Việt Sử

Việt Nam Sử Lược

 

Trần Trọng Kim

 

Mục-lục

Tựa

Nước Việt Nam

Thượng Cổ Thời Đại

Chương I - Họ Hồng Bàng

Chương II - Nhà Thục

Chương III - Xă hội nước Tàu

Chương IV - Nhà Triệu

Bắc Thuộc Thời Đại

Chương I - Bắc Thuộc lần thứ nhất

Chương II - Trưng Vương

Chương III - Bắc Thuộc lần thứ hai

Chương IV - Nhà Tiền Lư

Chương V - Bắc Thuộc lần thứ ba

Chương VI - Kết quả của thời đại Bắc Thuộc

Tự Chủ Thời Đại

Chương I - Nhà Ngô

Chương II - Nhà Đinh

Chương III - Nhà Tiền Lê

Chương IV - Nhà Lư

Chương V - Nhà Lư (tiếp theo)

Chương VI - Nhà Trần (Thời kỳ thứ nhất)

Chương VII - Giặc nhà Nguyên - I

Chương VIII - Giặc nhà Nguyên - II

Chương IX - Nhà Trần (Thời kỳ thứ hai)

Chương X - Nhà Trần (Thời kỳ thứ ba)

Chương XI - Nhà Hồ

Chương XII - Nhà Hậu Trần

Chương XIII - Thuộc nhà Minh

Chương XIV - Mười năm đánh quân Tàu

Chương XV - Nhà Lê

Tự Chủ Thời Đại ( Thời kỳ nam bắc phân tranh )

Chương I - Lịch Triều lược kỷ

Chương II - Nam triều - Bắc triều

Chương III - Trịnh Nguyễn phân tranh

Chương IV - Sự chiến tranh

Chương V - Công việc họ Trịnh làm ở ngoài Bắc

Chương VI - Công việc họ Nguyễn làm ở miền Nam

Chương VII - Người Âu châu sang nước Nam

Chương VIII - Vận trung suy của chúa Nguyễn

Chương IX - Họ Trịnh mất nghiệp chúa

Chương X - Nhà Hậu Lê mất ngôi vua

Chương XI - Nhà Nguyễn Tây Sơn

Chương XII - Nguyễn Vương nhất thống nước Nam

Cận Kim Thời Đại

Chương I - Nguyễn-thị Thế Tổ

Chương II - Thánh Tổ

Chương III - Thánh Tổ (tiếp theo)

Chương IV - Hiến Tổ

Chương V - Dực Tông

Chương VI - Chế độ t́nh thế nước Việt Nam cuối đời Tự Đức

Chương VII - Nước Pháp lấy Nam Kỳ

Chương VIII - Giặc giă ở trong nước

Chương IX - Quân nước Pháp lấy Bắc kỳ lần thứ nhất

Chương X - T́nh thế nước Nam từ năm Giáp Tuất về sau

Chương XI - Quân nước Pháp lấy Bắc kỳ lần thứ hai

Chương XII - Cuộc bảo hộ của nước Pháp

Chương XIII - Chiến tranh với nước Tàu

Chương XIV - Loạn ở Trung kỳ

Chương XV - Việc đánh dẹp ở Trung kỳ và Bắc kỳ

Chương XVI - Công việc của người Pháp tại Việt Nam

Tổng Kết

 

Tựa

 

Sử là sách không những chỉ để ghi chép những công việc đă qua mà thôi, nhưng lại phải suy xét việc gốc ngọn, t́m ṭi cái căn nguyên những công việc của người ta đă làm để hiểu cho rơ những vận hội trị loạn của một nước, những tŕnh độ tiến hóa của một dân tộc. Chủ đích là để làm cái gương chung cổ cho người cả nước được đời đời soi vào đấy mà biết cái sự sinh hoạt của người trước đă phải lao tâm lao lực những thế nào, mới chiếm giữ được cái địa vị ở dưới bóng mặt trời này.

Người trong nước có thông hiểu những sự tích nước ḿnh mới có ḷng yêu nước yêu nhà, mới biết cố gắng học hành, hết sức làm lụng, để vun đắp thêm vào cái nền xă hội của tiên tổ đă xây dựng nên mà để lại cho ḿnh. Bởi những lẽ ấy cho nên phàm dân tộc nào đă có đủ cơ quan và thể lệ làm cho một nước độc lập, th́ cũng có sử cả. Nước Việt ta khởi đầu có sử từ đời nhà Trần, vào quăng thế kỷ thứ XIII. Từ đó trở đi nhà nào lên làm vua cũng trọng sự làm sử. Nhưng cái lối làm sử của ta theo lối biên niên của Tàu. nghĩa là năm nào tháng nào có chuyện ǵ quan trọng th́ nhà làm sử chép vào sách. Mà chép một cách rất vắn tắt cốt để ghi lấy chuyện ấy mà thôi, chứ không giải thích cái gốc ngọn và sự liên can việc ấy với việc khác là thế nào.

Nhà làm sử lại là người làm quan, vua sai coi việc chép sử, cho nên dẫu thế nào sự chép sử cũng không được tự do, thường có ư thiên vị về nhà vua, thành ra trong sử chỉ cần chép những chuyện quan hệ đến nhà vua, hơn là những chuyện quan hệ đến sự tiến hóa của nhân dân trong nước. Vả, xưa nay ta vẫn chịu quyền chuyên chế, vẫn cho việc nhà vua là việc nước. Cả nước chỉ cốt ở một họ làm vua, cho nên nhà làm sử cứ theo cái chủ nghĩa ấy mà chép sử, thành ra sử đời nào cũng chỉ nói chuyện những vua đời ấy mà thôi. Bởi vậy xem sử ta thật là tẻ, mà thường không có ích lợi cho sự học vấn là mấy.

Sử của ḿnh đă không hay, mà người ḿnh lại không mấy người biết sử. Là v́ cái cách học tập của ḿnh làm cho người ḿnh không có thể biết được sử nước ḿnh. Bất kỳ lớn nhỏ, hễ ai cắp quyển sách đi học th́ chỉ học sử Tàu,chứ không học sử nước nhà. Rồi thơ phú văn chương ǵ cũng lấy điển tích ở sử Tàu, chứ chuyện nước ḿnh th́ nhất thiết không nói đến. Người ḿnh có ư lấy chuyện nước nhà làm nhỏ mọn không cần phải biết làm ǵ. Ấy cũng là v́ xưa nay ḿnh không có quốc văn, chung thân chỉ đi mượn tiếng người, chữ người mà học, việc ǵ cũng bị người ta cảm hóa, chứ tự ḿnh th́ không có cái ǵ là cái đặc sắc, thành ra thật rơ như câu phương ngôn: "Việc nhà th́ nhác, việc chú bác th́ siêng!" Cái sự học vấn của ḿnh như thế, cái cảm t́nh của người trong nước như thế, bảo rằng ḷng v́ dân v́ nước mở mang ra làm sao được?

Nhưng dẫu thế nào mặc ḷng, nước ta đă có sử ta th́ cũng có thể bởi đó mà biết được những sự đă qua ở nước ta, và có thể bởi đó mà khảo cứu được nhiều việc quan hệ đến vận mệnh nước ḿnh từ xưa đến nay xoay vần ra làm sao. Hiềm v́ sử nước ta th́ làm bằng chữ Nho cả, mà chữ Nho th́ từ rày trở đi chắc rồi mỗi ngày một kém đi. Hiện nay số người đọc được chữ Nho c̣n nhiều, mà trong nước c̣n không có mấy người biết được chuyện nước nhà, huống chi mai sau này chữ Nho bỏ không học nữa, th́ sự khảo cứu về những việc quan hệ đến lịch sử nước ḿnh sẽ khó biết bao nhiêu!

Nay nhân sự học ở nước ta đă thay đổi, chữ quốc ngữ đă phổ thông cả trong nước, chi bằng ta lấy tiếng nước nhà mà kể chuyện nước nhà, ta soạn ra bộ Việt Nam Sử Lược, xếp đặt theo thứ tự, chia ra từng thời đại, đặt thành chương, thành mục rơ ràng, để ai ai cũng có thể xem được sử, ai ai cũng có thể hiểu được chuyện, khiến cho sự học sử của người ḿnh được tiện lợi hơn trước.

Bộ Việt Nam Sử Lược này, soạn giả chia ra làm 5 thời đại: Thời đại thứ nhất là Thượng Cổ thời đại, kể từ họ Hồng Bàng cho đến hết đời nhà Triệu. Trong thời đại ấy, từ chương thứ III, bàn về xă hội nước Tàu trước đời nhà Tần, phần nhiều là những chuyện hoang đường, huyền hoặc cả. Những nhà chép sử đời trước cũng theo tục truyền mà chép lại, chứ không có di tích ǵ mà khảo cứu cho đích xác. Tuy vậy, soạn giả cũng cứ theo sử cũ mà chép lại, rồi cũng phê b́nh một đôi câu để tỏ cho độc giả biết rằng những chuyện ấy không nên cho là xác thực.

Thời đại thứ nh́ là Bắc Thuộc thời đại, kể từ khi vua Vũ Đế nhà Hán lấy đất Nam Việt của nhà Triệu, cho đến đời Ngũ Quí, ở bên ta có họ Khúc và họ Ngô xướng lên sự độc lập. Những công việc trong thời đại ấy, th́ sử cũ của nước ta chép rất là sơ lược lắm. V́ rằng trong thời đại Bắc Thuộc, người ḿnh chưa được tiến hóa, sự học hành c̣n kém, sách vở không có, cho nên về sau những nhà làm sử của ta chép đến thời đại này cũng không kê cứu vào đâu được, chỉ theo sử Tàu mà chép lại thôi. Vả, người Tàu lúc ấy vẫn cho ḿnh là một xứ biên địa dă man, thường không ai lưu tâm đến, cho nên những chuyện chép ở trong sử, cũng sơ lược lắm, mà đại để cũng chỉ chép những chuyện cai trị, chuyện giặc giă, chứ các công việc khác th́ không nói đến.

Thời đại Bắc Thuộc dai dẳng đến hơn một ngh́n năm, mà trong thời đại ấy dân t́nh thế tục ở nước ḿnh thế nào, th́ bấy giờ ta không rơ lắm, nhưng có 1 điều ta nên biết là từ đó trở đi, người ḿnh nhiễm cái văn minh của Tàu một cách rất sâu xa, dẫu về sau có giải thoát được cái ṿng phụ thuộc nước Tàu nữa, người ḿnh vẫn phải chịu cái ảnh hưởng của Tàu. Cái ảnh hưởng ấy lâu ngày đă trở thành ra cái quốc túy của ḿnh, dẫu ngày nay có muốn trừ bỏ đi, cũng chưa dễ một mai mà tẩy gội cho sạch được. Những nhà chính trị toan sự đổi cũ thay mới cũng nên lưu tâm về việc ấy, th́ sự biến cải mới có công hiệu vậy.

Thời đại thứ ba là thời đại Tự Chủ, kể từ nhà Ngô, nhà Đinh cho đến sơ-diệp nhà Hậu Lê. Nước ḿnh từ thời đại ấy về sau là một nước dộc lập, tuy đối với nước Tàu vẫn phải xưng thần và chịu cống, nhưng kỳ thực là không ai xâm phạm đến cái quyền tự chủ của ḿnh. Buổi đầu, nhà Đinh, nhà Lê mới dấy lên; c̣n phải xây đắp cái nền tự chủ cho vững bền, phải lo sửa sang việc vơ bị để chống với kẻ thù nghịch, cho nên sự văn học không được mở mang lắm. Về sau đến đời nhà Lư, nhà Trần, công việc ở trong nước đă thành nền nếp, kẻ cừu địch ở ngoài cũng không quấy nhiễu nữa, lại có nhiều vua hiền tôi giỏi nối nhau mà lo việc nước, cho nên từ đó trở đi việc chính trị, việc tôn giáo và việc học vấn mỗi ngày một khai hóa ra, làm cho nước ta thành một nước có thế lực, bắc có thể chống được với Tàu, nam có thể mở rộng thêm bờ cơi. Nhà Lư và nhà Trần lại có công gây nên cái quốc hồn mạnh mẽ, khiến cho về sau đến đời Trần mạt, nhân khi họ Hồ quấy rối, người Tàu đă toan đường kiêm tính, người ḿnh biết đồng tâm hiệp lực mà khôi phục lại giang sơn nhà. Kế đến nhà Lê, trong khoảng một trăm năm về buổi đầu, nước ḿnh cũng có thể gọi là thịnh trị, nhất là về những năm Quang Thuận (1460-1469) và Hồng Đức (1470-1497), th́ sự văn trị và vơ công đă là rực rỡ lắm. Nhưng về sau gặp những hôn quân dung chúa, việc triều chính đổ nát, kẻ gian thần dấy loạn. Mối binh đao gây nên từ đó, người trong nước đánh giết lẫn nhau, làm thành ra nam bắc chia rẽ, vua chúa tranh quyền. Ấy thật là một cuộc biến lớn ở trong nước vậy.

Thời đại thứ tư là Nam Bắc phân tranh, kể từ khi nhà Mạc làm sự thoán đoạt cho đến nhà Tây Sơn. Trước th́ nam Lê, bắc Mạc, sau th́ Nguyễn nam, Trịnh bắc, sự cạnh tranh càng ngày càng kịch liệt, ḷng ghen ghét càng ngày càng dữ dội. Nghĩa vua tôi mỏng mảnh, đạo cương thường chểnh mảng: nước đă có vua lại có chúa. Trong Nam ngoài Bắc mỗi nơi một giang sơn, công việc ở đâu, chủ trương ở đấy. Tuy vậy việc sửa đổi ở ngoài Bắc cũng có nhiều việc hay, mà việc khai khẩn trong Nam thật là ích lợi. Nhưng cuộc thành bại ai đâu dám chắc, cơn gió bụi khởi đầu từ núi Tây Sơn, làm đổ nát cả ngôi vua cùng nghiệp chúa. Anh em nhà Tây Sơn vẫy vùng không được 20 năm, th́ bản triều nhà Nguyễn lại trung hưng lên, mà đem giang sơn về một mối, lập thành cái cảnh tượng nước Việt Nam ta ngày nay vậy.

Thời đại thứ năm là Cận Kim thời đại, kể từ vua Thế Tổ bản triều cho đến cuộc Bảo Hộ bây giờ. Vua Thế Tổ khởi đầu giao thiệp với nước Pháp Lan Tây để mượn thế lực mà đánh Tây Sơn. Nhưng về sau v́ những vua con cháu Ngài đổi chính sách khác, nghiêm cấm đạo Thiên Chúa và đóng cửa không cho ngoại quốc vào buôn bán. Những đ́nh thần th́ nhiều người trí lự hẹp ḥi, cứ nghiễm nhiên tự phụ, không chịu theo thời mà thay đổi. Đối với những nước ngoại dương, th́ thường hay gây nên sự bất ḥa, làm cho nước Pháp phải dùng binh lực để bênh vực quyền lợi của ḿnh. V́ những chính sách ấy cho nên mới thành ra có cuộc Bảo Hộ.

Đại khái đó là những mục lớn trong những phần mà soạn giả đă theo từng thời đại để đặt ra. Soạn giả đă cố sức xem xét và góp nhặt những sự ghi chép ở các sách chữ Nho và chữ Pháp, hoặc nhữNg chuyện rải rác ở các dă sử, rồi đem trích bỏ những sự huyền hoặc đi mà soạn ra bộ sách này, cốt để người đồng bang ta biết được chuyện nước nhà mà không tin nhảm những sự huyễn hoặc. Thời đại nào nhân vật ấy và tư tưởng ấy, soạn giả cứ b́nh tĩnh cố theo cho đúng sự thực. Thỉnh thoảng có một đôi nơi soạn giả có đem ư kiến riêng của ḿnh mà bàn với độc giả, thí dụ như chỗ bàn về danh hiệu nhà Tây Sơn th́ thiết tưởng rằng sử là của chung cả quốc dân, chớ không phải riêng cho một nhà một họ nào, cho nên mới phải lấy công lư mà xét đoán mọi việc và không vị t́nh riêng để phạm đến lẽ công bằng vậy.

Độc giả cũng nên biết cho rằng bộ sử này là bộ Sử Lược chỉ cốt ghi chép những chuyện trọng yếu để hăy tạm giúp cho những người hiếu học có sẵn quyển sách mà xem cho tiện. C̣n như việc làm thành ra bộ sử thật là đích đáng, kê cứu và phê b́nh rất tường tận, th́ xin để dành cho những bậc tài danh sau này sẽ ra công mà giúp cho nước ta về việc học sử. Bây giờ ta chưa có áo lụa, ta hăy mặc tạm áo vải, tuy nó xấu xí nhưng nó có thể làm cho ta đỡ rét. Nghĩa là ta hăy làm thế nào cho những thiếu niên nước ta ngày nay ai cũng có thể biết một đôi chút sự tích nước nhà, cho khỏi tủi quốc hồn. Ấy là cái mục đích của soạn giả, chỉ có thế thôi. Nếu cái mục đích ấy mà có thể tới được th́ tưởng bộ sách này là bộ sách có ích vậy.

