hàn Tín b́nh nước Yên 853 , đóng
quân ở đầu biên giới, đưa thư tin trước, nếu không thông hiếu th́
mới là có lỗi. Nay lại bức nhau, người ta nói thú cùng th́ chống
lại, chim cùng th́ mổ lại, huống chi là người".
Ô Mă Nhi
nói:
"Đại quân
mượn đường để đi đánh Chiêm Thành, Quốc Vương ngươi nếu đến hội kiến
th́ trong cơi yên ổn, không bị xâm phạm mảy may. Nếu cứ chấp nê th́
trong khoảnh khắc núi sông sẽ thành đất bằng, vua tôi sẽ thành cỏ
nát".
Khắc
Chung về rồi, Ô Mă Nhi bảo các tướng rằng:
"Người
này ở vào lúc bị uy hiếp [46b] mà lời lẽ tự nhiên, không hạ chủ nó
xướng là Chích854 , không nịnh ta lên là Nghiêu855 , mà chỉ nói "Chó
nhà cắn người"; giỏi ứng đối. Có thể nói là không nhục mệnh vua.
Nước nó c̣n có người giỏi, chưa dễ mưu tính được".
Sai người
đuổi theo Khắc Chung nhưng không kịp.
Ngày 13,
giờ măo, Khắc Chung từ chỗ quân Nguyên trở về. Giặc đuổi đến, đánh
nhau với quan quân.
Ngày 28,
Hưng Đạo Vương bàn xin Thượng tướng thái sư Quang Khải chặn đánh
cánh quân của Nguyên soái Toa Đô ở Nghệ An856 .
Tháng 2,
ngày Giáp Th́n mồng 1, con thứ của Tĩnh Quốc Đại Vương Quốc Khang là
thượng vị Chương Hiến hầu [Trần] Kiện và liêu thuộc là bọn Lê Trắc
đem cả quân đầu hàng quân Nguyên857 .
Toa Đô
sai đưa bọn Kiện về Yên Kinh858 . Thổ hào Lạng Giang859 là bọn
Nguyễn Thế Lộc, Nguyễn Lĩnh, tập kích ở trại Ma Lục860 . Gia nô của
Hưng Đạo Vương là Nguyễn Điạ Lô bắn chết Kiện. Trắc đưa xác Kiện lên
ngựa, trốn đi đêm, chạy được vài chục dặm, tới Khâu Ôn [47a] chôn
Kiện tại đó.
Sai người
đưa công chúa An Tư (em gái út của Thánh Tông) đến cho Thoát Hoan,
là muốn làm thư giăn loạn nước vậy.
Bảo Nghĩa
Vương Trần B́nh Trọng (Vương là ḍng dơi Lê Đại Hành, chồng sau của
công chúa Thuỵ Bảo, ông cha làm quan đời Thái Tông, được ban quốc
tính) đánh nhau với giặc ở băi Đà Mạc, nay là băi Mạn Trù) bị chết.
Khi bị
bắt, Vương không chịu ăn, giặc hỏi việc nước, Vương không trả lời,
giặc hỏi Vương:" Có muốn làm vương đất Bắc không?".
Vương
thét to:"Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất bắc",
rồi bị giết.
Thế giặc
bức bách, hai vua ngầm đi chiếc thuyền nhỏ đến Tam Trĩ nguyên861 ,
sai người đưa thuyền ngự ra Ngọc Sơn862 để đánh lừa giặc.
Lúc ấy,
xa giá nhà vua phiêu giạt, mà Quốc Tuấn vốn có kỳ tài, lại c̣n mối
hiềm cũ của Yên Sinh Vương854 , nên có nhiều người nghi ngại. Quốc
Tuấn theo vua, tay cầm chiếc gậy có bịt sắt nhọn. Mọi
người
điếu gườm mắt nh́n. Quốc Tuấn liền rút đầu sắt nhọn vứt đi chỉ chống
gậy không mà đi, c̣n nhiều việc đại loại như thế.
[47b] Sử
Thần Ngô sĩ Liên nói: Bậc đại thần ở vào hoàn cảnh bị hiềm nghi nguy
hiểm, tất phải thành thực tin nhau, sáng suốt khéo xử, như hào cửu
tứ của quẻ Tuỳ864 th́ mới có thể giữ tṛn danh dự, làm nên sự
nghiệp. Nếu không thế th́ nhất định sẽ mang tai họa. QuáchTử Nghi
nhà Đường, Trần QuốcTuấn nhà Trần đă làm được như vậy.
Tháng3,
ngày Giáp Tuất, mồng 1 hai vua bỏ thuyền đi bộ đến Thuỷ Chú865 . Lấy
thuyền ra sông Nam Triệu866 (tức huyện Thuỷ Đường) vượt biển Đại
Bàng867 vào Thanh Hóa.
Thượng vị
Văn Chiêu hầu [Trần ] Lộng đầu hàng Thoát Hoan. Kế đó, Chiêu Quốc
Vương Trần Ích Tắc và bọn Phạm Cự Địa, Lê Diễn, Trịnh Long đem gia
thuộc đầu hàng quân Nguyên.
Trước
kia, khi Ích Tắc chưa sinh. Thái Tông mộng thấy thần nhân ba mắt từ
trên trời xuống nói với Thái Tông:
" Thần bị
thượng đế quở trách, xin thác sinh là con vua, sau lại trở về phương
Bắc".
Đến khi
Ích Tắc sinh, giữa trán có vài vết lờ mờ như h́nh con bắt, [48a]
h́nh dáng giống hệt người trong mộng. Đến 15 tuổi, thông minh hơn
người, làu thông kinh sử và các thuật, vẫn c̣n có ư tranh đoạt ngôi
trưởng đích. Ích Tắc đă từng gửi thư riêng cho khách buôn ở Vân Đồn
xin quân Nguyên xuống nam. Đến nay, người Nguyên vào cướp, Ích Tắc
xin hàng chúng để mong được làm vua. Người Nguyên phong làm An Nam
Quốc Vương. Sau khi quân Nguyên thất bại, Ích Tắc trong ḷng hổ
thẹn, chết ở đất Bắc.
Nguyên
soái Toa Đô đem 50 vạn quân từ Vân Nam qua nước Lăo Qua868 , thẳng
đến Chiêm Thành869 , hội với quân Nguyên ở Châu Ô Lư870 rôi cướp
châu Hoan, châu Ái871 , tiến đóng ở Tây Kết872 , hẹn trong ba năm sẽ
san phẳng nước ta.
Vua bàn
với bầy tôi rằng: "Bọn giặc nhiều năm phải đi xa, lương thảo chuyên
chở hàng vạn dặm, thế tất mỏi mệt. Lấy nhàn chống mệt, trước hết hăy
làm chúng nhụt chí, th́ ắt là đánh bại được chúng".
Mùa hạ,
tháng 4, vua sai bọn Chiêu Thành Vương (khuyết danh), Hoài Văn hầu
Quốc Toản, tướng quân Nguyễn Khoái đem tiệp binh đón đánh giặc [48b]
ở bến Tây Kết.
Quan quân
giao chiến với quân Nguyên ở Hàm Tử Quan873 . Các quân đều có mặt.
Riêng quân của Chiêu Văn Vương Nhật Duật có cả người Tống, mặc quần
áo Tống, cầm cung tên chiến đấu. Thượng
hoàng sợ
các quân có thể không phân biệt được, sai người dụ rằng:"Đó là quân
Thát874 của Chiêu Văn đấy, phải nhận kỹ chúng".
V́ người
Tống và người Thát, tiếng nói và y phục giống nhau. Quân Nguyên
trông thấy [quân Tống] đều rất kinh hăi, bảo nhau là người Tống sang
giúp, v́ thế thua chạy. Trước kia, nhà Tống mất, nhiều người Tống
theo ta, Nhật Duật thu nạp họ, có Triệu Trung làm gia tướng. Cho nên
chiến công đánh bại giặc Nguyên, Nhật Duật lập được nhiều hơn cả.
Tháng 5,
ngày mồng 3, hai vua đánh bại giặc ở phủ Trường Yên875 , chém đầu
cắt tai giặc nhiều không kể xiết.
Ngày mồng
7, thám tử báo tin: Toa Đô từ Thanh Hoá tới.
Ngày mồng
10, có người từ chỗ giặc trốn về đến ngự doanh tâu báo:
Thượng
tướng Quang Khải, Hoài Văn Hầu Quốc Toản và Trần Thông, Nguyễn Khả
Lạp cùng [49a] em là Nguyễn Truyền đem dân binh các lộ đánh bại quân
giặc ở các xứ Kinh Thành, Chương Dương876 . Quân giặc tan vỡ lớn.
Bọn thái tử Thoát Hoan, B́nh chương A Lạt rút chạy qua sông Lô877 .
Ngày 15,
hai vua bái yết các lăng ở Long Hưng.
Ngày 17,
Toa Đô và Ô Mă Nhi lại từ biển đánh vào sông Thiên Mạc, muốn hội
quân ở Kinh sư, để chi viện cho nhau.
Du binh
giặc đến huyện Phù Ninh878 , viên phụ đạo huyện ấy là Hà Đặc lên núi
Trĩ Sơn cố thủ. Giặc đóng ở động Cự Đà879 . Hà Đặc lấy tre đan thành
những h́nh người to lớn, cho mặc áo, cứ đến chiều tối th́ dẫn ra dẫn
vào. Lại dùi thủng cây to, cắm tên người lớn vào giữa lỗ để giặc ngờ
là sức bắn khoẻ xuyên suốt được. Giặc sợ không dám đánh nhau với
Đặc. Quân ta hăng hái xông ra đánh bại được giặc. Đặc đuổi đánh đến
A Lạp, bắc cầu phao qua sông, hăng đánh quá bị tử trận. Em là Chương
bị giặc bắt, lấy trộm được cờ xí , y phục của giặc trốn về, đem
[49b] dâng lên, xin dùng cờ ấy giả làm quân giặc, đến doanh trại
giặc. Giặc không ngờ là quân ta, do vậy ta cản phá được chúng.
Ngày 20,
hai vua tiến đóng ở Đại Mang Bộ880 . Tổng quản giặc Nguyên là Trương
Hiển đầu hàng. Hôm đó, ta đánh bại giặc ở Tây Kết, giết và làm bị
thương rất nhiều, chém đầu Nguyên Soái Toa Đô881 . Nửa đêm Ô Mă Nhi
trốn qua cửa sông Thanh Hoá, hai vua đuổi theo nhưng không kịp bắt
được hơn 5 vạn dư đảng giặc đem về, Ô Mă Nhi chỉ c̣n một chiếc
thuyền vượt biển trốn thoát.
Hưng Đạo
Vương lại giao chiến với Thoát Hoan và Lư Hằng ở Vạn Kiếp, đánh bại
được, giặc chết đuối rất nhiều. Lư Hằng đem quân hộ vệ Thoát Hoan
chạy về Tư Minh. Quân ta lấy tên tẩm thuốc độc bắn trúng đầu gối bên
trái của Hằng, Hằng chết. Tỳ tướng Lư Quán thu nhặt 5 vạn quân c̣n
lại, giấu Thoát Hoan vào một đồ đồng, chạy chốn về Bắc. Đến Tư Minh,
Hưng Vũ Vương đuổi kịp, dùng tên tẩm thuốc độc bắn trúng Lư Quán,
Quán chết. Quân Nguyên [50a] tan vỡ lớn.
Vua trông
thấy thủ cấp của Toa Đô, thương hại nói: "Người làm tôi phải nên như
thế này".
Rồi cởi
áo ngự, sai quân đem liệm chôn, nhưng ngầm sai lấy đầu Toa Đô đem
tẩm dầu để răn, v́ cớ Toa Đô mượn đường vào cướp nước ta đă ba năm
vậy882 .
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Than ôi! Câu nói ấy của vua thực là câu nói của bậc
đế vương ! Nói rơ đại nghĩa để người bề tôi muôn đời biết rằng trung
với vua, chết v́ phận sự là vinh, tuy chết mà bất hủ, mối quan hệ
lớn lắm vậy. Huống chi lại cởi áo ngự, sai người liệm chôn nữa. Làm
vậy có thể khích lệ sĩ khí để trừ giặc mạnh là phải lắm.
Tháng 6,
ngày mồng 6, hai vua trở về kinh sư, Thượng tướng Quang Khải làm thơ
rằng:
Đoạt sáo
Chương Dương độ, Cầm hồ Hàm Tử quan. Thái b́nh tu trí lực, Vạn cổ
thử giang san. (Bến Chương Dương cướp giáo. Cửa Hàm tử bắt thù. Thái
b́nh nên gắng sức, Non nước cũ muôn thu). [59b] Ngày hôm ấy nước to.
Sai Trung
phẩm phụng ngự Đặng Du Chi đưa bọn tề thần của Chiêm Thành là Bà
Lậu, Kê Na Liên 30 người về nước, v́ đi theo Toa Đô nên bị bắt.
Mùa thu,
tháng 8, sai Tả bộc xạ Lưu Cương Giới tuyên phong công thần theo thứ
bậc khác nhau và trị tội những kẻ hàng giặc.
Tháng 9,
đổi niên hiệu là Trùng Hưng năm thứ 1. Đại xá
Bia chùa
Bảo Thiên găy làm đôi. Núi Cảo Sơn lở.
Ngày 12,
gia tôn huy hiệu cho các tiên đế và tiên hậu
Mùa đông,
tháng 10, xuống chiếu định hộ khẩu trong nước. Triều thần can là dân
vừa lao khổ, định hộ khẩu thực không phải là việc cần kíp. Vua nói.
"Chỉ có
thể định hộ khẩu vào lúc này, chẳng nên qua đó mà xem xét [t́nh
trạng] hao hụt, điêu tàn của dân ta hay sao?". Quần thần đều khâm
phục.
[51a]
Bính Tuất, Trùng Hưng năm thứ 2 [1286], Nguyên Chí Nguyên năm thứ
23). Mùa xuân, tháng giêng, thả quân Nguyên về nước.
Tháng 2,
sứ Nguyên là Hợp Tán Nhi Hải Nha883 đến.
Tháng 3,
vua Nguyên sắc phong cho Thượng thư tỉnh Áo Lỗ Xích884 , B́nh Chương
sự Ô Mă Nhi, Đại tướng Trương Văn Hổ điều 50 vạn quân, hạ lệnh Hồ
Quảng đóng 300 chiếc thuyền biển, hẹn tháng 8 hội cả ở Khâm Châu,
Liêm Châu. Lại ra lệnh quân ba hành tỉnh Giang Chiết, Hồ Quảng,
Giang Tây xâm lược phương Nam, mượn cớ đưa người đầu hàng là Trần
Ích Tắc về nước lập làm An Nam Quốc Vương.
Mùa hạ,
tháng 6, lệnh cho vương hầu, tôn thất mộ binh, thống lĩnh thuộc hạ
của ḿnh.
Vua hỏi
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn:
"Thế giặc
năm nay thế nào?".
QuốcTuấn
trả lời:
"Nước ta
thái b́nh lâu ngày, dân không biết việc binh. Cho nên, năm trước
quân Nguyên vào cướp, th́ có kẻ đầu hàng chốn chạy. Nhờ uy tín của
tổ tông và thần vơ của bệ hạ, nên quét sạch được bụi Hồ. Nay nếu nó
lại sang th́ quân ta đă quen việc chiến trận, mà quân nó th́ sợ phải
đi xa. Vả lại, chúng c̣n nơm lớp cái thất bại của Hằng, Quán885
[51b] không c̣n chí chiến đấu. Theo như thần thấy, phá được chúng là
điều chắc chắn".
Vua lệnh
cho Hưng Đạo Vương đốc thúc vương hầu tôn thất điều động quân lính,
chế tạo vũ khí, thuyền bè.
Mùa đông,
tháng 10, kiểm duyệt, diễn tập quân lính điều động được.
Đinh Củng
Viên xin thôi quyền trông coi việc Nội mật viện. Vua y cho, ban [
cho Viên] tước Nội minh tự.
Đinh Hợi,
Trùng Hưng năm thứ 3 [1287], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ 24). Muà
xuân, tháng 2, Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu băng.
Tháng 2,
cá nhà táng chết cạn ở sông Bạch Đằng, dài 2 trượng 6 thước, dày 6
thước.
Nhà
Nguyên Phát Quân Mông Cổ, quân Hán Nam886 , 3 hành Tỉnh GiangHoài,
Giang Tây, Hồ Quảng, lính Vân Nam, lính người Lê ở 4 châu ngoài
biển887 , chia đường vào cướp. Sai bọn vạn hộ Trương Văn Hổ đi đường
biển, chở 70 vạn thạch lương888 theo sau. Lại đặt Chinh Giao Chỉ
hành thượng thư tỉnh [52a] do B́nh chương sự Áo Lỗ Xích, các Tham
tri chính sự Ô Mă Nhi, Phàn Tiếp thống lĩnh và chịu tiết chế của
Trần Nam Vương.
Quan chấp
chính xin bọn tráng đinh sung quân để tăng quân số lên nhiều. Trần
Hưng Đạo nói :"Quân quư ở tinh nhuệ, không quư ở số đông. Dẫu đến
100 vạn quân mà như Bồ Kiên889 th́ cũng làm ǵ được?".
Tháng 3,
ân xá .
Mùa hạ,
tháng 4, lấy Tá Thiên Đại Vương Đức Việp quyền tướng quốc sự.
Duyệt
binh. Xử án. Định các danh sách.
Mùa đông,
tháng 10, ngày mồng 1, nhật thực.
Tháng 11,
ngày 11, giờ Mùi, mặt trời rung thành 4 góc.
Ngày 14,
Trịnh Xiển tâu rằng thái tử Nguyên A Thai890 xâm phạm ải Phú Lương.
Vua hỏi
Hưng Đạo Vương:"Giặc tới, liệu t́nh h́nh thế nào".
Vương trả
lời: "Năm nay đánh giặc nhàn".
Ngày 24,
lệnh cho cấm quân giữ ải Lănh kinh891 .
Hưng Đức
hầu Quán đem quân đón đánh, dùng tên tẩm thuốc độc bắn giặc chết và
bị thương rất nhiều. Giặc lui về đóng ở ải Vũ Cao.
[52b]
Ngày 28, Phán thủ thượng vị Nhân Đức hầu Toàn đem thuỷ quân đánh ở
vụng Đa Mỗ892 giặc chết đuối rất nhiều, ta bắt sống 40 tên và thu
được thuyền ngựa, khí giới đem dâng.
Tháng 12,
ngày 16, chiếu sai minh tự Nguyễn Thức đem quân Thánh dực dũng nghĩa
đến chỗ Hưng Đạo Vương để giữ cửa Đại Than893 .
Ngày 26,
[quân ta] gặp giặc, đánh bại chúng.
Ngày 30,
thái tử Nguyên A Thai894 cùng Ô Mă Nhi họp 30 vạn quân đánh vào Vạn
Kiếp rối thuận ḍng xuôi về phía đông. Người các hương Ba Điểm, Bàng
Hà đều đầu hàng chúng.
Khi ấy,
thủy quân Nguyên đánh vào Vân Đồn, Hưng Đạo Vương giao hết công việc
biên thùy cho Phó tướng Vân Đồn là Nhân Huệ Vương Khánh Dư. Khánh Dư
đánh thất lợi895 thượng hoàng được tin, sai trung sứ xiềng Khánh Dư
giải về kinh. Khánh Dư nói với trung sứ:
"Lấy quân
pháp mà xử, tôi cam chịu tội, nhưng xin khất hai, ba ngày, để [53a]
mưu lập công rồi về chịu tội búa ŕu cũng chưa muộn".
Trung sứ
theo lời xin đó.
Kháng Dư
liệu biết quân giặc đă qua, thuyền vận tải tất theo sau, nên thu
thập tàn binh đợi chúng. Chẳng bao lâu thuyền vận tải quả nhiên đến,
[Khánh Dư] đánh bại chúng, bắt được quân lương khí giới của giặc
nhiều không kể xiết, tù binh cũng rất nhiều. Lập tức sai chạy ngựa
mang thư về báo. Thượng hoàng tha cho tội trước không hỏi đến và
nói:
"Chỗ
trông cậy của quân Nguyên là lương thảo khí giới, nay đă bị ta bắt
được, sợ nó chưa biết, có thể c̣n hung hăng chăng?".
Bèn tha
những tên bị bắt về doanh trại quân Nguyên để báo tin. Quân Nguyên
quả nhiên rút lui. Cho nên, năm này, vết thương không thảm như năm
trước, Khánh Dư có phần công lao trong đó.
Trước
đây, Khánh Dư trấn giữ Vân Đồn, tục ở đó lấy buôn bán làm nghề
nghiệp sinh nhai, ăn uống, may mặc đều dựa vào khách buôn phương
Bắc, cho nên quần áo, đồ dùng theo tục người Bắc. Kháng Dư duyệt
quân các trang, ra lệnh: "Quân trấn giữ Vân Đồn là để ngăn pḥng
giặc [53b] Hồ, không thể đội nón của phương Bắc, sợ khi vội vàng khó
ḷng phân biệt, nên đội nón Ma Lôi (Ma Lôi là tên một hương ở Hồng
Lộ, hương này khéo nghề đan cật tre làm nón, cho nên lấy tên hương
làm tên nón), ai trái tất phải phạt".
Nhưng
Khánh Dư đă sai người nhà mua nón Ma Lôi từ trước, chở thuyền đến
đậu trong cảng rồi. Lệnh vừa ra, sai người ngầ2m báo dân trong
trang: "Hôm qua thấy trước vụng biển có thuyền chở nón Ma Lôi đậu".
Do đấy,
người trong trang nối gót trrranh nhau mua nón, ban đầu muaa không
tới 1 tiền, sau giá đắt, bán 1 chiếc nón giá 1 tấm vải. Số vải thu
được tới hàng ngàn tấm. Thơ mừng của một người khách phương Bắc câu:
"Vân Đồn kê khuyển diệc giai kinh" (Vân Đồn gà chó thảy đều kinh) là
nói thác sợ phục uy danh của Kháng Dư mà thực là châm biếm ngầm ông
ta. Kháng Dư tính tham lam, thô bỉ, những nơi ông ta trấn nhậm, mọi
người đều rất ghét. Nhân Tông chỉ tiếc ông có tài làm tướng, nên
không nỡ bỏ mà thôi.
[54a] Mậu
Tư, [Trùng Hưng] năm thứ 4 [1288], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ 25).
Mùa xuân, tháng giêng, Ô Mă Nhi đánh vào phủ Long Hưng896 .
Ngày mồng
8, quan quân hội chiến ngoài biển Đại Bàng, bắt được 300 chiếc
thuyền giặc, 10 thủ cấp giặc, quân Nguyên bị chết đuối rất nhiều897
.
Tháng 2,
ngày 29, Ô Mă Nhi đánh vào trại Yên Hưng898 .
Tháng 3,
ngày mồng 8, quân Nguyên hội ở sông Bạch Đằng để đón thuyền lương
của bọn Trương Văn Hổ nhưng không gặp. Hưng Đạo Vương đánh bại
chúng.
Trước đó,
Vương đă đóng cọc ở sông Bạch Đằng, phủ cỏ lên trên. Hôm ấy, nhân
lúc nước triều lên, Vương cho quân khiêu chiến rối giả cách thua
chạy, bọn giặc đuổi theo, quân ta cố sức đánh lại. Nước triều xuống,
thuyền giặc vướng cọc hết. Nguyễn Khoái chỉ huy quân Thánh dực dũng
nghĩa đánh nhau với giặc, bắt sống B́nh chương Áo Lỗ Xích899 . Hai
vua đem quân tiếp đến, tung quân đánh lớn, quân Nguyên chết đuối
nhiều không kể xiết, nước sông do vậy đỏ ngầu cả. Đến khi Văn Hổ tới
quân mai phục hai bên bờ hăng hái xông ra đánh, [54b], lại đánh bại
chúng. Nước triều rút nhanh, thuyền lương của Văn Hổ mắc trên cọc,
nghiêng đắm gần hết. Quân Nguyên chết đuối rất nhiều. Bắt được 400
chiếc thuyền. Nội Minh tự Đỗ Hành bắt được Ô Mă Nhi và Tích Lê Cơ
Ngọc900 dâng lên thượng hoàng901 . Thượng hoàng sai dẫn lên thuyền
ngự, cùng ngồi nói chuyện với chúng và uống rượu vui vẻ. Thoát Hoan
và A Thai dẫn quân trốn về Tư Minh, thổ quan là Hoàng Nghệ bắt được
đem dâng902 .
Hai vua
trở về phủ Long Hưng.
Ngày 17,
đem các tướng giặc bị bắt là Tích Lệ Cơ Ngọc, Nguyên soái Ô Mă Nhi,
Tham chính Sầm Đoàn, Phàn Tiếp, Nguyên soái Điền, các Vạn hộ, Thiên
hộ làm lễ dâng thắng trận ở Chiêu Lăng.
Trước đó
quân Nguyên đă khai quật Chiêu Lăng muốn phá đi, nhưng không phạm
được tới quan tài. Đến khi giặc thua, chân ngựa đá [ở lăng] đều bị
lấm bùn. Đó là thần linh giúp ngầm vậy. Khi vua cử lễ bái yết, có
làm thơ rằng:
Xă tắc
lưỡng hồi lao thạch mă, Sơn hà thiên cổ điện [55a] kim âu. (Xă tắc
hai phen bon ngựa đá, Non sông ngàn thuở vững âu vàng903 . Ngày 27,
xa giá hai vua trở về kinh sư.
Mùa hạ,
tháng 4, Thượng hoàng ngự ở hành lang Thị Vệ (v́ cung điện bấy giờ
đă bị giặc đốt hết), đại xá thiên hạ. Những nơi bị binh lửa, cướp
phá th́ miễn giảm theo mức độ khác nhau.
Vua dụ ty
Hành khiển giao hảo với viện Hàn lâm.
Lệ cũ,
mỗi khi tuyên đọc lời vua, th́ viện Hàn lâm lĩnh đưa bản thảo tờ
chiếu cho Hành khiển để giảng tập trước. Đến khi tuyên đọc, th́
giảng cả âm nghĩa cho dân thường dễ hiểu, v́ chức Hành khiển để dùng
hoạn quan thôi. Bấy giờ, Lê Ṭng Giáo làm tả phụ, vốn bất ḥa với
Hàn kâm phụng chỉ Đinh Củng Viên. Ngày tuyên đọc lời vua đă đến rồi
mà Củng Viên vẫn cố ư không đưa bản thảo. Ṭng Giáo đ̣i nhiều lần
vẫn không được.
Hôm ấy,
xa giá sắp ra ngoài cung, Củng Viên mới đưa bản thảo. Ṭng Giáo
tuyên đọc tờ chiếu đại xá, không hiểu âm nghĩa, phải im lặng. Vua
[55b] gọi Củng Viên đứng đằng sau, nhắc bảo âm nghĩa. Ṭng Giáo rất
thẹn. Tiếng nhắc của Củng Viên to dần, mà tiếng đọc của Ṭng Giáo
lại nhỏ đi, trong triều chỉ c̣n nghe thấy tiếng của Củng Viên thôi.
Vua về trong cung, gọi Ṭng Giáo dụ bảo:
"Củng
Viên là sĩ nhân, ngươi là trung quan904 sao lại bất ḥa đến thế?
Ngươi là lưu thủ Thiên Trường, dùng con rươi quả quưt đi lại, đưa
tặng lẫn nhau th́ có việc ǵ?".
Từ đó,
Ṭng Giáo và Củng Viên giao hảo với nhau càng gắn bó.
Sử thần
Ngô Sĩ Liê n nói: Vua bảo kẻ thần hạ tặng biếu giao hảo với nhau,
th́ chẳng phải là gây cái tệ tư giao giữa người làm tôi với nhau
sao?
Xin thưa,
giao hảo với tư giao, việc th́ giống nhau, nhưng t́nh th́ có khác.
Đem tư tâm mà kết ngầm với nhau, đó là tư giao, như Kinh Xuân thu
chê Thái Bá đến nước Lỗ là thế905 . Lấy t́nh nghĩa giao hoan với
nhau th́ không phải là tư giao, như thi nhân ngâm vịnh việc tặng dưa
tặng mận906 cho nhau [56a] là vậy. Vua bảo bề tôi giao hảo với nhau
là để cùng nhau làm tốt việc của nhà vua. Nhà Trần trung hậu như thế
[qua việc này] có thể thấy được. Nhưng lấy hoạn quan không biết chữ
làm Hành khiển th́ cũng không phải.
Mù thu,
tháng 9, phu nhân Hưng Đạo Vương Nguyên từ quốc mẫu Trần thị (tức
công chúa Thiên Thành) mất.
Mùa đông,
tháng 10, sai Đỗ Thiên Hư (Thiên Hư là em Khắc Chung) sang Nguyên.
Đỗ Khắc Chung [trước đây] đi sứ sang Nguyên có công, đến nay, tiến
cử em là Thiên Hư. Vua nghe theo.
Kỷ Sửu,
Trùng Hưng năm thứ 5 [1289], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ 26). Mùa
xuân, tháng 2, sai Nội thư Hoàng Tá Thốn đưa bọn Ô Mă Nhi về nước,
dùng kế của Hưng Đạo Vương, lấy người giỏi bơi lặn, sung làm phu
thuyền, ban đêm dùi thuyền cho đắm, bọn Ô Mă Nhi đều chết đuối cả.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Chữ tín là vật báu của nước, mà làm cho người khác
phục ḿnh sâu sắc th́ đó là gốc của vương chính. [56b] Hưng Đạo
Vương dùng bá thuật907 , muốn được thành công trong một thời mà
không biết làm như thế là đă thất tín với muôn đời. Đă nói là đưa về
nước lại dùng mưu kế để giết đi, th́ thực quỷ quyệt quá lắm. Thái Tổ
Cao Hoàng Đế nước Đại Việt ta908 đang khi dẹp loạn, định tha người
Minh về nước. Bọn nguỵ quan có kẻ viện dẫn cho người Minh nghe câu
chuyện dùi thuyền của Hưng Đạo Vương khi trước nhằm ngăn cản ư muốn
về nước của họ. Nhưng ḷng tín thực của Thái Tổ thấu đến cả muông
thú, nên rốt cuộc ngườu Minh tin theo không ngờ vực. Thế mới là làm
cho người khác phục ḿnh sâu sắc và là cội gốc của vương chính. Đâu
có thể nói [chữ tín] chỉ là chuyện nhỏ nhặt.
Tháng 3,
ngày mồng 1, nhật thực.
Mùa hạ,
tháng 4, định công dẹp giặc Nguyên.