   Trần Trọng Kim

 

 

Nước Việt Nam

 

1. Quốc Hiệu

2. Vị Trí và Diện Tích

3. Địa Thế

4. Chủng Loại

5. Gốc Tích

6. Người Việt Nam

7. Sự Mở Mang Bờ Cơi

8. Lịch Sử Việt Nam

 

1. Quốc Hiệu.

Nước Việt Nam ta về đời Hồng Bàng (2897 - 258 trước Tây lịch) gọi là Văn Lang, đời Thục An Dương Vương (257 - 207 trước Tây lịch) th́ gọi là Âu Lạc. Đến nhà Tần (246 - 206 trước Tây lịch) lược định phía nam th́ đặt làm Tượng Quận, sau nhà Hán (202 trước Tây lịch - 220 sau Tây lịch) dứt nhà Triệu, chia đất Tượng Quận ra làm ba quận là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Đến cuối đời nhà Đông Hán, vua Hiến Đế đổi Giao Chỉ làm Giao Châu. Nhà Đường lại đặt là An Nam Đô Hộ Phủ.

Từ khi nhà Đinh (968 - 980) dẹp xong loạn Thập Nhị Sứ Quân, lập nên một nước tự chủ, đổi quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Vua Lư Thánh Tông đổi là Đại Việt, đến đời vua Anh Tông, nhà Tống bên Tàu mới công nhận là An Nam Quốc.

Đến đời vua Gia Long, thống nhất được cả Nam Bắc (1802), lấy lẽ rằng Nam là An Nam, Việt là Việt Thường, mới đặt quốc hiệu là Việt Nam. Vua Minh Mệnh lại cải làm Đại Nam.

Quốc hiệu nước ta thay đổi đă nhiều lần, tuy rằng ngày nay ta vẫn theo thói quen dùng hai chữ An Nam, nhưng v́ hai chữ ấy có ngụ ư phải thần phục nước Tàu, vậy th́ ta nên nhất định lấy tên Việt Nam mà gọi nước nhà.

2. Vị Trí và Diện Tích.

Nước Việt Nam ở về phía đông nam châu Á-tế-á, hẹp bề ngang, dài bề dọc, h́nh cong như chữ S, trên phía bắc và dưới phía nam ph́nh rộng ra, khúc giữa miền trung th́ eo hẹp lại.

Đông và nam giáp bể Trung Quốc (tức là bể Nam Hải); Tây giáp Ai Lao và Cao Miên; Bắc giáp nước Tàu, liền với tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam.

Diện tích cả nước rộng chừng độ 312.000 ki-lô-mét vuông chia ra như sau này:

Bắc Việt: 105.000 km2

Trung Việt: 150.000 km2

Nam Việt: 57.000 km2

 

3. Địa Thế.

Nước ta hiện chia ra làm ba cơi: Bắc Việt, Trung Việt và Nam Việt. Đất Bắc Việt có sông Hồng Hà (tức là sông Nhị Hà) và sông Thái B́nh. Mạn trên gọi là Thượng Du lắm rừng nhiều núi, ít người ở. Mạn dưới gọi là Trung Châu, đất đồng bằng, người ở chen chúc đông lắm.

Đất Trung Việt th́ chỉ có một giải ở men bờ bể, c̣n ở trong có núi Trường Sơn chạy dọc từ Bắc Việt vào gần đến Nam Việt, cho nên người chỉ ở được mạn gần bể mà thôi.

Đất Nam Việt th́ ở vào khúc dưới sông Mê Kông (tức là sông Cửu Long), lại có sông Đồng Nai chảy ở mé trên, cho nên đất tốt, ruộng nhiều, dân gian trù phú và dễ làm ăn hơn cả

4. Chủng Loại.

Người Việt Nam có nhiều dân tộc ở, như là ở về miền thương du Bắc Việt th́ có dân Thái, (tức là Thổ), Mường, Mán, Mèo; ở về miền rừng núi Trung Việt th́ có dân Mọi, và Chàm (tức là Hời), ở về miền Nam Việt th́ có dân Mọi, Chàm, Chà Và và Khách, v.v.... Những dân ấy ở trong ba nơi tất cả đến non một triệu người. C̣n th́ dân tộc Việt Nam ở hết cả.

Số người Việt Nam ở trong ba nơi có thể chia ra như sau này:

Bắc Việt: 8.700.000 người

Trung Việt: 5.650.000 người

Nam Việt: 4.616.000 người

 

Cả thảy cộng lại được độ chừng non 19 triệu người. {Số này là theo sách Địa Lư của ông H. Russier (1939) chép lại chứ không chắc đă đúng số nhất định của người ḿnh.}

5. Gốc tích.

Theo ư kiến của nhà kê cứu của nước Pháp, th́ người Việt Nam và người Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống. Người Việt Nam theo sông Hồng Hà lần xuống phía đông nam, lập ra nước Việt Nam ta bây giờ; c̣n người Thái th́ theo sông Mê Kông xuống, lập ra nước Tiêm La (tức là Thái Lan) và các nước Lào.

Lại có rất nhiều người Tàu và người Việt Nam nói rằng nguyên khi xưa đất nước Tàu có giống Tam Miêu ở, sau giống Hán Tộc (tức là người Tàu bây giờ) ở phía Tây Bắc đến đánh đuổi người Tam Miêu đi, chiếm giữ lấy vùng sông Hoàng Hà lập ra nước Tàu, rồi dần dần xuống phía nam, người Tam Miêu phải lẩn núp trong rừng hay là xuống ở miền Việt Nam ta bây giờ.

Những ư kiến ấy là theo lư mà suy ra đó thôi, chứ cũng chưa có cái ǵ làm chứng cho đích xác. Chỉ biết rằng người Việt Nam ta trước có hai ngón chân cái giao lại với nhau, cho nên Tàu mới gọi ta là Giao Chỉ; mà xem các loài khác, không có loài nào như vậy, th́ tất ta là một loài riêng, chứ không phải là loài Tam Miêu.

Dẫu người ḿnh thuộc về chủng loại nào mặc ḷng, về sau người Tàu sang cai trị hàng hơn một ngh́n năm, lại có khi đem sang nước ta hơn bốn mươi vạn binh, chắc là nói giống cũ của ḿnh cũng đă lai đi nhiều rồi, mới thành ra người Việt Nam ngày nay.

6. Người Việt Nam.

Người Việt Nam thuộc về loài da vàng, nhưng mà người nào phải đi làm lụng dầm mưa dăi nắng lắm, th́ nước da ngăm ngăm đen, người nào nhàn hạ phong lưu, ở trong nhà luôn, th́ nước da trăng trắng như màu ngà cũ.

Trạc người th́ thấp nhỏ hơn người Tàu, mà lăn lẳn con người, chứ không to béo. Mặt th́ xương xương, trông hơi bèn bẹt, trán th́ cao và rộng, mắt th́ đen và hơi xếch về đàng đuôi, hai g̣ má th́ cao, mũi hơi tẹt, môi hơi dày, răng th́ to mà lại nhuộm đen. Râu th́ thưa mà ít, tóc th́ nhiều và dài, đen và hơi cứng. Dáng điệu đi đứng th́ nhẹ nhàng và xem ra bộ vững vàng chắc chắn.

Áo quần th́ dài rộng, đàn ông th́ búi tóc và quấn khăn vành rây, áo mặc dài quá đầu gối, tay áo th́ chật, ống quần th́ rộng. Đàn bà ở Bắc Việt và phía bắc Trung Việt th́ đội khăn, mà ở chỗ thành thị th́ mặc quần, c̣n ở nhà quê th́ hay mặc váy. Ở phía nam Trung Việt và Nam Việt th́ đàn bà hay mặc quần cả, và búi tóc, chứ không đội khăn bao giờ.

Về đàng trí tuệ và tính t́nh, th́ người Việt Nam có cả các tính tốt và các tính xấu. Đại khái th́ trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quư sự lễ phép, mến điều đạo đức: lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm 5 đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy vẫn hay có tính t́nh vặt, cũng có khi quỷ quyệt, và hay bài bác nhạo chế. Thường th́ nhút nhát, hay khiếp sợ và muốn sự ḥa b́nh, nhưng mà đă đi trận mạc th́ cũng có can đảm, biết giữ kỹ luật.

Tâm địa th́ nông nổi, hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang và ưa trương hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma quỷ, sùng sự lễ bái, nhưng mà vẫn không nhiệt tin tông giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác, nhưng có ḷng nhân, biết thương người và hay nhớ ơn.

Đàn bà th́ hay làm lụng và đảm đang, khéo chân, khéo tay, làm được đủ mọi việc mà lại biết lấy việc gia đạo làm trọng, hết ḷng chiều chồng, nuôi con, thường giữ được các đức tính rất quư là: tiết, nghĩa, cần, kiệm.

Người Việt Nam từ Bắc chí Nam, đều theo một phong tục, nói một thứ tiếng, {Tuy rằng mỗi nơi có một ít tiếng thổ âm riêng và cái giọng nói nặng nhẹ khác nhau, nhưng đại để th́ vẫn là một thứ tiếng mà thôi.} cùng giữ một kỹ niệm, thật là cái tính đồng nhất của một dân tộc từ đầu nước đến cuối nước.

7. Sự Mở Mang Bờ Cơi.

Người ṇi giống Việt Nam ta mỗi ngày một nẩy nở ra nhiều, mà ở phía bắc th́ đă có nước Tàu cường thịnh, phía tây th́ lắm núi nhiều rừng, đường đi lại không tiện, cho nên mới theo bờ bể lần xuống phía nam, đánh Lâm Ấp, dứt Chiêm Thành, chiếm đất Chân Lạp, mở ra bờ cơi bây giờ.

8. Lịch Sử Việt Nam.

Từ khi người Việt Nam lập thành nước đến giờ, kể hàng mấy ngh́n năm, phải người Tàu cai trị mấy lần, chịu khổ sở biết bao nhiêu phen, thế mà sau lại lập được cái nền tự chủ, và vẫn giữ được cái tính đặc biệt của giống ḿnh, ấy là đủ tỏ ra rằng khí lực của người ḿnh không đến nỗi kém hèn cho lắm. Tuy rằng ḿnh chưa làm được việc ǵ cho vẽ vang bằng người, nhưng ḿnh c̣n có thể hy vọng một ngày kia cũng nên được một nước cường thịnh.

Vậy ghi chép những cơ hội gian truân, những sự biến cố của nước ḿnh đă trải qua, và kể những công việc của người ḿnh làm từ đời nọ qua đời kia, để cho mọi người trong nước đều biết, ấy là sách Việt Nam sử.

Nay ta nên theo từng thời đại mà chia sách Việt Nam sử ra 5 phần để cho tiện sự kê cứu.

 

Phần I: Thượng Cổ thời đại.

Phần II: Bắc Thuộc thời đại.

Phần III: Tự Chủ thời đại.

Phần IV: Nam Bắc Phân Tranh thời đại.

Phần V: Cận Kim thời đại.

 

Phần I

Thượng Cổ Thời Đại

 

CHƯƠNG I

 

Họ Hồng-Bàng

( 2879-258 trước Tây Lịch )

 

01. Họ Hồng Bàng

02. Nước Văn Lang

03. Truyện cổ tích về đời Hồng Bàng:

 

— Phù Đổng Thiên Vương

— Sơn Tinh Thủy Tinh

 

1. Họ Hồng Bàng.

Cứ theo tục truyền th́ vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ Lĩnh ( thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ ) gặp một nàng tiên, lấy nhau, đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.

Bờ cơi nước Xích Quỷ bấy giờ phía bắc giáp Động Đ́nh Hồ ( Hồ Nam ), phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía đông giáp bể Nam Hải.

Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quăng năm nhâm tuất ( 2879 trước Tây Lịch ? ) và lấy con gái Động Đ́nh Quân là Long Nữ đẻ ra Sùng Lăm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân .

Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, đẻ một lần được một trăm người con trai3. Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: " Ta là ḍng dơi Long Quân, nhà ngươi là ḍng dơi thần tiên, ăn ở lâu với nhau không được, nay được trăm con th́ nhà ngươi đem 50 đứa lên núi, c̣n 50 đứa ta đem xuống bể Nam Hải ". Gốc tích truyện này có lẽ là từ Lạc Long Quân về sau, nước Xích Quỷ chia ra những nước gọi là Bách Việt. Bởi vậy ngày nay đất Hồ Quảng ( tỉnh Hồ Nam, tỉnh Quảng Đông và tỉnh Quảng Tây ) c̣n xưng là đất Bách Việt. Đấy cũng là một điều nói phỏng, chứ không có lấy ǵ làm đích xác được.

2. Nước Văn Lang.

Lạc Long Quân phong cho người con trưởng sang làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương.

Cứ theo sử cũ th́ nước Văn Lang chia ra làm 15 bộ :

01. Văn Lang ( Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên )

02. Châu Diên (Sơn Tây)

03. Phúc Lộc (Sơn Tây)

04. Tân Hưng (Hưng Hóa - Tuyên Quang)

05. Vũ Định (Thái Nguyên - Cao Bằng)

06. Vũ Ninh (Bắc Ninh)

07. Lục Hải (Lạng Sơn)

08. Ninh Hải (Quảng Yên)

09. Dương Tuyền (Hải Dương)

10. Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh B́nh)

11. Cửu Chân (Thanh Hóa)

12. Hoài Hoan (Nghệ An)

13. Cửu Đức (Hà Tĩnh)

14. Việt Thường (Quảng B́nh, Quảng Trị)

15. B́nh Văn ( ? )

Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu (bây giờ ở vào địa hạt huyện Bạch Hạc, tĩnh Vĩnh Yên), đặt tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng vơ gọi là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mị Nương, các quan nhỏ gọi là Bồ Chính 4. Quyền chính trị th́ cứ cha truyền con nối, gọi là Phụ Đạo.

Về đời bấy giờ, sử Tàu có chép rằng năm tân măo (1109 trước Tây lịch), đời vua Thành Vương nhà Chu, có nước Việt Thường, ở phía nam xứ Giao Chỉ sai sứ đem chim bạch trĩ sang cống, nhà Chu phải t́m người làm thông ngôn mới hiểu được tiếng, và ông Chu Công Đán lại chế ra xe chỉ nam để đem sứ Việt Thường về nước. Vậy đất Việt Thường và đất Giao Chỉ có phải là đất của Hùng Vương lúc bấy giờ không?

Họ Hồng Bàng làm vua được 18 đời, đến năm quư măo (158 trước Tây lịch) th́ bị nhà Thục lấy mất nước.

Xét từ đời Kinh Dương Vương đến đời vua Hùng Vương thứ 18, cả thảy 20 ông vua, mà tính từ năm nhâm tuất (2879) đến năm quư măo (258 trước Tây lịch) th́ vừa được 2622 năm. Cứ tính hơn bù kém, mỗi ông vua trị v́ được non 150 năm! Dẫu là người đời thượng cổ nữa, th́ cũng khó ḷng mà có nhiều người sống lâu được như vậy. - Xem thế th́ đủ biết truyện đời Hồng Bàng không chắc là truyện xác thực.

3. Truyện Cổ Tích Về Đời Hồng Bàng.

Sử chép rằng đời Hùng Vương thứ nhất, người nước Văn Lang làm nghề chài lưới, cứ hay bị giống thuồng luồng làm hại, vua mới bắt dân lấy chàm vẽ ḿnh để những giống ấy tưởng là đồng loại không làm hại nữa5. Sử lại chép rằng thuyền của ta ở đằng mũi thường hay làm hai con mắt, cũng có ư để cho các thứ thủy quái ở sông ở bể không quấy nhiễu đến.

Trong đời Hùng Vương lại có hai truyện mà ngày nay người ta thường hay nói đến, là truyện Phù Đổng Thiên Vương và truyện Sơn Tinh Thủy Tinh.

Truyện Phù Đổng Thiên Vương:

Đời vua Hùng Vương thứ 6 có đám giặc gọi là giặc Ân, hung mạnh lắm, không ai đánh nổi. Vua mới sai sứ đi rao trong nước để t́m người tài giỏi ra đánh giặc giúp nước. Bấy giờ ở làng Phù Đỗng, bộ Vơ Ninh (nay là huyện Vơ Giàng, tỉnh Bắc Ninh), có đứa trẻ xin đi đánh giặc giúp vua. Sứ giả về tâu vua, vua lấy làm lạ, cho đ̣i vào chầu. Đứa trẻ ấy xin đúc cho một con ngựa và cái roi bằng sắt. Khi ngựa và roi đúc xong th́ đứa trẻ ấy vươn vai một cái, tự nhiên người cao lớn lên một trượng, rồi nhảy lên ngựa cầm roi đi đánh giặc.