Tiến
phong Hưng Đạo Vương làm Đại Vương, Hưng Vũ Vương làm Khai Quốc
công, Hưng Nhượng Vương làm Tiết độ sứ. Người nào có công lớn th́
được ban quốc tính. Khắc Chung được dự trong số đó, lại được nhận
chức Đại hành khiển. Đỗ Hành chỉ được phong [57a] Quan nội hầu, v́
khi bắt được Ô Mă Nhi không dâng lên quan gia909 , lại dâng lên
Thượng hoàng. Hưng Trí Vương không được thăng trật, v́ đă có chiếu
cho người Nguyên về nước, các tướng không được cản trở, mà lại c̣n
đón đánh chúng. Cho Man trưởng Lạng Giang Lương Uất làm trại chủ Quy
Hóa. Hà Tất Năng làm Quan phục hầu v́ đă chỉ huy người Man đánh
giặc.
Việc
thưởng tước đă xong, vẫn c̣n có người chưa bằng ḷng. Thượng hoàng
dụ rằng:
"Nếu các
khanh biết chắc là giặc Hồ không vào cướp nữa th́ nói rơ cho trẫm
biết, dù có thăng đến cực phẩm trẫm cũng không tiếc. Nếu không thế
mà đă vội thưởng hậu, vạn nhất giặc Hồ trở lại, và các khanh lại lập
công nữa th́ trẫm lấy ǵ mà thưởng để khuyến khích thiên hạ".
Mọi người
đều vui vẻ phục tùng.
Tháng 5,
trị tội những kẻ đă hàng giặc. Chỉ quân lính và dân thường được miễn
tội chết, nhưng bắt chở gỗ đá, xây cung điện để chuộc tội, quan viên
phạm tội [57b] [hàng giặc] th́ tùy tội nặng nhẹ mà xét xử.
Lấy Phùng
Sĩ Chu làm Hành hiển.
Sĩ Chu
người [xă] Cổ Liễu, Trà Hương. Khi người Nguyên sang, vua sai Sĩ Chu
bói. Sĩ Chu đoán rằng: "Thế nào cũng đại thắng".
Vua mừng
bảo; "Nếu đúng như lời đoán, sẽ có trọng thưởng".
Giặc yên,
vua nói: "Thiên tử không có nói đùa". Do đấy, có lệnh này. Sĩ Chu là
người trung hiếu, có tài văn nghệ, làm quan đến Thiếu phó, hiệu là
Tốn Trai tiên sinh.
Gia phong
Nguyễn Khoái làm liệt hầu, ban cho một quận thang mộc, gọi là Khoái
Lộ?, sau đổi thành Khoai Lộ? (nay là phủ Khoái Châu).
Định các
công thần [đánh Nguyên] lần trước và lần sau. Người nào xông lên
trước phá trận giặc, lập kỳ công th́ chép vào tập Trung hưng thực
lục lại sai vẽ h́nh.
Xử tội đồ
quân dân hai hương Ba Điểm và Bàng Hà, làm thang mộc binh910 , không
được làm quan, ban cho tể thần làm sai sử hoành911 .
Trươóc
kia, người Nguyên vào cướp, vương hầu, quan lại nhiều người đến
doanh trại giặc xin hàng. Đến khi giặc thua [58a] bắt được cả một
ḥm biểu xin hàng. Thượng hoàng sai đốt hết đi để yên ḷng những kẻ
phản trắc. Chỉ có kẻ nào đầu hàng trước đây, th́ dẫu bản thân ở
triều đ́nh giặc, cũng kết án vắng mặt, xử tội đi đày hoặc tử h́nh,
tịch thu điền sản, sung công, tước bỏ quốc tính. Như Trần Kiện là
con của Tĩnh Quốc th́ đổi làm họ Mai. Người khác cứ theo lệ ấy mà
đổi, như bọn Mai Lộng, Ích Tắc là chỗ t́nh thân cốt nhục, tuy trị
tội cũng thế, nhưng không nỡ đổi họ xóa tên, chỉ gọi là Ả Trần, có ư
chê hắn hèn nhát như đàn bà vậy. V́ thế, những ghi chép đương thời
đều gọi là Ả Trần, Mai Kiện...
Có tên
Đặng Long là cận thần của vua, rất giỏi văn học, tước đến hạ phẩm,
đă được ghi chú để cất nhắc. Vua định cho làm Hàn lâm học sĩ, nhưng
lâm học sĩ, nhưng Thượng hoàng ngăn lại. Hắn mang dạ bất b́nh, đến
giờ cũng hàng giặc. Giặc thua, hắn bị bắt, đem chém để răn bảo kẻ
khác.
Thượng
hoàng ngự đến hành cung Thiên Trường, có làm bài thơ rằng:
Cảnh
thanh u vật diệc thanh u, Thập nhất [58b] tiên châu, thử nhất châu.
Bách bộ
sênh ca, cầm bách thiệt, Thiên hàng nô bộc quất thiên đầu Nguyệt vô
sự chiếu nhân vô sự, Thủy hữu thu hàm thiên hữu thu. Tứ hải dĩ thanh
trần dĩ tính, Kim niên du thắng tích niên du
(Cảnh
thanh u, vật cũng thanh u, Mười một tiên châu, đây một châu. Trăm
giọng chim ca, trăm bộ sáo Ngàn hàng cây quưt ngàn tên nô Trăng vô
sự soi người vô sự, Nước vẻ thu ngậm trời vẻ thu. Bốn biển đă quang,
trần đă lặng. Chuyến đi nay thắng chuyến đi xưa). V́ là xúc cảm về
hai lần đánh giặc đă qua mà phát thành thơ vậy.
Hạn từ
tháng 6 mùa hạ đến tháng 10 mùa đông.
Canh Dần,
[Trùng Hưng] năm thứ 6 [1290], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ 27). Mùa
xuân, tháng 2, chọn quan văn chia đi cai trị các lộ.
Vua thân
đi đánh Ai Lao. Triều thần can rằng: "Giặc Hồ vùa rút, vết thương
chưa lành, đâu đă có thể dấy binh đao!".
Vua nói:
"Chỉ có
thể lúc này ra quân thôi. V́ sau khi giặc rút, ba cơi tất cho là
lính tráng, ngựa chiến của ta đă chết cả, thế không thể lên nổi, sẽ
có sự khinh nhờn từ bên trong, cho nên phải cất quân lớn để thị uy".
Bầy tôi
đều nói:
"Nhà vua
há chẳng biết làm nhọc dân là việc đáng lo, nhưng c̣n có việc đáng
lo lớn hơn [59a] thế nữa. Thánh nhân lo xa, bọn thần không thể nghĩ
đến được".
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Bây giờ, triều thần can việc thân chinh chưa phải
là sai lắm, đến khi nghe lời Nhân Tông mà vội tán tụng là "thánh
nhân lo xa" th́ gần như là nịnh hót rồi.
Tháng 3,
gia phong Tá Thiên Đại Vương Đức Việp làm Nhập nội Kiểm hiệu thái
úy.
Mùa hạ,
tháng 4, sông Tô Lịch chảy ngược (sôngnày hễ có mưa to th́ nước rút,
tràn và chảy ngược).
Tháng 5,
ngày 25, Thượng hoàng băng ở cung Nhân Thọ.
Lấy Hạ
phẩm phụng ngự Phạm Ngũ Lăo chỉ huy Hữu vệ Thánh dực quân.
Mùa thu,
tháng 8, sai Ngô Đ́nh Giới sang cáo phó với nước Nguyên.
Tháng 9,
để tang Thánh Tông mới hơn 3 tháng, Ngự sử đại phu Đỗ Quốc Kế tâu
rằng:
"Phàm để
tang không nên [59b] làm thương tổn người sống. Nay thiên tử đều
dùng kiệu khiêng, thế là người sống bị tổn thương, xin hăy cưỡi
ngựa". Vua nghe theo, chỉ dùng yên trắng.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Xem lời tâu của Quốc Kế, chẳng những học vấn nông
cạn mà kiến thức cũng thấp hèn. Cưỡi ngựa không phải là điều nên làm
trtong tang chế mà cứ xin cưỡi ngựa; làm thương tổn người [sống ] có
người là hủy thân thể, diệt sinh mạng, mà lại bảo [đi kiệu] là
thương tổn người [sống]! Học vấn của hắn như thế, kiến
thức của
hắn như thế th́ việc sửa lầm, nắn lỗi sẽ ra sao? Nhân Tông đang có
tang, không nhận ra điều sai trái đó mà lại lầm lẫn làm theo th́
cũng không phải.
Đói to, 3
thăng gạo giá 1 quan tiền, dân nhiều người bán ruộng đất, và bán con
trai con gái làm nô tỳ cho người, mỗi người giá 1 quan tiền.
Xuống
chiếu phát thóc công chẩn cấp dân nghèo và [60a] miễn thuế nhân
đinh.
Mùa đông,
tháng 12, ngày 15, táng [Thượng hoàng] ở Dụ Lăng, miếu hiệu là Thánh
Tông, truy tôn là Huyền Công Thịnh Đức Nhân Minh, Văn Vũ Tuyên Hiếu
Hoàng Đế.
Sử thần
Ngô SĨ Liên nói: Thánh Tông nối nghiệp Thái Tông, giữa chừng gặp tai
họa giặc vào cướp, đă ủy nhiệm tướng thần, cùng với Nhân Tông chung
sức, cùng nhau vượt qua, khiến cho thiên hạ đă tan mà lại họp, xă
tắc đă nguy mà lại yên, suốt đời Trần, không c̣n nạn xâm lược của
giặc Hồ912 nữa. Công lao ấy to lớn lắm.
Tân
Măo,[Trùng Hưng] năm thứ 7 [1291], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ 28).
Năm này lại đói to, ngoài đường nhiều người chết đói.
Nhà
Nguyên sai Lễ bộ thượng thư Trương Lập Đạo sang dụ vua vào chầu913 .
Năm sau, (vua) sai Nguyễn Đại Phạp sang Nguyên từ chối, lấy cớ có
tang.
[60b]
Nhâm Th́n, [Trùng Hưng] năm thứ 8 [1292], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ
29). Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, nhật thực.
Lấy Phí
Mạnh làm An phủ Diễn Châu, giữ chức chưa bao lâu, có tiếng đồn là
tham ô, vua triệu về, đánh trượng, lại sai đi trấn trị. Sau được
tiếng là công bằng thang liêm. Người Diễn Châu v́ thế có câu rằng:
"Diễn Châu an phủ thanh như thủy" (An Phủ Diễn Châu trong tựa nước).
Lấy Trần
Th́ KIến làm An phủ lộ Yên Khang914 , nhưng tên huyện đă bỏ và đất
chia nhập vào huyện Tam Điệp và huyện Kim Sơn.
Trước
đây, quân Nguyên vào cướp, vua sai Th́ Kiến bói, được quẻ Dự biến
sang quẻ Chấn, đoán là tốt. Mùa hạ năm sau, quân Nguyên đại bại, quả
đúng như lời đoán. Mùa thu năm Trùng Hưng thứ 2, quân Ngyên lại vào
cướp, vua lại sai bói, được quả Quan biến sang quẻ Hoán, [Kiến]
đoán: "Hoán nghĩa là tan, là điềm giặc tan". Sau quân Nguyên đến
sông Bạch Đằng, quả nhiên tan chạy. Vua khen tài của Kiến, cho nên
có lệnh này.
Tháng 2,
ngày mồng 3, lập Đông cung thái tử Thuyên làm Hoàng thái tử. Lấy con
gái trưởng [61a] của Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng làm phi cho thái
tử.
Lấy Đinh
Củng Viên làm Thái tử thiếu bảo, thăng tước Quan nội hầu.
Tháng 3,
xuống chiếu rằng phàm văn tự bán đứt hoặc cầm đợ th́ phải làm hai
bản giống nhau, mỗi bên cầm một bản.
Xuống
chiếu cho những mua dân lương thiện làm nô tỳ th́ phải cho chuộc
lại; ruộng đất, nhà cửa không theo luật này. V́ là nạn đói hai năm
Canh Dần và Tân Măo, nhiều người chết, [nên có chiếu này].
Vua từng
ngự chơi bên ngoài, giữa đường, hể gặp gia đồng của vương hầu th́
tất gọi chúng mà hỏi: "Chủ mày đâu?", rồi răn các vệ sĩ không được
thét đuổi. Đến khi về cung, bảo tả hữu rằng:
"Ngày
thường th́ có thị vệ tả hữu, khi quốc gia lắm hoạn nạn th́ chỉ có
bọn chúng có mặt". V́ là vua cảm mến bọn chúng đi theo bảo vệ ḿnh
hồi phải chạy ra khỏi kinh thành mà nói thế.
Nguyễn
Đại Phạp đến nước Nguyên, người Nguyên gọi là Lăo lệnh công. Đại
Phạp tới Ngọc Châu, vào yết kiến các quan b́nh chương ở hành tỉnh.
Lúc ấy Chiêu QuốcVương Ích Tắc cũng ngồi ở đó. Đại Phạp [61b] chỉ
không chào một ḿnh hắn. Ích Tắc hỏi:
"Ngươi
không phải là tên biên chép ở nhà Chiêu Đạo Vương đó ư?" (Chiêu Đạo
Vương trước tên là Quang Xưởng, là con thứ của Thái Tông, anh cùng
mẹ của Ích Tắc). Đại Phạp trả lời"
"Việc đời
đổi thay, Đại Phạp trước vốn là tên biên chép cho Chiêu Đạo Vương,
nay là sứ giả, cũng như B́nh chương xưa kia là con vua, nay lại là
người đầu hàng giặc".
Ích Tắc
có vẻ hổ thẹn. Từ đấy về sau, sứ ta đến, hắn không c̣n ngồi ở tỉnh
đường nữa.
Quư Tỵ,
[Trùng Hưng] năm thứ 9 [1293], (từ tháng 3 trở đi là Anh Tông Hưng
Long năm thứ 1, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 30). Mùa xuân, tháng 3,
ngày mồng 9, vua nhường ngôi cho Hoàng thái tử Thuyên. [Hoàng thái
tử Thuyên] lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Hưng Long năm thứ 1,
đại xá, tự xưng là Anh Hoàng, tôn Thượng hoàng làm Hiến Nghiêu Quang
Thánh Thái Thượng Hoàng Đế, tôn Bảo Thánh hoàng hậu làm Khâm Từ Bảo
Thánh hoàng thái hậu. Quần thần dâng tôn hiệu là Ứng Thiên Quảng Vận
Nhân Minh Thánh Hiếu Hoàng Đế. Phong bà phi làm Văn Đức phu nhân,
rồi lại phế đi, lấy em gái Văn Đức làm Thánh [62a] Tư phu nhân.
Mùa thu,
tháng 9, ngày 13, Khâm từ bảo thánh hoàng thái hậu băng ở Lỗ Giang,
phủ Long Hưng, tạm quàn ở cung Long Hưng.
Thái hậu
nhu ḿ đức tốt, thông minh sáng suốt, nhân hậu với kẻ dưới.
Thượng
hoàng có lần làm chuồng hổ ở thềm Vọng Lâu, sai quân sĩ đánh nhau
với hổ, [thượng hoàng] ngự trên lầu để xem, thái hậu và phi tần đều
theo hầu. Lầu thấp, song chuồng hổ và thềm cũng thấp, hổ bỗng nhiên
thoát khỏi chuồng trèo lên lầu. Người trên lầu đều tan chạy cả. Chỉ
có Thượng hoàng và Thái hậu cùng 4, 5 thị nữ c̣n ở đó. Thái hậu nghĩ
không khỏi bị hại, mới lấy chiếc chiếu che cho Thượng hoàng và tự
che ḿnh. Hổ lên lầu gầm rống rồi nhảy xuống không vồ hại ai cả.
Lại một
lần Thượng hoàng ngự điện Thiên An xem đấu voi ở Long Tŕ. Con voi
bỗng nhiên xổng thoát,xông tới, định lên điện, tả hữu đều sợ hăi tan
chạy cả, chỉ có Thái hậu vẫn ở đó.
[62b] Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói: Hổ hay vồ, voi hay quật, há chẳng đáng khiếp
sợ sao. Thế mà Thái hậu đương lúc chúng lồng lộn xông xáo, tâm thần
không dao động, b́nh tĩnh đối phó v́ bà suy nghĩ chín chắn, lư lẽ đă
sáng tỏ vậy.
Kể người
đàn bà dáng điệu mềm yếu mà có thể như thế, so với nàng Tiệp Dư ngày
xưa đứng chắn gấu [cho vua]915 , có lẽ cũng không thẹn ǵ. Kẻ sĩ đại
phu, há chẳng nghĩ làm thế nào đạt đến mức suy nghĩ chín chắn, lư lẽ
sáng tỏ, để đối phó với mọi chuyển biến của sự cơ hay sao?
Có người
nói Nhân Tông xem đánh hổ, đấu voi, nếu Thái hậu quả là nguười hiền,
th́ nên can ngăn đi, can mà [vua] không nghe, th́ cởi trâm hoa dể tạ
tội là phải916 . Nay lại đi theo để xem, đến lúc nguy cấp, thoát
khỏi tai họa là may, sao lại được gọi là hiền?
Xin thưa:
Đó là những lời trách quá đáng, không phải là lời bàn thường t́nh.
[63a]
Chiêm Thành sang cống.
Sao Chổi
xuất hiện ở vùng sao Tử Vi, sát tới sao Đẩu, sao Khôi, tia sáng hơn
1 thước, đến trăm ngày mới tắt.
Nhà
Nguyên sai Binh bộ thượng thư Lương Tằng dụ vua vào chầu. Vua lấy cớ
có bệnh từ chối, sai Đào Tử Kỳ sang tặng phương vật. Nhà Nguyên giữ
Tử Kỳ ở Giang Lăng, lập An Nam hành tỉnh, lấy
bọn B́nh
chương Lưu Nhị Bạt Đô917 cầm quân đóng ở Tĩnh Giang918 , đợi lệnh
tiến đánh. Tháng giêng năm năm sau, nguyên Thế Tổ băng. [Nguyên]
Thành Tông919 lên ngôi, xuống chiếu băi binh, thả Tử Kỳ về nước.
Phong em
là Quốc Chẩn làm Huệ Vũ Đại Vương.
719 Sau
là xă Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định cũ, nay thuộc tỉnh Nam
Hà.
720 Tức
năm 1218
721 Vùng
đất của tỉnh Bắc Ninh.
722 Vùng
đất phía tây bắc và phía nam tỉnh Hải Dương
723 Vùng
đất huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
724 Bản
chữ Hán chép Nguyên hậu, là đă nhầm chữ Quân thành chữ Hậu. Nguyên
Quân tức là vua Trần Thuận Tông, sau khi nhường ngôi cho thái tử Án
(Thiếu Đế), xưng vương là Thái Thượng Quân Hoàng Đế, thường được gọi
là Nguyên Quân. Xem BK7.
725 Chỉ
việc Trẫn Thủ Độ đă giết Huệ Tông lại lấy hoàng hậu của nhà vua
726 Tỉnh
bách: có người đọc là "tỉnh mạch". Ở Trung Quốc, từ đỡi Ngũ Đại về
sau, lấy 77 làm 100, gọi là "tỉnh bách" ( nghĩa là 100 thiếu, hay
100 bớt ).
727 Núi
Đồng Cổ: vốn ở THanh Hóa, tục gọi là núi Khả Phong. Đời Lư, các vua
cho rằng thẫn núi Đồng Cỏ đă có công giúp Thái Tông đánh thắng Chiêm
Thành, sau lại thác mộng báo cho biết âm mưu làm phản của ba vương
Vũ Đức, Đông Chinh, Dực Thánh, nên đă dựng đền thờ trong đại nội,
bên hữu chùa ThánhThọ. Hằng năm các quan phải đến thề ở đền để tỏ
ḷng trung thành với nhà vua. Nhà Trần cũng theo lệ ấy. (Xem Việt
điện u linh, xem thêm BK2)
728 Oa
Khoát Đài : hay Oát Ca Đài (đời Thanh đổi gọi là Ngạc Cách đức Y) là
phiên âm tên vua Mông Cổ Ô-gô-đây là con trai thứ ba của Thành Cát
Tư Hăn, Thiết Mộc Chân (Têmugin), lên ngôi năm 1228.
729 Trấn
binh của kinh đô, chuyên việc pḥng vệ, canh gác.
730 CMCB6
chú là chức kinh doăn, chuyên xét đoán việc kiện tụng ở kinh thành.
Thực ra, B́nh bạc ty (năm 1265 đổi thành đại an phủ sứ, sau lại đổi
thành Kinh sư đại doăn) là cơ quan hành chính và tư pháp ở kinh đô
Thăng Long lúc đó.
731 CMCB6
chú là tên hai con kênh, thuộc huyện Ngọc Sơn (nay là tỉnh Gia),
tỉnh Thanh Hóa.
732 Sau
là huyện Nam Chân, Nam Trực, tương với huyện Nam Ninh, tỉnh Hà Nam
ngày nay.
733 CMCB6
chú là thuộc huyện Đông Ngàn, nay là huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
734 Vùng
huyện Tiên Hưng cũ, nay thuộc huyện Đông Hưng, tỉnh Thái B́nh.
735 Chiêu
lang: lăng của Trần Thái Tông, Dụ lăng: lăng của Trần Thánh Tông,
Đức lăng: lăng của Trần Nhân Tông.
736 Nghi
đồng tam ty: nghĩa là nghi thức ngang với nghi thức của tam ty hay
tam công. B́nh chương sự: nghĩa là xếp đặt cho tốt đẹp, chỉ chức tể
tướng. Đồng b́nh chương sự: nghĩa là ngang với tể tướng.
737 Theo
Thiền Tông chỉ nam tự trong Khóa hư lục th́ Trần Thát Tông trốn khỏi
kinh thành vào đêm mồng 3 tháng 4 năm Bính Thân (1236) và lên đến
đỉnh Yên Tử vào ngày mồng 6 tháng 4 năm ấy. Như vậy là Toàn Thư chép
sự việc này muộn hơn một năm
738 Thuộc
hai huyện Đông Triều và Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh ngày nay.
739 CMCB6
chép là phường Thịnh Quang có ô Chợ Dừa ở phía nam Hà Nội nay thuộc
quận Đống Đa, Hà Nội.
740 Tức
tiền xét án.
741 Trại
Vĩnh An của Tống thuộc đất châu Khâm, giáp với vùng Móng Cái, Quảng
Ninh của ta. Trại Vĩnh B́nh của Tống thuộc đất châu Ung, giáp với
vùng Lộc B́nh, Lạng Sơn của ta.
742 CMCB6
chép danh sách 12 lộ là Thiên Trường, Long Hưng, Quốc Oai, Bắc
Giang, Hải Đông, Trường Yên, Kiến Xương, Hồng Khoái, Thanh Hoá,
Hoàng Giang, Diễn Châu. Danh sách này chưa hẳn đúng và đủ tên các lộ
thời Trần. An Nam chí lược của Lê Trắc đưa ra một danh sách 15 lộ,
nhưng chỉ có 6 lộ là có tên trong danh sách của Cương mục.
743 Xem
sự việc chép về năm Mậu Tư (1228) ở trên.
744 Phủ
Kiến Hưng: hay phủ Nghĩa Hưng đời Lê là gồm đất 3 huyện: Nghĩa Hưng,
Ư Yên, Vụ Bản, tỉnh Nam Hà ngày nay. Từ đời Lư đă có hành cung ở Ứng
Phong, có lẽ ở trong đất huyện Ư Yên.
745 Đê
Thanh Đàm: nay là đê Thanh Tŕ.
746 Quư
Do tức hăn Mông Cổ Guyuk. V́ các bản khắc Toàn thư bị sứt chữ hay in
không rơ, nên chữ Do ở đây dễ bị đọc nhầm thành chữ Diền (Bản dịch
cũ, tậ II, 1971, tr.20).
747 Bản
dịch cũ (tập II, 1971, tr.285) chú thích Tứ thiên là 4 vệ Thanh dực,
Tứ thần là 4 vệ Thần sách. Nhưng theo các quân hiệu được chép ở đây
th́ lại có thể nghĩ rằng: Tứ thiên là 2 vệ (tả và hữu) của quân
Thiên thuộc và 2 vệ của quân Thiên Chương; Tứ thánh là 2 vệ của quân
Thánh dực và 2 vệ của quân Chương thánh; Tứ thần là 2 vệ của quân
Thần sách và 2 vệ củ quân Củng thần. Chú ư là đời Trần chỉ thấy nói
đến các quân tả và hữu, chứ không gặp các quân tiền và hậu.
748 Vùng
tỉnh Nam Định cũ, nay thuộc tỉnh Nam Hà.
749 Gồm
phần lớn tỉnh Thái B́nh ngày nay.
750 Vùng
tây Hải Dương.
751 Vùng
nam Hưng Yên.
752 Vùng
tỉnh Ninh B́nh.
753 Vùng
nam Thái B́nh ngày nay.
754 Tức
là đội chèo thuyền, thuỷ thủ của thuyền trên.
755 Tam
khôi: là ba bậc đơ đầu gồm trạng nguyên, bảng nhăn và thám hoa.
756 CMCB6 chép là sông Bà
Mă. Nguyên văn: "Bà Lễ giang", có lẽ là sông Bà Mă và sông lễ gọi
tắt. Bà Mă tu'c sông Mă ở Thanh Hóa, c̣n sông Lễ th́ Cương mục chú
là sông Mă, nhưng có lẽ là sông Chu.
757 Núi Chiêu Bạc: Bản
dịch cũ chú có lẽ là núi Chiếu Bạch (hiện có sông Chiếu Bạch) ở
huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.
758 Nguyên văn là "quốc
gia", ngờ là bản in nhầm. V́ 'quan gia " là tiếng để gọi vua đời
Trần, thường hay gặp. Chưa có sách nào gọi vua là "quốc gia". Chúng
tôi sửa lại.
759 Nguyên văn là "trần
hợp kế đồ", có người hiểu "đồ" theo nghĩa Nôm là "đồ đạc". CMCb6
chép là "bày đồ quư báo".
760 Tức phủ Ứng Hoa đời
sau, tương ứng với các huyện Ứng Ḥa, Mỹ Đức, Chương Mỹ, Thanh Oai,
tỉnh Hà Tây ngày nay.
761 Chỉ 72 học tṛ xuất
sắc của Khổng Tử (Thất thập nhị hiền).
762 Nguyên văn chử Hán là
"quan điiền".
763 CMCB6 chú Quốc Lặc
người huyện Thanh Lâm (châu Hồng); Trương Xán người huyện Tế Giang
(lộ Bắc Giang); Trần Uyên người huyện Đường Hào (châu Hồng).
764 Trại Quy Hóa: thời
Trần gồm đất tỉnh Yên Bái, phần hữu ngạn sông Hồng và đất các huyện
sông Thao, Thanh Ḥa và Yên Lập, tỉnh Vĩnh Phú hiện nay.
765 Tên Mông Cổ là
Uy-ry-ang-kha-đai (Uriyangqadai), có sách phiên âm là Ngột Lương Hợp
Thai hay Ngột Lương Cáp Thai.
766 Có lẽ là chổ sông Cà
Lồ gặp quốc lộ số 2, tức là vùng gần Hương Canh, huyện B̀nh Xuyên
(nay là huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phú).
767 Nguyên văn: "Khuyến
đế trú dịch thị chiến". "Trú dịch" nghĩa là "ở lại dịch trạm", dùng
ở đây không phù hợp. Chúng tôi ngờ rằng đó là hai chữ "trú tất" có
nghĩa là "dừng lại", "dừng xe ngự", một kiểu nói đối với vua. Chữ
tất đă bị chép lầm thành chữ dịch do dạng chữ gần giống nhau.
768 Thời Trần, gọi đoạn
sông Hồng từ Bạch Hạc trở xuống là sông Lô.
769 Sông Thiên Mạc: theo
Cương mục là khúc sông Hồng chảy qua vùng băi Mạn Trù, nay thuộc xă
Tân Châu, huyện Châu Giang, tỉnh Hải Hưng.
770 'Nhập Tống" nghĩa là
chạy vào đất Tống. Bấy giờ nhà Tống c̣n giữ miền nam nước Tống.
771 Du binh: Cánh quân
nhỏ có nhiệm vụ tuần tra hay đột kích cũng gọi là du ky.
772 Khúc sông Hồng ở phía
trên Nam Định, khoảng ngă ba Tuần Vường.
773 Theo Tả truyện, Dương
Châm là người đánh xe cho hoa Nguyên nước Tống. Tống và trịnh sắp
đánh nhau, Hoa Nguyên làm thịt dê cho binh sĩ ăn, nhưng không cho
Dương Châm dự. Khi đánh nhau, Dương Châm nói: Thịt dê hôm trứơc là
quyền ở ngoài, đánh nhau hôm nay là việc của tôi, rối đánh xe chạy
theo quân Trịnh, nước Tống do vậy bị thua. Chữ "Trịnh" ở Toàn thư
phải sửa là chữ "Tống".
774 Trong Bát quái, quẻ
Càn chỉ cha, quẻ Chấn chỉ con trưởng.
775 Đúng ra là Thái Tông
nhường ngôi.
776Tam muội : (hay Tam ma
địa, Tam ma đế...) là phiên âm tiếng Phạn Samàdhi, có nghĩa là tập
trung tư tưởng cao độ, được coi là thiền định (dhyàna) ở bậc cao.
Theo Phật giáo, đạt được phép Tam muội th́ ĺa dứt được mọi tạp
niệm, tà đoan, tâm linh không c̣n bị xao động nữa.
777Nhất thừa : tiếng Phạn
là ekayàna, có nghĩa là "cỗ xe duy nhất". Phật giáo quan niệm giáo
pháp của ḿnh là cỗ xe duy nhất có thể chở người ta đến Nát Bàn. Ở
đây có nghĩa là giáo lư của nhà Phật.
778 Theo truyền thyết
Trung Quốc, Đại Vũ thay Cổn trị thủy, đến Đồ Sơn, gặp người con gái
biến thànnh con cáo trắng 9 đuôi, Vũ lấy người đó. Người con gái Đồ
Sơn đă giúp Vũ hoàn thành công việc trị thủy. Sau Vũ được vua Thuấn
truyền ngôi, trở thành ôn g vua đầu tiên của nhà Hạ.
779 Tên Mông Cổ là
Khu-bi-lai (Qubilai), thư tịch Trung Quốc phiên âm là Hốt Tất Liệt
hay Hốt Tất Lai. Hốt Tất Liệt lên ngôi năm 1260, miếu hiệu là Nguyên
Thế Tổ, niên hiệu là Trung Thống.
780 Đây là nội dung tóm
tắt tờ chiếu thư của Hốt Tất Liệt. Nguyên văm xem An Nam chí lược ,
quyển 2, phần Đại Nguyên chiếu thế.
781 Bản khắc Toàn thư đă
khắc nhầm chử Đại? thành chử Thiên?. Đại Định là niên hiệu của Dương
Nhật Lễ. Dương Nhật Lễ là con người phường chèo, cướp ngôi nhà Trần
(1369), các vương hầu tôn thất nhà Trần đem quân dàn các nơi đón
Trần Phủ (Trần Nghệ Tông) từ trấn Đà Giang về kinh đô giành lại ngôi
vau cho nhà Trần.
782Thi Kinh, Tiểu nhă có
câu: "Tông Tử duy thành" thường được hiểu với ư nghĩa là người tôn
thất như bức thành bảo vệ triều đ́nh, ư nói vương hầu tôn thất nhà
Trần là bức tường thành bảo vệ ngai vàng vua Trần.
783 Quan chức đời xưa,
mỗi cấp bậc chia làm nhiều tư, đủ số tư nhất định th́ thăng một cấp.
784 Nguyên văn: "Bạch Hạc
giang cửu phù sa", chưa rơ nghĩa, tạm dịch như trên.
785Mă Hợp Bộ : là phiên
âm của Mahmud (Ma-hơ-mút), một tín đồ HồI giáo làm quan cho Hốt Tất
Liệt.
786 Thuộc tỉnh Quảng Tây,
Trung Quốc.
787 Câu đương: chức dịch
trong xă, giữ việc bắt bớ, giải tống.
788 Nậu Lạt Đinh là phiên
âm từ Nu-rát-Din (Nurad-Din), một tín đồ Hồi Giáo làm quan cho nhà
Nguyên, Nguyên sử phiên âm là Nột Lạt Đinh.
789 Trước lần xâm lược
Đại Việt năm 1258, nhà Nguyên sai sứ sang doạ nạt, yêu sách. Nhà
Trần đă bắt giam bọn chúng.
790 Chỉ lần tiến quân xâm
lược Đại Việt năm 1258 của quân Nguyên do Ngột Lương Hợp Thai chỉ
huy.
791 Phả hệ của Hoàng gia
gọi là "ngọc diệp".
792 Cành vàng lá ngọc,
chỉ ḍng dơi quyền quí. Ở đây là ḍng dơi nhà vua.
793 Tức là đồ dẫn về tang
phục theo 5 bậc, ứng với quan hệ gần xa đối với người chết.
794 Nguyên sử, q.209 chép
việc này vào tháng 9 năm Chí Nguyên năm thứ 4 (1267).
795 Tức Hốt Lung Hải Nha
trong Nguyên sử, phiên âm từ tiếng M
796 Phiên âm từ tiếng
Mông Cổ U-ry-ang (Uriyang).
797 Nguyên văn chép:
"Khiển Đồng Từ Đỗ Dă Mộc như Nguyên". Có người hiểu là sai đồng tử
(tức trẻ con) tên là Đỗ Dă Mộc sang Nguyên (Bản dịch cũ q.II, 1971,
tr.42 và tr.290). Nhưng An Nam chí lược q.14, chép rơ: "Sai đại phu
Đồng Tử Dă, Đỗ Mộc Cống".
798 Lời chú Bản dịch cũ
(q.II, 1971, tr.209) ngờ rằng tên Hồi Kê ? là Hồi Cốt ?). Hồi Cốt
hay Hồi Hột, Hồi Hoạn là dân tộc Uigur ở Tân Cương. Chắn người Tống
nhận ḿnh là người Hồi Hột để tránh quân Nguyên.
799 Tức thái tử.
800 Trừ cung: cũng là
thái tử. Trừ cung giáo thụ là chức thày học của thái tử.
801 Tức nhật thực toàn
phần.
802 An Nam chí lược chép:
"...sai đại phu Lê Khắc Phục, Lê Văn Túy đi cống". Nguyên sử chép:
"...sai Lê Khắc Phục, Văn Túy vào cống". Lê Túy Kim chắc là Lê Văn
Túy.
803 Tức Kha-xa Kha-y-a
(Qasar Qaya), tên này được Hốt Tất Liệt cử làm Đạt lỗ hoa xích ở Đại
Việt từ tháng 3 năm 1275. Toàn thư chép lầm 1 năm.Yêu sách 6 điểm
của Hốt Tất Liệt là: quân trưởng phải vào chầu, con em phải làm con
tin, kê sổ hộ khẩu, thu nộp thuế má, điều động quân giúp việc binh,
đặt chức Đạt lỗ hoa xích để thống trị (Theo an Nam chí lược q.2, Đại
Nguyên chiếu chế).
804 CMCB7 chú là động Man
ở phủ lộ Bố Chính, tức vùng Quảng B́nh ngày nay.
805 Thái Tông nhà Đường
tên là Lư Thế Dân, sau khi cha là Lư Cao Tổ chết, Thế Dân đem quân
phục ở cửa Huyền Vũ, giết hai người anh là Kiến Thành và Nguyên Cát
để đoạt ngôi vua.
806 Yên Sinh: là thực
thấp của Trần Liễu, sau khi Liễu nổi loạn chống lại Trần Thái Tông.
Khi Trần Liễu chết, được truy phong tước vương, nhân đất phong mà
gọi là Yên Sinh Vương.
807 Chỉ Khổng giáo hay
Nho giáo.
808 Nguyên sử chép là Sài
Thung, hai chữ Thung và Xuân gần giống như nhau nên dễ lẫn. Trước
đây, các sứ bộ của Đại Việt và Mông Cổ đều đi qua đường Côn Minh
(Vân Nam). Lần này, bọn Sài Thung đi thằng từ Giang Lăng (Hồ Bắc),
qua Ung Châu (Quảng Tây) để vào nước ta, nên Toàn thư mới nói là đi
theo đường Hồ Quảng về nước.
809 Nguyên sử chép là
Trịnh Quốc Toản.
810 Thượng hoàng Thái
Tông và vua Thánh Tông.
811 Nhai Sơn: ở phía nam
huyện Tân Hội, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
812 Chỉ quân xâm lược
Nguyên Mông 3 lần sang đánh nước Đại Việt vào các năm 1258,1285,
1288 và đều bị thất bại.
813 An Nam chí lược và
Nguyên sử chép là: ... phong Di Ái làm An Nam Quốc Vương, Lê Mục làm
Hàn lâm học sĩ, Lê Tuân làm Thượng thư...
814 Bản dịch cũ (tập II,
1967. tr.47) in nhầm là 5.000 quân.
815 Từc Trần Di Ái
816 Có lẽ lả đạo quân
Tống lưu vong do nhà Trần thu nạp.
817 Tức Lạng Sơn.
818 Toa Đô: tên Mông Cổ
là Xôghetu (Sôgatu). Thực ra Toa Đô mang 5.000 quân đi đường thủy từ
Quảng Châu đánh Chiêm Thành từ tháng 11 năm Nhâm Ngọ (1282), c̣n kẻ
chỉ huy 50 vạn quân Nguyên xâm lược Đại Việt là Thoát Hoan và Lư Hải
Nha.
819 Tức sông Hồng.
820 Hán Dũ: tên tự là
Thối Chi, người Nam Dương, Trịnh Châu đời Đường, có tài văn thơ.
Tương truyền rằng: Khi làm quan ở Triệu Châu, thấy nơi đó có nhiều
cá sấu, Hàn Dũ làm bài văn tế cá sấu ném xuống nước, cá sấu liền bỏ
đi hết.
821 Đoạn sông Lục Đầu
chảy qua huyện Chí Linh tỉnh Hải Hưng ngày nay.
822 Vũng Trần Xá: (Trần
Xá loan), có lẽ là chổ hợp lưu hai con sông Thái B́nh và Kinh Thầy.
Chỗ này về sau vẫn c̣n xă Trần Xá.
823 Thiên tử nghĩa nam:
con nuôi của vua.
824 KHông có tên thái tử
Nguyên nào là A Thai. Cương mục q.7 cho là do sử của ta lầm. Trong
cuộc chiến tranh này, tướng chỉ huy của quân Nguyên là Thoát Hoan và
A Lư Hải Nha.
825 A Lạt: hay A Lư Hải
Nha, là phiên âm tên quan B́nh chương nhà Nguyên A-ríc Kha-y-a
(Ariq-Qaya). Toàn thư có chỗ lầm thành hai người.
826 Hồ Quảng: gồm Hồ Nam,
Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc ngày nay. Nhà Nguyên đặt Hồ
Quảng hành trung thư tỉnh, gọi tắt là hành tỉnh Hồ Quảng để thống
trị khu vực đất đai nói trên và phụ trách việc thôn tính các nước
Đông Nam Á, cũng gọi là hành tỉnh Kinh Hồ hoặc là hành tỉnh Kinh
Hồ-Chiêm Thành
827 Xă Đàn: tức Xă tắc
đàn là nơi vua chúa phong kiến tế lễ thần đất và thần mùa màng ngày
xưa, đắp bằng đất, có 2 bậc, nên gọi là "đàn".
828 Đông Bộ Đầu: tức bến
sông Hồng phía trên cầu cầu Long Biên gần dốc Hàng Than, Hà Nội ngày
nay.
829 Hành tỉnh Kinh Hồ
cũng là hành tỉnh Hồ Quảng: xem chú thích về Hồ Quảng ở BK5, 43b.
830 Theo An Nam chí lược
và Nguyên sử, Trần Phủ tức Trần Khiêm Phủ, tước trung đại phu.
831 Tên Mông Cổ là Tô-gan
(Toghan), thư tịch Trung Quốc phiêm âm là Thoát Hoan, là con của Hốt
Tất Liệt.
832 Ở đây Toàn thư nhầm,
A Lạt và A Lư Hải Nha chỉ là một người, tức Ariq-Qaya.
833 Ải Nội Bàng: vùng
Chũ, tỉnh Hà Bắc ngày nay, nơi đóng bản doanh của Hưng Đạo Vương
Trần Quốc Tuấn.
834 Ải Chi Lăng: thuộc
huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn ngày nay.
835 Vạn Kiếp: nay là vùng
Vạn Yên, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng.
836 Hải Đông: Chỉ chung
vùng Hải Dương cũ (nay thộc tỉnh Hải Hưng) và Hải Pḥng hiện nay.
837 Vân Trà, Ba Điểm: là
hai hương thuộc lộ Hải Đông bấy giờ. Hương Vân Trà hay Trà Hương là
vùng Kim Thành, tỉnh Hải Hưng ngày nay.
838 "Chuyện cũ Cối Kê":
là chuyện Câu Tiễn, vua nước Việt thời Chiến Quốc, đánh nhau với
nước Ngô, chỉ c̣n một ngàn quân lui giữ Cối Kê, mà sau đánh bại Ngô
Phù Sai, khôi phục được đất nước.
839 Hoan, Diễn: chỉ vùng
Nghệ Tỉnh ngày nay.
840 Bàng Hà: đất huyện
Thanh Hà cũ nay thuộc huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Hưng và huyện Tiên
Lăng, Hải Pḥng.
841 Na Sầm: tức Na Ngạn,
thuộc đất huyện Lục Ngàn, tỉnh Hà Bắc ngày nay.
842 Long Nhăn: nay thuộn
Yên Dũng, tỉnh Hà Bắc.
843 Dă Tượng: nghĩa là
voi rừng, Yết Kiêu: là tên loài chó săn ngắn mơm. Dùng tên thú đặt
cho người, nói lên địa vị làm "nô" thấp kém của họ. Trong cuộc kháng
chiến chống quân Nguyên đời Trần, các nô tỳ có một vai tṛ rất lớn.
844 Băi Tân: là một địa
điểm trên sông Lục Nam.
845 Bắc Giang: tức là
vùng đất tỉnh Bắc Ninh cũ, nay thuộc tỉnh Hà Bắc.
846 Ô Mă Nhi: phiên âm từ
tên Hồi giáo Omar.
847 Núi Phả Lại: tức là
núi ở xă Phả Lại, cạnh sông Lục Đầu, đối diện với thị trấn Phả Lại,
huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng.
848 Thực ra, ngày mồng 6
tháng giêng mới chỉ là ngày Ô Mă Nhi đánh vào pḥng tuyến sông B́nh
Than. Măi đến ngàu mồng 9 (14-2- 1258), sau trận thủy chiến lớn,
quân ta mới rút.
849 Vũ Ninh: sau là Vơ
Giàng, nay là huyện Quế Vơ, tỉnh Bắc Ninh.
850 Đông Ngàn: tức là
huyện Từ Sơn, nay là huyện Tiên Sơn, tỉnhBắc Ninh.
851 Thát: tức là Thát
Đát, phiên âm từ Ta-ta (Tatar hay Tarta) chỉ người Mông Cổ. Sát Thát
nghĩa là giết giặc Thát Đát.
852 Ngựa kỳ, ngựa kư: chỉ
những loại ngựa quư, ngựa tốt.
853 Hàn Tín: là tướng của
Hán Cao Tổ, muốn đánh nước Yên, theo kế của Lư Tả Xa viết thư dụ
trước, quả nhiên nước Yên đầu hàng.
854 Chích: Là một tên
cướp sừng sỏ trong truyền thuyết Trung Quốc.
855 Nghiêu: Là vị hoàng
đế lư tưởng trong truyền thuyết Trung Quốc.
856 Cánh quân do Toa Đô
chỉ huy, được lệnh từ Chiêm Thành, đánh chiếm các châu lộ phía nam
của ta, rối tiến ra bắc, phối hợp với các đạo quân của Thoát Hoan
bao vây tiêu diệt vua tôi và quân đội nhà Trần.
857 Trần Kiện vốn có hiềm
khích vơí hoàng tử Đức Việp. Khi giặc Nguyên sang, Kiện được lệnh
đóng giữ Thanh Hóa, Toa Đô tiến ra Thanh Hóa, Kiện đem bọn liêu
thuộc đầu hàng giặc.
858 Yên KInh: tức kinh đô
nhà Nguyên.
859 Lạng Giang: tức Lạng
Sơn ngày nay.
860 Trại Ma Lục: Ở Chi
L:ăng thuộc châu Lạng Giang thời đó, nay là tỉng Lạng Sơn.
861 Tam Trĩ nguyên: là
sông Ba Chẽ, ở huyện Ba Chẽ, thuộc tỉnh Quảng Ninh.
862 Ngọc Sơn: tên mũi
biển thuộc châu Vạn Ninh tỉnh Quảng Yên đời sau, gần Móng Cái, nay
thuộc tỉnh Quảng Ninh.
863 Chỉ việc Thái Tông
cướp vợ của Yên Sinh Vương Trần Liễu, thân phụ Hưng Đạo Vương.
864 Lời hào cửu tứ, quẻ
Tùy của Kinh dịch: "hữu phu, tại đạo, dĩ minh, bà cửu", nghĩa là:
"Thành thực, phải đạo, sáng suốt sử trí th́ sao có lỗi".
865 Thủy Chú: có lẽ ở vào
khoảng huyện lỵ Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh ngày nay.
866 Sông Nam Triệu: thời
bấy giờ là con sông từ ngă ba Nam Triệu nay là xă Vũ Yên, huyện Thủy
Nguyên, Hải Pḥng chảy ra biển.
867 Cửa biển Đại Bàng nay
là cửa Văn Úc thuộc huyện Kiến An, Hải Pḥng. Biển Đại Bàng là vùng
biển ngoài cửa Văn Úc.
868 Lăo Qua: tức nước Lào
ngày nay.
869 Các sử tịch Trung
Quốc đều chép là Toa Đô xuất phát từ Quảng Châu theo đường biển tiến
đánh Chiêm Thành vào tháng 11 năm Nhâm Ngọ (1282).
870 Ô Lư: tức vùng nam
tỉnh Quảng Trị và tỉnh Thừa Thiên-Huế ngày nay.
871 Châu Hoan: là vùng
Nghệ Tỉnh ngày nay, Châu Ái: là tỉnh Thanh Hóa ngày nay.
872 Tây Kết: ở ven sông
Hồng, khoảng thôn Đông Kết, xă Đông B́nh, huyện Châu Giang, tỉnh Hải
Hưng. Ngày nay, thôn này cách sông Hồng 3km, đất băi (tức băi Mạn
Trù, nay thhuộc xă Tân Châu), nhưng xưa kia sông kề thôn.
873 Hàm Tử Quan: ở xă Hàm
Tử, huyện Châu Giang, Hải Hưng bên sông Hồng.
874 Thát: tức Thát Đát,
xem chú thích 6, tr.50. Ở đây chỉ quân Tống tham gia hàng ngũ chiến
đấu của Nhật Duật.
875 Trường Yên: vùng đất
tỉnh Ninh B̀nh.
876 Chương Dương: theo
CMCB7 th́ Chương Dương là tên bến. Nay ở huyện Thường Tín, tỉnh Hà
Sơn B́nh c̣n có tên xă Chương Dương ở ven sông Hồng.
877 Sông Lô: tức sông
Hồng.
878 Phù Ninh: thuộc tỉnh
Phú Thọ. Cánh quân giặc đến Phù Ninh hẳn là cánh quân rút chạy về
Vân Nam.
879 Động Cự Đà: có lẽ
thuộc xă Tử Đà, huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú ngày nay. Theo thần
tích địa phương th́ Hà Đặc là người xă Tử Đà.
880 Đại Mang Bộ: là tên
bến trên sông Hồng, chưa rơ ở đâu.
881 Có tài liệu ghi là
Toa Đô phóng ngựa rơi xuống nước chết (An Nam chí lược), lại có tài
liệu ghi là Toa Đô chết ở sông Cầu (Nguyên sử)
882 Toa Đô xuất phát từ
Quảng Châu để đánh Chiêm Thành từ năm 1282, đến khi đánh bại, bị
chém đầu ở trận Tây Kết năm 1285, tức là đă 3 năm.
883 Phiên âm từ tiếng
Mông Cổ Kha-xa Kha-ya (Qasar - Qaya).
884 Tên MÔng Cổ là
A-gu-rúc-tri (Auruyvci).
885 Chỉ Lư Hằng và Lư
Quán bị chết trong cuộc chiến tranh 1285.
886 Quân Hán Nam: là quân
người Hán ở nam Trung Quốc, trong khu vực đất nhà Nam Tống cũ, thư
tịch Trung Quốc đời Nguyên thường gọi là quân tân phụ.
887 Tức bốn châu Nhai,
Quỳnh, Đạm, Vạn trên đảo Hải Nam.
888 Thạch: là đơn vị đo
lường thời xưa, mỗi thạch có 10 đấu.
889 Bồ Kiên: là vua tiền
Tần (một nước do tộc Đê lập nên ở bắc Trung Quốc) đem 100 vạn quân
đánh Đông Tấn (Hán tộc), bị các tướng Tấn như Tạ Thạch, Tạ Huyền
đánh tan tác trong trận Ph́ Thủy nổi tiếng. Bồ Kiên sau trận này chỉ
c̣n mười vạn tàn quân chạy trốn về Lạc Dương.
890 Theo Nguyên sử q.149,
trong lần xâm lược này có một chư vương A Thai đi theo cánh quân Vân
Nam do Ái Lỗ chỉ huy, có lẽ Toàn thư lầm ra là thái tử.
891 Ải Lănh Kinh: có lẽ
vào khoảng Đáp Cầu, trên sông Cầu (Hà Bắc), cấm quân đóng ở đây để
chặn đánh cánh quân Nguyên từ Vĩnh B́nh, Chi Lăng đánh xuống.
892 Đầy là trận chặn đánh
cánh quân thủy do Ô Mă Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy ở vùng mũi Ngọc gần
Móng Cái bây giờ.
893 Đại Than: là tên xă,
ở huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc, gần chỗ sông Đuống chảy ra sông Lục
Đầu. Cửa Đại Than tức là cửa sông Đuống.
894 Ở đây, Toàn thư đă
chép nhầm Thoát Hoan thành A Thai. Khi Thoát Hoan tiến quân đến Vạn
Kiếp, th́ cánh quân phía tây của Tŕnh Bằng Phi và cánh thủy quân
của Ô Mă Nhi, Phàn Tiếp cũng đến hội quân ở đấy.
895 Nhân Huệ Vương Trần
Khánh Dư chịu trách nhiệm giữ vùng bờ biển, không chặn nổi thủy quân
giặc, để chúng qua được cửa An Bang tiến về Vạn Kiếp. Vân Đồn nay
tức là Vân Hải, tỉnh Quảng Ninh.
896 Phủ Long Hưng: là đất
huyện Tiên Hưng cũ, nay thuộc huyện Đông Hưng, tỉnh Thái B́nh, nơi
có lăng mộ của họ Trần. Bọn Ô Mă Nhi đă khai quật lăng Trần Thái
Tông để trả thù lần thất bại trước.
897 Trận Đại Bàng là trận
thủy chiến giữa thủy quân nhà Trần với bọn Ô Mă Nhi khi bọn này đi
đón thuyền lương của Trương Văn Hổ. Cửa Đại Bàng nay là cửa Văn Úc ở
huyện Kiến An, Hải Pḥng.
898 Trại Yên Hưng: ở vùng
huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh ngày nay. Sau khi đón thuyền lương
của Trương Văn Hổ không kết quả. Ô Mă Nhi trở về Vạn Kiếp. Trên
đường về, hắn cho quân đi cướp phá một số nơi thuộc An Bang (nay
thuộc tỉnh Quảng Ninh) như trại Yên Hưng.
899 Thực ra, Áo Lỗ Xích
theo Thoát Hoan trốn thoát chứ không bị bắt.
900 Nhiều tài liệu khác
đều ghi là Tích Lê Cơ, hay Tích Lê Cơ Đại Vương. Viên tướng Mông Cổ
này tên là Tích Lê Cơ, c̣n Vương là tước hiệu. Chữ Ngọc? chép lầm từ
chữ Vương?.
901 Đoạn này có nhiều sai
lầm, đă chép lẫn lộn việc Ô Mă Nhi đi đón thuyền lương của Trương
Văn Hổ với trận phục kích đánh bọn Ô Mă Nhi khi chúng rút chạy về
nước.
902 Thoát Hoan theo đường
bộ chạy trốn, đă thoát được, chứ không bị bắt.
903 Âu vàng (kim âu): Là
biểu tượng sự toàn vẹn và vững chắc của lănh thổ một nước.
904 Trung quan: tức là
hoạn quan.
905 Thái Bá làm khanh sĩ
của nhà Chu, không có lệnh của vua nhà Chu, tự tiện sang nước Lỗ,
như vậy là tư giao (Xem Tả truyện, Lỗ An Công năm thứ nhất).
906 Thi Kinh có bài Mọc
qua, ngâm vịnh việc tặng dưa tặng mận cho nhau, ca ngợi quan hệ hữu
hảo tốt đẹp.
907 Bá thuật: là những
thủ đoạn xảo trá để đạt mục đích nhất thời, bất chấp nhân nghĩa. Đối
lập với bá thuật là vương đạo, vương chính, nghĩa là đường lối chân
chính, trọng nhân nghĩa, trọng tín lễ, làm cho người khác thực ḷng
tin phục.
908 Chỉ Lê Lợi: Trong khi
vây đánh thành Đông Quan, Lê Lợi nhiều lần viết thư dụ hàng bọn
Vương Thông, hứa sẽ cho chúng an toàn về nước. Có lần Vương Thông
định nghe theo, nhưng bọn nguỵ quan Lương Nhữ Hốt dẫn việc Hưng Đạo
Vương dùi thuyền giết tù binh, Vương Thông lại ngoan cố chống lại.
Sau khi hai cánh viện binh thất bại, Vương Thông mới chịu đầu hàng.
909 Thời Trần gọi vua là
Quan gia.
910 Thang mộc binh: Lính
hầu trong các ấp thang mộc, tức đất phong của vương hầu.
911 Sai sử hoành: nô tỳ
dùng để sai khiến.
912 Giặc Hồ ở đây chỉ
quân xâm lược Nguyên Mông.
913 Theo An Nam chí lược,
măi đến ngày 18 tháng 3 năm Nhâm Th́n (1292), Trương Lập Đạo mới tới
Khâu Ôn (Ôn Châu, Lạng Sơn).
944Yên Khang: là huyện
Yên Khánh, tỉnh Ninh B́nh.
915 Phùng Tiệp Dư, là một
cung nhân của Hán Nguyên Đế; đứng hầu Nguyên Đế xem chuồng gấu, gấu
bỗng xổng thoát, định trèo lên điện, Tiệp Dư đứng chắn trước vua,
ngăn không cho gấu đụng đến vua.
916 Theo tích Khương Hậu,
vợ Chu Tuyên Vương, Khương Hậu thấy vua hay dậy trưa, khuyên măi
không được, bèn cởi bỏ trâm hoa mà tạ tội. Tuyên Vương từ đấy chăm
chính sự, ra chầu sớm, băi chầu muộn.
917 Tức Lưu Quốc Kiệt,
Bạt Đô là phiên âm tiếng Mông Cổ (baatur), có nghĩa là "dũng sĩ".
"người dũng cảm", là danh hiệu của Lưu Quốc Kiệt.
918 Tĩnh Giang: tức là
huyện Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
919 Nguyên Thế Tổ Hốt Tất
Liệt chết ngày Quư Dậu, tháng giêng, năm Giáp Ngọ (18 tháng 2 năm
1294). Nguyên Thành Tông tức là Thiết Mộc Nhĩ (Tamur) lên ngôi, ra
lệnh băi binh đánh Đại Việt.
Quyển VI
[1a]
Kỷ Nhà Trần
Anh Tông Hoàng Đế
Tên là Thuyên, con trưởng
Nhân Tông, mẹ là Khâm Từ Bảo Thánh hoàng thái hậu, ở ngôi 21 năm,
nhường ngôi 6 năm, thọ 45 tuổi, băng ở cung Trùng Quang, phủ Thiên
Trường, táng ở Thái Lăng. Vua khéo biết kế thừa, cho nên thời cuộc
đi tới thái b́nh, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế độ ngày
càng thịnh vượng, cũng là bậc vua tốt của triều Trần. Song tụ họp
nhà sư trên núi Yên Tử, làm nhọc sức dân dựng gác Ánh Vân, th́ chẳng
phải là tỳ vết nhỏ trong đức lớn đó sao?
Giáp Ngọ, Hưng Long năm
thứ 2 [1294], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ 31). Mùa xuân tháng 2, ngày
mồng 7 ban bố các chữ quốc húy: chữ húy của vua là Thuyên, của Nhân
Tông là Khâm, của Thánh Tông là Hoảng; của Thái Tông là Cảnh, của
Thái Tổ là Thừa, của Nguyên Tổ là Lư; các chữ nội húy: Thánh Từ
hoàng hậu là Phong, Thuận Từ hoàng hậu là Diệu, Hiển Từ hoàng hậu là
Oanh, Nguyên Thánh hoàng hậu là [1b] Hâm.
Tháng 3, lấy Nhập nội
phán thủ thượng vị Chiêu Hoài hầu Hiện làm Đô áp nha, coi giữ các
sắc mục trong ngoài cung Thánh Từ, lấy con Văn Túc Vương920 là Văn
Bích làm Thượng vị Uy Túc hầu.
Mùa thu, tháng 7, ngày
mồng 3, Thượng tướng thái sư Chiêu Minh Đại Vương Quang Khải mất,
thọ 54 tuổi.
Quang Khải lúc mới sinh,
phát chứng kinh suưt chết, Thái Tông lấy áo của Thượng hoàng và
thanh gươm báu truyền quốc để bên cạnh rồi bảo ông: "Nếu sống lại,
sẽ ban cho những thứ này".
Đến khi sống lại, Thái
Tông nói:
"Gươm báu truyền quốc,
không thể trao bừa, chỉ ban cho áo của Thượng hoàng thôi".
Quang Khải có học thức,
hiểu tiếng nói của các phiên921 . Trước kia, Thánh Tông thân đi đánh
giặc, Quang Khải theo hầu, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc có sứ
phương Bắc đến. Thái Tông gọi Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn tới bảo:
"Thượng tướng đi theo hầu
vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc".
Quốc Tuấn trả lời:
"Việc tiếp [2a] sứ giả,
thần không dám từ chối, c̣n như phong thần làm Tư đồ th́ thần không
dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Quang Khải theo
hầu mà bệ hạ lại tự ư phong chức, th́ t́nh nghĩa trên dưới, e có chỗ
chưa ổn, sẽ không làm vui ḷng Quan gia và Quang Khải. Đợi khi xa
giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn".
Đến khi Thánh Tông trở
về, việc ấy lại bỏ đấy, v́ hai người vốn không ưa nhau.
Một hôm, Quốc Tuấn từ Vạn
Kiếp tới, Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Lại
Quang Khải vốn sợ tắm gội, Quốc Tuấn th́ thích tắm thơm, từng đùa
bảo Quang Khải:
"Ḿnh mẩy cáo bẩn, xin
tắm giùm", rồi cởi áo Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và
nói:
"Hôm nay được tắm cho
Thượng tướng".
Quang Khải cũng nói: "Hôm
nay được Quốc công tắm rửa cho".
Từ đó, t́nh nghĩa qua lại
giữa hai người càng thêm mặn mà. Bản thân làm tướng văn, tướng vơ,
giúp rập nhà vua, hai ông đứng hàng đầu.
Quang Khải ham học hay
thơ, có Lạc đạo [2b] tập lưu hành ở đời. Con ông là Văn Túc Vương
Đạo Tái cũng nổi tiếng về văn học thời đó, được Thượng hoàng ưu ái
hơn các em thúc bá khác.
Bấy giờ, Thượng hoàng đến
Vũ Lâm922 vào chơi hang đá, cửa núi đá hẹp, thượng hoàng ngự chiếc
thuyền nhỏ, Tuyên Từ thái hậu ngồi đằng đuôi thuyền, gọi Văn Túc
Vương lên mũi thuyền, chỉ để một người chèo thuyền thôi. Đến khi
thượng hoàng xuất gia, sắp ra đi, mời Đạo Tái vào điện Dưỡng Đức
cung Thánh Từ cho ngồi ăn các món hải vị, làm thơ rằng:
Hồng thấp bác quy cước,
Hoàng hương chích mă an, Sơn tăng tŕ tịnh giới, Đồng tọa bất đồng
xan. (Quy cước923 bóc đỏ ướt, Mă yên nướng vàng thơm, Sơn tăng giữ
trai giới, Cùng ngồi chẳng cùng ăn). Tin yêu, quư mến Đạo Tái đến
như vậy, định dùng ông vào chức to, nhưng trời không cho sống lâu.
Cháu [Quang Khải] là Uy Túc công Văn Bích làm Thái bảo thời Minh
Tông, chắt là Chương Túc quốc thượng hầu Nguyên Đán là Từ đồ đời
Nghệ Tông cũng có danh tiếng. Đức trạch [của Quang Khải] thực sâu
dày, cùng hưởng phúc với nhà vua từ trước đến sau.
[3a] Tháng 8, Thượng
hoàng đích thân đi đánh Ai Lao, bắt được người và súc vật nhiều
không kể xiết. Trong chiến dịch này, Trung Thành Vương (không rơ
tên) làm tiên phong, bị quân Ai Lao bao vây, Phạm Ngũ Lăo dẫn quân
ập tới, giải vây, rồi tung quân nghênh chiến, đánh bại quân Ai Lao.
Ban kim phù cho Ngũ Lăo.
Tháng 9, lấy ngày sinh
làm tiết Sùng Thiên.
Thiếu bảo Đinh Củng Viên
mất, vua tôn trọng không gọi tên ông.
Ất Mùi, [Hưng Long] năm
thứ 3 [1295], (Nguyên Thành Tông Mộc Nhĩ Nguyên Trinh năm thứ 1).