Phá được giặc Ân rồi, người ấy đi đến núi Sóc Sơn th́ biến đi mất. Vua nhớ ơn, truyền lập đền thờ ở làng Phù Đổng, về sau phong là Phù Đổng Thiên Vương6.

Truyện này là truyện tục truyền như vậy, chứ không có lẽ tin làm sự thực được. Họa chăng đời bấy giờ có người tướng giỏi, đánh được giặc, về sau người ta nhớ ơn làm đền thờ th́ hợp lẽ hơn. Hiện bây giờ có đền thờ ở làng Gióng tức làng Phù Đổng. Năm nào đến mồng tám tháng tư cũng có hội vui lắm, tục gọi là đức Thánh Gióng.

Truyện Sơn Tinh Thủy Tinh:

Tục truyền rằng vua Hùng Vương thứ 18 có người con gái tên là Mỵ Nương, nhan sắc tuyệt trần. Sơn Tinh và Thủy Tinh đều muốn hỏi làm vợ. Hùng Vương hẹn rằng ngày hôm sau ai đem đồ lễ đến trước th́ gả cho người ấy. Ngày hôm sau Sơn Tinh đến trước lấy được Mỵ Nương đem về núi Tản Viên (tức là núi Ba V́ ở tỉnh Sơn Tây).

Thủy Tinh đến sau, thấy Sơn Tinh lấy mất Mỵ Nương, tức giận vô cùng, mới làm ra mưa to gió lớn, rồi dâng nước lên đánh Sơn Tinh, Sơn Tinh ở trên núi không việc ǵ: hễ nước lên cao bao nhiêu, th́ Sơn Tinh làm núi cao lên bấy nhiêu. Sơn Tinh lại dùng sấm sét đánh xuống, Thủy Tinh phải rút nước chạy về. Từ đó Sơn Tinh và Thủy Tinh thù nhau, mỗi năm đánh nhau một lần, dân gian thật là cực khổ.

Truyện này là nhân v́ ở Bắc Việt năm nào đến tháng 6, tháng 7 cũng có nước lũ ở trên mạn ngược chảy xuống tràn vào trong đồng áng, ngập mất cả ruộng đất. Người ta không hiểu là tại lẽ ǵ, mới tưởng tượng mà đặt ra câu chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh đánh nhau vậy.

Tóm lại mà xét, nước ta khởi đầu có quốc sử từ cuối thập tam thế kỷ: đến đời vua Thánh Tông nhà Trần, mới có quan Hàn Lâm Học Sĩ là Lê Văn Hưu, soạn xong bộ Đại Việt Sử Kư, chép từ Triệu Vơ Vương đến Lư Chiêu Hoàng. Hai trăm rưỡi năm về sau lại có ông Ngô Sĩ Liên, làm quan Lễ Bộ Tả Thị Lang đời vua Thánh Tông nhà Lê, soạn lại bộ Đại Việt Sử Kư: chép từ họ Hồng Bàng đến vua Lê Thái Tổ. Nghĩa là từ ông Ngô Sĩ Liên, ở về thập ngũ thế kỷ trở đi, th́ sử ta mới chép truyện về đời thượng cổ. Xem thế th́ đủ biết những truyện về đời ấy khó ḷng mà đích xác được. Chẳng qua nhà làm sử cũng nhặt nhạnh những truyện hoang đường tục truyền lại, cho nên những truyện ấy toàn là truyện có thần tiên quỷ quái, trái với lẽ tự nhiên cả.

Nhưng ta phải hiểu rằng nước nào cũng vậy, lúc ban đầu mờ mịt, ai cũng muốn t́m cái gốc tích của ḿnh ở chỗ thần tiên để cho vẻ vang cái chủng loại của ḿnh. Chắc cũng bởi lẽ ấy mà sử ta chép rằng họ Hồng Bàng là con tiên cháu rồng, v.v....

Nay ta theo sử cũ mà chép mọi truyện, người xem sử nên phân biệt truyện nào là truyện thực, truyện nào là truyện đặt ra, th́ sự học mới có lợi vậy.

 

{3 Có sách chép là Âu Cơ đẻ ra một trăm cái trứng nở ra một trăm con. }

{4 Bây giờ c̣n có nơi gọi Chánh Tổng là Bồ Đ́nh, chắc là bởi Bồ Chính mà ra. }

{5 Sử chép rằng người Việt Nam ta có thói vẽ ḿnh măi đến đời vua Anh Tông nhà Trần mới bỏ. }

{6 Có người chép truyện này nói rằng: Giặc Ân là quân của nhà Ân bên Tàu sang đánh nước ta. Nói như thế thật là một điều lầm. Về đời nhà Ân nước Tàu chỉ ở vào mạn sông Hoàng Hà là đất tỉnh Hà Nam, Trực Lệ, Sơn Tây và Thiểm Tây bây giờ mà thôi. C̣n những đất ở bên này sông Trường Giang là man di hết cả. Từ Trường Giang sang đến Bắc Việt ta xa cách bao nhiêu đường đất. Dẫu lúc ấy ở bên ta có họ Hồng Bàng làm vua nữa, th́ chắc cũng chưa có kỷ cương ǵ, có lẽ cũng giống như một người làm Quan Lang trên Mường mà thôi, như thế th́ đă có giao thiệp ǵ với nhà Ân mà đánh nhau. Vả lại, sử Tàu cũng không có chỗ nào chép đến truyện ấy. Vậy th́ lẽ ǵ mà nói rằng giặc Ân là người nhà Ân bên Tàu. }

 

CHƯƠNG II

Nhà Thục

( 257 - 207 trước Tây lịch )

 

1. Gốc Tích Nhà Thục

2. Nước Âu Lạc

3. Nhà Tần Đánh Bách Việt

4. Nhà Thục Mất Nước

 

1. Gốc Tích Nhà Thục.

Nhà Thục chép trong sử nước ta không phải là nước Thục bên Tàu, v́ rằng cứ theo sử nước Tàu th́ đời bấy giờ đất Ba Thục (Tứ Xuyên) đă thuộc về nhà Tần cai trị rồi, th́ c̣n có vua nào nữa. Vả, sử lại chép rằng khi Thục Vương Phán lấy lấy được nước Văn Lang th́ đổi quốc hiệu là Âu Lạc, tức là nước Âu Lạc gồm cả nước Thục và nước Văn Lang. Song xét trong lịch sử không thấy đâu nói đất Ba Thục thuộc về Âu Lạc. Huống chi lấy địa lư mà xét th́ từ đất Ba Thục (Tứ Xuyên) sang đến Văn Lang (Bắc Việt), cách bao nhiêu đường đất và có bao nhiêu núi sông ngăn trở, làm thế nào mà quân nhà Thục sang lấy nước Văn Lang dễ dàng như vậy ? Sử cũ lại có chỗ chép rằng An Dương Vương, họ là Thục tên là Phán. Như vậy chắc hẳn Thục tức là một họ nào độc lập ở gần nước Văn Lang, chứ không phải là Thục bên Tàu. Sách "Khâm Định Việt Sử" cũng bàn như thế.

2. Nước Âu Lạc.

Sử chép rằng Thục Vương hỏi con gái của Hùng Vương thư 18, là Mỵ Nương không được, trong bụng lấy làm tức giận, dặn con cháu ngày sau đánh báo thù lấy nước Văn Lang. Hùng Vương bấy giờ cậy ḿnh có binh cường tướng dũng, bỏ trễ việc nước, chỉ lấy rượu chè làm vui thú. Người cháu Thục Vương tên là Phán, biết t́nh thế ấy, mới đem quân sang đánh lấy nước Văn Lang. Hùng Vương thua chạy, nhảy xuống giếng mà tự tử.

Năm giáp th́n (275 trước Tây lịch), Thục Vương dẹp yên mọi nơi rồi, xưng là An Dương Vương, cải quốc hiệu là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê (nay thuộc huyện Đông Anh, tỉnh Phúc An). Hai năm sau là năm bính ngọ (255 trước Tây Lịch), An Dương Vương xây Loa Thành. Thành ấy cao và từ ngoài vào th́ xoáy trôn ốc, cho nên mới gọi là Loa Thành. Hiện nay c̣n dấu tích ở làng Cổ Loa, huyện Đông Anh, tỉnh Phúc An.

3. Nhà Tần Đánh Bách Việt.

Khi An Dương Vương làm vua nước Âu Lạc ở bên này, th́ ở bên Tàu vua Thủy Hoàng nhà Tần, đă nhất thống thiên hạ. Đến năm đinh hợi (214 trước Tây lịch). Thủy Hoàng sai tướng là Đồ Thư đem quân đi đánh lấy đất Bách Việt (vào quăng tỉnh Hồ Nam, Quảng Đông và Quảng Tây bây giờ). An Dương Vương cũng xin thần phục nhà Tần. Nhà Tần mới chia đất Bách Việt và đất Âu Lạc ra làm ba quận, gọi là: Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (Quảng Tây) và Tượng Quận (Bách Việt).

Người bản xứ ở đất Bách Việt không chịu để người Tàu cai trị, trốn vào rừng ở. Được ít lâu quân của Đồ Thư, vốn là người ở phương bắc, không chịu được thủy thổ, phải bệnh rất nhiều. Bấy giờ người Bách Việt thừa thế nổi lên giết được Đồ Thư.

4. Nhà Thục Mất Nước.

Chẳng được bao lâu th́ nhà Tần suy, nước Tàu có nhiều giặc giă, ở quận Nam Hải có quan úy là Nhâm Ngao thấy có cơ hội, muốn mưu đánh lấy Âu Lạc để lập một nước tự chủ ở phương nam. Nhưng công việc chưa thành, th́ Nhâm Ngao mất. Khi sắp mất, Nhâm Ngao giao binh quyền lại cho Triệu Đà để thay ḿnh làm quan úy quận Nam Hải.

Năm quư tị (208 trước Tây lịch) là năm thứ 50 đời vua An Dương Vương. Triệu Đà đem quân sang đánh lấy nước Âu Lạc, lập ra nước Nam Việt7.

Tục truyền rằng khi An Dương Vương xây Loa Thành, có những yêu quái quấy nhiễu, xây măi không được. An Dương Vương mới lập đàn lên cầu khấn, có thần Kim Qui hiện lên bày phép cho vua trừ những yêu quái đi, bấy giờ mới xây được thành. Thần Kim Qui lại cho An Dương Vương một cái móng chân, để làm cái lẫy nỏ. Lúc nào có giặc th́ đem cái nỏ ấy ra bắn một phát, giặc chết hàng vạn người.

Cũng nhờ có cái nỏ ấy cho nên Triệu Đà đánh không được An Dương Vương. Triệu Đà dùng kế, cho con là Trọng Thủy sang lấy Mỵ Châu là con gái An Dương Vương, giả kết nghĩa ḥa thân để do thám t́nh thực.

Trọng Thủy lấy được Mỵ Châu rồi, hỏi ḍ vợ rằng: "Bên Âu Lạc có tài ǵ mà không ai đánh được?" Mỵ Châu nói chuyện cái nỏ, và lấy cho chồng xem. Trọng Thủy bèn lấy cái móng của Kim Qui đi, làm cái lẫy giả thay vào, rồi định về báo tin cho cha biết. Khi sắp ra về, Trọng Thủy hỏi Mỵ Châu rằng: "Tôi về, mà nhỡ có giặc giă đánh đuổi, th́ rồi tôi biết đâu mà t́m?" - Mỵ Châu nói rằng: "Thiếp có áo lông ngỗng, hễ khi thiếp có chạy về đâu, thiếp sẽ lấy lông ấy mà rắc ra ở dọc đường th́ rồi sẽ biết."

Trọng Thủy về kể lại với Triệu Đà t́nh đầu mọi sự, Triệu Đà bèn khởi binh sang đánh Âu Lạc. An Dương Vương cậy có cái nỏ, không pḥng bị ǵ cả, đến khi quân giặc đến gần chân thành mới đem nỏ ra bắn, th́ không thấy hiệu nghiệm nữa. An Dương Vương mới đem Mỵ Châu lên ngựa mà chạy về phía nam.

Chạy đến núi Mộ Dạ (thuộc huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An) gần bờ bể, vua thấy giặc đuổi kíp quá, mới khấn Kim Qui lên cứu, Kim Qui lên nói rằng: "Giặc ngồi sau lưng nhà vua đấy!" An Dương Vương tức giận quá, rút gươm ra chém Mỵ Châu đi, rồi nhảy xuống bể mà tự tận8.

Trọng Thủy theo dấu lông ngỗng của vợ rắc, đem binh đuổi đến núi Mộ Dạ, thấy xác vợ chết nằm đó, thương xót vô cùng, vội vàng đem về cấp táng, xong rồi, nhảy xuống cái giếng ở trong Loa Thành mà tự tử.

Nay ở làng Cổ Loa trước đền thờ An Dương Vương có cái giếng tục truyền là Trọng Thủy chết ở giếng ấy. Tục lại truyền rằng Mỵ Châu bị giết đi, v́ nỗi t́nh thực mà phải thác oan, cho nên máu nàng ấy chảy xuống bể, những con trai ăn phải hóa ra có ngọc trân châu. Hễ ai lấy được ngọc ấy đem về rửa vào nước cái giếng ở trong Loa Thành là chỗ Trọng Thủy đă tự tử, th́ ngọc ấy trong và đẹp thêm ra.

 

{7 Xin đừng lầm nước Nam Việt ngày xưa với Nam Việt của nước Việt Nam hiện nay. }

{8 Nay ở trên núi Mộ Dạ, gần xă Cao Ái, huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An, có đền thờ An Dương Vương. Ở đấy có nhiều cây cối và có nhiều chim công, cho nên tục gọi là đền Công hay Cuông. }

 

CHƯƠNG III

Xă-Hội Nước Tàu Về Đời Tam Đại

Và Đời Nhà Tần

1. Phong-Kiến

2. Quan-Chế

3. Pháp-Chế

4. Binh-Chế

5. Điền-Chế

6. Học-Hiệu

7. Học-Thuật

8. Phong-Tục

 

Khi Triệu Đà sang đánh An-Dương-Vương th́ ở bên Tàu nhà Tần đă suy, nhà Hán sắp lên làm vua, nước Tàu đang vào lúc đại loạn, phong tục, chính trị đều đổi khác cả. Vả lại Triệu-Đà là người Tần, cho nên đến khi lấy được Âu-Lạc, gồm cả các quận ở phương nam, lập làm một nước tự chủ, bèn đem chính trị, pháp-luật nước Tàu sang cai-trị đất Nam-Việt9. Vậy trước khi nói đến chuyện nhà Triệu, ta nên xét-xem xă-hội nước Tàu lúc bấy giờ là thế nào .

1. Phong-Kiến.

Nguyên về đời thái-cổ, nước Tàu chia ra từng địa-phương một. Mỗi một địa-phương th́ có một người làm thủ-lĩnh, lập thành một nước, gọi là nước chư-hầu, phải triều cống nhà vua.

Số những nước chư hầu ấy th́ mỗi đời một khác. Xem như khi vua Đại-Vũ nhà Hạ, hội các nước chư-hầu ở núi Đồ-sơn, kể có hàng vạn nước. Đến khi vua Vũ-vương nhà Chu đi đánh Trụ-vương nhà Ân, th́ các nước chư- hầu hội lại cả thảy được 800 nước.

Đánh xong nhà Ân, vua Vũ-Vương phong cho hơn 70 người làm vua chư-hầu, chia ra làm 5 bậc là: công, hầu, bá, tử, nam. Nước phong cho tước công, tước hầu th́ rộng 100 dặm gọi là đại quốc; nước phong cho người tước bá th́ rộng 70 dặm, gọi là trung quốc; nước phong cho người tước tử, tước nam th́ rộng 50 dặm, gọi là tiểu quốc. Những nước không đủ 50 dặm, th́ gọi là nước phụ-dung.

2. Quan-Chế.

Nhà Hạ đặt tam-công, cửu-khanh, 27 đại-phu, 81 nguyên sĩ.

Nhà Ân đặt hai quan tướng, sáu quan thái là: thái-tể, thái-tông, thái- tử, thái-chúc, thái-sĩ, thái-bốc; năm quan là: tư-đồ, tư- mă, tư-không, tư-sĩ, tư-khấu; sáu phủ là: tư-thể, tư-mộc, tư-thủy, tư-thảo, tư-khí, tư-hóa; sáu công là: thổ-công, kim-công, thạch-công, thủy-công, thú-công và thảo-công.

Đến nhà Chu, ông Chu-Công đặt ra sáu quan gọi là: thiên-quan, địa- quan, xuân-quan, hạ-quan, thu-quan, đông-quan. Mỗi một quan lại có 60 thuộc-quan, cộng cả lại là 360 người.