Mùa xuân, tháng 2, ngày mồng 1, sứ Nguyên Tiêu Thái Đăng sang.
Vua sai Nội viên ngoại
lang Trần Khắc Dụng, Phạm Thảo cùng đi theo, nhận được bộ kinh Đại
Tạng đem về để ở phủ Thiên Trường, in bản phó để lưu hành.
Mùa hạ, tháng 6, Thượng
hoàng trở về kinh sư. V́ [trước] đă xuất gia ở hành cung Vũ Lâm rồi
lại trở về.
Bấy giờ, Tuyên Từ thái
hậu từ khi Khâm Từ băng, phải quản việc trong cung, tính người khó
khăn nóng nảy, dạy bảo rất nghiêm, mà vua vâng theo rất kính cẩn.
Thượng hoàng [3b] nói [với vua]:
"Cha tự thẹn xưng là Hiếu
Hoàng, nên dùng danh hiệu ấy để gọi Quan gia th́ phải".
Ngày 13, người đàn bà ở
phường Tây Nhai phía hữu kinh thành là Lê Thị Ta nghe tin chồng là
Phạm Mưu đi sứ nước Nguyên ốm mất, thương nhớ không ăn 3 ngày rồi
cũng mất. Việc ấy tâu lên, [vua] cho bạc lụa để viếng.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
Công chúa Thiều Dương nghe tin Thái Tông băng, kêu gào măi rồi chết;
Lê thị nghe tin chồng chết, không ăn mà chết; Mỵ Ê phu nhân tiết
nghĩa không thờ hai chồng, nhảy xuống sông mà chết; vợ Ngô Miễn là
Nguyễn Thị không phụ nghĩa chồng, cũng nhảy xuống sông chết theo
chồng. Mấy người này đức hạnh thuần hiếu, trinh tiết, trên đời thực
không có nhiều. Các vua đương thời nêu khen họ để khuyến khích đời
sau thực là phải lắm! Nhưng Thiều Dương và Nguyễn thị chưa được nêu
khen, cho nên bàn chung cả ở đây.
Truy tặng Đinh Củng Viên
làm Thiếu phó.
Mùa thu, tháng 8, thi con
trai các quan văn từ miện sam924 trở xuống [4a]ở nha An Hoa, sung bổ
làm thuộc viên nha ấy.
Bính Thân, [Hưng Long]
năm thứ 4 [1269], (Nguyên Trinh năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 3,
Thượng phẩm Nguyễn Hưng đánh bạc, [vua sai] đánh chết.
Phan Phu Tiên nói: Luật
pháp nhà Trần nghiêm cấm đánh bạc đến như vậy, thế mà đến đời Dụ
Tông lại công nhiên làm bậy, gọi là những người giàu vào cung đánh
bạc, rồi sau người trong nước bắt chước cái dở ấy, không thể ngăn
cấm được nữa. Cuối cùng v́ tệ đánh bạc mà rồi mất nước.
Nhân Huệ Vương Khánh Dư
từ Bài Áng vào chầu.
Người trong trấn kiện
Khánh Dư tham lam thô bỉ. Hành khiển đem sự trạng tâu lên. Khánh Dư
nhân đó tâu vua:
"Tướng là chim ưng, dân
lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng th́ có ǵ là lạ?".
Vua không hài ḷng, Khánh
Dư bèn trở về. Khánh Dư vào chầu không quá 4 ngày đă trở về, v́ sợ ở
lâu bị vua khiển trách.
Mùa thu, tháng 7, vua
[4b] ngự đến Đông Bộ Đầu xem đua thuyền. Được mùa to.
Đinh Dậu, [Hưng Long] năm
thứ 5[1279], (Nguyên Đại Đức năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 2, duyệt
định dân binh các xă trong cả nước, bắt đời đời làm lính, không được
làm quan theo quy chế cũ.
Đổi giáp thành hương.
Sai Chiêu Văn Vương Nhật
Duật đi đánh sách A Lộc. Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng đi đánh sách
Sầm Tử.
Ai Lao
xâm phạm sông Chàng Long. Phạm Ngũ Lăo đánh bại chúng, lấy lại được
đất cũ. Ban vân phù cho Phạm Ngũ Lăo.
Mùa hạ,
tháng 4, lấy Trần Th́ Kiến làm Kiểm pháp quan, nhậm chức Đại an phủ
Kinh sư.
Th́ Kiến
tính người cương trực, trước kia làm môn khách của Hưng Đạo Vương,
Vương tiến cử ông, được cất nhắc làm An phủ sứ Thiên Trường. Có
người trong hương, nhân ngày giỗ đem biếu mâm cỗ, Th́ Kiến hỏi v́ cớ
ǵ mà biếu. Người ấy trả lời là v́ ở gần trị sở [nên đem biếu] chứ
không kêu xin ǵ. Mấy ngày sau, quả nhiên có việc kêu xin. Th́ Kiến
[5a] móc họng mửa ra. Đến đây lại được thăng làm Kiểm pháp quan. Mỗi
khi có kiện tụng, th́ dùng lư lẽ mà bắt bẻ, việc đến th́ t́m phương
pháp để ứng phó. Người đời đều cho là giỏi xét đoán kiện tụng (Th́
Kiến người Cự Sa, huyện Đông Triều).
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Th́ Kiến hành động lạ lùng quá mức để uốn nắn cái
tệ xin xỏ của người bấy giờ, cũng như Án Anh tằn tiện quá mức để uốn
nắn cái thói xa xỉ tiếm lễ của Quan Trọng vậy.
Mùa đông,
tháng 10, sai phủ tông chính khảo chính phả hệ của họ nhà vua.
Mậu Tuất,
[Hưng Long] năm thứ 6 [1298], (Nguyên Đại Đức năm thứ 2). Mùa xuân,
ban hai chữ húy là Ngụy và Châu.
Mùa thu,
tháng 8, cấm mọi người không được xưng là "thần" với các nhà đại
thần tôn thất.
Thi đánh
gậy.
Tháng 9,
gió lớn mưa to.
Mùa đông,
tháng 10, đánh Ai Lao. Tướng Nguyên đầu hàng là Trương Hiển chết tại
trận, được tặng tước minh tự, cho thờ ở Thái Thường.
Lấy Phạm
Ngũ Lăo làm Hữu kim ngô vệ đại [5b] tướng quân. Đặt [các quân hiệu]
Thượng đô925 , Thủy dạ xoa đô, Chân kinh đô, thích các chữ như "Chân
kim"... lên trán.
Tháng 12,
sao Chổi mọc ở phương đông. Vua lánh không ở chính điện, giảm món
ăn.
Lấy Ngự
sử đại phu Trần Khắc Chung làm Đại an phủ Kinh sư.
Lấy Trần
Th́ Kiến làm Nhập nội hành khiển hữu gián nghị đại phu. Vua ban cho
ông cái hốt có khắc bài minh ngự chế.
Thái sơn
trinh cao, Tượng hốt trinh liệt, Linh trăi tiến giác, Vi hốt nam
chiết. (Thái sơn rất cao, Hốt ngà rất cứng, Linh trăi926 dâng sừng,
Làm hốt khó găy). Kỷ Hợi, [Hưng Long] năm thứ 7 [1299], (Nguyên Đại
Đức năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 4, ngày 12, xuống chiếu cấm chữ húy
của Khâm Minh Đại Vương và Thiện Đạo quốc mẫu (Khâm Minh tên húy là
Liễu, Thiện Đạo tên húy là Nguyệt; Thiện Đạo là phu nhân của Liễu)
khi làm văn không được dùng. Các các chữ Ngụy, Thấp, Nam, Càn, Tô,
Tuấn, Anh, Tảng khi làm văn phải viết bớt nét. Nhà Trần kiêng tên
huư họ ngoại bắt đầu từ đây.
Lấy Phạm
Ngũ Lăo làm Thân vệ tướng quân kiêm quản quân Thiên thuộc phủ Long
Hưng.
[6a]
Tháng 5, lấy Đoàn Nhũ Hải làm Ngự sử trung tán.
Bấy giờ
Thượng hoàng từ phủ Thiên Trường trở về kinh sư. Các quan trong
triều không ai biết cả, vua th́ uống rượu xương bồ say khướt. Thượng
hoàng thong thả đi thăm khắp các cung điện, từ giờ Th́n đến giờ Tỵ.
Cung nhân dâng bữa, Thượng hoàng ngoảnh nh́n không thấy vua, lấy làm
lạ, hỏi là Quan gia ở đâu? Cung nhân vào trong nội đánh thức, nhưng
ngài không tỉnh. Thượng hoàng giận lắm, lập tức trở về Thiên Trường,
xuống chiếu cho các quan ngay ngày mai đều phải tới phủ Thiên Trường
để điểm danh, ai trái lệnh sẽ bị xử tội.
Đến giờ
Mùi vua mới tỉnh, cung nhân đem việc ấy tâu lên. Vua sợ quá, đi rảo
ra khỏi cửa cung không thấy ai coi giữ; qua chùa Tư Phúc, thấy học
sinh Đoàn Nhữ Hài ở cửa chùa. Vua hỏi: "Sao ngươi
lại ở
đây?". Nhữ Hài vội vàng lạy rạp xuống đất tâu: "Thần v́ măi học, đi
lỡ ra đây". Vua bèn dẫn Nhữ Hài vào buồng ngủ và bảo:
"Vừa rồi
trẫm v́ say rượu, có tội với Thượng hoàng, giờ trẫm định đến [6b]
trước mặt ngài tạ tội, ngươi hăy thảo cho trẫm bài biểu".
Nhữ Hài
đứng trước mặt vua, soạn xong tờ biểu. Vua bèn lấy thuyền nhẹ đi
ngay, cho Nhữ Hài theo ḿnh.
Sáng sớm
hôm sau, vua tới phủ Thiên Trường, dâng biểu tạ tội. Thượng hoàng
thấy Nhữ Hài, liền hỏi là người nào. Nội nhân trả lời là người dâng
biểu của Quan gia. Thượng hoàng không nói ǵ.
Buổi
chiều, mưa gió ập đến. Nhữ Hài vẫn cứ quỳ không nhúc nhích. Thượng
hoàng hỏi: "Người ở trong sân có c̣n đấy không?". Nội nhân đáp rằng
c̣n. Thượng hoàng bèn sai nhận biểu để xem, thấy lời lẽ khẩn thiết
cho gọi vua vào bảo:
"Trẫm c̣n
có con khác, cũng có thể nối ngôi được. Trẫm đang sống mà ngươi c̣n
như thế, huống chi sau này?".
Vua rập
đầu tạ tội. Thượng hoàng hỏi: "Ai soạn biểu cho ngươi".
Vua thưa:
"Đó là thư sinh Đoàn Nhữ Hài".
(Sử cũ
chép việc này vào năm Mùi đời Minh Tông nay xét nên để ở đây).
Thượng
hoàng bèn gọi Nhữ Hài vào và bảo: "Bài biểu ngươi soạn, rất hợp ḷng
trẫm".
Rồi xuống
chiếu cho Quan [7a] gia lại vẫn làm vua; các quan về triều như cũ.
Vua từ
Thiên Trường trở về [Kinh], phong Nhữ Hài làm Ngự sử trung tán. Bấy
giờ có người ghen Nhữ Hài tuổi trẻ làm quan to, làm thơ chế giễu
rằng:
Phong
hiến luận đàm truyền cổ ngữ, Khẩu tồn nhữ xú Đoàn trung tán. (Ôn câu
chữ cổ: Đài ngự sử, Miệng sữa c̣n hôi: Trung tán Đoàn). Nhữ Hài là
cận thần của vua. Vua nói năng hành động ǵ đều được biết cả. Đến
khi nhận chức này, xem thực lục của sử thần chép, có chổ lầm lẫn,
bèn sửa lại cho đúng, rồi đốt bỏ bản thảo cũ đi.
Vua bái
yết sơn lăng.
Tháng 6,
tế khắp các thần kỳ núi sông.
Mùa thu,
tháng 7, xây am Ngự Dược trên núi Yên Tử.
Tháng 8,
Thượng hoàng từ phủ Thiên Trường lại xuất gia vào núi Yên Tử tu khổ
hạnh.
Thượng
hoàng có lần ngự cung Trùng Quang, vua đến chầu, quốc công Quốc Tuấn
đi theo. Thượng hoàng nói:
"Nhà ta
vốn là người hạ lưu (thủy tổ người Hiền Khánh), đời đời chuộng dũng
cảm, thường xăm h́nh rồng vào đùi. Nếp nhà theo nghề vơ, nên [7b]
xăm rồng vào đùi để tỏ là không quên gốc".
Bấy giờ
thợ xăm đă đợi mệnh ở ngoài cửa cung. Vua ŕnh lúc Thượng hoàng quay
nh́n chỗ khác, về ngay cung Trùng Hoa. Một lúc lâu, Thượng hoàng hỏi
Quan gia đâu rồi, các quan tả hữu thưa là đă về cung Trùng Hoa.
Thượng hoàng bảo: "Quan gia đă trốn rồi chăng? th́ xăm cho Huệ Vũ
Quốc Chẩn vậy".
Quốc phụ
có xăm h́nh rồng ở đùi, mà về sau nối ngôi không xăm ở đùi nữa là
bắt đầu từ Anh Tông.
Lại hồi
quốc sơ, quân sĩ đều xăm h́nh rồng ở bụng, ở lưng và hai bắp đùi,
gọi là "thái long" (rồng hoa).V́ khách buôn người Tống thấy dân Việt
ta xăm h́nh rồng, lỡ gặp gió băo thuyền đắm, thuồng luồng không dám
phạm tới, cho nên gọi là "thái long".
Vua thích
vi hành, cứ đêm đến, lại lên kiệu, cùng với hơn chục thị vệ đi khắp
trong kinh kỳ, gà gáy mới trở về cung. Có đêm, ra đến quân phường,
bị bọn vô lại ném gạch [8a] trúng vào đầu vua. Người theo hầu thét
lên: "Kiệu vua đấy". Bọn chúng biết nhà vua, mới tan chạy cả. Một
hôm, thượng hoàng thấy đầu vua có vết thương, vặn hỏi, vua cứ thực
mà thưa. Thượng hoàng giận giữ hồi lâu.
In các
sách Phật giáo pháp sư, Đạo trường tân văn và Công văn cách thức ban
hành trong cả nước.
Tháng 9,
xuống chiếu rằng từ năm Canh Dần (1290), Tân Măo (1291) đến nay,
phàm bán ruộng đất và mua gia nhân làm nô th́ cho được chuộc, nếu để
quá năm nay th́ không cho chuộc nữa.
Xuống
chiếu cho sĩ nhân trong nước ôn luyện để đợi thi.
Lấy nội
quan Trần Hùng Thao làm Tham tri chính sự, đồng tri Thánh Từ cung tả
ty sự. Sau Hùng Thao can tội phê án tha người nên băi chức.
Canh Tư,
[Hưng Long] năm thứ 8 [1300], (Nguyên Đại Đức năm thứ 8). Mùa xuân,
tháng giêng, ngày 27, động đất 3 lần, suốt từ giờ thân đến giờ tư
mới thôi.
Tháng 3
nhuận, Trần Quốc Khang chết.
Quốc
Khang từng cai trị Diễn Châu, chọn [8b] con gái đẹp trong châu làm
vợ lẽ nàng hầu, nên các con thứ như Huệ Nghĩa, Quốc Trinh đều do các
bà Diễn Châu sinh ra. Về sau chức Tri châu Diễn Châu đều do con cháu
Quốc Khang làm cả. Đến khi ḍng giống thiếu người nối dơi, mới dùng
người trong châu làm chức ấy.
Mùa hạ,
tháng 4 (không chép ngày), mặt trời rung động.
Tháng 5,
ngày 16, xuống chiếu rằng các quan văn vơ trong triều ai mới có chữ
phê mà không có ấn trướng hạ927 th́ phải giảm 1 tư, người có công
đánh dẹp th́ không phải giảm (đó là xét những thiếp ban cho trong
thời gian mất ấn).
Người đàn
bà lộ Hồng đẻ một con trai có hai đầu.
Tháng 6,
ngày 24, sao sa.
Hưng Đạo
Vương ốm. Vua ngự tới nhà thăm, hỏi rằng:
"Nếu có
điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược th́ kế sách như
thế nào".
Vương trả
lời:
"Ngày xưa
Triệu Vũ dựng nước, vua Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế "thanh
dă"928 , đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, c̣n
đoản binh th́ đánh úp phía sau. Đó là [9a] một thời. Đời Đinh, Lê
dùng người tài giỏi, đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc th́ mệt
mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, ḷng dân không ĺa, xây thành B́nh
Lỗ929 mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua Lư mở nền, nhà
Tống xâm phạm địa giới, dùng Lư Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận
Mai Lĩnh930 là v́ có thế.
Vừa rồi
Toa Đô, Ô Mă Nhi bốn mặt bao vây. V́ vua tôi đồng tâm, anh em ḥa
mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại
khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản [binh] chế
trường [trận] là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo
đến như lửa, như gió th́ thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các
tằm ăn, không cầu thắng chóng, th́ phải chọn dùng tướng giỏi, xem
xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, cóđược đội quân
một ḷng như cha
con th́
mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân [9b] để làm kế sâu rễ bền
gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy".
Quốc Tuấn
là con Yên Sinh Vương, lúc mới sinh ra, có một thầy tướng xem cho và
bảo: "[Người này] ngày sau có thể giúp nước cứu đời".
Đến khi
lớn lên, dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, đọc rộng các sách,
có tài văn vơ. Yên Sinh Vương trước đây vốn có hiềm khích với Chiêu
Lăng931 , mang ḷng hậm hực, t́m khắp những người tài nghệ để dạy
Quốc Tuấn. Lúc sắp mất, Yên Sinh cầm tay Quốc Tuấn giối giăng rằng:
"Con
không v́ cha lấy được thiên hạ, th́ cha chết dưới suối vàng cũng
không nhắm mắt được?.
Quốc Tuấn
ghi điều đó trong ḷng, nhưng không cho là phải.
Đến khi
vận nước lung lay, quyền quân quyền nước đều do ở ḿnh, ông đem lời
cha dặn nói với gia nô là Dă Tượng, Yết Kiêu. Hai người gia nô can
ông:
"Làm kế
ấy tuy được phú quư một thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay
Đại Vương há chẳng đủ phú và quư hay sao? Chúng tôi thề xin chết già
làm gia nô, chứ không [10a] muốn làm quan mà không có trung hiếu,
chỉ xin lấy người làm thịt dê là Duyệt làm thầy mà thôi932 .
Quốc Tuấn
cảm phục đến khóc, khen ngợi hai người.
Một hôm
Quốc Tuấn vờ hỏi con ông là Hưng Vũ Vương:
"Người
xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào?".
Hưng Vũ
Vương trả lời:
"Dẫu khác
họ cũng không nên, huống chi là cùng một họ!".
Quốc Tuấn
ngẫm cho là phải.
Lại một
hôm Quốc Tuấn đem chuyện ấy hỏi người con thứ là Hưng Nhượng Vương
Quốc Tảng. Quốc Tảng tiến lên thưa:
"Tống
Thái Tổ vốn là một ông lăo làm ruộng, đă thừa cơ dấy vận nên có được
thiên hạ"933 .
Quốc Tuấn
rút gươm kể tội:
"Tên loạn
thần là từ đức con bất hiếu mà ra", định giết Quốc Tảng, Hưng Vũ
Vương hay tin, vội chạy tới khóc lóc xin chịu tội thay, Quốc Tuấn
mới tha. Đến đây, ông dặn Hưng Vũ Vương:
"Sau khi
ta chết, đậy nắp quan tài đă rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng".
Mùa thu,
tháng 8, ngày 20, Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn mất ở phủ đệ Vạn Kiếp,
được tặng Thái sư [10b] thượng phụ thượng quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo
Đại Vương.
Thánh
Tông có soạn bài văn bia ở sinh từ [của Quốc Tuấn], ví ông với
Thượng phụ [ngày xưa]934 . Lại v́ ông có công lao lớn, gia phong là
Thượng quốc công, cho phép ông được quyền phong tước cho người khác,
từ minh tự trở xuống, chỉ có tước hầu th́ phong tước rồi tâu sau.
Nhưng Quốc Tuấn chưa bao giờ phong tước cho một người nào. Khi giặc
Hồ vào cướp, Quốc Tuấn lệnh cho nhà giàu bỏ thóc ra cấp lương quân,
mà cũng chỉ cho họ làm lang tướng giả chứ không cho họ tước lang
thực, ông kính cẩn giữ tiết làm tôi như vậy đấy.
Quốc Tuấn
lại từng soạn sách để khích lệ tướng sĩ dưới quyền, dẫn chuyện Kỷ
Tín chết thay để cứu thoát Hán Cao935 , Do Vu giơ lưng chịu giáo để
cứu Sở Tử936 Thế là dạy đạo trung đó.
Khi sắp
mất, ông dặn con rằng: Ta chết th́ phải hỏa táng, lấy vật tṛn đựng
xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi san đất và trồng cây như
cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải [làm sao cho] mau phục
[11a].
Quốc Tuấn
giữ Lạng Giang, người Nguyên hai lần vào cướp, ông liên tiếp đánh
bại chúng, sợ sau này có thể xảy ra tai họa đào mả chăng. Ông lo
nghĩ tới việc sau khi mất lại như thế đấy.
Ông lại
khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Dă Tượng, Yết Kiêu là
gia thần của ông, có dự công dẹp Ô Mă Nhi, Toa Đô. Bọn Phạm Ngũ Lăo,
Trần Th́ Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lăm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường,
Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về
văn chương và chính sự, bởi v́ ông có tài mưu lược, anh hùng, lại
một ḷng giữ ǵn trung nghĩa vậy. Xem như khi Thánh Tông vờ bảo Quốc
Tuấn rằng: "Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi". Quốc Tuấn trả lời:
"[Bệ hạ] chém đầu tôi trước rồi hăy hàng". V́ thế, đời Trùng Hưng,
lập nên công nghiệp hiếm có. Tiếng vang đến giặc Bắc, chúng thường
gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi tên. Sau khi mất
rồi, các châu huyện ở Lạng Giang hễ có tai nạn bệnh dịch, nhiều
người cầu đảo ông. Đến nay, mỗi khi [11b] đất nước có giặc vào cướp,
đến lễ ở đền ông, hễ tráp đựng kiếm có tiếng kêu th́ thế nào cũng
thắng lớn.
Quốc Tuấn
từng soạn sách Binh gia diệu lư yếu lược để dạy các tỳ tướng, dụ họ
rằng bài hịch như sau:
"Ta từng
nghe, Kỷ Tín đem ḿnh chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu giơ
lưng chịu giáo che chở cho Chiêu vương; Dự Nhượng nuốt than báo thù
cho chủ937 ; Thân Khoái chặt lấy tay cứu nạn cho nước938 ; Kính Đức,
một chàng tuổi trẻ, thân pḥ Thái Tông thoát khỏi ṿng vây Thế
Sung939 ; Cảo Khanh, một bề tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo
mưu kế nghịch tặc940 . Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ ḿnh
v́ nước, đời nào không có? Giả sử các bậc đó cứ khư khư theo thói
nhi nữ thường t́nh th́ cũng chết uổng nơi xó cửa, sao có thể lưu
danh sử sách, để cùng bất hủ với đất trời?.
Các ngươi
vốn ṇi vơ tướng không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy, nửa tin
nửa ngờ [12a]. Thôi việc đời trước, hăy tạm không bàn. Nay ta lấy
chuyện Tống, Thát941 mà nói: Vương Công Kiên là người thế nào; tỳ
tướng của ông là Nguyễn Văn Lập (có thuyết cho là Sơn Lập) lại là
người thế nào, mà lấy thành Điếu Ngư nhỏ như cái đấu chống lại quân
Mông Kha đông hàng trăm vạn; khiến cho sinh linh bên Tống đến nay
c̣n đội ơn sâu942 . Cốt Đăi Ngột Lang943 là người thế nạ, tỳ tướng
của ông là Cân Ty
Tư944 lại
là người thế nào, mà xông pha lam chướng trên đường muôn dặm, phá
quân Nam Chiếu trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người
Thát đến nay vẫn c̣n lưu tiếng tốt945 .
Huống chi
ta cùng các ngươi, sinh ra phải thời rối ren, lớn lên gặp buổi khó
nhọc, ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi
cú diều mà lăng nhục triều đ́nh, ỷ cái thân dê chó mà bắt nạt tể
phụ. Thác lênh Hốt Tất Liệt mà đ̣i ngọc lụa để thỏa ḷng tham khôn
cùng [12b], giả hiệu Vân Nam Vương946 mà thu bạc vàng, để vét của
kho có hạn. Thật khác nào ném thịt cho hổ đói, giữ sao cho khỏi tai
vạ về sau!.
Ta từng
tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, nước mắt đầm đ́a, ruột đau như cắt,
chỉ giận không được ăn thịt, nằm da, nuốt gan, uống máu quân thù,
dẫu trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, ngh́n xác ta bọc trong da ngựa,
cũng nguyện xin làm.
Các ngươi
ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, người không có áo, ta cho áo
mặc, kẻ không có ăn, ta cấp cơm ăn. Quan thấp th́ ta thăng chức,
lương ít th́ ta cấp bổng, đi thủy th́ ta cho thuyền, đi bộ th́ ta
cho ngựa; lúc trận mạc th́ cùng nhau sống chết, khi ở nhà th́ cùng
nhau vui cười, nếu so với Công Kiên đăi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đăi
người phụ tá, cũng chẳng kém ǵ.
[13a] Nay
các ngươi ngồi nh́n chủ nhục mà không biết lo, thân chịu quốc sỉ mà
không biết thẹn, làm tướng triều đ́nh phải hầu quân giặc mà không
biết tức, nghe nhạc thái thường thết yến sứ ngụy mà không biết căm,
hoặc lấy chọi gà làm vui, hoặc lấy đánh bạc làm thú, hoặc chăm chút
vườn ruộng để nuôi gia đ́nh, hoặc quyến luyến vợ con chỉ v́ ích kỷ,
hoặc lo làm giàu mà quên việc quân việc nước, hoặc ham săn bắn mà bỏ
việc đánh việc pḥng, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu
có giặc Mông Thát tràn sang th́ cựa gà trống không thể đâm thủng áo
giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh, vườn
ruộng giàu không thể chuộc được tấm thân ngàn vàng, vợ con bận không
ích ǵ cho việc quân quốc. Tiền của dẫu nhiều, khôn mua được đầu
giặc; chó săn tuy khỏe, khôn đuổi được [13b] quân thù. Chén rượu
ngon không đầu độc được quân thù, tiếng hát hay không chọc thủng
được tai giặc. Lúc bấy giờ, chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết
dường nào! Chẳng những thái ấp của ta bị tước, mà bổng lộc các ngươi
cũng về tay kẻ khác, chẳng những gia quyến ta bị đuổi, mà vợ con các
ngươi cũng bị người khác bắt đi, chẳng những xă tắc tổ tông của ta
bị người khác bới đào, chẳng những thân ta kiếp này bị nhục, dẫu
trăm đời sau, tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu măi c̣n, mà đến gia thanh
các ngươi cũng không khỏi mang tiếng là viên bại tướng. Lúc bấy giờ,
dẫu các ngươi có muốn thỏa ḷng vui thú, phỏng có được không?.
Nay ta
bảo rơ các ngươi: Nên nhớ chuyện "đặt mồi lửa vào dưới đống củi"947
, làm nguy cơ, nên lấy điều "kiềng [14a] canh nóng mà thổi rau
nguội"948 làm răn sợ. Hăy huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên,
khiến cho người người giỏi như Bàng Mông949 , nhà nhà đều là Hậu
Nghệ, để có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, phơi xác Vân
Nam Vương ở Cảo Nhai950 . Như vậy, chẳng những thái ấp của ta măi
măi lưu truyền, mà bổng lộc các ngươi cũng đời đời được hưởng, chẳng
những gia quyến của ta được yên ấm gối chăn, mà vợ con các ngươi
cũng được bách niên giai lăo, chẳng những tông miếu của ta được muôn
đời tế lễ, mà ông cha các ngươi cũng được thờ cúng quanh năm, chẳng
những thân ta kiếp này đắc chí, mà các ngươi trăm năm về sau tiếng
thơm vẫn c̣n. Chẳng những danh hiệu ta lưu truyền
măi măi,
mà họ tên các ngươi cũng sử sách lưu thơm. Lúc bấy giờ, dẫu các
ngươi không muốn vui thú phỏng có được không?.
Nay ta
chọn binh pháp các nhà, soạn thành một quyển, gọi là [14a] Binh thư
yếu lược . Các ngươi nếu biết chuyên tập tập sách, theo lời ta dạy
bảo, th́ trọn đời là tôi chủ, nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời
ta dạy bảo, th́ trọn đời là cừu thù.
V́ sao
vậy? V́ giặc Mông Thát là kẻ thù không đội trời chung, mà các người
cứ điềm nhiên không nghĩ rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy
quân sĩ, thế là quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà
chịu thua giặc, khiến cho sau khi dẹp giặc, muôn đời để nhơ, th́ c̣n
mặt mũi nào đứng trong cơi trời che đất chở nữa? Cho nên, ta viết
bài hịch này để các ngươi biết rơ ḷng ta!:.
Quốc
Tuấnlại sưu tập binh pháp các nhà, làm thành Bát quái cửu cung đồ,
đặt tên là Vạn Kiếp tông bí truyền thư . Nhân Huệ Vương Khánh Dư
viết bài tựa cho sách ấy như sau:
"Người
giỏi cầm quân th́ không cần bày trận, người giỏi bày trận th́ không
cần phải đánh, người giỏi đánh th́ không thua, người khéo thua th́
không chết.
Ngày xưa
Cao Dao làm sĩ [15a] sư951 mà không ai dám trái mệnh, đến Vũ Vương,
Thành Vương nhà Chu làm tướng cho Văn Vương, Vũ Vương952 , ngầm lo
sửa đức, để lật đổ nhà Thương mà dấy nên vương nghiệp, thế là người
giỏi cầm quân th́ không cần phải bày trận vậy. Vua Thuấn múa mộc và
múa lông trĩ mà họ Hữu Miêu đến chầu953 , Tôn Vũ nước Ngô đem ngươi
đẹp trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở mạnh, phía bắc
uy hiếp nước Tấn, nước Tần, nổi tiếng chư hầu954 , thế là người khéo
bày trận không cần phải đánh vậy. Đến Mă Ngập955 nước Tấn theo bát
trận đồ, đánh vận động hàng ngàn dặm, phá được Thụ Cơ Năng để thu
phục Lương Châu. Thế gọi là người đánh giỏi không bao giờ thua vậy.
Cho nên trận nghĩa là
"trần", là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, Hoàng Đế lập phép tỉnh
điền 956 để đặt binh chế. Gia Cát 957 xếp đá sông làm bát trận đồ,
Vệ Công 958 sửa lại làm thành Lục hoa trận. Hoàn Ôn 9 lập ra Xà thế
trận có vẽ các thế trận hay, tŕnh bày thứ tự, rơ ràng, trở thành
khuôn phép. Nhưng người đương thời ít ai hiểu được, thấy muôn đầu
ngàn mối, cho là rối rắm, chưa từng biến đổi. [15b] Như Lư Thuyên
960 có soạn những điều suy diễn của ḿnh, những người đời sau cũng
không hiểu ư nghĩa. Cho nên Quốc công ta mới hiệu đính, biên tập đồ
pháp của các nhà, soạn thành một sách, tuy ghi cả những việc nhỏ
nhặt, nhưng người dùng th́ nên bỏ bớt chỗ rườm rà, tóm lược lấy chất
thực.
[Sách] gồm đủ ngũ hành
tương ứng 961 , cửu cung suy nhau 951 , phối hợp cương nhu, tuần
hoàn chẵn lẻ. Không lẫn lộn âm với dương, thần với sát, phương với
lợi, sao lành, hung thần, ác tướng, tam
cát, ngũ hung 963 , đều
rất rơ ràng, ngang với Tam Đại, trăm đánh trăm thắng. Cho nên, đương
thời có thể phía bắc trấn ngự Hung Nô 964 , phía nam uy hiếp Lâm Ấp
965 ". Rồi dùng sách này dạy bảo [con cháu] làm gia truyền, không
tiết lộ ra ngoài. Lại có lời dặn rằng: "Sau này, con cháu và bồi
thần của ta, ai học được bí thuật này phải sáng suốt mà thi hành,
bày xếp [thế trận]; không được ngu dốt mà trao chữ truyền lời. Nếu
không thế th́ ḿnh chịu tai ương mà vạ lây đến con cháu. Thế gọi là
tiết lộ thiên cơ đó".
[16a] Ngày 21, hoàng tử
Mạnh sinh.
Bấy giờ, các hoàng tử đều
không nuôi được, đến khi Mạnh sinh, vua nhờ công chúa Thụy Bảo [tức
là cô của Nhân Tông] nuôi hộ. Nhưng công chúa cho là bấy giờ bà
đương có vận hạn, lại nhờ Nhật Duật nuôi. (Nhật Duật là anh công
chúa Thụy Bảo). Nhật Duật coi là trách nhiệm của ḿnh, chăm sóc,
nuôi nấng, không khác ǵ con ḿnh. Nhật Duật nghĩ rằng con trưởng
của ḿnh tên là Thánh An, con gái tên là Thánh Nô, mới đặt tên cho
hoàng tử là Thánh Sinh, v́ muốn [tên hoàng tử[ cũng giống với tên
con ḿnh. Hoàng tử từ bé nhờ nuôi nấng, đến khi lên ngôi vua, công
chăm nom của Nhật Duật rất nhiều.
Mùa đông, tháng 10, quy
định kiểu mũ áo mới của quan văn vơ. Quan văn th́ đội mũ chữ đinh
màu đen, tụng quan th́ đội mũ toàn hoa màu xanh vẫn như quy chế cũ.
Ống tay áo của các quan văn vơ rộng 9 tấc đến 1 thước 2 tấc, không
cho dùng từ 8 tấc trở xuống. Các quan văn vơ không được mặc xiêm,
tụng quan không được mặc thường (mũ toàn hoa xanh có hai ṿng vàng
đính vào hai bên).
[16b] Tân Sửu, [Hưng
Long] năm thứ 9 [1301], (Nguyên Đại Đức năm thứ 5). Mùa xuân, tháng
giêng, xuống chiếu rằng các quan văn vơ đều đội mũ chữ đinh, thêm
miếng lụa bọc tóc màu tía xen màu biếc.
Gả công chúa Thiên Trân
cho Uy Túc công Văn Bích966 , phong Văn Bích làm Pḥ kư lang.
Lấy Trần Th́ Kiến làm
Tham tri chính sự. Trước đó, khi Th́ Kiến làm gián ngị, can tội chứa
giấu dân đinh bị băi chức, vua nghĩ không phải là cố ư, nên có lệnh
này.
Tháng 2,
Chiêm Thành sang cống .
Tháng 3,
Thượng hoàng vân du các nơi, sang Chiêm Thành.
Ai Lao
sang cướp Đà Giang, sai Phạm Ngũ Lăo đi đánh, gặp quân giặc ở Mường
Mai967 , giao chiến, bắt được rất nhiều. Phong Ngũ Lăo làm Thân vệ
đại tướng quân, ban cho quy phù.
Mùa hạ,
tháng 4, hạn hán. Soát tù. Có mưa.
Phong con
trưởng của Hưng Nhượng Đại Vương là Quang Triều làm Văn Huệ Vương.
Mùa đông,
tháng 11, Thượng hoàng từ Chiêm Thành trở về.
Trần Hùng
Thao lại được làm Tham tri chính sự, rồi được cử làm Tả bộc xạ.
[17a] Đói
to.
Nhâm Dần,
[Hưng Long] năm thứ 10 [1302], (Nguyên Đại Đức năm thứ 6). Mùa xuân,
tháng giêng, lấy thái úy Đức Việp làm thống chính thái sư; Huệ Vơ
Đại Vương Quốc Chẩn làm Nhập nội b́nh chương; Chiêu Văn Vương Nhật
Duật làm Thái úy quốc công.
Theo quy
chế cũ: Tân vương968 vào làm tể tướng th́ gọi là Quốc công thượng
hầu, nếu vào nội đ́nh th́ gia phong Quan nội hầu.
Có đứa
nghịch thần tên là Biếm làm loạn. Sai Phạm Ngũ Lăo đi đánh, Biếm bị
giết. Phong Phạm Ngũ Lăo làm Điện súy, ban cho hổ phù.
Bấy giờ
có người đạo sĩ phương Bắc là Hứa Tông Đạo theo thuyền buôn sang ta,
cho ở bến sông Yên Hoa969 . Phép phù thủy, đàn chay bắt đầu thịnh
hành từ đó.
Quư Măo,
[Hưng Long] năm thứ 1 [1303], (Nguyên Đại Đức năm thứ 7). Mùa xuân,
tháng giêng, ngày 15, thượng hoàng ở phủ Thiên Trường [17b], mở hội
Vô lượng pháp ở chùa Phổ Minh, bố thí vàng bạc tiền lụa để chẩn cấp
dân nghèo trong nước và giảng kinh Giới thí.
Tháng 2,
lấy Đô áp nha thượng vị Chiêu Hoài hầu Hiện làm Nhập nội phụ quốc
thái bảo.
Mùa đông,
tháng 10, quy định kiểu mũ của vương hầu: người tóc dài đội mũ triều
thiên, người tóc ngắn đội mũ bao.
Lấy Trần
Khắc Chung làm Nhập nội đại hành khiển.
(Chức
hành khiển mà có thêm 2 chữ "nhập nội" là theo triều Lư, chuyên dùng
hoạn quan làm chức ấy. Thời Thánh Tông, thượng tướng Quang Khải khi
mới được phong làm nhập nội thái úy, kiêm làm hành khiển c̣n có 2
chữ "nhập nội", liền tâu rằng: "Thần từ bên ngoài vào, cho nên thêm
hai chữ "nhập nội", c̣n các hành khiển khác đều là hoạn quan, sao
lại thêm chữ "nhập nội", xin bỏ chữ "nhập nội", Thánh Tông nghe
theo. Từ đó, hàm hành khiển chỉ gọi là nội hành khiển. Đến đây,
thượng hoàng mới lấy Khắc Chung làm hành khiển, lại thêm 2 chữ "nhập
nội" như xưa và dùng cả sĩ phu làm hành khiển).
Lấy Đoàn
Nhữ Hài làm Tham tri chính sự.
Trước
đây, vua sai Nhữ Hài đi sứ Chiêm Thành, Nhữ Hài xin yết kiến Thượng
hoàng ở chùa Sùng Nghiêm núi Chí Linh, suốt ngày không được gặp. Một
lát sau, pháp giá ra chơi, Nhữ Hài đến bái yết [18a]. Thượng hoàng
nói chuyện với Nhữ Hài có đến một giờ. Khi trở về, Thượng hoàng bảo
tả hữu:
"Nhữ Hài
đúng là người giỏi, hắn được Quan gia sai khiến là phải".
Trước
đây, sứ nước ta tới Chiêm Thành, đều lạy chúa Chiêm trước, rồi sau
mới mở chiếu thư. Đến khi Nhữ Hài tới, liền bưng ngay chiếu thư để
lên trên án và nói với chúa Chiêm:
"Từ khi
sứ thiên triều mang chiếu thư của thiên tử sang, xa cách ánh sáng
lâu ngày, nay mở chiếu thư, thực như trông thấy mặt thiên tử, tôi
phải lạy chiếu thư đă, rồi mới tuyên đọc sau". Rồi lập tức hướng vào
tờ chiếu mà lạy. Lúc ấy, chúa Chiêm đứng bên cạnh, lạy thế không
khỏi có chút chưa ổn, nhưng lấy cớ mà lạy chiếu thư th́ về lư là
thuận, mà sứ tiết cũng không phải khuất.
Hôm sau,
Nhữ Hài treo bảng cấm buôn bán ở Tỳ Ni970 (bến cảng của Chiêm Thành,
nơi tụ tập các thuyền buôn), tuyên đọc xong, treo bảng lên, lại gọi
viên coi cảng đến bảo:
"Chỗ này
người buôn bán tụ họp phức tạp, lại là bến tàu xung yếu, khó giữ
ǵn, [18b] sứ thần về rồi, cất ngay bảng đi, đừng để mất".
Ư ông cho
rằng Chiêm Thành tuy đă thần phục, nhưng thực ra chưa chịu nội phụ,
bảng cấm rốt cục cũng bị bỏ đi, cho nên nói trước như vậy, không để
tự họ làm như thế. Sau này, đi sứ Chiêm Thành, không lạy chúa Chiêm
là bắt đầu từ Nhữ Hài. Khi về nước, vua rất khen ngợi ông và quyết ư
dùng vào chức to, cho nên có lệnh này.
Giáp
Th́n, [Hưng Long] năm thứ 12 [1304], (Nguyên Đại Đức năm thứ 8). Mùa
xuân, tháng giêng, người đàn bà là Lê thị, phường Các Đài, ở cầu bên
hữu kinh thành đẻ con gái có hai đầu, bốn chân, bốn tay.
Tháng 2,
lấy Bùi Mộc Đạc làm Chi hậu bạ thư chánh chưởng trông coi cung Thánh
Từ.
Mộc Đạt
tên tự là Minh Đạo (người Hoàng Giang), họ Phí, tên là Mộc Lạc, có
tài năng. Thượng hoàng cho rằng họ Phí từ xưa không thấy có, mới đổi
làm họ Bùi, cái tên Mộc Lạc là điềm chẳng lành971 , mới đổi thành
Mộc Đạc, sai theo hầu ngày đêm. Đến nay, trao cho chức ấy. Sau này,
người [19a] họ Phí hâm mộ danh tiếng của Mộc Đạc, nhiều người đổi
làm họ Bùi.
Tháng 3,
thi kẻ sĩ trong nước. Ban cho trạng nguyên. Mạc Đĩnh Chi chức Thái
học sinh hỏa dũng thủ, sung làm nội thư gia; bảng nhăn Bùi Mộ chức
chi hậu bạ thư mạo sam, sung làm nội lệnh thư gia; thám hoa lang
Trương Phóng chức Hiệu thư quyền miện, sung làm nhị tư; Nguyễn Trung
Ngạn đỗ hoàng giáp; tất cả 44 người đỗ thái học sinh.
Dẫn 3
người đỗ đầu ra cửa Long Môn của Phượng Thành đi du ngoạn đường phố
3 ngày. C̣n 330972 người khác th́ ở lại học tập.
Trung
Ngạn mới 16 tuổi, đương thời gọi là thần đồng.
Về phép
thi: Trươc hết thi ám tả thiên Y quốc và truyện Mục Thiên tử973 để
loại bớt. Thứ đến kinh nghi974 , kinh nghĩa975 , đề thơ (tức thể cổ
thi ngũ ngôn trường thiên) hỏi về "vương độ khoan mănh"976 , theo
luật "tài nan xạ trĩ977 , về phú th́ dùng thể 8 vần "đế đức hiếu
sinh, hiệp vụ dân tâm"978 . Kỳ thứ ba thi chế, chiếu, biểu. Kỳ thứ
tư thi đối sách.
(Đĩnh Chi
người Chí Linh [19b], Mộ người Thanh Oai, Phóng người Thanh Hóa).
Sư Du Già nước Chiêm sang
ta, chỉ ăn sữa ḅ.
Thi các thủ phân (thủ
phân tức là quan lại nắm việc h́nh pháp) hỏi phép đối án.
Mùa thu, tháng 7, xuống
chiếu rằng các chữ huư về miếu hiệu, tên vua, th́ viết bớt nét.
Tháng 8, cấm chữ huư miếu
hiệu nhà Lư 8 chữ: Uẩn, Mă, Tôn, Đức, Hoán, Tộ, Cán, Sảm, viết bớt
nét.
Tháng 9, xuống chiếu
rằng, khi áp tay vào giấy tờ h́nh án hay văn tự th́ dùng hai đốt của
ngón tay vô danh979 bên trái.
Mùa đông, tháng 11, xuống
chiếu thi kẻ sĩ trong nước, hỏi về 7 khoa.
Tháng 12,
sao Chổi mọc ở phương nam.
Trần Hùng
Thao xin từ chức Tả bộc xạ, y cho.
Lấy Đoàn
Nhữ Hài tri Khu mật viện sự.
Vua đối
với người tôn thất như Bảo Hưng (không rơ tên) thân yêu hết mực,
nhưng không trao cho việc chính sự, v́ không có tài. C̣n như Nhữ Hài
chỉ là một nho sinh thôi, nhưng v́ có tài, nên không ngại trong việc
ủy dụng nhanh vọt.
[20a]
Xuống chiếu cho phủ Tông chính soạn ngọc phả của họ vua.
Ất Tỵ,
[Hưng Long] năm thứ 13 [1305], (Nguyên Đại Đức năm thứ 9). Mùa xuân,
tháng giêng, sách phong hoàng tử thứ tư là Mạnh làm Đông cung thái
tử, (vua) làm bài Dược thạch châm980 ban cho.
Tháng 2,
Chiêm Thành sai Chế Bồ Đài và bộ đảng hơn trăm người dâng hiến vàng
bạc, hương quư, vật lạ làm lễ vật cầu hôn. Các quan trong triều đều
cho là không nên, duy có Văn Túc Vương Đạo Tái chủ trương bàn việc
đó, Trần Khắc Chung tán thành, việc bàn mới quyết.
Tháng 3,
nước La Hồi981 sai người dâng vải liễn la và các thứ khác.
Lấy Trần
Th́ Kiến làm Tả bộc xạ.
Bấy giờ
có viên độc bạ là Trần Cụ tính khoan hậu, cẩn thận, thật thà, giỏi
ngề đánh cá, bắn nỏ và chơi cầu. Vua sai dạy thái tử các nghề ấy.
Cụ mỗi
khi sắp đánh đàn, th́ trước hết cắt đầu dây, buộc lại cho chặt dây
rồi sau mới gảy. Có người hỏi [20b] cớ làm sao, Cụ trả lời: "Nếu
khúc đàn chưa hết mà dây đứt th́ làm thế nào?".
Cụ làm
cầu th́ cân nhắc các múi da, cho mười hai múi cân nhau, duy ba múi ở
miệng cầu lỗ là chỗ bỏ cái bong lợn vào th́ hơi mỏng và nhẹ, để cân
với sức nặng ở đầu bong bóng, cho nên khi đá cầu, múi nào ở trên đến
lúc rơi xuống đất lại nguyên như cũ, không bao giờ chuyển khác.
Người đời
bắn nỏ, chân đứng cũng như bắn cung, tức là kiểu chữ "đinh" không
thành, chữ "bát" không ngay. Cụ th́ đứng ngay ngắn mà bắn và bảo mọi
người:"Phàm bắn cung th́ tay trái giơ ra phía trước nắm lấy thân
cung, tay phải kéo dây cung về phía sau, ḿnh đă nghiêng th́ chân
cũng phải lệch, c̣n bắn nỏ th́ đưa cân bằng ra phía trước, cho nên
khi cầm nỏ mà bắn, thân ḿnh ngay ngắn, th́ cớ ǵ chân lại phải đứng
lệch?".
Nhà ông
ta ở và thuyền ông ta đi, đều có hai cửa đối nhau, xếp đặt, bày biện
các thứ cũng cân đối và phải ngay ngắn, v́ là bản [21a] tâm như vậy,
cho nên biểu hiện ở mọi việc làm cũng như vậy.
Cụ người
Cứu Liên, vốn có mối hận với Cứu Liên, thề rằng chân không giẫm lên
đất ấy nữa. Sau này trở về Cứu Liên th́ đi thuyền, đến khi lên bộ
th́ đi kiệu vào cửa, tới giường mới xuống kiệu, thức ngủ, ăn uống
đều ở trên giường. Khi nào chơi xem vườn ao th́ sai khiêng giường
đến chỗ đó, hết hứng th́ trở về, lại ngồi kiệu, lên thuyền... Cứ như
thế cho đến hết đời, chưa hề giẫm một bước xuống đất [Cứu Liên]. Ông
ta giữ ḷng bền rắn một mực như vậy đó, đời xưa gọi thế là người
gàn.
Bính Ngọ,
[Hưng Long] năm thứ 14 [1306], (Nguyên Đại Đức năm thứ 10). Mùa
xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, Thống chính thái sư Tá Thiên Đại
Vương Đức Việp mất (thọ 42 tuổi).
Mùa hạ,
tháng 6, gả công chúa Huyền Trân cho chúa Chiêm Thành Chế Mân.
Trước
đây, Thượng hoàng vân du sang Chiêm Thành, đă hứa gă rồi. Các văn sĩ
trong triều ngoài nội [21b] nhiều người mượn chuyện vua Hán đem
Chiêu Quân gả cho Hung Nô làm thơ, từ bằng quốc ngữ để châm biếm
việc đó.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Ngày xưa, Hán Cao hoàng v́ nước Hung Nô nhiều lần
làm khổ biên cương, mới lấy con gái nhà dân làm công chúa gả cho
Thiên Vu 982 .
Kết hôn
với người không cùng giống ṇi, các tiên nho đă từng chê trách, song
dụng ư là muốn binh yên, dân nghỉ, th́ c̣n có thể nói được. Nguyên
Đế th́ v́ Hô Hàn 983 sang chầu, xin làm rể nhà Hán, nên lấy Vương
Tường mà ban cho, cũng là có cớ.
Nhân Tông
đem con gái gả cho chúa Chiêm Thành là nghĩa làm sao? Nói rằng nhân
khi đi chơi đă trót hứa gả, sợ thất tín th́ sao không đổi lại lệnh
đó có được không? Vua giữ ngôi trời mà Thượng hoàng đă xuất gia rồi,
vua đổi lại lệnh đó th́ có khó ǵ, mà lại đem gả cho người xa không
phải giống ṇi để thực hiện lời hứa trước, rồi sau lại dùng mưu gian
trá cướp về, thế th́ tín ở đâu?
[22a] Mùa
thu, tháng 9, ngày 15, giờ Tuất, nguyệt thực.
Sai thiên
chương học sĩ Nguyễn Sĩ Cố giảng Ngũ Kinh. Sĩ Cố thuộc ḍng Đông
Phương Sóc 984 , giỏi khôi hài, hay làm thơ phú quốc ngữ. Nước ta
làm nhiều thơ phú bằng quốc ngữ bắt đầu từ đó.
Hành
khiển trí sĩ Nguyễn Kim Ngô về chầu, tự xưng là Liễu Nhiễu. Kiên Ngô
tính thẳng thắn, vua ưu đăi, quư trọng, không gọi tên để khuyến
khích những người tuổi già vẫn giữ quyền vị.
Lấy Trần
Hùng Thao làm Thiếu bảo.
Sai Hàn
lâm học sĩ Lê Tông Nguyên, Trung thị đại phu Bùi Mộc Đạc sang Nguyên
đáp lễ.
Đinh Mùi,
[Hưng Long] năm thứ 15 [1307], (Nguyên Đại Đức năm thứ 11). Mùa
xuân, tháng giêng, đổi hai châu Ô, lư thành châu Thuận và châu Hoá.
Sai Hành khiển Đoàn Nhữ Hài đến vỗ yên dân hai châu đó.
Trước đấy
chúa Chiêm Thành Chế Mân đem đất hai châu đó làm lễ vật dẫn cưới,
nhưng người các thôn La Thuỷ, Tác Hồng, Đà Bồng không chịu theo. Vua
[22b] sai Nhữ Hài đến tuyên dụ đức ư [của nhà vua] chọn người trong
bọn họ trao cho quan tước, lại cấp ruộng đất, miễn tô thuế 3 năm để
vỗ về.
Tháng 3,
ngày 17, giờ Tỵ, mặt trời có hai quầng, như h́nh hai cầu ṿng giao
nhau.
Mùa hạ,
tháng 5, chúa Chiêm Thành Chế Mân chết.
Mùa thu,
tháng 9, nước to, vỡ đê Đam Đam.
Thế tử
Chiêm Thành Chế Đa Da sai sứ thần Bảo Lộc Kê sang dâng voi trắng.
Mùa đông,
tháng 10, sai Nhập nội hành khiển thượng thư tả bộc xạ Trần Khắc
Chung, An phủ Đặng Văn sang Chiêm Thành đón công chúa Huyền Trân và
thế tử Đa Da về.
Theo tục
lệ Chiêm Thành, chúa chết th́ bà hậu của chúa phải vào giàn thiêu để
chết theo. Vua biết thế, sợ công chúa bị hại, sai bọn Khắc Chung,
mượn cớ là sang viếng tang và nói với [người Chiêm]: "Nếu công chúa
hỏa táng th́ việc làm chay không có người chủ trương, chi bằng ra bờ
biển chiêu hồn ở ven trời, đón linh [23a] hồn cùng về, rồi sẽ vào
giàn thiêu".
Người
Chiêm nghe theo.
Khắc
Chung dùng thuyền nhẹ cướp lấy công chúa đem về, rồi tư thông với
công chúa, đi đường biển loanh quanh chậm chạp, lâu ngày mới về đến
kinh đô.
Hưng
Nhượng Đại Vương ghét lắm, mỗi khi thấy Khắc Chung th́ mắng phủ đầu:
"Thằng
này là điểm chẳng lành đối với nhà nước. Họ tên nó là Trần Khắc
Chung985 th́ nhà Trần rồi mất về nó chăng?". Khắc Chung thường sợ
hăi né tránh.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Thói gian tà của Trần Khắc Chung thực quá quắt lắm!
Không những hắn giở tṛ chó lợn ở đây mà sau này c̣n vào hùa với Văn
Hiến vu hăm quốc phụ thượng tể986 vào tội phản nghịch, làm chết oan
đến hơn trăm người. Thế mà hắn được trọn đời phú quư. Khổng tử nói:
Kẻ gian tà được sống sót là may mà thoát tội chăng?".
Song, sau
khi hắn chết, gia nô của Thiệu Vũ [Vương]987 đào xác hắn lên mà vằm
nhỏ ra th́ lời thánh nhân càng đáng tin.
[23b]
Đói.
Mậu Thân,
[Hưng Long] năm thứ 16 [1308], (Nguyên Vũ Tông Hải Sơn, Chí Đại năm
thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, lấy Trương Hán Siêu làm Hàn lâm học
sĩ.
Mùa thu,
tháng 11, ngày mồng 1, mặt trời có hai quầng.
Ngày mồng
3, Thượng hoàng băng ở am Ngọa Vân núi Yên Tử.
Bấy giờ
Thượng hoàng xuất gia, tu ở ngọn Tử Tiêu núi Yên Tử, tự hiệu là Trúc
Lâm đại sĩ988 . Bà chị là Thiên Thụy ốm nặng, Thượng hoàng xuống
núi, tới thăm và bảo:
"Nếu chị
đă đến ngày đến giờ th́ cứ đi, thấy âm phủ có hỏi th́ trả lời rằng:
Xin đợi một chút, em tôi là Trúc Lâm đại sĩ sẽ tới ngay".
Nói xong,
Thượng hoàng trở về núi, dặn ḍ người hầu là Pháp Loa989 các việc về
sau, rồi bỗng nhiên ngồi mà hóa. Thiên [24a] Thụy cũng mất vào hôm
đó.
Pháp Loa
thiêu [xác Thượng hoàng] được hơn ba ngàn hạt xá lỵ990 mang về chùa
Tư Phúc ở kinh sư. Vua có ư ngờ. Các quan nhiều người xin bắt tội
Pháp Loa. Hoàng thái tử Mạnh mới 9 tuổi, đứng hầu bên cạnh, chợt
thấy có mấy hạt xá lỵ ở trước ngự991 , đưa ra cho mọi người xem,
kiểm lại trong hộp, th́ đă mất một số ít hạt. Vua xúc động đến phát
khóc, trong ḷng mới khỏi nghi ngờ.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Nhân Tông trên thờ Từ Cung làm sáng đạo hiếu, dưới
dùng người giỏi, lập nên vơ công. Nếu không có tư chất nhân, minh,
anh, vơ, th́ sao được như thế? Chỉ có một việc xuất gia là không hợp
đạo trung dung, là cái lỗi của bậc hiền giả992 .
Sứ Nguyên
là Thượng thư An Lỗ Khôi993 sang báo tin Vũ Tông lên ngôi. Vua sai
Mạc Đĩnh Chi sang Nguyên.
Đĩnh Chi
người thấp bé, người Nguyên khinh ông. Một hôm viên tể tướng mời ông
vào phủ cho [24b] cùng ngồi. Lúc ấy, đương hồi tháng 5, tháng 6.
Trong phủ có bức trướng mỏng thêu h́nh con chim sẽ vàng đậu cành
trúc. Đĩnh Chi vờ ngỡ con chim sẽ thực, vội chạy đến bắt. Người
Nguyên cười ồ, cho là người phương xa bỉ lậu. Đĩnh Chi kéo bức
trướng xuống xé đi. Mọi người đều lấy làm lạ hỏi tại sao. Đĩnh Chi
trả lời:
"Tôi nghe
người xưa vẽ cành mai và chim sẽ, chứ chưa thấy vẽ chim sẻ đậu cành
trúc bao giờ. Nay trong bức trướng của tể tướng lại thêu cành trúc
với chim sẽ. Trúc là bậc quân tử, chim sẽ là kẻ tiểu nhân. Tể tướng
thêu như vậy là để tiểu nhân trên quân tử, sợ rằng đạo của tiểu nhân
sẽ mạnh, đạo của quân tử sẽ suy. Tôi v́ thánh triều mà trừ giúp bọn
tiểu nhân".
Mọi người
đều phục tài của ông.
Đến khi
vào chầu, gặp lúc nước ngoài dâng quạt, vua Nguyên sai làm bài minh.
Đĩnh Chi cầm bút viết xong ngay, lời bài minh như sau:
"Lưu kim
thước thạch, thiên vị địa lô, nhĩ ư tư th́ hề, Y Chu cự nho.
Bắc phong
kỳ lương, vũ tuyết tái đồ, nhĩ ư tư th́ hề, Di [25a] Tề ngă phu.
Y! dụng
chi tắc hành, xả chi tắc tàng, duy ngă dữ nhĩ, hữu như thị phù".
(Chảy
vàng tan đá, trời đất như ḷ, ngươi bấy giờ là Y Chu994 đại nho.
Gió bấc
căm căm, mưa tuyết mịt mù, ngươi bấy giờ là Di Tề đói xo995 .
Ôi, được
dùng th́ làm, bỏ th́ nằm co, chỉ ta cùng ngươi là thế ru!).
Người
Nguyên lại càng thán phục.
Kỷ Dậu,
[Hưng Long] năm thứ 17 [1309], (Nguyên Chí Đại năm thứ 2). Mùa xuân,
tháng giêng, đại xá.
Sách
phong Đông cung thái tử Mạnh làm Hoàng thái tử. Truy tôn Khâm Từ Bảo
Thánh thái hậu làm Thái hoàng thái hậu. Sách phong Thánh Bà phu nhân
làm Thuận Thánh hoàng hậu.
Thứ phi
của vua là Phạm thị, là con gái Phạm Ngũ Lăo, không có con, xin xuất
gia, vua cho.
Mùa đông,
tháng 11, trị tội những kẻ đại nghịch là bọn tên Hân.
Tên Hân
bị chém ở cầu Giang Khẩu996 , tên Trù ở cửa thành chợ Dừa997 , tên
Tổng ở cửa thànhh Tây Dương998 , tên Dung ở cửa thành Vạn Xuân999 .
Tên Hân v́ ngày trước có công lớn, được miễn tịch thu gia sản. C̣n
bọn tên Lệ 6 người bị đày ra châu Ác Thuy (Ác Thủy thuộc huyện Yên
Bang1000 . Người bị đày ra đó, [25b] không một ai sống nổi). Tên Lệ
là ḍng cuối trong họ nhà vua, được miễn thích chữ vào mặt. Bọn tên
Đảo 4 người bị đày ra châu xa, tên Ma v́ sai vợ là Thị Vĩnh ra thú
trước, được tha tội. Theo lệ cũ, những kẻ có tội đều bị tước bỏ họ,
chỉ gọi tên thôi. Tội đồ th́ tuy c̣n đề họ, nhưng cũng chỉ gọi tên
không.
Phu nhân
Uy Túc công1001 là công chúa Thiên Trân mất. Vua thương xót, đến đưa
đám.
(Lệ cũ:
Những người lấy công chúa, nếu mất mất hay bỏ nhau, th́ đều không
được lấy vợ khác, nếu có lén lấy vợ khác, th́ phải giấu giếm vụng
trộm. Thiên Trân mất, Uy Túc lăn ra đất khóc lóc không đứng dậy
được. Vua đến đưa đám, phải người đỡ hai bên mới ra tiếp được, ai
cũng bảo là [Uy Túc] nhất định sẽ không lấy vợ khác nữa, thế mà Uy
Túc sau lại lấy Huy Thánh. Văn Huệ công Quang Triều1002 lấy công
chúa Thượng Trân. Công chúa mất, Minh Tông đến điếu tang, Văn Huệ ra
đón tiếp tâu bày, như không có vẻ ǵ đau buồn, mọi người đều cho là
(Văn Huệ) thế nào cũng lại lấy vợ khác. Nhưng sau Văn Huệ đi tu đến
trọn đời).
Lấy Bùi
Mộc Đạc làm Trung thư thị lang.
Canh
Tuất, [Hưng Long] năm thứ 18 [1310], (Nguyên Chí Đại năm thứ 3). Mùa
thu, tháng 9, ngày 16, rước linh cữu thượng hoàng [26a] về chôn ở
lăng Quy Đức, phủ Long Hưng, xá lỵ th́ cất ở bảo tháp am Ngọa Vân;
miếu hiệu là Nhân Tông, tên thụy là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa
Dân Long Từ Hiển Hiệu Thánh Văn Thần Vơ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng
Đế. Đem Khâm Từ Bảo Thánh thái hoàng thái hậu hợp táng ở đấy.