Người làm đầu thiên-quan, gọi là trủng-tể, thống cả việc chính-trị trong nước, việc thu-nạp cả năm và mọi việc ở trong cung. Người làm đầu địa quan gọi là đại-tư-đồ giữ việc nông, việc thương, việc giáo dục và việc cảnh sát. Người làm đầu xuân-quan gọi là đại-tông-bá, giữ việc tế-tự, triều, sính, hội-đồng v.v... Người làm đầu hạ-quan, gọi là đại-tư-mă, giữ việc binh- mă và việc đi đánh dẹp. Người làm đầu thu-quan gọi là đại tư-khấu giữ việc dân, việc h́nh và việc kiện-tụng. Người làm đầu đông-quan gọi là đại-tư- không, giữ việc khuyến công, khuyến nông và việc thổ mộc v.v...

Trên lục quan lại đặt tam công, là: thái-sứ, thái-phó, thái- bảo; tam cô là : thiếu-sứ, thiếu-phó, thiếu-bảo, để bàn xét việc trị nước yên dân, chứ không dự vào việc hành chính.

3. Pháp-Chế.

Về đời thái-tổ th́ có năm h́nh, ngoài năm h́nh lại có phép đánh bằng roi da và tội lưu. Đến đời nhà Hạ, nhà Ân và nhà Chu th́ lại đặt phép chân, gọt đầu và tội đồ. Đến cuối đời nhà Chu th́ đặt ra tội bêu đầu, xé thây lăng tŕ, mổ, muối v.v...

4. Binh-Chế.

Binh-chế nhà Hạ và nhà Ân th́ không rơ, đến đời nhà Chu th́ đặt 5 người làm một ngũ; 5 ngũ tức là 25 người thành một lượng; 4 lượng tức là 100 người làm một tốt; 5 tốt tức là 500 người làm một lữ; 5 lữ tức là 2500 người làm một sư ; 5 sư tức là 12500 người tức là một quân.

Quân th́ đặt quan mạnh-đan làm tướng, sư th́ đặt quan trung-đại- phu làm súy, lữ th́ đặt quan đại-hạ làm súy, tốt th́ đặt quan thượng-sĩ làm trưởng, lượng th́ đặt quan trung-sĩ làm tư-mă.

Thiên tử có 6 quân; c̣n những nước chư hầu, nước nào lớn th́ có 3 quân, nước vừa có 2 quân, nước nhỏ 1 quân.

Trong nước chia ra làm tỉnh, mỗi tỉnh 8 nhà, 4 tỉnh làm một ấp 32 nhà; 4 ấp làm một khâu, 128 nhà; 4 khâu làm một điện, 512 nhà. Cứ mỗi điện phải chiêu một cỗ binh xa, bốn con ngựa, 12 con ḅ, 3 người giáp sĩ, 72 người bộ tốt, 25 người để khiêng-tải những đồ nặng. Cả thảy là 100 người .

5. Điền Chế.

Về đời thái-cổ th́ không biết chia ruộng đất ra làm sao. Từ đời Hạ trở đi th́ chia 50 mẫu làm một gian, 10 gian làm một tổ. Cứ 10 nhà cày một lô ruộng, hoa-lợi được bao nhiêu chia làm 10 phần, nhà nước lấy một gọi là phép cống.

Nhà Ân và nhà Chu th́ dùng phép tỉnh điền, nghĩa là chia đất ra làm chín khi h́nh chữ tỉnh. Những khu ở chung quanh làm tư-điền, khu ở giữa để làm công-điền. Mỗi một tỉnh cho 8 nhà ở, đều phải xuất lực cầy cấy công điền rồi nộp hoa lợi cho nhà vua.

Về đời nhà Ân th́ mỗi tỉnh có 630 mẫu, mỗi nhà được 70 mẫu; phép đánh thuế gọi là phép trợ. Đến đời nhà Chu th́ mỗi tỉnh có 900 mẫu, mỗi nhà có 100 mẫu, phép đánh thuế gọi là phép triệt.

Nhà Chu lại đặt ra lệ cứ 20 tuổi th́ được 100 mẫu ruộng, đến 60 tuổi th́ trả lại cho nhà nước. Nhà nào có con thứ nh́ gọi là dư phu đến 16 tuổi th́ được lĩnh 25 mẫu ruộng.

Nhờ có phép chia ruộng như thế nên lúc bấy giờ không có nhiều người nghèo lắm mà cũng không có người giàu lắm. Về sau đến đời Chiến Quốc, người Lư Khôi làm tướng nước Ngụy, bắt dân hết sức làm ruộng, không định hạn như trước nữa; người Thương Ưởng làm tướng nước Tần, bỏ phép tỉnh điền, mở thiên mạch, cho mọi người được tự tiện làm ruộng. Phép chia đất từ đó mới mất dần dần đi.

6. Học-Hiệu.

Nhà Hạ đặt nhà Đông tự làm đại học, nhà Tây tự làm tiểu học. Nhà Ân đặt là Hữu-học làm đại học, nhà Tả-học làm tiểu học. Những nhà đại-học, tiểu học ấy, là chỗ để tập bắn, để nuôi những người già- cả và để tập văn nghệ.

Nhà Chu th́ đặt Tích-ung hoặc nhà Thành-quân làm đại học, để cho con vua, con các quan và những người tuấn tú tuyển ở các thôn xă đến học; c̣n ở châu, ở đảng10 th́ đặt nhà tiểu học gọi là Tự và nhà Tường để cho con dân-gian vào học. Lại đặt lệ cứ từ 8 tuổi đến 14 tuổi làm niên hạn cho tiểu học, từ 15 đến 20 tuổi, làm niên-hạn cho đại học. Đại học th́ dạy lễ, nhạc, thi, thư; tiểu-học th́ dạy cách kính trên nhường dưới và cách ứng đối, v.v...

7. Học-Thuật.

Học-thuật ở nước Tàu về đời nhà Chu đă thịnh lắm, cho đến đời nhà Xuân-thu có nhiều học-giả như là Lăo-tử bàn đạo; Khổng-tử bàn hiếu, đễ, nhân, nghĩa; Mạc Địch bàn lễ kiêm-ái, nên chuộng sự tiết kiệm bỏ âm-nhạc; Dương Chu th́ bàn lẽ vị-kỷ, nên tự-trọng thân ḿnh và không chịu thiệt ḿnh để lợi người.

Lại có những pháp-gia như Thân Bất-Hại, Hàn-Phi bàn việc trị thiên- hạ th́ chỉ nên dùng pháp-luật, chứ không nên dùng nhân nghĩa. C̣n những người như Quỉ Cốc, Thi Giảo, Điền Biền, v.v..., mỗi người đều xướng một học thuyết để dạy người đương thời.

8. Phong-Tục.

Nước Tàu lấy sự cày ruộng làm gốc, nhưng mà việc nuôi tằm, dệt lụa, việc họp chợ, việc buôn-bán cũng phát-đạt cả.

Dân trong nước chia ra làm 4 thứ: sĩ, nông, công, thương, nhưng mà con người làm quan lại làm quan, con người làm ruộng cứ làm ruộng, chứ con người làm ruộng không được làm quan. Tuy vậy, đến đời Xuân-thu những người thứ dân lên làm tướng văn tướng vơ cũng nhiều.

Trong gia-đ́nh th́ già trẻ trên dưới phân biệt nghiêm lắm. Con phải theo cha, vợ phải theo chồng, con-trai con-gái từ 7 tuổi trở đi, là không được ăn một mâm, nằm một chiếu nữa. Con trai 30 tuổi mới được lấy vợ, gái 20 tuổi mới được lấy chồng mà hai người cùng họ không được lấy nhau.

Nước Tàu về đời Tam-đại cũng sùng sự tế-tự lắm. Thường cúng-tế thiên, địa, nhật, nguyệt, sơn, xuyên, lâm, trạch. Nhà vua lập đàn Nam-giao để tế Thượng-Đế. Lại có nhà Xă-tắc để tế Thổ-thần và Hậu-tắc. C̣n sự thờ-phụng tổ-tiên th́ từ vua cho đến thứ-dân đều lấy làm một việc quan trọng trong đời người.

Xem như thế, th́ xă-hội nước Tàu về đời Tam-đại đă văn minh lắm, nhưng sau đến cuối đời nhà Chu, v́ nhà vua suy-nhược, cho nên chư hầu, người xưng hầu, kẽ xưng vương rồi tranh nhau, đánh nhau như Ngũ-Bá đời Xuân-Thu, Thất-Hùng đời Chiến-Quốc, làm cho trăm họ lầm than khổ sở.

Sau nhà Tần thống-nhất được thiên-hạ, mới bỏ lệ phong-kiến, lập ra quận huyện; bỏ phép tỉnh điền, lập thiên-mạch; cấm nho học đốt sách vở, việc chính-trị th́ cốt dùng pháp-luật, để lấy quyền lực mà áp chế.

Đang khi phong-tục nước Tàu biến cải như thế, th́ Triệu Đà lập ra nước Nam-Việt (3), đem văn-minh nước Tàu sang truyền-bá ở phương nam, cho nên từ đó về sau người nước ḿnh đều nhiễm cái văn-minh ấy.

 

{9 Xin đừng lầm nước Nam-việt ngày xưa với Nam-việt của nước Việt-nam thời nay. }

{10 Cứ 12500 nhà một châu, và 500 nhà làm một đảng th́ có nhà Tự, ở đảng th́ có nhà Tường. }

 

CHƯƠNG IV

Nhà Triệu

( 207-111 tr. Tây-lịch )

 

1. Triệu Vũ-Vương

2. Vũ-Vương thụ-phong nhà Hán

3. Vũ-Vương xưng đế

4. Vũ-Vương thần phục nhà Hán

5. Triệu Văn-Vương

6. Triệu Minh-Vương

7. Triệu Ai-Vương

8. Triệu Dương-Vương

 

1. Triệu Vũ-Vương (207-137 tr. Tây-lịch).

Năm quí-tị (207) Triệu Đà đánh được An-dương-vương rồi, sáp-nhập nước Âu-lạc vào quận Nam-hải, lập thành một nước gọi là Nam-Việt, tự xưng làm vua, tức là Vũ-vương, đóng đô ở Phiên-ngung, gần thành Quảng-châu bây giờ.

2. Vũ-Vương thụ-phong nhà Hán.

Trong khi Triệu Vũ-Vương gây-dựng cơ-nghiệp ở Nam-Việt, th́ ở bên Tàu, ông Lưu Bang triệt được nhà Tần, diệt được nhà Sở, nhất-thống thiên hạ, rồi lên ngôi Hoàng-đế tức là vua Cao Tổ nhà Hán. Vua Cao-tổ thấy Triệu Vũ-Vương độc-lập ở phương nam, bèn sai Lục Giả sang phong cho Vũ-Vương. Bấy giờ là năm ất- tị (196 tr. Tây-lịch), năm thứ 12 đời vua Vũ-Vương nhà Triệu, và năm thứ 11 đời vua Cao-tổ nhà Hán.

Vũ-Vương vốn là người kiêu-căng, có ư không muốn phục nhà Hán, đến khi Lục Giả sang đến nơi, vào yết-kiến Vũ-Vương, Vũ-Vương ngồi xếp vành tṛn, không đứng dậy tiếp. Lục Giả thấy vậy mới nói rằng: "Nhà vua là người nước Tàu , mồ mả và thân thích ở cả châu Chân-định. Nay nhà Hán đă làm vua thiên hạ, sai sứ sang phong vương cho nhà vua, nếu nhà vua kháng-cự sứ-thần, không làm lễ thụ-phong, Hán-đế tất là tức giận, hủy-hoại mồ mả và giết hại thân-thích của nhà vua, rồi đem quân ra đánh th́ nhà vua làm thế nào?" Vũ-vương nghe lời ấy vội-vàng đứng dậy làm lễ tạ, rồi cười mà nói rằng: "Tiếc thay ta không được khởi nghiệp ở nước Tàu, chứ không th́ ta cũng chẳng kém ǵ Hán-đế!"

3. Vũ-Vương xưng đế.

Năm mậu ngọ (183 tr. Tây-lịch) vua Cao-tổ nhà Hán mất rồi, bà Lữ-hậu lâm triều tranh quyền Huệ-đế, rồi lại nghe lời gièm pha, cấm không cho người Hán buôn bán những đồ vàng, đồ sắt và những đồ điền-khí với người Nam-Việt. Vũ-vương lấy làm tức giận, lại ngờ cho Trường-sa-vương xui Lữ-hậu làm như vậy, bèn tự-lập làm Nam-việt Hoàng-đế, rồi cử binh-mă sang đánh quận Tràng-sa (tỉnh Hồ-nam bây giờ).

Năm Canh thân (181 tr. Tây-lịch) Hán-triều sai tướng đem quân sang đánh Nam-việt. Quân nhà Hán chịu không được thủy-thổ phương nam, nhiều người phải bệnh-tật, bởi vậy phải chạy thua về bắc. Từ đó thanh-thế Triệu Vũ-đế lừng lẫy, đi đâu dùng xe ngựa theo nghi-vệ Hoàng-đế, như vua nhà Hán vậy.

4. Vũ-Vương thần phục nhà Hán.

Đến khi Lữ hậu mất, Hán Văn-đế lên ngôi, lại sai Lục Giả đưa thư sang khuyên Vũ-đế thuần phục nhà Hán. Thư rằng:

"Trẫm là con trắc-thất vua Cao-đế, phụng mệnh ra trị nước Đại , v́ non sông cách trở, thẹn ḿnh phác-lậu, cho nên lâu nay chưa từng đưa thư sang hỏi thăm nhà vua .

Từ khi đức Cao-đế xa bỏ quần-thần , đức Huệ-đế qua đời, bà Cao- hậu làm triều, không may bị bệnh, để cho họ Lữ chuyên quyền, toan đem con họ khác để nối-đức Huệ-đế. May nhờ nhà Tông-miếu linh-thiêng, các công thần ra sức dẹp kẻ tiếm-nghịch.

Trẫm v́ các vương-hầu cùng bách quan cố ép, cho nên phải lên ngôi Hoàng-đế. Mới rồi trẫm nghe nhà vua có đưa thư cho Long-lư-hầu, nhắn tin và xin anh em họ-hàng ở quận Chân-định, và xin băi binh ở quận Trường-sa.

Trẫm cũng nghe lời thư của nhà vua, th́ đă bảo tướng-quân Bác- dương-hầu băi binh về, c̣n anh em họ hàng nhà vua ở Chân-định th́ trẫm đă cho người thăm nom, lại sai sửa sang phần-mộ nhà vua, thật tử-tế.

Thế vừa rồi trẫm nghe nhà vua c̣n đem binh quấy-nhiễu ngoài biên, quận Trường-sa thật khổ, mà Nam-quận lại c̣n khổ hơn. Làm như thế, nước nhà vua có chắc lợi được một ḿnh không? Tất là tướng-tá quân-sĩ chết nhiều, làm cho vợ người góa chồng, con người mồ-côi bố, cha mẹ mất con, được một mất mười, trẫm không ḷng nào nỡ làm như vậy.

Vả lại được đất nhà vua cũng không lấy làm to, được của nhà vua cũng không đủ làm giàu. Vậy th́ từ phía nam núi Lĩnh th́ mặc ư nhà vua tự trị lấy. Nhưng nhà vua cứ xưng đế hiệu, hai bên cùng là đế-quốc mà không sai sứ giao-thông, thế chẳng hóa ra ganh nhau ư ? Ganh nhau mà không nhường , th́ người nhân không thèm làm.

Trẫm nay xin cùng nhà vua gác bỏ điều cũ, từ rày trở đi, thông sứ như xưa. Vậy trẫm sai Lục Giả sang đem ư trẫm khuyên nhà vua nên nghe, chứ làm chi nhiều sự cướp bóc tai-hại"

Xem thư của Hán-Văn-đế lời-lẽ tử-tế, thật là có nhân-từ, v́ thế cho nên Triệu Vũ-đế phải chịu phục, và đáp thư lại rằng:

"Nam di đại-trưởng lăo-phu thần, Đà, muội tử tái bái, dâng thư lên Hoàng-đế bệ-hạ. Lăo-phu là kẻ cố-lại nước Việt, khi Hiếu Huệ Hoàng-đế lên ngôi, t́nh-nghĩa không dứt, vẫn hậu đăi lăo phu. Đến khi Cao-hậu lâm triều, lại phân-biệt ra Trung-hoa, ngoại-di, hạ lệnh cấm không được bán cho Nam- việt những đồ vàng sắt và điền khí; c̣n ngựa, trâu dê th́ chỉ bán cho giống đực, chứ không bán cho giống cái.