Trước đó,
linh cữu Nhân Tông tạm quàn ở điện Diên Hiền. Khi sắp đưa rước, đă
đến giờ rồi mà quan lại và dân chúng c̣n đứng chật cả cung điện. Tể
tướng cầm roi xua đuổi mà vẫn không giăn ra được. Vua cho gọi Chi
hậu thánh chưởng Trịnh Trọng Tử tới bảo:
"Linh cữu
sắp đưa rồi mà dân chúng đầy nghẽn như vậy th́ làm thế nào? Ngươi
hăy làm cho họ tránh ra".
Trọng Tử
lập tức đến thềm Thiên Tŕ, gọi quân Hải khẩu và quân Hổ dực (quân
do Trọng Tử trông coi) đến ngồi thành hàng trước thềm, sai hát mấy
câu điệu Long Ngâm . Mọi người đều kinh ngạc, kéo nhau đến xem, cung
điện mới giăn người, bèn rước [linh cữu thượng hoàng] về lăng Quy
Đức.
Trọng Tử
lo dọc đường thế nào cũng có chỗ cao thấp quanh co, nếu nghiêm túc
im lặng, th́ sợ có sự nghiêng lệch, nếu truyền gọi bảo ban th́ lại e
ồn ào, bèn đem những lời dặn về cách đi đứng dàn hàng, phổ vào khúc
hát Long Ngâm , sai người hát lên để bảo nhau. Người thời ấy rất ca
ngợi ông. Ư tứ khéo léo của ông đại loại như vậy. Vua gọi ông là con
nhà trời, v́ ông hiểu khắp mọi nghề, lớn nhỏ đều thạo, không việc ǵ
là không biết [26b].
(Trọng Tử
nhiều tài nghệ, như cưỡi ngựa lạ không cần người giỏi cưỡi ngựa chỉ
bảo, chỉ nghĩ cách pḥng giữ cho ngựa khỏi lồng chạy đá cắn thôi,
thế mà thuật cưỡi ngựa không có ǵ là không biết.
Học thuốc
th́ không cần hỏi thầy thuốc, cứ theo bài thuốc trong sách, xét
chứng xem mạch rồi bốc thuốc, mà cũng không sai lầm. Lại đựng vị
xuyên khung trong túi vải, cho gia đồng mang theo để lấy hơi người,
không sinh mối mọt.
Học đánh
cờ th́ vẽ bàn cờ và quân cờ lên trần nhà, rồi ngồi nh́n và suy tính
kỹ càng, người đương thời khen là giỏi cờ.
[Trọng
Tử] thường mời đạo sĩ làm phép trấn yểm, đạo sĩ vào chổ ngồi, nhưng
mọi việc đều do Trọng Tử làm cả, mà đạo sĩ th́ không phải nói một
lời nào. Khi công chúa Thiên Trân mất, các vương hầu đều tới điếu
viếng, thầy cúng làm phép "hú vía", nhưng thiếu người trả lời. Trọng
Tử cố hỏi là người trả lời phải đứng ở chỗ nào, rồi đến ngay chỗ
khuất người để trả lời, mọi người đều che miệng cười. Đại khái, tài
khéo léo của ông đều như thế cả).
[ 27a] Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói: Triều đ́nh cốt phải nghiêm. Rước đưa linh cữu
th́ cần ǵ phải đến tể tướng dẹp người, hữu ty dùng kế mới đi được?
là bởi nhà trần khoan hậu th́ có thừa mà nghiêm khắc th́ không đủ
vậy!.
Xá lỵ của
Nhân Tông đưa cất vào bảo tháp, có sư Trí Thông phụng hầu. Trước
đây, khi Nhân Tông xuất gia, sư chùa Siêu Loại là Trí Thông tự đốt
cánh tay ḿnh, từ bàn tay đến tận khuỷu tay, vẫn ung dung không biến
sắc. Nhân Tông vào xem, Trí Thông đặt chỗ cho vua ngồi, lạy và nói:
"Thần tăng đốt đèn đó! Đốt đèn xong, về viện ngũ kỹ, ngũ dậy, chỗ
bỏng lửa phồng lên sẽ khỏi hết".
Đến đây,
Nhân Tông băng, Trí Thông liền sai vào núi Yên Tử ở hầu bảo tháp
chứa xá lỵ. Đến đời Minh Tông, ông tự thiêu mà chết.
Năm này
nước to, đói.
[27b] Tân
Hợi, [Hưng Long] năm thứ 19 [1311], (Nguyên Chí Đại năm thứ 4). Đặt
đô Toàn kim cương, thích ba chữ ở trán, theo lệ Chân thượng đô, Quân
Thiên thuộc có đô Phù đồ thượng và đô Phù đồ hạ.
Nhận con
gái của nhà sư người Hồ là Du Chi Bà Lam vào cung.
Sư đă
sang ta vào thời Nhân Tông, vẻ người già nua, tự nói là 300 tuổi, có
thể ngồi xếp bằng nổi trên mặt nước, lại có thể thu cả ngũ tạng lên
ngực, làm cho trong bụng lép kẹp, chỉ c̣n da bụng và xương sống
thôi. Sư chỉ ăn lưu hoàng, mật, rau dưa, ở mấy năm th́ về nước, đến
nay lại sang ta. Vua lấy con gái sư là Đa La Thanh vào cung. Nhà sư
sau mất ở Kinh sư.
(Đời Minh
Tông có sư người Hồ là Bồ Đề Thất Lư sang ta, cũng có thể giống nổi
trên mặt nước, nhưng nằm ngửa mà nổi, không giống nhà sư Du Chi).
Mùa đông,
tháng 12, vua thân đi đánh Chiêm Thành, v́ chúa nước ấy là Chế Chí?
(có sách ghi là phan trắc).
Nhâm Tư,
[Hưng Long] năm thứ 20 [1312], (Nguyên Nhân Tông Ái Dục Lê Bạt Lực
Bát Đạt Hoàng Khánh năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 17, mặt
trời [28a] rung động.
Mùa hạ,
tháng 5, dụ bắt được chúa Chiêm Thành Chế Chí đem về; phong em hắn
là Chế Đà A Bà Niêm làm Á hầu trấn giữ đất ấy.
Trước đó,
Chế Chí sai người sang cống. Người ấy là trại chủ Câu Chiêm. Vua sai
Đoàn Nhữ Hài bí mật ước hẹn với hắn. Đến khi vua đích thân đi đánh,
đến phủ Lâm B́nh, chia quân làm ba đường: Huệ Vũ Vương Quốc Chẩn
theo đường núi, Nhân Huệ Vương Khánh Dư theo đường biển, vua tự dẫn
sáu quân theo đường bộ; thủy bộ, cùng tiến. Lấy Đoàn Nhữ Hài làm
Thiên tử chiêu dụ sứ đi trước.
Vua đến
Câu Chiêm dừng lại. Nhữ Hài sai người tới chỗ trại chủ, nói rơ ư yêu
cầu quốc chủ ra hàng. Trại chủ báo cáo với Chế Chí. Chế Chí nghe
theo, đem gia thuộc đi đường biển tới hàng. Nhân Huệ Vương đem quân
đuổi theo. Nhữ Hài lập tức chạy thư tâu rằng:
"Khánh Dư
định cướp công vua".
Vua giận
lắm, sai bắt giám quân của Khánh Dư là Nguyễn Ngỗi đem chặt [28b]
chân. Nhân Huệ sợ, đến ngự doanh tạ tội và nói rằng:
"Thần sợ
nó đến giữa biển lại đổi bụng khác, nên mới chặn đằng sau thôi".
Vua nguôi
giận, sai chia quân đi tuần các bộ lạc. Người Chiêm tụ tập định đánh
vào ngự doanh. Tiếng voi đă gần, quân sĩ có vẻ lo sợ. Được vài hôm,
quân của Huệ Vũ Vương ự t́m đường mà tới, người Chiêm chạy tan. Trận
này không mất một mũi tên mà Chiêm Thành bị dẹp, đó là công sức của
Nhữ Hài.
Ngày vua
đóng ở Câu Chiêm, Minh Hiến Vương Uất (con út của Thái Tông) ở trong
doanh trại, bàn tán biện bác, mê hoặc ḷng quaân. Vua giận, đuổi ra
khỏi dinh, lệnh cho các quân không được thu nhận. Minh Hiến bèn cùng
vài mươi gia đồng ngủ ở ngoài nội. Phạm Ngũ Lăo nghe tin ấy vội mời
vào trong quân và bảo mọi người:
"Thánh
thượng vừa quở trách ân chúa và đuổi ra ngoài, lỡ ra bị giặc bắt
được, th́ chúng nói là bắt được hoàng tử, chứ biết đâu là bị vua
[29a] quở trách! Ngũ Lăo thà chịu tội trái lệnh, chứ không nỡ làm
lợi cho giặc".
Vua nghe
biết, cũng không quở trách ông, Minh Hiến với Ngũ Lăo t́nh nghĩa th́
rất thân nhưng lễ ư th́ rất sơ sài. Minh Hiến đến nhà Ngũ Lăo,
thường cùng ngồi với nhau một chiếu, khi về [Ngũ Lăo] lại đem biếu
tặng vàng bạc, hễ [Minh Hiến] cần ǵ, cũng không có ư sẻn tiếc. Cho
nên Minh Hiến thích chơi với ông.
Vua có
lần đă trách Ngũ Lăo:
"Minh
Hiến là hoàng tử, sao ngươi lại khinh xuất thế!". Sau Minh Hiến lại
đến nhà, Ngũ Lăo vẫn cùng ngồi như xưa, chỉ nói: "Ân chúa nhớ đến
nhà tôi nữa mà Thánh thượng quở trách tôi".
Nhưng
Minh Hiến vẫn lui tới thường xuyên, mà Ngũ Lăo cũng không đổi nết
cũ. Ấy là v́ một người th́ cậy của mà giữ lễ tiết sơ sài, một người
th́ ham của mà quên mất cả phận trên dưới vậy.
Nhà
Nguyên sai Lễ bộ thượng thư Năi Mă Đài1003 sang báo việc Nhân Tông
lên ngôi.
Xa giá
trở về, dâng lễ thắng trận [29b] ở các lăng phủ Long Hưng.
Đến sông
Thâm Thị1004 , bỗng gặp mưa gió sấm chớp, ban ngày mà tối đen như đổ
mực, trong khoảng gang tấc cũng không nh́n thấy nhau. Dây buộc
thuyền đều bị đứt cả. Thuyền ngự ch́m ở giữa ḍng. Vua bám lấy mũi
thuyền leo lên mui, đưa chân cho các cung nữ, nữ quan bám lấy để
cùng leo lên mui. Các thuyền khác đều giạt sang băi cát. Vua truyền
chỉnh đốn lại nghi trượng để về kinh đô.
Tháng 6,
vua từ Chiêm Thành về (đến kinh đô). Các quan bái yết đều mặc áo
ngắn cả, v́ đồ quân phục đều bị ướt hết.
Bấy giờ
Hoàng thái tử giám quốc, Chiêu Văn Đại Vương Nhật Duật và Nghi Vơ
hầu Quốc Tú chỉ huy quân tả hữu Thánh dực ở lại giữ nước.
Vua có
chiếu tuyên dụ rằng: "Công lao của các quan ở lại giữ nước và các
tướng theo ta đi đánh trận là ngang nhau. V́ thái tử c̣n trẻ dại,
nên việc ở lại giữ nước lúc này không giống với các lúc khác, c̣n
các tướng đi theo th́ cũng có công". [Nhưng rồi] cũng không tiến
hành ban thưởng nữa.
Sai sứ
sang Nguyên.
Phong Chế
Chí làm Hiệu Trung Vương, [30a] lại đổi làm Hiệu Thuận Vương.
Tôn thêm
huy hiệu cho các tiên đế, tiên hậu và gia phong danh thần các xứ.
Lập đền
thờ thần ở cửa biển Cần Hải1005 .
Trước
đây, vua đi đánh Chiêm Thành, đến cửa biển Cần Hải (trước là Càn,
tránh tên huư đổi là Cần), đóng quân lại, đêm nằm mơ thấy một thần
nữ khóc lóc nói với vua: "Thiếp là cung phi nhà Triệu Tống, bị giặc
bức bách, gặp phải sóng gió, trôi giạt đến đây. Thượng đế phong
thiếp làm thần biển đă lâu. Nay bệ hạ mang quân đi, thiếp xin giúp
đỡ lập công". Tỉnh dậy, vua cho gọi các bô lăo tới hỏi sự thực, cho
tế, rồi lên đường. Biển v́ thế không nổi sóng. [Quân nhà vua] tiến
thẳng đến thành Đồ Bàn1006 , bắt được [chúa Chiêm] đem về. Đến nay,
sai hữu ty lập đền, bốn mùa cúng tế.
Truy tôn
Chiêu Vương làm Nguyên Tổ Hoàng Đế, Cung Vương làm Ninh Tổ Hoàng Đế,
Ư Vương làm Mục Tổ Hoàng Đế1007 .
[30b] Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói: Vũ Vương nhà Chu lên ngôi, truy tôn hai tổ làm
vương; Thái Tổ nhà Tống được nước, truy tôn bốn đời làm đế. Bởi v́
tổ tông tích lũy
công đức,
nhân nghĩa nên mới có được thiên hạ, th́ việc truy tôn huy hiệu cho
các miếu thờ là việc cần phải làm gấp. Nhà Trần có thiên hạ, đă lên
ngôi đế mà tước vương truy phong cho ba đời đă là việc không thỏa
ḷng người, đến nay mới truy tôn đế hiệu th́ lại có lỗi là để chậm
chạp.
Quư Sửu,
[Hưng Long] năm thứ 2 [1313], (Nguyên Hoàng Khánh năm thứ 2). Mùa
xuân, tháng giêng, [truy] tôn Ninh Tổ phu nhânlàm Ninh Từ hoàng hậu,
Mục Tổ phu nhân làm Mục Từ hoàng hậu.
Tháng 2,
Hiệu Thuận Vương Chế Chí đến hành cung Gia Lâm, chết, đem hỏa táng.
Tháng 3,
sao Chổi mọc ở phương tây.
Hưng
Nhượng Vương Quốc Tảng mất.
Mùa hạ,
tháng 6, ngày 20, sét đánh Tam ty viện, thủ phân Lương Lang chết.
Truyền cho bản ty bỏ tiền ra làm chay lễ tạ.
Theo
lệ1008 cũ, sét đánh cung điện, đường vũ, [31a] phải làm chay cầu
phúc trừ tà th́ hữu ty lo đồ bày biện, c̣n lễ vật cần ùng th́ do kho
công ban cấp. Các xứ khác th́ do bản ty bỏ tiền làm chay lễ tạ.
Mùa đông,
tháng 10, duyệt định Vũ quân, đổi quân Vũ tiệp thành quân Thiết
ngạch, lấy Đại liêu ban Trần Thanh Ly làm Vũ vệ đại tướng quân thống
lĩnh quân này.
Lấy An
phủ sứ Đỗ Thiên Hư làm Kinh lược sư. Bấy giờ Chiêm Thành bị người
Xiêm xâm lược, vua sai Thiên Hư đi kinh lược Nghệ An, Lâm B́nh để
sang cứu. Sau này mọi kế hoạch, lo liệu về biên giới phía tây, Minh
Tông đều ủy cho Thiên Hư.
Tháng 12,
Phụ quốc thái bảo Chiêu Hoài hầu Hiện mất.
Lấy Trần
Khắc Chung làm Tả phụ, tước Quan Phục hầu.
Giáp Dần,
[Hưng Long] năm thứ 22 [124], (từ tháng 3 trở đi là Đại Khánh năm
thứ 1, Nguyên Diên Hựu năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 3, sắc cho Trung
thư ban tên húy của bản triều, thêm các tên húy của Ninh Hoàng và
của hai thái hậu Tuyên Từ, Bảo Từ1009 .
[31b]
Ngày 18, vua nhường ngôi cho hoàng thái tử Mạnh. [Thái tử] Mạnh lên
ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Đại Khánh năm thứ 1. Đại xá. [Vua
tự] xưng là Ninh Hoàng, tôn Thượng hoàng là Quang Nghiêu Duệ Vũ Thái
Thượng Hoàng Đế; tôn Thuận Thánh hoàng hậu là Thuận Thánh Bảo Từ
Thái Thượng hoàng hậu. Quần thần dâng tôn hiệu là Thể Thiên Sùng Hóa
Khâm Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế.
Truy tặng
Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng làm Thái úy.
Mùa đông,
tháng 10, thi thái học sinh. Ban tước bạ thư lệnh, sai cục chính
Nguyễn Bính giảng dạy để sau này bổ dụng.
Xuống
chiếu cho tam phẩm phụng ngự lập Dung đô để chờ sung bổ.
Đặt đô
Phù liễn làm Long vệ tướng. Chọn con trai cấm quân và những người đă
thích chữ Kim cương trong quân Thiết ngạch để sung bổ vào.
Sau khi
vua nhận nhường ngôi, sứ Nguyên sang, làm lễ đọc quốc thư xong, hôm
sau ban yến. Vua mặc áo tràng vạt bằng là màu vàng, đội mũ có thao,
sứ giả khen [32a] vua là "thanh thoát như thần tiên". Đến khi về
nước, [sứ giả] thường nói đến vẻ người thanh tú của vua.
Sau này,
sứ ta sang [Nguyên], có người hỏi rằng: "Tôi nghe nói thế tử vẻ
người thanh tú nhẹ nhơm như thần tiên có đúng không?".
Sứ ta trả
lời: "Đúng như thế, song cũng là tiêu biểu cho phong thái cả nước".
Sau
Nguyễn Trung Ngạn và Phạm Mại sang Nguyên đáp lễ.
MINH TÔNG
HOÀNG ĐẾ
Tên húy
là Mạnh, con thứ tư của Anh Tông, mẹ đích là Thuận Thánh Bảo Từ
hoàng thái hậu Trần thị, con gái của Hưng Nhượng Đại Vương Quốc
Tảng, mẹ sinh là Chiêu Hiến hoàng thái hậu Trần thị, con gái của Bảo
Nghĩa Vương B́nh Trọng. Ở ngôi 15 năm, nhường ngôi 28 năm, thọ 58
tuổi, băng ở cung Bảo Nguyên, táng ở Mục Lăng. Vua đem văn minh sửa
sang đạo trị nước, làm rạng rỡ công nghiệp của người xưa, giữ ḷng
trung hậu, lo nghĩ sâu xa, trong yên ngoài phục, kỷ cương đủ bày.
Tiếc rằng không nhận biết mưu gian của Khắc Chung, để đến nỗi Quốc
Chẩn phải chết, đo là chỗ kém thông minh vậy.
Ất Măo,
[Đại Khánh] năm thứ 2 [1315], (Nguyên Diên Hựu năm thứ 2). Mùa hạ,
tháng 4, ngày mồng 7, đua thuyền.
Tháng 5,
[32b] xuống chiếu cấm cha con, vợ chồng và gia nô không được tố cáo
lẫn nhau.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Vua vốn nhân hậu với họ hàng, nhất là đối với bậc
bề trên mà hiển quư lại càng tôn kính. Kẻ thần hạ hễ ai cùng tên
(với họ hàng nhà vua) đều phải đổi cả, như Độ đổi thành Sư Mạnh v́
là cùng tên với thượng phụ1010 , Tung đổi thành Thúc Cao v́ là cùng
tên với Hưng Ninh Vương1011 (con trưởng của An Ninh vương)1012 . Lại
các tên của chú bác, cô cậu, khi nói đến vẫn kiêng cả. [Vua] có
quyển sổ nhỏ biên những chữ húy không được nói đến, trao cho các
hoàng tử và cung phi. Chỉ v́ ngài có tấm ḷng ấy, nên đă có chính
tích ấy.
Tháng 6,
hạn hán.
Bấy giờ
Trần Khắc Chung làm Hành khiển. Quan ngự sử dâng sớ nói:
"Chức vụ
tể tướng, trước hết phải điều hoà âm dương. Nay Khắc Chung ở ngôi tể
tướng, không biết phối hợp đất trời [33a] cho khí tiết điều ḥa, để
đến nỗi mưa nắng trái thời, thế là làm quan không được công trạng
ǵ".
Khắc
Chung nói:
"Tôi lạm
giữ chức tể tướng, chỉ biết có sức làm những việc mà chức vụ phải
làm, c̣n như hạn hán th́ hỏi ở Long Vương. Khắc Chung đâu phải là
Long Vương mà đổ tội được?".
Sau nước
sông lên to, vua đích thân đi xem đắp đê. Quan ngự sử tâu:
"Bệ hạ
nên chăm sửa đức chính, xem làm ǵ việc đắp đê nhỏ nhặt".
Khắc
Chung nói:
"Khi dân
bị nạn lụt, người làm vua phải cứu giúp tai họa khẩn cấp đó, sửa đức
chính không ǵ lớn hơn việc đó, cần ǵ phải ngồi thinh, tư lự rồi
bảo là "sửa đức chính?".
Có người
bàn rằng: "Khắc Chung đổ lỗi cho Long Vương, đài quan chê [đắp đê]
là việc nhỏ nhặt, [hai bên] đều sai cả".
Mùa thu,
tháng 8, lấy ngày sinh làm tiết Ninh Thiên.
Tháng 9,
có sâu ăn lúa.
Mùa đông,
tháng 10, có sâu ăn lúa.
Ban cho
Trần Khắc Chung tước Á quan nội hầu.
[33b]
Bính Th́n, [Đại Khánh] năm thứ3 [1316], (Nguyên Diên Hựu năm thứ 3).
Mùa xuân, tháng 2, xét duyệt quan văn và1013 hộ khẩu có mức độ khác
nhau.
Các quan
xét duyệt cho rằng những tấm thiếp đóng ấn gỗ vào năm Nguyên Phong
[1251 - 1258] là giả tạo. Thượng hoàng nghe tin ấy, bảo họ:
"Đó đúng
là những tấm thiếp của nhà nước đấy". Nhân ôn chuyện xưa1014 mà dụ
rằng:
"Những
người ở trong triều mà không am hiểu điển cũ th́ lỡ việc nhiều lắm".
Mùa đông,
tháng 11, sai tể thần, tôn thất và các quan gặt ruộng tịch điền.
Sai Nhân
Huệ Vương Khánh Dư đi Diễn Châu xét duyệt sổ lính, sổ dân, lấy Nội
thư hỏa chánh chưởng phụng ngự Nguyễn Bính làm phó.
Xong việc
về triều, Bính đem tiền bổng dâng nộp. Vua sai hữu ty nhận lấy. Có
người hỏi: "Bính nộp tiền bổng mà bệ hạ nhận, thần chưa hiểu là cớ
làm sao?".
Vua đáp:
"Bính nộp tiền bổng là thành thực, nếu trẫm không nhận, th́ hăm Bính
vào tội dối trá, cho nên nhận lấy để tỏ rơ Bính không gian dối".
Bính là
cận [34a] thần của Thượng hoàng, tính người trong sạch thẳng thắn,
năm trước đứng đầu hành nhân sang sứ nước Nguyên, trở về không mua
thứ ǵ, Thượng hoàng khen ngợi, đặc cách ban thưởng 2 tư. Theo lệ
cũ, những người đi sứ Nguyên về, mỗi người được ban tước 2 tư, người
đứng đầu hành nhân trở xuống, mỗi người 1 tư. Bính là người trong
sạch thẳng thắn nên được 2 tư.
Lấy Trần
Hùng Thao làm Thiếu phó.
Đinh Tỵ,
[Đại Khánh] năm thứ 4 [1317], (Nguyên Diên Hựu năm thứ 4). Mùa xuân,
tháng 3, làm lễ thành hôn cho năm công chúa là Thiên Chân, Ư Trinh,
Huy Chân, Huệ Chân, Thánh Chân.
Huy Chân
lấy Uy Giản hầu (không rơ tên). Trước đây, mẹ thân sinh Huy Chân là
Trần Thị Thái B́nh làm cung tần của Thượng hoàng, tính tham lam,
thường chiếm đoạt ruộng đất của dân. Có người kiện, vua không giao
cho hữu ty, gọi Uy giản tới đưa đơn kiện cho xem và dụ rằng:
"Trẫm
không giao cho quan lại xét, sợ làm nhục phi tần của tiên hoàng,
ngươi nên theo đơn mà trả [ruộng cho] dân".
Uy Giản
lập tức [34b] vâng chiếu trả lại ruộng. Sau Thái B́nh chết, Uy Giản
đem tất cả ruộng [bà] chiếm đoạt khi trước trả lại cho chủ cũ. Vua
v́ thế khen ông.
Thượng
hoàng ngự cung Trùng Quang. H́nh bộ lang trung Phí Trực theo hầu.
Chức an phủ Thiên Trường khuyết, sai Trực kiêm làm.
Bấy giờ
trộm cướp bắt đầu nổi lên, tên Văn Khánh là đầu sỏ bọn cướp. Có
người khai là bắt được một tên cướp, giải lên nộp quan và bảo nó là
Văn Khánh. Đến lúc tra hỏi, tên ấy nhận ngay, ai cũng cho là thực,
duy có mỗi Trực vẫn ngờ. Án ấy để lâu không giải quyết. Thượng hoàng
hỏi chuyện đó, Trực trả lời:
"Mạng
người rất trọng, ḷng tôi c̣n có chỗ ngờ, không dám liều lĩnh xử
quyết".
Không bao
lâu, Thượng hoàng hỏi lại, Trực trả lời như lần trước. Thượng hoàng
giận bảo:
"Nó đă
nhận như thế, c̣n ngờ ǵ nữa". Trực tâu:
"Nó không
bị tra tấn khổ sở mà điềm nhiên thú nhận, thần trộm lấy làm ngờ".
Một tháng
sau, Văn Khánh quả nhiên bị bắt. Thượng hoàng do đó khen Trực [35a]
có tài.
Thượng
hoàng có lần ban bữa ăn cho vua. Vua nhai rất kỹ, Thượng hoàng nói:
"Đàn ông phải ăn như rồng nuốt, cọp cắn, cần ǵ phải nhai kỹ?". Khi
ban bữa ăn cho vương hầu, thượng hoàng cũng dụ như thế.
Mậu Ngọ,
[Đại Khánh] năm thứ 5 [1318], (Nguyên Diên Hựu năm thứ 5). Mùa xuân,
tháng 2, ngày 18, đem trưởng công chúa Thiên Chân gả cho Huệ Chính
vương (không rơ tên). Phong Huệ làm Pḥ kư lang.
Mùa thu,
tháng 8, ngày 19, Tuyên Từ thái hậu băng.
Sai Huệ
Vũ Đại Vương Quốc Chẩn đi đánh Chiêm Thành. Tộc tướng nhà Lư là Hiếu
Túc hầu Lư Tất Kiến chết tại trận. Quản Thiên vơ quân Phạm Ngũ Lăo
tung quân đánh phía sau giặc. Quân giặc thua chạy, bắt được rất
nhiều. Phong Ngũ Lăo tước Quan nội hầu, ban cho phi ngư phù và cho
con ông làm quan.
Bấy giờ,
Thượng hoàng có ư xuất gia, nên sai cung nhân ăn chay. Các cung nhân
đều ngần ngại, duy có nữ quan Nguyễn Thị Diên chặt ngón tay [35b]
đem dâng. Thượng hoàng ngợi khen, ban cho 40 mẫu ruộng làm lương ăn
tu hành ngày sau. Rồi Thị Diên quả nhiên đi tu cho đến lúc mất, Phật
hiệu là Tịnh Quang ni.
Mùa đông,
phụ táng Tuyên Từ thái hậu ở cạnh lăng Nhân Tông.
Trước
đây, Nhân Tông từng dặn lại Anh Tông ngày sau phải đem d́ (tức là
thái hậu) táng ở cạnh lăng và vẽ bản đồ chôn cất thành huyệt h́nh
thước thợ trao lại. Đến đây, Thượng hoàng theo di mệnh, đào cạnh
lăng để chôn. Đất lăng nhiều bùn lầy, tiếng đào đắp vang động cả khu
lăng. Thượng hoàng có vẻ lo. Trước đây, khi sắp chôn thái hậu [vào
đấy], các quan tâu rằng không nên làm kinh động lăng tẩm. Thượng
hoàng nói:
"Tiên đế
có lệnh, ta không dám trái. Nếu có tổn hại ǵ, ta sẽ chịu cả".
Sau khi
chôn không được bao lâu, Thượng hoàng bị bệnh, đầy năm th́ băng.
Kỷ Mùi,
[Đại Khánh] năm thứ 6 [1319], (Nguyên Diên Hựu năm thứ 6). Mùa hạ,
tháng 4, bến Đông Thiên Vương ở Đống Lâm lở 10 trượng.
[36a]
Tháng 5, ngày 17, hoàng thái tử Vượng sinh tên hiệu là Thiên Kiến.
Nước to.
Mùa đông,
tháng 11, hoàng thái tử Nguyên Trác sinh.
Canh
Thân, [ Đại Khánh] năm thứ 7 [1320], (Nguyên Diên Hựu năm thứ 7).
Mùa xuân, tháng 3, ngày 16, thượng hoàng băng ở cung Trùng Quang phủ
Thiên Trường, rước linh cữu vào cửa Tường Phù, quàn tại cung Thánh
Từ.
Thượng
hoàng tính t́nh khiêm tốn hoà nhă, hoà mục với người trong họ, mọi
việc của triều đ́nh đều tự ḿnh quyết đoán. Khi thư rỗi trong muôn
việc bận, Thượng hoàng để tâm tới việc trước thuật. Nhưng viết được
ǵ, vẽ được ǵ, ngài đều đốt cả. Tập thơ ngự chế tên là Thủy vân tùy
bút , trước khi mất, cũng đốt đi.
Hồi c̣n
trẻ, thích uống rượu, Nhân Tông răn bảo chuyện đó, từ đấy không bao
giờ uống nữa. Ngài từng ban tước hơi nhiều cho các quan trong triều.
Nhân Tông biết được, sai lấy sổ xem rồi ghi vào trong đó rằng:
"Sao lại
có một nước bé bằng bàn tay mà phong quan tước nhiều như thế", từ đó
lại càng [36b] thận trọng khi ban chức tước. Ngài không ngại sửa lỗi
như vậy đó!.
Quan nô
là Hoàng Hộc và Thiên Kiện dùng mưu kế xảo trá, đánh lừa h́nh quan,
người trong hương rốt cuộc phải chịu tội vu cáo. Thượng hoàng biết
chuyện, bảo h́nh quan rằng:
"Tên Hộc
gian ngoan xảo quyệt đến thế mà ngục quan không biết suy xét t́nh
lư. T́nh ngay lư gian th́ không được lấy lư bỏ t́nh. Phải suy xét cả
t́nh và lư, t́nh lư không xung đột th́ mới là giỏi xử án. Nếu biết
t́nh không gian, th́ theo lư mà làm là phải, nếu t́nh quả là gian
rồi, th́ lại phải suy xét xem lư ngay hay cong, như vậy, điều gian
dối sẽ tự khắc hiện ra, càng không nên tách rời t́nh lư làm hai mà
xét".