Lăo-phu lại phong văn rằng nhà Hán đem hủy-hoại cả phần mộ lăo- phu cùng giết cả anh em tông-tộc lăo phu, cho nên có bàn riêng với chúng rằng: nay trong đă không vẻ-vang với nhà Hán, ngoài lại không có ǵ hơn được nước Ngô, cậy có xưng đế-hiệu; mà chẳng qua tự đế nước ḿnh, không dám hại ǵ thiên-hạ.

Cao-hậu nghe thấy thế, lấy làm tức giận, đem tước bộ sổ Nam-Việt đi, không cho thông sứ, lăo phu trộm nghĩ rằng hẳn v́ Trường-sa-vương gièm pha, cho nên Lăo-phu có đem binh đánh.

Lăo-phu ở đất Việt đă bốn mươi chín năm nay , bây giờ đă có cháu rồi, nhưng mà sớm khuya trằn-trọc, ăn không ngon, ngủ không yên, mắt không dám trông sắc đẹp, tai không dám nghe đàn vui, là chỉ v́ cớ không được phụng thờ nhà Hán. Nay nhờ bệ -hạ đoái thương, cho phục lại hiệu cũ, thông sứ như xưa, lăo-phu nhờ ơn, dẫu chết xương cũng không nát.

Vậy xin cải hiệu từ đây, và xin có cống-phẩm phụng-hiến Hoàng-đế bệ-hạ."

Từ khi Triệu Vũ-Vương chịu bỏ đế-hiệu, Nam Bắc lại giao thông ḥa hiếu không có điều ǵ nữa.

Năm giáp-th́n (137 trước Tây-lịch), Triệu Vũ-Vương mất. Sử chép rằng ngài thọ được 121 tuổi và làm vua được hơn 70 năm.

5. Triệu Văn-Vương ( 137-125 trước Tây-lịch )

Triệu Vũ-vương truyền ngôi lại cho cháu đích tôn, tên là Hồ tức là Triệu Văn-vương, trị được 12 năm.

Triệu Văn-vương vốn là người tầm thường, tính khí nhu nhược, không được như Triệu Vũ-vương. Khi mới lên làm vua được hai năm, th́ vua Mân-Việt (tỉnh Phúc-kiến bây giờ) đem quân sang đánh phá ở chỗ biên thùy nước Nam-việt. Triệu Văn-vương không dám cử binh-mă ra chống cự, sai sứ sang cầu cứu bên Hán-triều.

Vua nhà Hán sai Vương Khôi và Hàn-An-Quốc Hán đến nơi, bèn bắt Quốc-vương giết đi, đưa đầu nộp cho quan nhà Hán, và xin hàng. Mân-việt đă b́nh rồi vua nhà Hán sai Trang Trợ sang dụ Triệu Văn-Vương vào chầu, nhưng mà đ́nh-thần xin đừng đi, bèn cho thái tử là Anh Tề đi thay.

Anh Tề ở bên Hán-Triều mười năm, đến năm bính-th́n (125 tr. Tây lịch) vua Văn-vương mất th́ mới về nối ngôi.

6. Triệu Minh-Vương ( 125-113 tr. Tây lịch ).

Anh Tề lên làm vua tức là Triệu Minh-Vương , trị v́ được 12 năm.

Khi Anh Tề ở bên Hán có lấy vợ lẽ là Cù-thị, đẻ được một người con tên là Hưng. Đến khi về làm vua Nam-việt, Minh Vương lập Cù-thị lên làm hoàng-hậu và Hưng làm Thái-tử.

7. Triệu Ai-Vương.

Mậu-th́n (113 tr. Tây lịch) Triệu Minh-Vương mất, thái tử Hưng lên làm vua, tức là Triệu Ai-Vương, trị-v́ được một năm.

Bấy giờ vua nhà Hán cho An-quốc Thiếu Quí sang dụ Nam-Việt về chầu. Thiếu Quí nguyên là t́nh-nhân của Cù-thị lúc trước, đến khi sang Nam- Việt gặp nhau, lại tư thông với nhau rồi dỗ-dành Ai-vương đem nước Nam- việt về dâng nhà Hán.

Khi Cù-thị và Ai-vương đă định về Hán-triều, th́ có quan Tể-tướng là Lữ Gia, biết rơ t́nh-ư, đă can-ngăn măi không được, mới truyền hịch đi mọi nơi nói rằng vua và Cù-thái-hậu sắp đem nước dâng cho nhà Hán; rồi Lữ Gia cùng với mấy người đại thần đem quân cấm-binh vào giết sứ nhà Hán, Cù- Thị và Ai-Vương. Đoạn rồi tôn Kiến Đức lên làm vua. Kiến Đức là con trưởng của Minh-Vương mẹ là người Nam-Việt làm vua.

8. Triệu Dương-Vương.

Kiến Đức lên làm vua, tức là Dương-Vương. Dương-Vương mới lên làm vua được độ một năm th́ vua Vũ- đế nhà Hán sai Phục-ba tướng-quân là Lộ- Bác-Đức và Dương Bộc đem 5 đạo quân sang đánh lấy Nam-Việt. Quan Thái-phó Lữ Gia ra chống cự không nổi, phải đem Dương-Vương chạy. Quân nhà Hán đuổi theo bắt được, vua tôi đều bị hại cả. Năm ấy là năm canh-ngọ (111 tr. Tây-lịch), nước Nam bị người Tàu chiếm lấy, cải là Giao-chỉ-bộ, chia ra làm 9 quận, và đặt quan cai- trị như các châu quận bên Tàu vậy

 

PHẦN II

Bắc-Thuộc Thời-Đại

( 11 tr. Tây-lịch-931 sau Tây-lịch )

 

 

CHƯƠNG 1

Bắc-Thuộc Lần Thứ I

( 111 tr. Tây-lịch - 39 sau Tây-lịch )

 

1. Chính-Trị nhà Tây-Hán

2. Tích Quang và Nhâm Diên

 

1. Chính-Trị nhà Tây-Hán.

Năm canh ngọ (111 tr. Tây-lịch) vua Vũ-đế nhà Hán sai Lộ-Bác-Đức và Dương Bộc sang đánh nhà Triệu, lấy nước Nam-việt rồi cải là Giao-chỉ-bộ, và chia ra làm 9 quận, là những quận này:

1. Nam-hải : ( Quảng-đông )

2. Thương-ngô : ( Quảng-tây )

3. Uất-lâm : ( Quảng-tây )

4. Hợp-phố : ( Bắc Việt và mấy tỉnh ở phía Bắc Trung-Việt )

5. Giao-chỉ : ( Bắc Việt và mấy tỉnh ở phía Bắc Trung-Việt )

6. Cửu-chân : ( Bắc Việt và mấy tỉnh ở phía Bắc Trung-Việt )

7. Nhật-nam : ( Bắc Việt và mấy tỉnh ở phía Bắc Trung-Việt )

8. Châu-nhai : ( đảo Hải-nam )

9. Đạm-nhĩ : ( đảo Hải-nam )

 

Mỗi quận có quan thái-thú coi việc cai-trị trong quận và lại có quan thứ-sử để giám sát các quận. Ở trong quận Giao-chỉ th́ có những lạc tướng hay lạc hầu vẫn được thế tập giữ-quyền cai trị các bộ lạc tựa hồ như các quan lang ở mạn thượng-du đất Bắc-Việt bây giờ.

Quan thứ-sử trước tiên là Thạch Đái , đóng phủ cai trị ở Long-uyên. Có sách chép là phủ trị thủa ấy đóng ở Lũng-khê, thuộc phủ Thuận-thành bây giờ.

Từ đời vua Vũ-đế cho đến hết đời nhà Tây-Hán không thấy sử nói ǵ đến đất Giao-chỉ nữa. Măi đến năm kỷ-sửu (năm 29 Tây lịch) là năm Kiến-Vơ thứ 5 đời vua Quang-vũ nhà Đông Hán th́ mới thấy chép rằng thứ-sử Giao- chỉ là Đặng Nhượng sai sứ về cống nhà Hán. Bởi v́ khi Vương Măng cướp ngôi nhà Hán, bọn Đặng-Nhượng, Tích Quang và Đỗ Mục ở Giao chỉ giữ châu quận, không chịu phục Vương Măn. Đến khi vua Quang-Vũ trung hưng lên, bọn Đặng Nhượng mới sai sứ về triều cống.

2. Tích Quang và Nhâm Diên.

Về đầu thế-kỷ đệ nhất có hai người sang làm thái-thú trị dân có nhân-chính. Một người tên là TÍCH QUANG làm thái-thú Giao-chỉ, một người tên là NHÂM DIÊN làm thái thú quận Cửu-chân.

Tích Quang sang làm thái-thú quận Giao-chỉ từ đời vua B́nh-đế nhà Tây Hán, vào quăng năm thứ hai, thứ ba về thế kỷ đệ nhất. Người hết ḷng lo việc khai-hóa, dạy dân lấy điều lễ-nghĩa, cho nên dân trong quận có nhiều người kính phục.

Nhâm Diên ở Cửu-chân được 4 năm th́ được thăng chức về Tàu đi làm quan chỗ khác. Dân-sự quận ấy ái-mộ Nhâm Diên, làm đền thờ. Cớ người v́ được nhờ quan thái-thú cho nên sau sinh con ra, lấy tên Nhâm mà đặt tên cho con để tỏ ḷng biết ơn.

 

CHƯƠNG II

TRƯNG-VƯƠNG

( 40-43 )

 

1. Trưng-Thị khởi binh

2. Mă Viện sang đánh Giao-chỉ

 

1. Trưng-Thị khởi binh.

Năm giáp-ngọ (34) là năm Kiến-vơ thứ 10, vua Quang-vũ sai Tô Định sang làm thái thú quận Giao-chỉ.

Tô Định là người bạo ngược, chính trị tàn ác, người Giao-chỉ đă có ḷng oán giận lắm. Năm canh-tí (40) người ấy lại giết Thi Sách người ở quận Châu-Diên (phủ Vĩnh tường, trước thuộc về Sơn Tây, nay thuộc về tỉnh Vĩnh- yên).

Vợ Thi Sách là Trưng-Trắc con gái quan lạc tướng ở huyện Mê-linh (làng Hạ-lôi, huyện Yên-lăng, tỉnh Phúc-yên) cùng với em gái là Trưng-Nhị, nổi lên đem quân về đánh Tô Định. Bọn Tô Định phải chạy trốn về quận Nam Hải.

Lúc bấy giờ những quận Cửu-chân, Nhật-nam và Hợp-phố cũng nổi lên theo về với hai bà Trưng-Thị. Chẳng bao lâu quân hai bà hạ được 65 thành-tŕ. Hai bà bèn tự xưng làm vua, đóng đô ở Mê-linh, là chỗ quê nhà.

2. Mă-Viện sang đánh Giao-Chỉ.

Năm tân-sửu (41) vua Quan-vũ sai Mă Viện làm Phục-ba tướng-quân, Lưu Long làm phó tướng cùng với quan Lâu-thuyền tướng quân là Đoàn Chí sang đánh Trưng-vương.

Mă Viện là một danh-tướng nhà Đông-Hán, lúc bấy giờ đă ngoài 70 tuổi, nhưng vẫn c̣n mạnh, đem quân đi men bờ để phá rừng đào núi làm đường sang đến Lăng-bạc, gặp quân Trưng-Vương hai bên đánh nhau mấy trận11. Quân Trưng-vưng là quân ô-hợp không đương nổi quân Mă Viện, đă từng đánh giặc nhiều phen. Hai bà rút quân về đóng ở Cẩm-khê ( phủ Vĩnh- tường, tỉnh Vĩnh-yên). Mă Viện tiến quân lên đánh, quân hai bà vỡ tan cả. Hai bà chạy về đến xă Hát-môn, thuộc huyện Phúc-lộc (nay là huyện Phúc Thọ tỉnh Sơn-tây), thế bức quá, bèn gia ḿnh xuống sông Hát-giang (chỗ sông Đáy tiếp vào sông Hồng-hà) mà tự tận. Bấy giờ là ngày mồng 6 tháng 2 năm quí -măo (43).

Những tướng của hai bà là bọn Đô Dương chạy vào giữ huyện Cư- phong thuộc quận Cửu-chân. Sau Mă Viện đem quân vào đánh, bọn Đô Dương đều phải ra hàng.

Hai bà họ Trưng làm vua được 3 năm, nhưng lấy cái tài-trí người đàn bà mà dấy được nghĩa lớn như thế, khiến cho vua tôi nhà Hán phải lo sợ, ấy cũng đủ để cái tiếng thơm về muôn đời. Đến ngày nay có nhiều nơi lập đền thờ hai bà để nghi-tạc cái danh-tiếng hai người nữ anh-hùng nước Việt-nam ta12.

Sử-gia Lê văn Hưu nói rằng: "Trung Trắc, Trưng Nhị là đàn bà nổi tiếng đánh lấy được 65 thành tŕ, lập quốc xưng vương dễ như giở bàn tay. Thế mà từ cuối đời nhà Triệu cho đến đời nhà Ngô hơn một ngh́n năm, người ḿnh cứ cúi đầu bó tay làm tôi-tớ người Tàu, mà không biết xấu-hổ với hai người đàn-bà họ Trưng!"

 

{11 Sử chép rằng Lăng-bạc là Hồ-tây ở gần Hà-nội, nhưng có người bác đi bảo không. }

{12 Nay ở làng Hát-môn, huyện Phúc-thọ, tỉnh Sơn Tây và ở băi Đồng-nhân, ở gần Hà-nội có đền thờ hai bà, đến ngày mồng 6 tháng 2 th́ có hội . }

 

CHƯƠNG III

Bắc-Thuộc Lần Thứ II

( 43-544 )

 

I . Nhà Đông Hán

1. Chính Trị nhà Đông Hán

2. Lư Tiến và Lư Cầm

3. Sỹ Nhiếp

 

II. Đời Tam Quốc

1. Nhà Đông Ngô

2. Bà Triệu ( Triệu thị Chinh )

3. Nhà Ngô chia đất Giao-châu

 

III. Nhà Tấn

1. Chính-trị nhà Tấn

2. Nước Lâm-ấp quấy nhiễu Giao-châu

 

IV. Nam Bắc-triều

1. T́nh thế nước Tàu

2. Việc đánh Lâm-ấp

3. Sự biến loạn ở đất Giao-châu

 

I. Nhà Đông-Hán ( 25-220 )

 

1. Chính-Trị nhà Đông-Hán.

Mă Viện đánh được Trưng-vương đem đất Giao-chỉ về thuộc nhà Hán như củ, rồi chỉnh đốn binh lương, đem quân đi đánh dẹp các nơi, đi đến đâu xây thành đắp lũy đến đấy và biến cải mọi cách chính trị trong các châu quận. Đem phủ-trị về đóng Mê-linh13 và dựng cây đồng trụ ở chỗ phân địa giới, khắc sáu chữ: "Đồng trụ chiết, Giao-chỉ diệt." Nghĩa là cây đồng trụ mà đổ th́ người Giao-chỉ mất ṇi.

Sử chép rằng người Giao-chỉ đi qua lại chỗ ấy, ai cũng bỏ vào chân cột đồng-trụ một ḥn đá, cho nên về sau chỗ ấy thành ra núi, phủ mất cả, đến bây giờ không biết cột ấy ở chỗ nào.

Từ đó chính-trị nhà Đông Hán càng ngày càng ngặt thêm, mà những quan-lại sang cai-trị Giao-chỉ thường có lắm người tàn-ác, tham nhũng, bắt dân lên rừng xuống bể để t́m những châu-báu. Dân ở quận Hợp-phố cứ phải xuống bể ṃ ngọc trai khổ quá, đến nổi phải bỏ xứ mà đi.

Triều đ́nh th́ xa, quan-lại ra cai-trị th́ tha hồ mà tung-hoành, tiếng oan-ức kêu không thấu vào đâu, cho nên thường hay có sự loạn-lạc, làm cho dân-gian phải nhiều sự khổ-sở.

2. Lư Tiến và Lư Cầm.

Quan cai-trị đă tàn-ác, nhà vua lại bạc đăi người bản xứ. Đời bấy giờ người ḿnh dẫu có học hành thông thái cũng không được giữ việc chính-trị. Măi đến đời vua Linh-đế(168-189) cuối nhà Đông-Hán mới có một người bản xứ là Lư Tiến được cất lên làm Thứ -sử ở Giao-chỉ. Lư Tiến dâng sớ xin cho người Giao chỉ được bổ đi làm quan như ở Trung-châu bên Tàu. Nhưng Hán-đế chỉ cho những người đỗ mậu tài hoặc hiếu-liêm được làm lại-thuộc ở trong xứ mà thôi, chứ không được đi làm quan ở châu khác. Bấy giờ có người Giao-chỉ tên là Lư Cầm làm lính túc-vệ hầu vua ở trong điện, rủ mấy người bản xứ ra phục xuống sân mà kêu cầu thảm thiết. Hán-đế mới cho một người Giao-chỉ đỗ mậu-tài đi làm quan-lệnh ở Hạ dương và một người đỗ hiếu-liêm làm quan-lệnh ở Lục-hợp. Về sau Lư Cầm làm đến quan Tư-lệ Hiệu -úy và lại có Trương Trọng cũng là người Giao-chỉ làm thái thú ở Kim-thành. Người Giao-chỉ ta được làm quan như người bên Tàu, khởi đầu từ Lư Tiến và Lư Cầm vậy.