Ngài sáng
suốt, thận trọng về h́nh phạt lại như thế đấy.
Huy Tư
được phong hoàng phi, thi theo hầu [thượng hoàng] chưa được ngồi
kiệu. Bảo Từ lấy kiệu ḿnh vẫn đi ban cho bà th́ ngài trách rằng:
"Bảo Từ
có thương yêu Huy Tư th́ cho thứ khác là phải, chứ cái kiệu ngồi c̣n
điển chế cũ, không thể [37a] cho được!".
Nguyễn Sĩ
Cố, Chu Bộ là cận thần của thái tử. Đến khi thái tử lên ngôi. Cố và
Bộ đều v́ không có đức hạnh nên đều không được cất nhắc. Cố làm đến
Thiên chương các học sĩ, chức này thực đặt làm v́, chứ không có
quyền hành ǵ. Bộ th́ chỉ coi mấy bộ cấm binh Khôi. Khi thượng hoàng
thân đi đánh Chiêm Thành, Bộ chết trận, Cố th́ chết trên đường đi.
Hai người này phục vụ Thượng hoàng khó nhọc lâu ngày, nhưng v́ tài
không thể dùng được, nên đặc họ vào chức nhàn tản và đều cho bổng
lộc tước trật ưu hậu cả mà không trao cho thực quyền.
Nguyễn
Quốc Phụ làm Nội thư chánh chưởng, là cận thần của Nhân Tông. Khoảng
năm Hưng Long [1293 - 1314] khuyết chức Hành khiển. [Có lần] Thượng
hoàng chầu Nhân Tông ở chùa Sùng Nghiêm, Nhân Tông bảo: "Quốc Phụ
được đấy!" [Thượng hoàng thưa:
"Nếu lấy
ngôi thứ mà bàn, th́ [Quốc Phụ] được rồi, chỉ hiềm hắn nghiện rượu
thôi!".
Nhân Tông
im lặng rồi không dùng. Quốc Phụ cuối cùng vẫn giữ chức cũ cho đến
khi chết. Ngài thận trọng đối với những chức vị quan trọng lại như
thế đấy.
Bấy giờ
rước linh cữu [thượng hoàng] [37b] đưa về Thiên Trường. Thuyền của
Bảo Từ thái hậu có 8 dây kéo, thuyền của Huy Tư hoàng phi có 2 dây
kéo. Người coi cấm quan có ư nịnh vua, lấy dây buộc thêm vào thuyền
của hoàng phi. Tướng quân Trần Hựu nói:
"Thuyền
của thái hậu có 8 dây kéo là quy chế của nhà Trần để tỏ rơ danh phận
trên dưới", lập tước rút gươm cắt dây bỏ bớt đi. Việc đến tai vua,
vua khen ông trung thành. Hựu là viên quan cận thần của Thượng
hoàng.
Mùa hạ,
tháng 6, nước to.
Mùa thu,
tháng 8, gió to.
Mùa đông,
tháng 10, xuống chiếu rằng những người tranh nhau ruộng đất, nếu
khám xét thấy không phải của ḿnh mà cố tranh bậy th́ bị truy tố,
tính giá tiền ruộng đất, bắt đền gấp đôi. Nếu làm văn khế giả, th́
bị chặt một đốt ngón tay bên trái.
Tháng 11,
Điện súy thượng tướng quân Phạm Ngũ Lăo mất tại phũ đệ vua ban ở
vườn cau trong thành, thọ 66 tuổi. Vua nghỉ chầu 5 ngày, đó là ân
điển đặc biệt.
Ngũ Lăo
[người làng] Phù Ủng, [huyện] Đường Hảo [châu] Thượng Hồng, lúc hơn
hai mươi tuổi, [38a], Hưng Đạo Vương thấy và cho là có kỳ tài, đem
con gái nuôi gả cho. [Ngũ Lăo] nhân đó, làm gia thần cho vương, được
vương dạy bảo thêm, tài nghệ tuyệt vời. Vương tiến cử ông.
Ngũ Lăo
xuất thân trong hàng quân ngũ, nhưng rất thích đọc sách, là người
phóng khoáng, có chí lớn, thích ngâm thơ, tựa như không để ư đến
việc vơ bị. Nhưng quân ông chỉ huy, thực là đội quân phụ tử, hễ đánh
là thắng. Ông có làm bài thơ:
Hoành sáo
giang sơn cáp kỷ thu, Tam quân tỳ hồ khí thôn ngưu. Nam nhi vị liễu
công danh trái, Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
(Vung
giáo non sông trải mấy thu, Ba quân tựa cọp nuốt trôi trâu. Trai
chưa trả nợ công danh được, C̣n thẹn khi nghe chuyện Vũ hầu)1015 .
Ông huấn luyện quân đội rất có kỷ luật, đối đăi tướng hiệu tực như
người nhà, cùng đồng cam cộng khổ với binh sĩ, cho nên quân đi tới
đâu, không ai dám chống; tất cả chiến lợi phẩm thu được đều sung vào
kho quân, coi của cải như không, là bậc danh tướng của một thời vậy.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Tôi từng thấy các danh tướng nhà Trần như Hưng Đạo
Vương th́ học vấn [38b] tỏ ra ở bài hịch, Phạm điện súy th́ học vấn
biểu hiện ở câu thơ, không chỉ có chuyện về nghề vơ. Thế mà dùng
binh tinh diệu, hễ đánh là thắng, đă tấn công là chiếm được, người
xưa cũng không một ai vượt nổi các ông. Lê Phụ Trần th́ dũng lược
đứng đầu ba quân, một ḿnh một ngựa xông pha trong lúc gian nguy, mà
tài văn học của ông đủ để dạy bảo thái tử. Đủ biết, nhà Trần dùng
người, vốn căn cứ vào tài năng của họ để trao trách nhiệm. C̣n như
quân Thiên thuộc (tức là quân Thiên vũ) mà cấm không được vào học.
Giả sử có người văn vơ toàn tài sinh ra ở trong đó, th́ chẳng bị ḱm
hăm lắm sao!
Tháng 12,
ngày 12, táng Thượng hoàng vào Thái lăng ở Yên Sinh (Thái Lăng ở núi
Yên Sinh, hai lăng Mục Lăng và Phụ Lăng cũng ở đó), miếu hiệu là Anh
Tông, thụy hiệu là Hiển Văn Duệ Vũ Khâm Minh Nhân Hiếu Hoàng Đế.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Gốc của thiên hạ là ở nước, gốc của nước là ở nhà,
[39a] gốc của nhà là ở ḿnh. Có dạy được người trong nước. Đời Đường
Ngu thịnh trị chẳng qua cũng là như vậy. Kinh Thư ca ngợi Đế Nghiêu
dẫn dắt muôn dân bỏ ác làm thiện, đi tới thịnh trị, th́ hẳn là v́
trước hết ông biết thân yêu họ hàng1016 , cũng tức là đă thực hiện
giáo hóa bắt đầu từ trong nhà vậy. Tôi đọc sử chép về Anh Tông, thấy
không ngần ngại sửa bỏ lỗi lầm, kính cẩn thờ phụng cha mẹ, ḥa mục
với họ hàng, truy tôn tổ tiên làm đế làm hậu, chu đáo trong cúng tế,
thận trọng trong tang lễ, đều là phải đạo; trong nhà đủ làm khuôn
phép, người ngoài bắt chước theo. Cho nên trên th́ Nhân Tông khen là
hiếu, dưới th́ Minh Tông tuân theo khuôn phép. Nước trở nên văn
minh,dân tới chỗ giàu thịnh. Như thế chẳng phải là hiệu quả trị nước
vốn ở gốc tu thân tề gia là ǵ? Dù lời khen trong Thi, Thư1017 cũng
không hơn thế.
Lại nói:
Thiên tử mất 7 tháng th́ chôn, nay để hơn 9 tháng mới chôn. Có lẽ
thế là theo thuyết âm dương chăng1018 .
[39b]
Trước đây, Anh Tông không khoẻ, vua ngày đêm ơ luôn ngoài cửa pḥng
ngủ của Thượng hoàng, mỗi khi vào thăm th́ cùng đi với Quốc Chẩn. V́
Anh Tông tin cậy Quốc Chẩn hơn cả, định đem vua gửi gắm Quốc Chẩn,
cho nên không cho vào thăm một ḿnh, mà phải cùng đi với Quốc Chẩn,
cốt để cho t́nh nghĩa vua tôi được khăng khít và không c̣n nghi ngại
ǵ nữa.
Bấy giờ,
Bảo Từ thái hậu cho gọi sư Phổ Huệ đến chùa Phổ Minh mở hội Quán
đính1019 . Anh Tông bệnh vừa chuyển nặng. Phổ Huệ xin được gặp để
tŕnh bày việc sống chết. [Anh Tông] sai trả lời rằng:
"Sư hăy
đến đây, ta chết rồi, Quan gia có sai bảo ǵ, th́ cứ việc làm. C̣n
như chuyện sau khi chết, th́ sư cũng chưa chết, biết đâu mà tŕnh
bày việc chết với ta?".
Thái học
sinh Đặng Tảo thường xuyên đứng hầu bên giường ngự để viết di chiếu.
Anh Tông băng, vua đích thân khâm liệm. Chỉ có Quốc phụ cùng Tảo và
gia nhi chủ nô là Lê Chung tham gia việc này. Đến khi rước linh cữu
về sơn lăng, Tảo, Chung đều tới hầu [40a] lăng tẩm. Hàng năm, khi
vua bái yết lăng, Tảo thườn lánh đi chổ khác, chỉ có ư nguyện ở lại
phụng thờ lăng tẩm mà thôi, chứ không đ̣i xin ǵ khác.
Vua
thương Tảo nghèo, ban cho 20 mẫu ruộng, sai Trần Thế Hưng mang giấy
cho. Ruộng này khi trước đă ban cho thứ phi của vua là Thiên Xuân.
Thiên Xuân cứ giữ giấy cũ mà cày cấy, thế mà Tảo vẫn không tranh
chấp với bà. Thế Hưng biết chuyện, tâu thực với vua. Vua lập tức thu
lại giấy của Thiên Xuân, đem ruộng trả cho Tảo, Tảo cũng chẳng lấy
làm mừng.
Chung th́
đời mồ mả tổ tiên, bán ruộng đất, nhà cửa, đem gia quyến vợ con đến
Yên Sinh, chôn cất và làm nhà ở đấy. Cả hai người đều ở Yên Sinh cho
đến khi mất. Sau này Nghệ Hoàng đến Yên Sinh, tưởng nhớ hai người bề
tôi đó, liền sai Trần An trùng tu chùa cũ của Tảo và Chung, lại cấp
ruộng để thờ cúng, ban tên chùa là chùa Trung Tiết.
Đổi đô
Phù Liễn làm Khấu mă quân.
Đói.
Lấy Bùi
Mộc Đạc tri Thẩm h́nh viện sự, kiêm [40b] Chuyển vận sứ lộ Hoàng
Giang Hạ.
Tân Dậu,
[Đại Khánh] năm thứ 8 [1321], (Nguyên Anh Tông Thạc Đức Bạt Lạt Chí
Trị năm thứ 10). Mùa xuân, tôn Thuận Thánh Bảo Từ thái thượng hoàng
hậu làm Thuận Thánh Bảo Từ hoàng thái hậu, tôn mẹ thân sinh là Huy
Tư hoàng phi làm Huy Tư hoàng thái phi (tức là Chiêu Từ hoàng thái
hậu).
Tháng 2,
gạo 1 thăng nhỏ trị giá 1 quan tiền.
Mùa hạ,
lúa chiêm được mùa to.
Mùa đông,
tháng 12, hoàng tử thứ ba là Phủ sinh.
Thi các
tăng nhân, hỏi kinh Kim Cương.
Ban cho
Trần Khắc Chung tước Quan nội hầu.
Sai sứ
sang Nguyên mừng Anh Tông lên ngôi.
Lấy
Nguyễn Trung Ngạn làm Ngự sử đài thị ngự sử.
Nhâm
Tuất, [Đại Khánh] năm thứ 9 [1322], (Nguyên Chí Trị năm thứ 2). Mùa
xuân, tháng giêng, lấy Huệ Túc Đại Vương Niên làm Phó kư lang.
Tháng 3,
sét đánh tháp Báo Thiên, sụt mất 2 tầng góc bên đông.
Mùa hạ,
người Nguyên [41a] tranh chấp biên giới. Sai H́nh bộ thượng thư, ty
Hành khiển là Doăn Bang Hiến sang Nguyên tranh biện. Hiến mất trên
đường đi, vua rất thương tiếc.
Quư Hợi,
[Đại Khánh] năm thứ 10 [1323], (Nguyên Chí Trị năm thứ 3). Mùa xuân,
tháng 8, ngày 22, vua ngự đến nhà Thái học. Có tên Mặc trong quân
Thiên thuộc ở Hoàng Giang đỗ khoa thi Thái học sinh, vua xuống chiếu
bắt trở lại quân ngũ, làm quân lại quân Thiên đinh, đến khi thi đánh
gậy, [Mặc] lại đỗ cao.
Bấy giờ
tuyển chọn các quân, lấy người béo trắng làm hạng trên, cho nên quân
sĩ không xăm ḿnh nữa là bắt đầu từ đấy.
Xuống
chiếu rằng khi tranh ruộng mà ruộng có lúa, th́ hăy chia làm 2 phần,
bồi thường cho người cày 1 phần, c̣n 1 phần lưu lại. Đó là theo lời
tâu của Đại an phủ Kinh sư kiêm Kiểm pháp quan Nguyễn Dũ. Dũ nổi
tiếng ngang với Thiên Hư. Khi Thiên Hư thôi chức Kinh lược sứ Nghệ
An, Lâm B́nh, vua sai Dũ kế chức ấy. Người Chiêm [41b] cũng sợ phục.
Bấy giờ,
quan trong triều như bọn Trần Th́ Kiến, Đoàn Nhữ Hài, Đỗ Thiên Hư,
Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Dũ, Phạm Mai, Phạm Ngộ, Nguyễn Trung Ngạn, Lê
Quát, Phạm Sư Mạnh, Lê Duy (Duy người xă Cổ Định, huyện Nông Cống),
Trương Hán Siêu, Lê Cư Nhân nối nhau vào triều, nhân tài rộ nở.
Anh em
Ngộ, Mại vốn trước là họ Chúc, khi Nhân Tông xuất gia, làm nội học
sinh theo hầu. Vua cho rằng họ Chúc không phải là họ lớn, mới đổi
cho thành họ Phạm. Ngộ trước tên là Kiên, Mại trước tên là Cố, đều
theo học Nguyễn Sĩ Cố. Kiên tránh tên của phán thủ Huệ Nghĩa đổi là
Ngộ, Cố tránh tên của thầy, đổi là Mại. Mại ở ngự sử đài1020 , cương
trực dám nói, có phong cách người bề tôi can ngăn ngày xưa". Sau vào
chính phủ, không được mấy năm bị băi chức.
Trung
Ngạn tên cũ là Cốt. Khi Anh Tông ngự cung Trùng Quang, có ư muốn
xuất gia, có làm bài thơ "Chiêu ẩn"1021 ban cho Trung Ngạn, Trung
Ngạn từ chối không vâng mệnh.
Đĩnh Chi
là người liêm khiết, [42a] sống rất đạm bạc. Vua rất hiểu ông, sai
người ban đêm đem 10 quan tiền bỏ vào nhà ông. Hôm sau, Đĩnh Chi vào
chầu, tâu vua hay chuyện đó. Vua bảo: "Không ai đến nhận, cho khanh
lấy mà tiêu". Thời Hiến Tông, ông làm Nhập nội hành khiển Hữu ty
lang trung rồi thăng Tả ty lang trung.
Mùa đông,
tháng 11, đúc tiền kẽm.
Tháng 12,
sách phong con gái trưởng của Huệ Vũ Đại Vương Quốc Chẩn là Huy
Thánh công chúa làm Lê Thánh hoàng hậu (tức là Hiến Từ thái hậu).
Lấy Uy
Giản hầu (không rơ tên) làm Tham thị triều chính trị quân quốc sự.
Thân thuộc có kẻ chê chức ấy thấp. Uy Giản bảo chúng:
"Bọn bay
ngu quá, phàm bề tôi được chúa thượng trông tới, đều do ở ḷng thánh
lựa chọn, chứ không phải là sức người làm nổi, sao lại được càn rỡ
nghĩ xằng? Ta may được đội ơn yêu quư, thực đă quá ḷng mong muốn
rồi, bàn chi đến chức cao hay thấp".
Vua nghe
biết, cho là những lời nói phải.
[42b],
Giáp Tư, [Khai Thái] năm thứ 1 [1324], (Nguyên Thái Định năm thứ 1).
Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, đổi niên hiệu.
Xét duyệt
các sắc mụ nội thị tạp lưu.
Mùa hạ,
tháng 4, lấy Huệ Vũ Đại Vương Quốc Chẩn làm Nhập nội quốc phụ thượng
tể, Kiểm hiệu thái úy Nhật Duật làm Tá thánh thái sư; Uy Túc công
Văn Bích làm Nhập nội phụ quốc thái bảo, Văn Huệ công Quang Triều
làm Nhập nội hiệu tư đồ.
Vua
Nguyên sai Mă Hợp Mưu1022 , Dương Tông Thụy sang báo tin lên
ngôi1023 và trao cho 1 quyển lịch.
Bọn Mưu
đi ngựa đến tận đường ở cầu Tây Thấu Tŕ không xuống. Những người
biết tiếng Hán, vâng lệnh tiếp chuyện, từ giờ Th́n đến giờ Ngọ, khí
giận càng tăng.
Vua sai
Thị ngự sử Nguyễn Trung Ngạn ra đón. Trung Ngạn lấy lẽ bẻ lại, Hợp
Mưu đuối lư, phải xuống ngựa bưng chiếu đi bộ. Vua rất hài ḷng.
Rồi sau
bàn việc trái ư vua, [Ngạn] bị giáng làm Thông phán châu Viêm Lăng,
[43a] được tiếng là chính sự giỏi. Ít lâu sau, được thăng làm Thiêm
tri Thánh Từ cung sự.
Ban cho
Trần Bang Cẩn bức tranh và bài thơ. Bấy giờ, Bang Cẩn làm Đại hành
khiển thượng thư tả bộc xạ, là người tín thực giữ ǵn, giản dị điềm
tĩnh, không xa hoa. Vua ban cho bức tranh và bài thơ rằng:
H́nh dung
cốt cách nại đông hàn,
Tướng mạo
đ́nh đ́nh diệc khả khan.
Phong lưu
nhất đoạn hồn miêu tận,
Tâm lư
nan miêu cảnh cảnh đan.
(Cốt cách
dáng h́nh chịu rét đông,
Hiên
ngang tướng mạo thực nên trông.
Phong lưu
mọi vẻ đều nên cả,
Vẽ sao
canh cánh tấm ḷng trung).
Mùa đông,
tháng 12, cấm tiền kẽm.
Năm này
hạn hán, sâu bọ; trâu ḅ, gia súa chết nhiều.
Ất Sửu,
[Khai Thái] năm thứ 2 [1325], (Nguyên Thái Định năm thứ 2). Mùa
xuân, đặt ty Liêm phỏng ở các lộ. Lấy Đặng Lộ làm Liêm phỏng sứ hai
lộ Đại Hoàng và An Tiêm.
Mùa thu,
tháng 8, ban xuống các điều lệ mới quy định.
Theo quy
chế cũ, Hành khiển ty ở cung Quan Triều và Thánh Từ, cùng Nội thư
hỏa cục th́ gọi chung là Nội mật viện. Đến nay, đổi Hành khiển ty
thành Môn hạ sảnh, c̣n Nội thư hỏa cục vẫn là Nội mật [43b] viện.
Tư đồ Văn
Huệ công Quang Triều mất (thọ 39 tuổi).
Bính Dần,
[Khai Thái] năm thứ 3 [1326], (Nguyên Thái Định năm thứ 3). Từ tháng
2, mùa xuân, đến tháng 6 không mưa.
Tháng 3,
Trung thư thị lang tri Thẩm h́nh viện sự Bùi Mộc Đạc mất.
Trước
đây, khi Anh Tông sắp băng có bảo vua:
"Mộc Đạc
trải thờ ba triều, là người cung kính, thận trọng, giữ ǵn, học thức
khả quan, nên đăi ngộ cho khéo, chớ để bị người ta ngăn trở".
Vua sai
vẽ chân dung Mộc Đạc cất ở nhà sách, có ư định dùng vào chức to,
nhưng chưa kịp thăng th́ mất (thọ 62 tuổi).
Mùa thu,
tháng 7, xét duyệt các quan văn vơ.
Lấy Nội
thư hỏa chánh chưởng phụng ngự Tạ Bất Căng làm Nhập nội hành khiển,
hành Tả ty lang trung. Lấy Trần Khắc Chung làm thiếu bảo, hành Thánh
Từ cung Tả ty sự, ban tên tự là Văn Tiết, hàm Đồng trung thư môn hạ
b́nh chương sự.
Buổi quốc
sơ, theo quy chế cũ của nhà Lư, hàm Hành khiển có thêm các chữ Trung
thư môn hạ b́nh [44a] chương sự. Từ khi thượng tướng Quang Khải ở
ngôi tể tướng, chê chức hành khiển và chức tể tướng ngang hàng nhau,
mới tâu xin đổi thành Trung thư môn hạ công sự để cho có phân biệt.
Đến đây,
vua cho Khắc Chung thăng chức Thiếu bảo, nhưng vẫn làm việc hành
khiển; để ưu đăi, nên đặc cách thêm các chữ Trung thư môn hạ b́nh
chương sự, là theo quy chế cũ.
Giáng
Nguyễn Trung Ngạn làm An phủ sứ Thanh Hóa.
Trung
Ngạn có tính hay sơ xuất. Bấy giờ, Bảo Vũ Vương được ban tước Tạo y
thượng vị hầu1024 , Trung Ngạn ghi sổ, lại xếp vào hàng Tử y1025 .
Vua thương ông có tài, vả lại cũng là do lầm lỡ, không bắt tội, nên
đuổi ra làm quan bên ngoài. Trung Ngạn từng làm bài thơ tự phụ rằng:
Giới Hiên
tiên sinh lang miếu khí,
Diệu kinh
dĩ hữu thốn ngưu chí.
Niên
phương thập nhị thái học sinh,
Tài đăng
thập lục sung đ́nh thí.
Nhị thập
hựu tứ nhập gián quan,
Nhị thập
hựu lục Yên kinh sứ.
(Giới
Hiên tiên sinh tài lang miếu1026 ,
Có chí
nuốt trâu từ niên thiếu.
Tuổi mới
mười hai thái học sinh,
Vừa đến
mười sáu dự thi đ́nh.
Hai mươi
bốn tuổi làm quan gián,
Hai mươi
sáu tuổi sứ Yên Kinh)1027 .
Ông kiêu
căng như vậy đấy. Về sau, hai lần sung chức [44b] Hựu sảnh1028 . Đến
thời Dụ Tông, vào chính phủ, giữ trọn tiếng tốt, không phụ là bậc
nho giả, thọ hơn 80 tuổi. Có Giới Hiên tập lưu hành ở đời.
Bấy giờ
Trương Hán Siêu làm Hành khiển. Một hôm, Siêu nói trong triều rằng
h́nh quan Phạm Ngộ và Lê Duy ăn hối lộ. Vua lập tức sai điều tra.
Hán Siêu nói kín với người khác:
"Tôi làm
việc ở chính phủ, được chúa thượng tin dùng, cho nên mới nói thế,
biết đâu lại có chuyện tra xét này!".
Vua nghe
vậy nói: "Hành khiển là quan ở sảnh, Thẩm h́nh là quan ở viện, ta
đều tín nhiệm cả. Sao lại làm ta tin quan sảnh mà ngờ quan viện?".
Đến khi
tra hỏi, Hán Siêu đuối lư phải phạt 300 quan tiền.
Ít lâu
sau, lấy Phạm Ngộ làm Tham tri chính sự đồng tri thượng thư Tả ty
sự, chức ngang với Hán Siêu. Ngộ tuy học vấn không bằng Hán Siêu,
nhưng làm quan thanh liêm cẩn thận, được tiếng khen ở thời đó.
Huệ Túc
Vương đánh Chiêm Thành không thắng lợi [45a] trở về. Vua nói:
"Tiên đế
tắm mưa gội gió mới bắt được chúa nước nó. Quốc phụ là một trọng
thần, phụng mệnh đi đánh1029 , khiến chúa nước giặc là Chế Năng phải
chạy sang nước khác (Chế Năng chạy sang Trảo Oa cầu cứu), lập tù
trưởng A Nan làm Hiệu Thánh á vương. Nay Huệ Túc chỉ là một vương
thôi, uy vọng không
thể sánh
với Quốc phụ, thế mà ta cứ ở yên trong cung, trao cho chuyên việc
đánh dẹp, muốn bắt sống chúa nó th́ làm nổi chăng?".
Đinh Măo,
[Khai Thái] năm thứ 4 [1327], (Nguyên Thái Định năm thứ 4). Mùa hạ,
tháng 5, sét đánh lăng tẩm. Quần thần bàn việc ấy. Xuống chiếu phạt
bọn Thiếu bảo Trần Khắc Chung, Hành khiển Đoàn Nhữ Hài theo mức độ
khác nhau.
Sau hôm
sét đánh, các quan họp bàn ở Nội nhân văn cục. Các vương hầu cùng
giải lao với Trần Khắc Chung và Đoàn Nhữ Hài. Khắc Chung nói chuyện
có giọng hài hước. Nhữ Hài vội đứng dậy bỏ đi. Khắc Chung nói xong
mọi người đều cười, [45b] bị quan Ngự sử hặc tội. Xuống chiếu phạt
Khắc Chung và Nhữ Hài. Nhữ Hài căi:
"Lúc cười
đùa th́ thần đă đi rồi".
Vua nói:
"Nhữ Hài
nghe biết là đùa cợt, không ngăn, lại bỏ mà đi, thế là cố ư hăm mọi
người vào tội lỗi mà tính kế tránh lỗi cho ḿnh".
Rốt cuộc
vẫn phạt Nhữ Hài.
Có viên
quan tên là Hiệu Khả ca ngợi vua giỏi hơn Anh Tông. Vua biến sắc
mặt, ngăn không cho nói và bảo:
"Ai mà
khen người khác là giỏi hơn cha, th́ người ấy hẳn là bất hiếu với
cha mẹ, cho nên mới nói ra câu ấy".
Hiệu Khả
không biết chiều cha mẹ, nên vua nói thế để răn đe y.
(Hiệu Khả
là người trong ḷng trí trá. Có lần, vua lấy ra hai chiếc ḥm đựng
áo mặc, sai Hiệu Khả xếp loại tốt xấu và bảo Khả: "Một cái do chính
tay Thái thượng tự làm, một cái do nội nhân Lê Kế làm, cả hai đều
tinh xảo cả, ngươi chỉ xem cái nào khéo hơn".
Hiệu Khả
xem đi xem lại hai ba lần rồi nói úp mở theo kiểu nước đôi: "Chúa
thượng có cái khép của chúa thượng, bề tôi cũng có cái khéo của bề
tôi".
Vua cũng
phải ph́ cười.
S ử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Câu nói ấy của vua, tuy là nhất thời nói ra với
Hiệu Khả, [46a] nhưng tấm ḷng trung hậu qua đó cũng đủ rơ.
Mậu Th́n,
[Khai Thái] năm thứ 5 [1328], (Nguyên Trí Hoà năm thứ 1, từ tháng 9
trở đi là Văn Tông Đồ Thiếp Mục Nhĩ năm Đại Lịch thứ 1). Mùa xuân,
tháng 3, giết Quốc phụ thượng tể Quốc Chẩn.
Bấy giờ,
vua ở ngôi đă 15 năm, tuổi đă cao mà vẫn chưa lập thái tử. Cha hoàng
hậu là Quốc Chẩn giữ ư định đợi hoàng hậu có con rồi sẽ lập. Cương
Đông Văn Hiến hầu (không rơ tên) là con (có sách chép là em) của Tá
Thánh thái sư Nhật Duật, muốn đánh đổ hoàng hậu để lập hoàng tử
Vượng, mới đem 100 lạng vàng đút lót cho gia thần của Quốc Chẩn là
Trần Phẫu, bảo nó vu cáo Quốc Chẩn âm mưu phản loạn. Vua tin là
thực, giam Quốc Chẩn ở chùa Tư Phúc rồi đem việc ấy hỏi Thiếu bảo
Trần Khắc Chung. Khắc Chung cùng cánh với Văn Hiến, lại cùng mẹ với
Vượng, đều là người Giáp Sơn và đă từng làm thầy dạy Vượng, liền trả
lời: "Bắt hổ th́ dễ, thả hổ th́ khó". [46b] Vua mới cấm tuyệt không
cho Quốc Chẩn ăn uống, bắt phải tự tử. Hoàng hậy lấy áo tẩm nước cho
Quốc Chẩn uống, uống xong th́ chết. Bắt bớ đến hơn trăm người liên
can. Mỗi khi xử án, bị can phần nhiều đều kêu oan.
Vài năm
sau, gặp khi vợ cả vợ lẽ tên Phẫu ghen nhau, đem chuyện Văn Hiến đút
vàng tâu lên vua. Phẫu bị hạ ngục. Ngục quan Lê Duy là người cương
trực, xét xử ngay ngày hôm ấy. Tên Phẫu bị lăng tŕ, nhưng chưa kịp
hành h́nh th́ gia nô của Thiệu Vơ (không rơ tên) là con của Quốc
Chẩn đă ăn sống hết cả thịt của nó. Văn Hiến được miễn tội chết, bị
giáng làm dân thường, xóa tên trong sổ [hoàng tộc].
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Ngôi thái tử là gốc của nước, không thể không lập
sớm. Phận chính đích không thể để chi thứ phạm bừa. Vua ở ngôi đă
lâu, con thứ đă lớn rồi
mà con
chính đích chưa sinh, th́ làm thế nào? Ṭng quyền là phải. Đợi con
đích là chấp chính1030 , lập [47a] con thứ là ṭng quyền. Đến khi
con đích sinh ra, lớn lên, th́ gia phong cho con thứ tước vương, c̣n
ngôi thái tử trả về con đích, ai bảo là chẳng nên?.
Có người
hỏi rằng: "Lỡ có chuyện không lành, vua cha mất trước th́ nguy lắm".
Xin thưa:
Hăy chămchú vào lời dạy thường ngày, nhận rơ lấy những lời trong di
chiếu, chọn người bề tôi xă tắc, ủy cho việc gửi gắm con côi, th́
không có lo ǵ. Huống chi Minh Tông chính ḿnh ở vào cảnh ấy rồi,
tất nhiên có thể xử trí được ổn thỏa. Quốc Chẩn là người cố chấp
không linh hoạtt, để cho kẻ gian thần thừa dịp gieo vạ, đáng thương
thay!.