3. Sĩ Nhiếp (187-226).

Về cuối đời nhà Đông-Hán, giặc cướp nổi lên khắp cả bốn phương, triều-đ́nh không có uy-quyền ra đến ngoài, thiên-hạ chỗ nào cũng có loạn. Đất Giao-chỉ bấy giờ nhờ có quan thái-thú là Sĩ Nhiếp cùng với anh em chia nhau giữ các quận huyện, cho nên mới được yên.

Tiên-tổ nhà ông Sĩ Nhiếp là người nước Lỗ, v́ lúc Vương Măng cướp ngôi nhà Hán, mới tránh loạn sang ở đất Quảng-Tín, quận Thương-ngô, đến đời ông thân sinh ra Sĩ Nhiếp là sáu đời. Ông thân sinh tên là Sĩ Tứ làm thái thú quận Nhật-nam, cho Sĩ Nhiếp về du học ở đất Kinh-sư, đỗ hiếu liêm được bổ Thượng-thư-lang, v́ việc quan phải cách, rồi về chịu tang cha. Sau lại đỗ mẫu-tài được bổ sang làm Thái-thú ở quận Giao-chỉ.

Năm quí-mùi (203) là năm thứ 3 đời vua Hiến-đế quan Thứ-sử là Trương Tân cùng với quan Thái-thú Sĩ Nhiếp dâng sớ xin cải Giao-chỉ làm Giao-Châu. Vua nhà Hán Thuận cho. Sau v́ trong châu có lắm giặc-giă, Sĩ Nhiếp mới tâu xin vua nhà Hán cho mấy anh em làm Thái-thú quận Cửu- chân, quận Hợp phố và quận Nam-Hải. Sĩ Nhiếp giữ được đất Giao-châu khỏi loạn và vẫn giữ lệ triều cống như cũ, cho nên vua Hiến-đế lại phong cho chức An-viễn tướng quân Long-độ đ́nh-hầu Sĩ Nhiếp trị dân có phép tắc, và lại chăm sự dạy bảo dân cho nên ḷng người cảm-mộ công-đức, mới gọi tôn lên là Sĩ-vương.

Nhà làm sử thường cho nước ta có văn học là khởi đầu từ Sĩ Nhiếp. Cái ư kiến đó có lẽ không phải. V́ rằng từ khi nhà Hán cai trị đất Giao-chỉ đến đời Sĩ Nhiếp đă được hơn 300 năm, người Giao-chỉ đă có người học hành thi đỗ hiếu liêm, mậu tài. Vậy nói rằng đến ông Sĩ Nhiếp mới có nho- học th́ chẳng sai lắm ru. Hoặc giả ông ấy là một người có văn học trong khi làm quan, lo mở-mang sự học-hành, hay giúp đỡ những kẻ có chữ-nghĩa, cho nên về sau mới được, cái tiếng làm học tổ ở nước Nam tưởng như thế th́ có thể hợp lẽ hơn.

 

II. Đời Tam-Quốc (220-265)

 

1. Nhà Đông-Ngô (222-280).

Nhà Đông-Hán mất ngôi th́ nước Tàu phân ra làm ba nước: Bắc-ngụy, Tây-thục, Đông-ngô. Đất Giao- châu bấy giờ thuộc về Đông-ngô.

Sĩ Nhiếp ở Giao-châu được 40 năm, tuy thiệt có uy-quyền ở cơi Giao- châu, nhưng vẫn theo lệ triều cống nhà Hán, và đến khi nhà Hán mất th́ lại triều cống nhà Ngô.

Năm bính-ngọ (226) là năm Hoàng-vũ thứ 5 nhà Ngô, Sĩ Nhiếp mất, con Sĩ Huy tự xưng làm Thái-thú. Ngô-chủ là Tôn quyền bèn chia đất Giao- châu, từ Hợp phố về bắc gọi là Quảng-châu. Sai Lữ Đại làm Quảng Châu thứ sử, Đái Lương làm Giao-châu thứ sử, và sai Trần Th́ sang thay Sĩ Nhiếp làm thái-thú quận Giao-chỉ.

Bọn Đái Lương và Trần Th́ sang đến Hợp-phố th́ Sĩ Huy đem quân ra chống giữ. Thứ Sử Quảng châu là Lữ Đại mới tiến quân sang đánh dẹp, và cho người đến dụ Sĩ Huy ra hàng. Sĩ Huy đem 5 anh em ra hàng, Lữ Đại sai bắt Sĩ Huy đem chém đi, c̣n mấy anh em th́ đem về Ngô-triều làm tội.

Ngô-chủ lại hợp Quảng-Châu và Giao-Châu lại làm một, và phong cho Lữ Đại làm Thứ-sử. Lữ Đại đem quân đi đánh quận Cửu-chân có công được phong làm Giao-châu-mục.

2. Bà Triệu (Triệu Thị Chinh)14

Năm mậu-th́n (248) là năm xích-ô thứ 11 nhà Đông ngô, Ngô chủ sai Lục Dậu sang làm thứ-sử Giao-châu.

Năm ấy ở quận Cửu-chân có người đàn bà tên là Triệu Thị Chinh khởi binh đánh nhà Ngô.

Sử ta chép rằng bà Triệu là người huyện Nông-cống bấy giờ. Thủa nhỏ cha mẹ mất cả, ở với anh là Triệu quốc Đạt, dến độ 20 tuổi gặp phải người chị dâu ác nghiệt, bà ấy giết đi rồi vào ở trong núi. Bà ấy là một người có sức mạnh, lại có chí-khí và lắm mưu-lược. Khi vào ở trong núi chiêu mộ hơn 1,000 tráng sĩ để làm thủ hạ. Anh thấy thế mới can bà, th́ bà bảo rằng: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng dữ, chém cá tràng-ḱnh ở bể đông chứ không thèm bắt-chước người đời cúi đầu cong lưng để làm t́-thiếp người ta."

Năm mậu-th́n (248) v́ quan-lại nhà Ngô tàn-ác, dân-gian khổ-sở, Triệu quốc Đạt mới khởi binh đánh quận Cửu-chân. Bà đem quân ra đánh giúp anh, quân sĩ của Triệu quốc Đạt thấy bà làm tướng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ. Khi bà ra trận th́ cưỡi voi và mặc áo giáp vàng là Nhụy-kiều tướng-quân.

Thứ sử Giao-châu là Lục Dận đem quân đi đánh, bà chống nhau với nhà Ngô được năm sáu tháng . Nhưng v́ quân ít thế cô, đánh măi phải thua, bà đem quân chạy đến xă Bồ-điền (nay là xă Phú-điền thuộc huyện Mỹ-hóa) th́ tự-tử. Bấy giờ mới 23 tuổi.

Về sau vua Nam Đế nhà Tiền-Lư, khen là người trung-dũng sai lập miếu thờ, phong là: "Bất chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu-nhân". Nay ở xă Phú-điền, tỉnh Thanh-hóa c̣n đền thờ.

3. Nhà Ngô chia đất Giao-Châu.

Năm giáp-thân (264) là năm Nguyên-hưng nguyên-niên, vua nhà Ngô lại lấy đất Nam-hải, Thương-ngô và Uất-lâm làm Quảng-châu, đặt châu-trị ở Phiên ngung; lấy đất Hợp-phố, Giao-chỉ, Cửu-chân, và Nhật-nam làm Giao Châu, đặt châu-trị ở Long Biên. Đất Nam-Việt của nhà Triệu ngày trước thành ra Giao-châu và Quảng-châu từ đấy.

Đất Giao-châu đời bấy giờ cứ loạn-lạc măi, những quan-lại nhà Ngô th́ thường là người tham-tàn, vơ-vét của dân, bởi vậy người Giao-châu nổi lên giết quan thái-thú đi rồi về hàng nhà Ngụy.

Năm ất dậu (256) nhà Tấn cướp ngôi nhà Ngụy, rồi sai quan sang giữ Giao-châu. Nhà Ngô sai Đào Hoàng sang lấy lại. Đào Hoàng được phong là Giao-châu mục. Năm canh tí (280) nhà Ngô mất nước. Đào Hoàng về nhà Tấn, được giữ chức cũ. Đất Giao-châu từ đó thuộc về nhà Tấn.

 

III Nhà Tấn ( 256-420 )

 

1. Chính-Trị Nhà Tấn.

Nhà Tấn được thiên-hạ rồi, thấy nhà Ngụy v́ thế cô mà mất, bèn đại phong cho họ-hàng và sai ra trấn các nơi để làm vây cánh cho nhà vua. Nhưng cũng v́ lẽ ấy mà các thân vương thường v́ ḷng tham danh-lợi cứ dấy binh đánh giết lẫn nhau, làm cho anh em trong nhà, cốt nhục tương tàn, mà ngôi vua cũng thành ra suy nhược.

Thời bấy giờ ở phía tây-bắc có những người nhung-địch thấy nhà Tấn có nội loạn, bèn lũ-lượt nổi lên chiếm giữ dần dần lấy cả vùng phía bắc sông Trường-giang rồi xưng đế, xưng vương, như nước Triệu, nước Tần, nước Yên, nước Lương, nước Hạ, nước Hán v. v... cả thảy trước sau đến 16 nước, gọi là loạn Ngũ-Hồ15.

Đất Giao-châu ta vẫn thuộc về nhà Tấn. Những quan lại sang cai-trị cũng như quan lại đời nhà Hán, nhà Ngô, thỉnh thoảng mới gặp được một vài người nhân từ tử tế, th́ dân gian mới được yên ổn, c̣n th́ là những người tham lam, độc-ác, làm cho nhân dân phải lầm than khổ sở. Cũng lắm khi bọn quan lại có những người phản nghịch đánh giết lẫn nhau, làm cho trong nước cứ phải loạn lạc luôn.

2. Nước Lâm-Ấp quấy nhiễu Giao-Châu.

ĐẤt Giao-châu lúc bấy giờ trong th́ có quan lại nhũng-nhiễu, ngoài th́ có người nước Lâm-ấp vào đánh phá.

Nước Lâm-Ấp (sau gọi là Chiêm-Thành) ở từ quận Nhật-nam vào cho đến Chân-Lạp, nghĩa là ở vào quăng từ tỉnh Quảng-B́nh, Quảng-Trị cho đến đất Nam-Việt bây giờ. Người Lâm-ấp có lẽ là ṇi giống Mă-lai, theo tông giáo và chính trị Ấn Độ. Nước ấy cũng là một nước văn minh và cường thịnh ở phía nam lúc bấy giờ, nhưng không rơ nước ấy khởi đầu thành nước từ lúc nào. Sách "Khâm-định Việt Sử" chép rằng: năm nhâm-dần (102) đời nam có huyện Tượng-lâm, người huyện ấy cứ hay sang cướp phá ở quận Nhật-nam, bởi vậy vua nhà Hán mới đặt quan cai-trị ở huyện ấy, để pḥng giữ sự rối loạn.

Đến cuối đời nhà Hán có người huyện Tương-lâm tên là Khu Liên giết huyện-lệnh đi, rồi tự xưng làm vua, gọi nước là Lâm-ấp. Ḍng dơi Khu Liên thất truyền, bởi vậy cháu ngoại của Phạm Hùng lên nối nghiệp.

Trong đời Tam-quốc, người Lâm-ấp hay sang cướp phá ở quận Nhật-nam và quận Cửu-chân, bởi vậy khi nhà Tấn đă lấy được Đông-ngô rồi, ư muốn giảm bớt quân ở các châu quận, nhưng quan thứ sử Giao-châu là Đào Hoàng dâng sớ về tâu rằng: "Vua nước Lâm-ấp là Phạm Hùng thông với nước Phù Nam hay sang quấy nhiễu ở đất Nhật-nam nếu lại giảm bớt quân ở Giao-châu đi, th́ sợ quân Lâm-ấp lại sang đánh phá."

Xem như vậy th́ nước Lâm-Ấp đă có từ đầu đệ nhị thế kỷ.

Phạm Hùng truyền cho con là Phạm Dật. Phạm Dật mất, th́ người gia nô là Phạm Văn cướp mất ngôi. Phạm Văn truyền cho con là Phạm Phật.

Năm quí-sửu (353) đời vua Mục-đế nhà Đông-Tấn, thứ-sử Giao-châu là Nguyễn Phu đánh vua Lâm-ấp là Phạm Phật, phá được hơn 50 đồn lũy. Phạm Phật mất, truyền ngôi lại cho con cháu là Phạm Hồ-Đạt. Năm kỷ hợi (399) Phạm Hồ-Đạt đem quân sang đánh lấy hai quận Nhật-nam và Cửu- chân rồi lại đi đánh Giao-châu. Bấy giờ có thái thú quận Giao-chỉ là Đỗ Viện đánh đuổi người Lâm-Ấp, lấy lại hai quận. Đỗ Viện được phong làm Giao- châu thứ-sử.

Năm quí-sửu (413) Phạm Hồ-Đạt lại đem quân sang phá ở quận Cửu-chân. Khi bấy giờ con Đỗ Viện là Đỗ Tuệ-Độ làm Giao-châu thứ sử đem binh ra đuổi đánh, chém được tướng Lâm-ấp là bọn Phạm Kiện và bắt được hơn 100 người.

Người Lâm-Ấp vẫn c̣n hay tính đi cướp phá, cứ năm ba năm lại sang quấy nhiễu ở đất Nhật nam. Đỗ Tuệ-Độ định sang đánh Lâm-ấp để trừ cái hại về sau, bèn đến năm canh-thân (420) cất binh mă sang đánh, chém giết tàn hại, rồi bắt người Lâm-ấp cứ hàng năm cống tiến: voi, vàng, bạc, đồi-mồi v.v. Từ đó mới được tạm yên.

Ḍng dơi Phạm Hồ-Đạt làm vua được mấy đời lại bị quan Lâm-ấp là Phạm Chư Nông cướp mất ngôi. Phạm Chư Nông truyền cho con là Phạm Dương Mại.

Khi Phạm Dương Mại làm vua nước Lâm-ấp, th́ nhà Tấn đă mất rồi, nước Tàu phân ra Nam-triều và Bắc-triều. Phạm Dương Mại lại nhân dịp đó sang quấy nhiễu Giao châu.

 

IV. NAM BẮC-TRIỀU ( 420-588 )

 

1. T́nh-Thế Nước Tàu.

Năm canh thân (420) Lưu Dụ cướp ngôi nhà Đông Tấn, lập ra nhà Tống ở phía Nam. Lúc bấy giờ ở phía Bắc th́ nhà Ngụy gồm được cả nước Lương, nước Yên, nước Hạ. Nước Tàu phân ra làm Nam-Triều và Bắc Triều. Bắc Triều th́ có nhà Ngụy, nhà Tề, nhà Chu nối nhau làm vua; Nam-Triều th́ có nhà Tống, nhà Tề, nhà Lương và nhà Trần kế nghiệp trị-v́.

2. Việc đánh Lâm-Ấp.

Trong đời nhà Tấn về năm Quí dậu (433) đời vua Văn-đế, vua nước Lâm-ấp là Phạm Dương Mại thấy nước Tàu loạn-lạc, bèn sai sứ sang cống nhà Tống và xin lĩnh đất Giao-châu để cai trị. Nhưng vua nhà Tống không cho.

Từ đó nước Lâm-ấp lại sang cướp phá ở mạn Nhật-nam và Cửu- chân. Vua nhà Tống bèn sai quan thứ-sử là Đàn Ḥa Chi và Tông Xác làm phó tướng đem binh sang đánh Lâm-ấp. Phạm Dương Mại đem quân ra chống cự.

Đàn Ḥa Chi và Tông Xác tiến quân chém được tướng, phá được thành, quân Lâm-ấp vỡ tan, Phạm Dương Mại cùng với con chạy thoát được. Đàn Ḥa Chi vào đất Lâm-ấp lấy được vàng bạc châu báu rất nhiều. Sử chép rằng Đàn Ḥa Chi lấy được một cái tượng bằng vàng mấy người ôm không xuể, đem nấu-đúc được hơn 10 vạn cân. Từ đấy người Tàu biết Lâm-ấp có nhiều của, cứ chực sang lấy. Đàn Ḥa Chi cũng từ đấy bị gièm pha, phải cách chức đuổi về.

3. Sự biến-loạn -- Đất Giao-Châu.

Năm Kỷ-Mùi (479) nhà Tống mất ngôi, nhà Tề kế nghiệp, trị v́ được 22 năm th́ nhà Lương lại cướp ngôi nhà Tề.

Trong đời Nam Bắc Triều, đất Giao-châu không được mấy khi yên ổn, v́ quan Tàu sang cai-trị có nhiều người thấy bên Tàu loạn, cũng muốn t́m cách để độc-lập, bởi vậy quan lại cứ giết lẫn nhau.

Đời nhà Lương lại sai Tiêu-Tư sang làm thứ sử Giao-châu. Tiêu Tư là một người tàn bạo, làm cho ḷng người ai cũng oán giận. Bởi vậy ông Lư Bôn mới có cơ hội mà nổi lên, lập ra nhà Tiền Lư.

{13 Về cuối đời Đông Hán lại dời về Long Biên. }

{14 Bà Triệu, các kỳ xuất bản trước để là Triệu Ẩu. Nay xét ra nên để là Triệu Thị Chinh. }

{15 Ngũ Hồ là 5 rợ: Hung Nô và rợ Yết (chủng loại Mông Cổ), rợ Tiên Ti (chủng loại Măn Châu), rợ Chi và rợ Khương (chủng loại Tây Tạng) }

 

CHƯƠNG IV

Nhà Tiền Lư

( 544 - 602 )

 

Năm Tân Dậu (541) là năm Đại Đồng thứ 7 đời vua Vũ Đế nhà Lương, ở huyện Thái B́nh16 có một người tên là Lư Bôn, tài kiêm văn vơ, thấy nước ḿnh, trong th́ quan lại Tàu làm khổ, ngoài th́ người Lâm Ấp cướp phá, bèn cùng với những người nghĩa dũng nổi lên, đánh đuổi Tiêu Tư về Tàu, rồi chiếm giữ lấy thành Long Biên.

Lư Bôn, có người gọi là Lư Bí, vốn ḍng dơi người Tàu. Tổ tiên ở đời Tây Hán phải tránh loạn chạy sang Giao Châu, đến lúc bấy giờ là bảy đời, thành ra người bản xứ. Khi chiếm giữ được đất Giao Châu rồi, ông sửa sang mọi việc, định lập nghiệp lâu dài. Qua năm Quí Hợi (543) quân Lâm Ấp lại sang phá quận Nhật Nam, Lư Bôn sai tướng là Phạm Tu vào đánh ở Cửu Đức (Hà Tĩnh), người Lâm Ấp thua chạy về nước.

Năm Giáp Tí (544) đời nhà Lương bên Tàu, ông Lư Bôn tự xưng là Nam Việt Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, niên hiệu là Thiên Đức, rồi phong cho Triệu Túc làm thái phó, Tinh Thiều làm tướng văn, và Phạm Tu là tướng vơ.

Năm Ất Sửu (545) vua nhà Lương sai Dương Phiêu sang làm thứ sử Giao Châu, và sai Trần Bá Tiên đem quân sang đánh Nam Việt. Lư Nam Đế thua phải bỏ thành Long Biên chạy về giữ thành Gia Ninh (huyện Yên Lăng, tỉnh Phúc Yên). Trần Bá Tiên đem quân lên vây thành Gia Ninh, Lư Nam Đế chạy về giữ thành Tân Xương, tức là đất Phong Châu cũ thuộc tĩnh Vĩnh Yên bây giờ.

Nhà Lương lại tiến lên đuổi đánh, Lư Nam Đế thấy thế ḿnh yếu, chống không nổi, mới rút quân lên đóng ở động Khuất Liêu (thuộc đất Hưng Hóa), để đợi thu xếp được quân sĩ lại ra đánh. Được non một năm, Lư Nam Đế đem hai vạn quân ra đánh nhau với Trần Bá Tiên ở hồ Điển Triệt (?), lại thua. Lư Nam Đế bèn giao binh quyền lại cho tả tướng quân Triệu Quang Phục chống nhau với quân nhà Lương rồi trở về Khuất Liêu.

Triệu Quang Phục là con quan thái phó Triệu Túc người ở Châu Diên (Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên) theo cha giúp Lư Nam Đế lập được nhiều công, nay đem quân chống cự với nhà Lương được ít lâu, rồi sau thấy thế quân Tàu c̣n mạnh, địch không nổi, bèn rút quân về Dạ Trạch17. Dạ Trạch là chỗ đồng lầy, chung quanh cỏ mọc như rừng, ở giữa có băi cát làm nhà ở được. Triệu Quang Phục vào ở đấy, ngày nấp ẩn, tối th́ cho lính chở thuyền độc mộc ra đánh quân của Trần Bá Tiên, cướp lấy lương thực về nuôi quân sĩ. Trần Bá Tiên đánh măi không được. Người thời bấy giờ gọi Triệu Quang Phục là Dạ Trạch Vương.

2. Triệu Việt Vương (549-571).

Năm Mậu Th́n (548) Lư Nam Đế ở trong Khuất Liêu phải bệnh mất, sang năm sau Triệu Quang Phục ở Dạ Trạch được tin ấy bèn xưng là Việt Vương. Bấy giờ quân của Việt Vương đă sắp hết lương, mà măi không phá được quân Tàu. May nhờ gặp lúc bên Tàu có loạn Hầu Cảnh, vua nhà Lương phải triệu Trần Bá Tiên về để người t́ tướng là Dương Sân ở lại chống cự với Triệu Quang Phục. Quang Phục mới thừa thế đem quân ra đánh phá quân Tàu, rồi về lấy lại thành Long Biên.

Khi Lư Nam Đế thất thế chạy về Khuất Liêu th́ người anh họ là Lư Thiên Bảo cùng với người họ là Lư Phật Tử đem quân chạy vào quận Cửu Chân, rồi bị quân nhà Lương đuổi đánh chạy sang Lào, đến đóng ở động Dă Năng, xưng là Đào Lang Vương, quốc hiệu là Dă Năng.

Năm Ất Hợi (555) là năm thứ 7 đời Triệu Việt Vương, Lư Thiên Bảo mất, không có con, binh quyền về cả Lư Phật Tử. Đến năm Đinh Sửu (557) Lư Phật Tử đem quân về chống với Triệu Việt Vương. Đánh nhau mấy trận không được, Phật Tử mới xin chia đất giảng ḥa. Triệu Việt Vương nghĩ t́nh họ Lư, cũng thuận chia đất cho Lư Phật Tử.

Lư Phật Tử đóng ở Ô Diên (nay ở vào làng Đại Mỗ, thuộc huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông). Triệu Việt Vương đóng ở Long Biên, lấy băi Quân Thần làm giới hạn (băi ấy thuộc làng Thượng Các, huyện Từ Liêm). Triệu Việt

Vương lại gả con gái cho Phật Tử để tỏ t́nh ḥa hiếu với nhau. Nhưng Phật Tử vẫn có ư muốn thôn tính, bởi vậy bề ngoài tuy ḥa hiếu, nhưng bề trong vẫn sửa soạn để đánh lấy Long Biên.

Năm Tân Măo (571), Phật Tử bất th́nh ĺnh đem quân đánh Triệu Việt Vương. Triệu Việt Vương thua chạy đến sông Đại Nha (nay ở huyện Đại An, tỉnh Nam Định), nhảy xuống sông tự tận. Người ở đấy cảm nhớ Triệu Việt Vương, mới lập đền thờ ở chỗ sông Đại Nha. Nay c̣n có đền thờ ở làng Đại Bộ, gần huyện Đại An.

3. Hậu Lư Nam Đế (571-602).

Lư Phật Tử lấy được thành Long Biên rồi, xưng đế hiệu, đóng đô ở Phong Châu (thuộc huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên), sai Lư Đại Quyền giữ Long Biên và Lư Phổ Đỉnh giữ Ô Diên.

Trong khi Lư Phật Tử làm vua ở Nam Việt th́ vua Văn Đế nhà Tùy đă gôm cả Nam Bắc, nhất thống nước Tàu. Đến năm Nhâm Tuất (602) vua nhà Tùy sai tướng là Lưu Phương đem quân 27 doanh sang đánh Nam Việt.

Lưu Phương sai người lấy lẽ họa phúc để dụ Lư Phật Tử về hàng. Hậu Lư Nam Đế sợ thế không địch nổi bèn xin về hàng.

Từ đấy đất Giao Châu lại bị nước Tàu cai trị 336 năm nữa.

 

1. Lư Nam Đế

2. Triệu Việt Vương

3. Hậu Lư Nam Đế

 

1. Lư Nam Đế (544-548).

{16 Cứ theo sách "Khâm Định Việt Sử" th́ huyện Thái B́nh thuộc về Phong Châu ngày trước, nay ở vào địa hạt tỉnh Sơn Tây nhưng mà không rơ là chỗ nào, chứ không phải là phủ Thái B́nh ở Sơn Nam mà bây giờ là tỉnh Thái B́nh. }

 

{17 Bây giờ thuộc phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. }

 

CHƯƠNG V

Bắc Thuộc Lần Thứ Ba

( 603 - 939 )

 

I. Nhà Tùy.

1. Việc đánh Lâm Ấp

 

II. Nhà Đường

1. Chính trị nhà Đường

2. An Nam đô hộ phủ

3. Mai Hắc Đế

4. Giặc bể

5. Bố Cái Đại Vương

6. Việc đánh nước Hoàn Vương

7. Nam Chiếu cướp phá Giao Châu

8. Cao Biền b́nh giặc Nam Chiếu

9. Công việc của Cao Biền

10. Sự trị loạn của nước Tàu

 

III. Đời Ngũ Quí

1. T́nh thế nước Tàu

2. Họ Khúc dấy nghiệp: Khúc Thừa Dụ

3. Khúc Hạo

4. Khúc Thừa Mỹ

5. Dương Diên Nghệ và Kiểu Công Tiện

6. Ngô Quyền phá quân Nam Hán

 

I. Nhà Tùy (589 - 617)

 

1. Việc Đánh Lâm Ấp.

Nhà Tùy làm vua bên Tàu được 28 năm th́ mất. Trong bấy nhiêu năm th́ sử không chép chuyện ǵ lạ, chỉ nói rằng năm Ất Sửu (605), vua nhà Tùy nghe nói ở Lâm Ấp có nhiều của, bèn sai tướng là Lưu Phương đem quân đi đánh. Vua Lâm Ấp lúc bấy giờ là Phạm Phạm Chí đem quân ra giữ những chỗ hiểm yếu, ở bên này sông Đồ Lê (?) để chống cự với quân Tàu. Nhưng chẳng bao lâu quân Lâm Ấp phải thua bỏ chạy. Lưu Phương thừa kế tiến quân sang sông đuổi đánh, gặp đại binh Lâm Ấp kéo đến, có nhiều voi thế rất mạnh. Lưu Phương bèn dùng mưu: sai quân đào hố lấy cỏ phủ lên, rồi sai quân ra đánh nhử, giả tảng bại trận. Quân Lâm Ấp đuổi theo được một quăng, voi sa xuống hố, quân sĩ loạn cả. Khi bấy giờ quân Tàu mới quay trở lại lấy cung nỏ bắn, voi khiếp sợ xéo cả lên quân Lâm Ấp mà chạy. Lưu Phương cũng phải bệnh về đến nửa đường th́ chết.

 

II. Nhà Đường ( 618 - 907 )

1. Chính Trị Nhà Đường.

Năm Mậu Dần (618) nhà Tùy mất nước, nhà Đường kế nghiệp làm vua nước Tàu. Đến năm Tân Tị (621) vua Cao Tổ nhà Đường sai Khâu Ḥa làm Đại Tổng Quản sang cai trị Giao Châu.

Từ khi nước ta thuộc về nước Tàu, chỉ có nhà Đường cai trị là nghiệt hơn cả. Nhưng sử chép lược quá: thường cách hai ba năm mới chép một việc, chắc là những nhà làm sử nước ta sau cứ theo sử Tàu chép lại, cho nên mới sơ lược như vậy.

 

2. An Nam Đô Hộ Phủ.

Năm Kỹ Măo (678) vua Cao Tông nhà Đường chia đất Giao Châu ra làm 12 châu, 59 huyện, và đặt An Nam đô hộ phủ18.

Nước ta gọi là An Nam khởi đầu từ đấy.

Mười hai Châu đời nhà Đường là những châu này :

01. Giao Châu có 8 huyện ( Hà Nội, Nam Định v. v. )

02. Lục Châu có 3 huyện ( Quảng Yên, Lạng Sơn )

03. Phúc Lộc Châu có 3 huyện ( Sơn Tây )

04. Phong Châu có 3 huyện ( Sơn Tây )

05. Thang Châu có 3 huyện (?)

06. Trường Châu có 4 huyện (?)

07. Chí Châu có 7 huyện (?)

08. Vơ Nga Châu có 7 huyện (?)

09. Vơ An Châu có 2 huyện (?)

10. Ái Châu có 6 huyện ( Thanh Hóa )

11. Hoan Châu có 4 huyện ( Nghệ An )

12. Diên Châu có 7 huyện ( Nghệ An )

 

Ở về phía Tây Bắc đất Giao Châu lại đặt một châu nữa, gọi là Man Châu gồm cả những Mường ở mạn ấy, lệ cứ hằng năm phải triều cống vua nhà Đường.

Ấy là đại để cách chính trị nhà Đường như vậy. C̣n thường th́ cũng loạn lạc luôn: khi th́ người trong nước nổi lên đánh phá như Mai Hắc Đế và Bố Cái Đại Vương: khi th́ những nước ở ngoài vào xâm phạm, như nước Hoàn Vương và nước Nam Chiếu.

 

3. Mai Hắc Đế ( 722 ) .

Năm Nhâm Tuất (722) là năm Khai Nguyên thứ 10 về đời vua Huyền Tông nhà Đường, ở Hoan Châu có một người tên là Mai Thúc Loan nổi lên chống cự với quân nhà Đường.

Mai Thúc Loan là người huyện Thiên Lộc, tức là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh bây giờ, mặt mũi đen ś, sức vóc khỏe mạnh, thấy quan nhà Đường làm nhiều điều tàn bạo, dân gian khổ sở, lại nhân lúc bấy giờ lắm giặc giă, ông ấy bèn chiêu mộ những người nghĩa dũng, rồi chiếm giữ lấy một chỗ ở đất Hoan Châu (nay thuộc huyện Nam Đường tỉnh Nghệ An) rồi xây thành đắp lũy, xưng hoàng đế, tục gọi là Hắc Đế.

Mai Hắc Đế lại kết hiếu với nước Lâm Ấp và nước Chân Lạp để làm ngoại viện.

Vua nhà Đường sai quan nội thị là Dương Tư Húc đem quân sang cùng với quan Đô Hộ là Quang Sở Khách đi đánh Mai Hắc Đế. Mai Hắc Đế thế yếu chống không nổi phải thua chạy, được ít lâu th́ mất. Nay ở núi Vệ Sơn huyện Nam Đường, tỉnh Nghệ An, c̣n có di tích thành cũ của vua Hắc Đế, và ở xă Hương Lăm, huyện Nam Đường c̣n có đền thờ.

 

4. Giặc Bể.

Năm Đinh Vị (767) là năm Đại Lịch thứ 2, đời vua Đại Tông nhà Đường, sử chép rằng có quân Côn Lôn và quân Đồ Bà là quân ở những đảo ngoài bể vào cướp phá đất Giao Châu, lên vây các châu thành.

Quan Kinh Lược Sứ là Trương Bá Nghị cùng với quan Đô Úy là Cao Chính B́nh đem quân đánh phá được lũ giặc ấy. Trương Bá Nghi bèn đắp La Thành để pḥng thủ phủ trị. La Thành khởi đầu từ đấy.

 

5. Bố Cái Đại Vương ( 791 ).

Năm Tân Vị (791) quan Đô Hộ là Cao Chính B́nh bắt dân đóng sưu thuế nặng quá, ḷng dân oán hận. Khi bấy giờ ở quận Đường Lâm (bây giờ là làng Cam Lâm, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây) có người tên là Phùng Hưng nổi lên đem quân về phá phủ Đô Hộ. Cao Chính B́nh lo sợ thành bệnh mà chết. Phùng Hưng mới chiếm giữ phủ thành, được mấy tháng th́ mất. Quân sĩ lập con Phùng Hưng là Phùng An lên nối nghiệp. Dân ái mộ Phùng Hưng mới lập đền thờ và tôn lên làm Bố Cái Đại Vương, bởi v́ ta gọi cha là bố, mẹ là cái, nghĩa là tôn Phùng Hưng lên làm cha mẹ.

Tháng 7 năm Tân Vị ấy, vua nhà Đường sai Triệu Xương sang làm Đô Hộ. Phùng An liệu thế chống không nổi xin ra hàng.