Kinh dịch
có câu: "Xét xem có chỗ sáng tỏ thông suốt mà thi hành điển lễ".
Quốc Chẩn có lẽ chưa nghe bao giờ! Nhưng mối oan của ôn không thể
không làm cho rơ.
C̣n như
Trần Khắc Chung cũng là nhân vật của một thời, vua trao cho hắn chức
vị sư bảo1031 , và đem việc nước hỏi hắn, đáng lẽ phải hết ḷng
trung khuyên can, để cho vua ḿnh trở thành Nghiêu Thuấn mới phải.
Thế mà lại vào hùa với kẻ [47b] quyền quư, làm hại người ngay thẳng,
đi theo bọn gian tà, đẩy người lành tới nỗi oan khiên, hăm đức vua
vào việc làm tội lỗi. Việc ấy mà nhẫn tâm làm được, th́ c̣n việc ǵ
mà không nhẫn tâm làm nữa? Sau lại xui vua cầu công đi đánh Chiêm
Thành, th́ cái thói nịnh hót lại lộ ra nữa. Cho nên, bậc làm vua khi
dùng người hiền, phải xét kỹ họ, là bởi sợ rằng có đứa tiểu nhân như
bọn Khắc Chung có thể lọt vào trong đó vậy.
Lập hoàng
tử Vượng làm Đông cung thái tử; phong con thứ là Nguyên Trác làm
Cung Tĩnh Đại Vương.
Kỷ Tỵ,
[Khai Thái] năm thứ 6 [1329], (từ tháng 2 trở đi là Khai Hựu năm thứ
1, Nguyên Đại Lịch năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 2, ngày mồng 7, sách
phong Đông cung thái tử Vượng làm Hoàng thái tử.
Ngày 15,
vua nhường ngôi, Vượng lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Khai Hựu
năm thứ 1. Đại xá. (Vua tự) xưng là Triết Hoàng, Tôn Thượng hoàng là
Chương Nghiêu Văn Triết Thái Thượng [48a] Hoàng Đế. Tôn Lệ Thánh
hoàng hậu làm Hiến Từ thái thượng hoàng hậu (Hiến có sách chép là
Huệ). Quần thần dâng tôn hiệu là Thể Nguyên Ngự Cực Duệ Thánh Chí
Hiếu Hoàng Đế.
Rước
thượng hoàng về ở hành cung Thiên Trường. Các hoàng tử chầu hầu.
Thượng
hoàng thường hay bàn đến các nhân vật của bản triều. Thái bảo Uy Túc
Văn Bích nói:
"Xét bàn
nhân vật để dạy hoàng tử, chỉ nên nhắc tới người thiện, c̣n kẻ ác
hăy bỏ chớ bàn đến, sợ các hoàng tử nghe được, có thể sẽ có người
bắt chước".
Thượng
hoàng nói:
"Thiện ác
đều phải nêu để đối chiếu, không thể bỏ một bên nào. Nếu con ta quả
là hiền, th́ nghe điều thiện tất phải theo mà học tập, nghe điều ác
tất phải ghét mà tránh xa; thiện, ác đều có thể làm gương được cả.
Nếu (con ta) không hiền, th́ đợi ǵ thấy kẻ ác rồi mới làm điều ác?
Như Thái Khang1032 thất đức, là bởi các vua trước chơi bời mà bắt
chước hay sao? Tùy Dưỡng Đế1033 luôn mồm nói đến Nghiêu Thuấn, nhưng
mọi việc làm của ông ta th́ lại như Kiệt, Trụ, có phải là ông ta
thấy điều thiện mà bắt chước hay sao".
Uy Túc
cúi đầu nhận là phải.
Lại một
hôm, [thượng hoàng] mời Huệ Túc Vương vào tẩm điện, bảo ông ngồi.
Thượng hoàng đang ăn chay. Huệ Túc Vương vốn bài xích Phật Lăo, nhân
nói:
"Thần
không biết ăn chay th́ có ích lợi ǵ?".
Thượng
hoàng đoán biết ư ông, liền dụ rằng:
"Ông cha
ta ngày xưa thường ăn cơm chay, cho nên ta bắt chước đó thôi, c̣n
ích lợi ǵ th́ ta không biết".
Huệ Túc im lặng rồi lui
ra.
Phong Tá thánh thái sư
Nhật Duật làm Đại Vương.
Mùa đông, Thượng hoàng đi
tuần thú đạo Đà Giang, đích thân đi đánh man Ngưu Hống, sai Thiêm
tri Nguyễn Trung Ngạn đi theo để biên soạn thực lục.
Trước đó, thời Nhân Tông,
Ngưu Hống cùng Đạo Mật vào chầu, cho trở về. Đến nay, chúng làm
phản, thả sức cướp bóc; đất cơi Đà Giang về tay chúng cả1034 lại mưu
cướp nhà Hoài Trung. Thượng hoàng quyết định thân chinh. Trần Khắc
Chung can rằng:
"Đà Giang vốn có tiếng là
đất lam chướng, lại nhiều ghềnh thác chảy xiết, không [49a] lợi cho
việc hành quân. Chiêm Thành không có lam chướng, khí độc, vả lại đế
vương đời trước thân chinh, nhiều lần bắt được chúa nó. Chi bằng bỏ
Ngưu Hống đấy mà đánh ChiêmThành là hơn. Thượng hoàng nói:
"Trẫm là cha mẹ dân, nếu
sinh dân mắc vào cảnh lầm than th́ phải cứu gấp, chả lẽ đi so đo khó
dễ lợi hại hay sao?". Khắc Chung lạy tạ tâu rằng:
"Ḷng thánh che chở, nuôi
dưỡng rộng khắp, không phải là điều mà trí ngu tối của thần có thể
nghĩ tới được".
Trước đây, khi Thượng
hoàng sắp đi đánh Ngưu Hống, người Chiêm Chiêu đế cửa khuyết dâng
thư, đinh ninh rằng sẽ xin đem cả trại ra hàng, nên đă khắc phù1035
làm tin. Thượng hoàng đang muốn lên trên thành trại của họ, bắt
chước chuyện vua Hán Vũ Đế lên đài của chúa Hung Nô ngày xưa. Đến
khi thân chinh, sai Chiêm Nghĩa tiến sang để tiếp ứng quân nhà vua
và dặn rằng:
"Trại Chiêm Chiêu đă ước
hẹn xin hàng, phải đợi quân ta tới, không được hành động liều".
Thượng hoàng đến Mường
Việt1036 , đóng quân lại, ban tên [cho đất ấy] là phủ Thái B́nh; [ở
đây] có suối Bác Tử, ban tên là suối Thanh Thủy [48b]. Chiêu Nghĩa
hầuj tới Chiêm Chiêu, muốn tâng công, tấn công trại, bị thua. Tuyên
uy tướng quân Vũ Tư Hoằng liều sức chiến đấu, chết tại trận. Thượng
hoàng nghe tin nói: "Đă lỡ rồi!".
Song chiến dịch này,
Thượng hoàng đích thân chỉ huy, hiệu lệnh nghiêm minh, uy thanh vang
dội, Ai Lao nghe tiếng chạy tan.
Khi về đến sông Bạch Hạc,
giữa sông có đá ngầm dọc theo ḍng chảy. Thuyền đi thường bị chạm
phải hay mắc cạn. Nghe nói thần sông ấy là Phụ Vũ Đại Vương. Thượng
hoàng khấn thầm: "Nếu thuyền ngự đi được an toàn th́ sẽ khen
thưởng".
Sau này Hưng Hiếu Vương
đi đánh man Đà Giang, đỗ thuyền trên sông Bạch Hạc, đêm thấy thần
báo mộng rằng: "Năm trước vua có lệnh khen thưởng mà đến nay vẫn
chưa thấy ǵ".
Hưng Hiếu Vương về tâu
lại, Thượng hoàng bèn phong thêm cho hai chữ: Quỷ thần thiêng liêng,
ứng nghiệm, quả không sai là ngoa vậy.
Lấy Vũ Nghiêu Tá làm Nhập
nội hành khiển Môn hạ hữu ty lang trung.
Nghiêu Tá (người Hồng
Châu) với em là Nông, [50a], đều đỗ cùng một khoa hồi Thượng hoàng
c̣n ở ngôi vua. Anh em đều nổi tiếng văn học, Nghiêu Tá làm Hành
khiển đồng tri Nội mật viện sự. Đến nay, trao cho chức này.
920 Văn Túc Vương: tên là
Đạo Tái, con của Trần Quang Khải.
921 Chỉ các dân tộc ít
người sống trên lănh thổ Đại Việt thời đó. Nhật Duật c̣n biết tiếng
của nước xung quanh Đại Việt, như Hán, Chăm-pa.
922 Tức là xă Vũ Lâm
huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh B́nh.
923 Quy cước, mă yên: là
hai món ăn. Quy cước là món ṣ huyết, mă yên: chưa rơ món ǵ.
924 Theo Cương mục th́
miện sam là chức hiệu thư quyền miện, người đỗ thám hoa được bổ chức
ấy. Sam là chức bạ thư mạo sam, người đỗ bảng nhăn được bổ chức ấy.
925 Cương mục chép là
Thượng chân đô.
926 Theo truyền thuyết
Trung Quốc, trăi là loài thú không chân, có 1 sừng, hễ gặp người
không chính trực th́ húc nên dùng trăi làm biểu tượng cho quan ngự
sữ giữ việc đàn hặc, hay gián quan giữ việc khuyên can vua.
927 Ấn trướng hạ: con dấu
đóng trong khi hành quân, đánh dẹp.
928 Thanh dă: làm vườn
không nhà trống, khiến quân xâm lược tới không có một nguồn hậu cần
tại chổ nào.
929 Thành B́nh Lỗ: chưa
biết là ở đâu, nhưng có lẽ là nằm ở trong vùng hương B́nh Lỗ hay
quận B́nh Lỗ đời Lê Đại Hành, tức khu vực nằm giữa sông Cầu và sông
Cà Lô, gần Phù Lỗ, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
930 Đèo Mai Lĩnh: tức đèo
Đại Du, phía nam huyện Đại Dũ, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
931 Tức Trần Thái Tông.
932 Sở Chiêu Vương chạy
loạn ra nước ngoài, có người làm thịt dê tên là Duyệt đi theo. Sau
Chiêu Vương trở về nước, ban thưởng cho Duyệt. Duyệt từ chối và nói:
"Nhà vua mất nước, tôi không được giết dê, nay vua về nước, tôi lại
được làm nghề giết dê, tước lộc thế là đủ c̣n thưởng ǵ nữa".
933 Cao Tổ nhà Hậu Tống
Tên là Lưu Dụ vốn là người làm ruộng, sau nhân dịp loạn lạc, nổi lên
giành được thiên hạ.
934 Thượng phụ: tức Lă
Vọng, giúp Chu Vũ Vương giành được thiên hạ, Vũ Vương tôn làm thầy,
gọi là Thượng phụ.
935 Hán Cao Tổ bị Hạng Vũ
Vương bao vây, bề tôi là Kỷ Tín giả là Hán Cao Tổ ra hàng. Cao Tổ do
đó trốn thoát, c̣n Kỷ Tín đă bị thiêu chết.
936 Do Vu: là bề tôi của
Sở Chiêu Vương thời Xuân Thu, Sở Chiêu Vương lúc lánh nạn bị kẻ cướp
đâm. Do Vu đă giơ lưng ra chịu đâm để cứu Chiêu Vương Sở Tử tức Sở
Chiêu Vương.
937 Dự Nhượng: là gia
thần của Trí Bá nước Tấn thời Chiến Quốc. Trí Bá bị Triệu Tương Tử
giết, Dự Nhượng đă nuốt than cho khác giọng, giả làm hành khất, mưu
giết Trưng Tử để báo thù cho chủ.
938 Thân Khoái: là viên
quan giữ ao cá cho Tề Trang Công đời Xuân Thu. Khi Trang Công bị
Thôi Trữ giết, Thân Khoái cũng chết theo.
939 Kính Đức tức Uất Tŕ
Cung là tướng của Đường Thái Tông (lúc ấy c̣n gọi là Đức xông lên
chém tướng giặc, hộ vệ Thái Tông bị Vương Thế Sung vây đánh, Kính
Đức xông lên chém tướng giặc, hộ vệ Thái Tông thoát khỏi ṿng vây.
940 Nhan Cảo Khanh làm
thái thú Thường Sơn, khi An Lộc Sơn nổi loạn đánh bị bắt, Cảo Khanh
luôn miệng chửi An Lộc Sơn, bị Lộc Sơn cắt lưỡi.
941 Thát: tức Thát Đát,
chỉ Mông Cổ.
942 Vương Công Kiên tức
Vương Kiên, trị châu Hợp Châu (Tứ Xuyên) đă huy động nhân dân anh
dũng chiến đấu ở núi Điếu Ngư, cầm cự với đạo quân Mông Cổ do vua
Nguyên Mông Ke chỉ huy trong 4 tháng trời, cho đến khi Mông Ke ốm
chết dưới thành Điếu Ngư, quân Mông Cổ phải rút.
943 Tức Uryangkhađai
(Uriyangqadai), tên tướng Mông Cổ đă đánh chiếm vùng Vân Nam và tiến
quân vào nước ta năm 1258. Tên của Uryangkhađai ở các thư tịch có
nhiều phiên âm: Ngột Lương Hợp Đăi, Ngột Lương Hợp Thai, Ngột Lương
Cáp Đăi, Ô Đặc Lư Cáp Đạt, Ô Lan Cáp Đạt...
944 Bản Hoàng Việt văn
tuyển chép là Xích Tu Tư.
945 Năm 1253, Hốt Tất
Liệt và tướng Uryangkhađai vượt sông Kim Sa đánh chiếm thủ đô nước
Đại Lư. Chỉ trong vài tuần, nước Đại Lư bị chinh phục, vua Đại Lư là
Đoàn Hưng bị bắt và đầu hàng. Nam Chiếu nói đến trong bài hịch là
chỉ nước Đại Lư bấy giờ, ở vùng Vân Nam, Trung Quốc.
946 Vân Nam Vương: tên là
Hốt Kha Xích (Hugodi), con trai của Hốt Tất Liệt. Cuối năm 1267, Hốt
Tất Liệt phong Hốt Kha Xích làm Vân Nam vương, đem quân đóng giữ đất
nước Đại Lư cũ ở Vân Nam.
947 Câu trong sách Hán
thư: "Ôm mồi lửa đặt dưới đống củi rồi nằm lên trên, lửa chưa kịp
cháy vẫn cho là yên".
948 Câu từ Sở từ: "Kẻ sợ
canh nóng thường thổi cả rau nguội".
949 Bàng Mông, Hậu Nghệ:
là hai nhân vật bắn cung giỏi trong thần thoại Trung Quốc.
950 Vốn là nơi trú ngụ
của các vua "man di" khi vào chầu vua Hán ở Trường An. Ở đây chỉ nơi
dành cho các sứ bộ nhà Nguyên lưu trú trong kinh thành bấy giờ.
951 Theo truyền thuyết
Trung Quốc, Cao Dao làm sĩ sư thời Ngu Thuấn. Sĩ sư là chức đứng đầu
về việc hành ngục thời đó.
952 Vũ Vương làm tướng
cho Văn Vương, Thành Vương làm tướng cho Vũ Vương, đều là những
người có công lớn khai sáng ra nhà Chu.
953 Theo truyền thuyết
Trung Quốc, Hữu Miêu là một tộc ở phía Nam, nổi lên chống lại Thuấn,
Thuấn dùng thủ đoạn vỗ về để thu phục.
954 Tôn Vũ là người nước
Tề, làm tướng cho Ngô Vương Hạp Lư (đời Xuân Thu) lấy cung nhân của
Hạp Lư, tập trận bày đánh trận, về sau giúp nước Ngô thu phục chư
hầu, mở rộng đất đai.
955 Sách Tấn thư (q.27)
chép là Mă Long.
956 Đây là truyền thuyết.
Thực ra phép tỉnh điền có từ đời Chu.
957 Gia Các Lượng: Tên tự
là Khổng Minh, người đời Tam Quốc, giúp Lưu Bị dựng nên nước Thục,
cùng hai nước Ngô và Nguỵ tạo thành thế chân vạc.
958 Vệ Công: Tức Lư Tĩnh
đời Đường Thái Tông, đă mô phỏng bát trận đồ của Gia Cát Lượng làm
ra Lục hoa trận, trận lớn bọc trận nhỏ, gọi là Lư Vệ Công binh pháp.
959 Hoàn Ôn: Tên tự là
Nguyên Tử, một danh tướng đờ Tấn, làm đến chức Đại tư mă, đă đánh
Nguỵ, Tiền Tần... nổi tiếng thời đó.
960 Lư Thuyên: Người đời
Đường, soạn sách Thái bạch âm kinh nói về mưu chước dùng binh.
961 Ngũ hành: Là thuỷ,
thổ, kim, mộc, hoả. Ở đây là vận dụng thuyết ngũ hành tương ứng
trong binh pháp.
962 Cửu cung: 9 cung.
Khái niệm cửu cung ban đầu được đưa ra một cách mơ hồ trong Cần tạo
độ của Kinh Dịch: "Thái Nhất lấy số của nó để đi qua cửu cung, 4
chính và 4 duy đều hợp thành 15". Trịnh Huyền chú thích là thần Thái
Nhất (hay Thái Ất) ở cung giữa, lần lượt tuần hành 8 cung bát quái ở
chung quanh. Cũng từ đó, người Hán lập thành cửu cung số, gồm 9
cung, tức 9 ô vuông trong một h́nh vuông, 3 ô hàng trên mang các số
4, 9, 2; 3 ô hàng giữa mang các số 3, 5, 7; 3 ô hàng dưới mang các
số 8, 1, 6. Như vậy đó là một ma trận (ảo phương) mà tổng các cột
ngang, dọc và chéo đều bằng 15. Người ta thần bí hoá cửu cung và về
sau đến đời Tống, người ta lại coi cửu cung số là "Lạc thư".
963 Cương nhu, chẵn lẻ,
âm dương, thần sát, phương hướng, tinh tú, hung thần, ác tướng, tam
cát, ngũ hung... đều là các khái niệm được dùng trong việc lập trận
đồ thời xưa.
964 Chỉ nước Nguyên.
965 Chỉ vương quốc Chiêm
Thành (Chăm-pa).
966 Văn Bích: là con Đạo
Tái, cháu Quang Khải.
967 Mường Mai: nay là đất
huyện Mai Châu, tỉnh Ḥa B́nh.
968 Bản dịch cũ chữa là
"Thân vương", có lẽ đúng hơn.
969 Yên Hoa: nay là Yên
Phụ ở Hà Nội. Thực ra không phải năm này (1302), đạo sĩ Hứa Tông Đạo
mới đến Đại Việt. Theo bài minh trên chuông Thông Thánh Quán ở Bạch
Hạc (Việt Tŕ), do chính Hứa Tông Đạo soạn năm Đại Khánh thứ 8
(1321), th́ ông đă đến Đại Việt vào năm Bính Tư (1276). Ông là người
hương Thái B́nh, huyện Phúc Thanh, Phúc Châu, lộ Phúc Kiến.
970 Tỳ Ni c̣n gọi là Thi
Lị bB́ Nại hay Thi Nại (Sri Vinaya), tức là cửa Quy Nhơn ngày nay.
971 Mộc Lạc: có nghĩa là
"cây đổ, cây rụng".
972 Nguyên bản in là tam
bách tam thiên, hẳn là chữ thiên? in nhầm từ chữ thập?. Các bản in
đời Nguyễn đă chữa lại là tam bách tam thập.
973 Y thiên quốc, lấy ở
Quốc ngữ, nội dung nói về đạo trị nước. Mục thiên tử truyện bộ tiểu
thuyết cổ của Trung Quốc, do Quách Phác đời Tấn chú giải, chép
truyện Mục Vương đời Chu. Bản nhầm chữ thiên tử thành thái tử.
974 Kinh nghi: những điều
nghi vấn trong kinh điển nho gia.
975 Kinh nghĩa: bàn về
nghĩa lư trong kinh điển nho gia.
976 Chế độ rộng, ngặt.
977 Tài khó bắn trĩ.
978 Đức độ đế vương vốn
ưa sự sống, phù hợp với ḷng dân.
979 Cũng gọi là ngón đeo
nhẫn, ngón áp út.
980 Dược thạch châm:
nghĩa là bài châm khuyên răn, có tác dụng như thuốc thang.
981 La Hồi: có lẽ là nước
La Hộc (Lava) ở Laphuri, Thái Lan.
982 Thiền Vu: tên gọi
chúa Hung Nô.
983 Ho Hàn: tức Hô Hàn
Da, một thiền vu Hung Nô. Đời Hán Nguyên Đế, Hô Hàn Da sang chầu và
xin làm rể nhà Hán, Nguyên Đế đem Vương Tường (tức Chiêu Quân) gả
cho.
984 Đông Phương Sóc: tên
tự là Mạn Thiến, người đời Hán, giỏi khôi hài, hoạt kê, từng làm Kim
mă môn thị trung cho Hán Vũ Đế.
985 "Trần Khắc Chung"
theo tiếng Hán có nghĩa là nhà Trần sắp chấm dứt.
986 Tức Huệ Vũ đại vương
Trần Quốc Chẩn.
987 Thiệu Vũ Vương là con
của Quốc Chẩn.
988 Thượng hoàng Nhân
Tông là tổ thứ nhất của phái Thiền Trúc Lâm đời Trần.
989 Sư Pháp Loa trước là
đệ tử của Trúc Lâm đại sĩ, sau trở thành vị tổ thứ hai của phái Trúc
Lâm.
990 Xá lỵ: phiên âm tiếng
Phạn sarira, nghĩa là thân thể, thuật ngữ Phật giáo, chỉ những phần
c̣n lại sau khi thiêu xác, thường là những hạt nhỏ, được gọi là xá
lỵ. Bản in khắc nhầm chữ Xá lỵ thành Xá sát.
991 Câu chuyện trên cũng
được chép trong Nam ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng. Theo sách này
(chuyện Tô linh định mệnh), xá lỵ bay vào ống tay áo hoàng tử Mạnh.
992 Nguyên văn: "Hiền giả
quá chi dă". Theo chúng tôi, có lẽ Toàn thư đă khắc nhầm từ câu:
"Hiền giả chi quá dă", nên dịch như trên.
993 Nguyên bản Toàn thư
chép là An Lỗ Uy, nhầm chữ Khôi ra chữ Uy. Nguyên sử, Bản kỷ (Vũ
Tông) chép rằng năm Chí Đại thứ 1 (1308), Lễ bộ thượng thư A Lư sang
nước ta. A Lư Khôi hay A Lặc Khôi là những tên phiên âm khác nhau
của người Mông Cổ Alqui.
994 Y: Y Doăn, công thần
khai quốc của nhà Thương; Chu: là Chu công, công thần của nhà Chu.
995 Di Tề: tức Bá Di,
Thúc Tề hai bề tôi trung của nhà Thương, không chịu thần phục nhà
Chu, bỏ lên núi Thú Dương ở ẩn, bị chết đói ở đó.
996 Cầu Giang Khẩu: cầu ở
vùng của sông Tô Lịch, thuộc phường Giang Khẩu, tức vùng phố Hàng
Buồm, Hà Nội ngày nay.
997 Cửa thành chợ Dừa: ở
Ô Chợ Dừa, Hà Nội ngày nay.
998 Cửa thành Tây Dương:
ở cửa Ô Cầu Giấy, Hà Nội ngày nay.
999 Cửa thành Vạn Xuân: ở
phía ngoài phường Ông Mạc, tức Ô Đống Mác ở Hà Nội ngày nay.
1000 Nguyên bản chép là
huyện Yên Bang, nhưng thực ra Yên Bang là tên lộ thời Trần và tên
đạo thời Lê, tức đất tỉnh Quảng Ninh ngày nay. Trong Dư địa chí của
Nguyễn Trăi, Lư Tử Tấn có nói: "Yên Bang là nơi hiểm ác, gọi là viễn
châu (châu xa), các triều đại đều đày người đến ở đó".
1001 Uy Túc công: tức
Trần Văn Bích, con Trần Đạo Tái, cháu Trần Quang Khải.
1002 Văn Huệ công: tức
Trần Quang Triều, con Trần Quốc Tảng, cháu Trần Quốc Tuấn. Ở trên,
đă chép.
1003 Năi Mă Đại: các bản
Toàn thư khắc nhầm thành Năi Mă Phản, do chữ Đăi gần giống chữ Phản.
Năi Mă Đăi là phiên âm tên Mông Cổ Naimatai (có nghĩa là "người của
bộ lạc Naiman").
1004 Theo chú thích của
CMCB9 th́ ở huyện Thanh Tŕ, Hà Nội, có xă Thâm Thị. Sông Thâm Thị
có lẽ là đoạn sông Hồng chảy qua xă này.
1005 Cửa biển Cần Hải:
tức Cửa Cờn, nay thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
1006 Đồ Bàn: là kinh đô
của Chiêm Thành, nay thuộc tỉnh B́nh Định.
1007 Chiêu Vương tức là
Trần Lư, Cung Vương là Trần Hấp, Ư Vương là Trần Kinh.
1008 Nguyên văn là chữ
"lễ", chúng tôi cho rằng Toàn thư in lầm.
1009 Tuyên Từ: là bà hậu
của Nhân Tông, Bảo Từ: là mẹ đích của Minh Tông.
1010 Tức Trần Thủ Độ.
1011 Hưng Ninh Vương, tức
Trần Tung, có tên hiệu Phật giáo là Tuệ Trung thượng sĩ.
1012 Đúng ra là An Sinh
Vương, tức Trần Liễu. Ở đây Toàn thư nhầm chữ Sinh thành chữ Ninh.
1013 Dịch
chữ "cập"? trong nguyên văn. Cương mục sửa lại là "cấp"?. Bản dịch
cũ: "... xét định lại quan văn, cấp cho hộ khẩu theo thứ bậc khác
nhau".
1014 Năm
Nguyên Phong thứ 7 (1257), trong lúc hành quân chống quân Mông Cổ,
ấn vua bị mất, phải khắc ấn gỗ để dùng trong giấy tờ việc quân (xem
Toàn thư, BK5, 23b).
1015 Vũ
hầu: tức Gia Cát Lượng, tướng nước Thục thời Tam Quốc.
1016
Nguyên văn là "Cửu tộc" tức họ 9 đời gồm cao, tằng, tổ, khảo bản
thân và con, cháu, chắt, chút, ở đây chỉ họ hàng nói chung.
1017 Thư
Kinh (Nghiêu điển) ca ngợi vua Nghiêu: "Làm sáng đức lớn để thân yêu
ḥa hợp được họ hàng, họ hàng ḥa mục rồi, lại làm cho trăm họ tốt
đẹp, trăm họ sáng tỏ rồi lại ḥa hợp với muôn nước chư hầu. Dân
chúng trong thiên hạ đều bỏ ác làm thiện, trở nên yên vui hưng
thịnh".
1018
Thuyết âm dương: ở đây là chỉ quan niệm của các nhà chiêm tinh thuật
số cho rằng người chết phải chọn ngày, chọn giờ để chôn, nếu không
được ngày giờ lành, sẽ có thể gây ra tai họa cho người sống.
1019 Quán
đính:(Abhiseka) là một nghi lễ Phật giáo, dùng nước hoặc sữa gội lên
đỉnh đầu.
1020 Theo
Nam ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng th́ Phạm mại làm ngự sử trung
thừa, bị cách chức trong vụ án Huệ Vũ Vương Quốc Chẩn. Sau khi Quốc
Chẩn được minh oan, Mại được thăng làm tham tri chính sự.
1021
Chiêu ẩn: có nghĩa là mời bậc ẩn sĩ ra làm quan. Hoài Nam vương An
đời Hán có thiên "Chiêu ẩn sĩ", Tống Văn Đề có xây Chiêu Ân quán cho
Lôi Thứ Tông ở Chung Sơn.
1022
Phiên âm tên Hồi giáo Mahmud.
1023 Vua
Nguyên lên ngôi nói ở đây là NguyênThái Định Đế.
1024 Tạo
y thượng vị hầu: tước vị hầu mặc áo đen.
1025 Tử y
thượng vị hầu: tước thượng vị hầu mặc áo tía.
1026 Lang
miếu: là triều đ́nh, câu thơ có ư "Tiên sinh Giới Hiên là nhân tài
của triều đ́nh".
1027 Năm
26 tuổi, Nguyễn Trung Ngạn được lệnh đi sứ sang kinh đô nhà Nguyên,
bấy giờ là Yên Kinh (nay là Bắc Kinh).
1028 Hựu
sảnh: tức là Nội mật viện.
1029 Toàn
thư chép năm Mậu Ngọ (1318). Sai Huệ Vũ Vương Quốc Chẩn đi đánh
Chiêm Thành (q.6, tờ 35a). Toàn thư cũng chép năm Giáp Tư (1424) lấy
Huệ Vũ Vương Quốc Chẩn làm Nhập nội quốc phụ thượng tể. Như vậy Quốc
phụ ở đây là Quốc Chẩn và lần đi đánh Chiêm Thành này xảy ra vào năm
1318.
1030
Kinh, quyền là hai khái niệm thường gặp trong kinh điển nho gia.
Kinh là những nguyên tắc, nguyên là lư về đạo nghĩa, pháp chế không
thể thay đổi được, bất di bất dịch, đ̣i hỏi mọi người phải luôn luôn
tuân thủ (chấp kính). Quyền là quyền biến, là những biện pháp linh
hoạt có lúc cần phải theo (ṭng quyền), để đạt được mục đích (đạo),
dù những biện pháp ấy có thể trái với các nguyên lư, nguyên tắc kinh
điển.
1031 Khắc
Chung được phong Thiếu bảo năm Khai Thái thứ 3 (1326), lại là thầy
dạy (sư) của hoàng tử (sau là thái tử) Vượng nên gọi là "sư bảo".
1032 Theo
truyền thuyết Trung Quốc: Thái Khang là vua nhà Hạ, con của Khải,
chơi bời vô độ, sau bị chư hầu họ Hữu Cùng là Hậu Nghệ đuổi đi.
1033 Tùy
Dưỡng Đế Dương Quảng là một tên vua vô đạo, giết cha là Văn Đế để
cướp ngôi vua, cực kỳ xa hoa, tàn bạo, sau bị giết.
1034
Nguyên văn là "Bản giang chi địa...", chúng tôi cho rằng bản chữ
"bản" vốn là chữ "Đà" Toàn thư chép lẫn.
1035 Phù
là vật để làm tin, thường làm bằng tre, gỗ, đồng, ngọc có khắc chữ,
chia làm hai, mỗi bên cầm một nữa, lúc cần chứng thực th́ đem hai
nửa ghép lại.
1036
Mường Việt: nay là đất huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La.
Đọc
tiếp trang 2 |