 

6. Việc Đánh Nước Hoàn Vương.

Nước Lâm Ấp từ khi bị tướng nhà Tùy là Lưu Phương sang đánh, rồi quốc vương là Phạm Phạm Chí dâng biểu tạ tội và xin triều cống như cũ. Đến quăng năm Trinh Quan đời vua Thái Tông nhà Đường, vua Lâm Ấp là Phạm Đầu Lê mất, con là Phạm Trấn Long cũng bị người giết, dân trong nước mới lập người con của bà cô Phạm Đầu Lê, tên là Chư Cát Địa lên làm vua.

Chư Các Địa đổi quốc hiệu là Hoàn Vương Quốc. Từ đó về sau thường người nước hoàn vương lại sang quấy nhiễu ở giao châu, và chiếm giữ lấy Châu Hoan và Châu Ái.

Năm Mậu Tí (808) đời vua Hiến Tông, quan Đô Hộ là Trương Chu đem binh thuyền đi đánh giết hại quân Hoàn Vương rất nhiều. Vua nước ấy bèn lui về ở phía Nam (ở vào quăng tỉnh Quảng Nam, Quảng Nghĩa bây giờ) và đổi quốc hiệu là Chiêm Thành.

 

7. Nam Chiếu Cướp Phá Giao Châu.

Về cuối đời nhà Đường, quan lại Tàu lắm người chỉ v́ tư lợi, ức hiếp nhân dân như Đô Hộ Lư Trác cứ vào những chợ ở chỗ Mường Mán mua trâu mua ngựa, mỗi con chỉ trả có một đấu muối, rồi giết tù trưởng mán là Đỗ Tồn Thành. V́ thế cho nên người Mường Mán tức giận bèn dụ người Nam Chiếu sang cướp phá, làm cho dân Giao Chỉ khổ sở trong 10 năm trời.

Ở phía Tây Bắc đất Giao Châu, tức là ở phía Tây tỉnh Vân Nam bây giờ có một xứ người ṇi Thái ở. Người xứ ấy gọi vua là chiếu. Trước có 6 chiếu là Mông Huề, Việt Thác, Lăng Khung, Đằng Đạm, Thi Lăng, Mông Xá. Chiếu Mông Xá ở về phía Nam nên gọi là Nam Chiếu.

Trong khoảng năm Khai Nguyên (713-742) đời vua Huyền Tông nhà Đường, Nam Chiếu là B́ La Cáp cường thịnh lên, mà 5 chiếu kia suy hèn đi. B́ La Cáp mới đút lót cho quan Tiết Độ Sứ đạo Kiếm Nam là Vương Dục để xin hợp cả 6 chiếu lại làm một. Triều đ́nh nhà Đường thuận cho, và đặt tên là Qui Nghĩa. Từ đó Nam Chiếu càng ngày càng thịnh lên, đem quân đi đánh Thổ Phồn (Tây Tạng) rồi dời đô lên đóng ở thành Thái Ḥa (thành Đại Lư bây giờ).

Năm Bính Dần (846) quân Nam Chiếu sang cướp ở Giao Châu, quan Kinh Lược Sứ là Bùi Nguyên Dụ đem quân đánh đuổi đi.

Năm Mậu Dần (858), nhà Đường sai Vương Thức sang làm Kinh Lược Sứ. Vương Chức là người có tài lược, trị dân có phép tắc, cho nên những giặc giă đều dẹp yên được cả, mà quân Mường và quân Nam Chiếu cũng không dám sang quấy nhiễu.

Năm Canh Th́n (860), nhà Đường gọi Vương Thức về làm Quan Sát Sứ ở Tích Đông và sai Lư Hộ sang làm Đô Hộ.

Bấy giờ Nam Chiếu đă mạnh lắm, bèn xưng đế và đặt quốc hiệu là Đại Mông rồi lại đổi là Đại Lễ19. Lư Hộ giết người tù trưởng là Đỗ Thủ Trừng, người Mường lại đi dụ quân Nam Chiếu sang đánh lấy mất phủ thành. Lư Hộ phải bỏ chạy về Tàu. Vương Khoan đem binh sang cứu, quân Nam Chiếu bỏ thành rút về.

Năm Nhâm Ngọ (862), quân Nam Chiếu sang đánh Giao Châu, nhà Đường sai Thái Tập đem ba vạn quân sang chống giữ. Quân Nam Chiếu thấy quân nhà Đường nhiều lại rút về. Bấy giờ có quan Tiết Độ Sứ Lĩnh Nam là Thái Kinh sợ Thái Tập lập được công to bèn mật tâu với vua nhà Đường rằng Giao Châu đă yên, th́ nên rút quân về. Thái Tập xin để lại 5.000 quân cũng không được.

Tháng giêng năm Quí Mùi (863), Nam Chiếu đem 50.000 quân sang đánh phủ thành. Thái Tập cứu không kịp, thế bức quá phải tự tử. Trận ấy có tướng nhà Đường là Nguyên Duy Đức đem hơn 400 quân Kinh Nam chạy ra đến bờ sông, thuyền bè không có, Nguyên Duy Đức bảo chúng rằng chạy xuống nước cũng chết, bất nhược trở lại đánh nhau với giặc, một người đổi lấy hai người th́ chẳng lợi hơn hay sao. Nói đoạn quay trở lại giết được hơn 2.000 người, nhưng đêm đến tướng Nam Chiếu laà Dương Tư Tấn đem binh đến đánh, bọn Nguyên Duy Đức chết cả.

Quân Nam Chiếu vào thành giết hại rất nhiều người. Sử chép rằng Nam Chiếu hai lần sang đánh phủ thành, giết người Giao Châu hơn 15 vạn.

Vua Nam Chiếu là Mông Thế Long cho Dương Tư Tấn quản lĩnh 20.000 quân và cho Đoàn Tù Thiên làm Tiết Độ Sứ ở lại giữ Giao Châu.

Vua nhà Đường hạ chỉ đem An Nam Đô Hộ Phủ về đóng ở Hải Môn (?) rồi lấy quân các đạo về ở Lĩnh Nam và đóng thuyền lớn để tải lương thực, đợi ngày tiến binh.

Mùa Thu năm Giáp Thân (864) vua nhà Đường sai tướng là Cao Biền sang đánh quân Nam Chiếu ở Giao Châu.

 

8. Cao Biền B́nh Giặc Nam Chiếu.

Cao Biền là người tướng giỏi nhà Đường, vốn ḍng vơ tướng môn, tính ham văn học, quân sĩ đều có ḷng mến phục.

Năm Ất Dậu (865), Cao Biền cùng với quan Giám Quân là Lư Duy Chu đưa quân sang đóng ở Hải Môn. Nhưng Lư Duy Chu không ưa Cao Biền, muốn t́m mưu làm hại. Hai người bàn định tiến binh. Cao Biền dẫn 5.000 quân đi trước, Lư Duy Chu không phát binh tiếp ứng.

Tháng chín năm ấy quân rợ đang gặt lúc ở Phong Châu (huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên), Cao Biền đến đánh cất lẻn một trận, giết được nhiều người, rồi lấy thóc gạo nuôi quân lính.

Đến tháng 4 năm sau (866), Nam chiếu cho bọn Dương Tập, Phạm Nê Ta, Triệu Nặc Mi sang giúp Đoàn Tù Thiên để giữ Giao Châu. Khi bấy giờ có tướng nhà Đường là Vi Trọng Tể đem 7.000 quân mới sang, Cao Biền nhân dịp mới phát binh đánh được mấy trận, cho người đưa tin thắng trận về Kinh, nhưng mà đi đến Hải Môn, Lư Duy Chu giữ lại, không cho triều đ́nh biết.

Trong triều măi không thấy tin tức ǵ, cho ra hỏi, th́ Lư Duy Chu tâu dối rằng Cao Biền đóng quân ở Phong Châu không chịu đánh giặc. Vua nghe tin ấy, nổi giận sai Vương Án Quyền ra thay, và đ̣i Cao Biền về hỏi tội. Ngay tháng ấy Cao Biền phá quân Nam Chiếu và vây La Thành đă hơn 10 ngày rồi, chỉ nay mai th́ lấy được, bỗng chốc được tin Vương Án Quyền và Lư Duy Chu sang thay. Cao Biền liền giao binh quyền cho Vi Trọng Tể, rồi cùng với mấy người thủ hạ về Bắc. Nhưng trước Cao Biền đă sai người lẻn về Kinh dâng biểu tâu rơ t́nh trạng. Vua nhà Đường biết rơ sự t́nh, mừng lắm, lại cho Cao Biền thăng trật và sai trở sang cầm quân đánh Nam Chiếu.

Bọn Vương Án Quyền và Lư Duy Chu lười biếng không vây đánh ǵ cả, đến khi Cao Biền trở sang mới đốc quân binh đánh thành, giết được Đoàn Tù Thiên và người thổ làm hướng đạo là Chu Cổ Đạo. C̣n những động Mán Thổ ở các nơi xin về hàng rất nhiều.

Đất Giao Châu bị Nam Chiếu phá hại vừa 10 năm, đến bấy giờ Cao Biền lấy lại, đem về nội thuộc nhà Đường như cũ.

 

9. Công Việc Của Cao Biền.

Vua nhà Đường đổi An Nam làm Tĩnh Hải, phong cho Cao Biền làm Tiết Độ Sứ. Cao Biền chỉnh đốn mọi công việc, lập đồn ải ở mạn biên thùy để pḥng giữ giặc giă, làm sổ sưu thuế để chi dụng việc công20. Cao Biền trị dân có phép tắc cho nên ai cũng kính phục, bởi vậy mới gọi tôn lên là Cao Vương.

Cao Biền đắp lại thành Đại La ở bờ sông Tô Lịch. Thành ấy bốn mặt dài hơn 1982 trượng linh 5 thước, cao hai trượng linh 6 thước, đắp một đường đê bao bọc ở ngoài dài hơn 2125 trượng linh 8 thước, cao 1 trượng rưỡi, dày 2 thượng. Trong thành cho dân sự làm nhà hơn 40 vạn nóc (?).

Sử chép rằng Cao Biền dùng phép phù thủy khiến Thiên Lôi phá những thác ghềnh ở các sông để cho thuyền bè đi được. Thiên Lôi ấy có lẽ là Cao Biền dùng thuốc súng chăng?

Tục lại truyền rằng Cao Biền thấy bên Giao Châu ta lắm đất đai đế vương, thường cứ cỡi diều giấy đi yểm đất, phá những chỗ sơn thủy đẹp, và hại mất nhiều long mạch. Những chuyện ấy là chuyện ngoa ngôn, không có lẽ ǵ mà tin được.

Năm Ất Vị (875) vua nhà Đường sai Cao Biền sang làm Tiết Độ Sứ ở Tây Xuyên (Tứ Xuyên). Biền dâng người cháu họ là Cao Tầm làm Tiết Độ Sứ ở giao Châu.

Nhà Đường tuy lấy lại được đất Giao Châu nhưng bên Tàu lại sắp loạn, giặc cướp dần dần nổi lên, ngôi nhà vua cũng dần dần sắp đổ, nước Tàu lại chia rẽ làm mấy nước, cho nên ở xứ Giao Châu cũng có sự biến cải.

 

10. Sự Trị Loạn Của Nước Tàu.

Xét chuyện nước Tàu từ đời nhà Hán cho đến đời bấy giờ, cứ mỗi nhà lên cầm quyền chính trị được vài ba trăm năm, rồi trong nước lại biến loạn, Nam Bắc phân tranh độ chừng

Phàm sự trị loạn thay đổi trong một xă hội là thường lư, nhưng chỉ lạ có một điều mấy lần bên Tàu loạn cũng tương tự như nhau cả. Xem như khi nhà Hán suy, th́ nước Tàu phải loạn Tam Quốc; hết Tam Quốc th́ có nhà Tấn nhất thống. Đến khi nhà Tấn suy, th́ có Nam Bắc triều; hết Nam Bắc triều th́ có nhà Đường nhất thống. Nay th́ nhà Đường suy lại phải cái loạn Ngũ Quí. Cái cơ hội trị loạn bên Tàu giống nhau như thế là cũng có lẽ tại cái phong tục và cái xă hội của Tàu. Sự giáo dục không thay đổi, nhân quần trong nước không tiến bộ, cách tư tưởng không khai hóa, cho nên nước tuy lâu đời, mà tŕnh độ xă hội vẫn đứng nguyên một chỗ. Khi có biến loạn là chỉ có mấy người có quyền thế tranh cạnh với nhau, chứ dân trong nước hễ thấy bên nào mạnh là làm tôi bên ấy. Nhà Hán làm vua là dân nhà Hán, nhà Đường làm vua là dân nhà Đường, việc ǵ cũng đổ cho thiên mệnh, làm dân chỉ biết thuận thụ một bề mà thôi.

Xứ Giao Châu ḿnh tự đời nhà Hán cho đến đời Ngũ Quí vẫn là đất nội thuộc của Tàu, cho nên sự trị loạn bên Tàu cũng ảnh hưởng đến nước ḿnh. Nhờ khi bên Tàu loạn lạc, người Tàu bận việc nước, th́ bên Giao Châu cũng rục rịch tự lập được ba năm. Nhưng chỉ v́ nước th́ nhỏ, người th́ ít, mà người trong nước lại không biết đồng tâm với nhau, không hiểu các lẽ hợp quần đoàn thể là thế nào, cho nên không thành công được.

 

III. Đời Ngũ Quí ( 907 - 959 )

1. T́nh Thế Nước Tàu.

Năm Đinh Măo (907) nhà Đường mất ngôi, nhà Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu, tranh nhau làm vua. Mỗi nhà được mấy năm, gồm tất cả là 52 năm, gọi là đời Ngũ Quí hay là Ngũ Đại.

 

2. Họ Khúc Dấy Nghiệp. Khúc Thừa Dụ (906 - 907).

Trước khi nhà Đường sắp mất ngôi độ mấy năm, th́ bên Tàu loạn, giặc cướp nổi lên khắp cả mọi nơi. Uy quyền nhà vua không ra đến bên ngoài, thế lực ai mạnh th́ người ấy xưng đế, xưng vương. Ở Giao Châu, lúc bấy giờ có một người họ Khúc tên là Thừa Dụ, quê ở Hồng Châu (thuộc địa hạt Bàng Giang và Ninh Giang ở Hải Dương). Khúc Thừa Dụ vốn là một người hào phú trong xứ, mà tính lại khoan ḥa, hay thương người, cho nên có nhiều người kính phục. Năm Bính Dần (906) đời vua Chiêu Tuyên nhà Đường, nhân khi trong châu có loạn, chúng cử ông ấy lên làm Tiết Độ Sứ để cai trị Giao Châu. Nhà Đường lúc bấy giờ suy nhược, thế không ngăn cấm được, cũng thuận cho ông ấy làm Tĩnh Hải Tiết Độ Sứ và gia phong Đồng B́nh Chương Sự.

Năm sau nhà Đường mất ngôi, nhà Hậu Lương phong cho Lưu Ẩn làm Nam B́nh Vương, kiêm chức Tiết Độ Sứ Quảng Châu và Tĩnh Hải, có ư để lấy lại Giao Châu.

Khúc Thừa Dụ làm Tiết Độ Sứ được non một năm th́ mất, giao quyền lại cho con là Khúc Hạo.

 

3. Khúc Hạo ( 907 - 917 ).

Khúc Hạo lên thay cha làm Tiết Độ Sứ, lập ra lộ, phủ, châu, xă ở các nơi, đặt quan lại, sửa sang việc thuế má, việc sưu dịch và lại cho con là Khúc Thừa Mỹ sang sứ bên Quảng Châu, tiếng là kết hiếu với nhau, nhưng cốt để ḍ thăm mọi việc hư thực.

Lưu Ẩn ở Quảng Châu đóng phủ trị ở Phiên Ngung được 4 năm th́ mất. Em là Lưu Cung (trước gọi là Lưu Nham) lên thay. Được ít lâu nhân có việc bất b́nh với nhà Hậu Lương, Lưu Cung tự xưng đế, quốc hiệu là Đại Việt. Đến năm Đinh Sửu (947) cải quốc hiệu là Nam Hán.

 

4. Khúc Thừa Mỹ (917 - 923).

Năm Đinh Sửu (917) Khúc Hạo mất, truyền nghiệp lại cho con là Khúc Thừa Mỹ. Khúc Thừa Mỹ nhận chức Tiết Độ Sứ của nhà Lương, chứ không thần phục nhà Nam Hán. Vua nước Nam hán lấy sự ấy làm hiềm, đến năm Quí Mùi (923) sai tướng là Lư Khắc Chính đem quân sang đánh bắt được Khúc Thừa Mỹ, rồi sai Lư Tiến sang làm thứ sử cùng với Lư Khắc Chính giữ Giao Châu.

 

5. Dương Diên Nghệ và Kiểu Công Tiện (931 - 938).

Năm Tân Măo (931) Dương Diên Nghệ là tướng của Khúc Hạo ngày trước mới nổi lên, mộ quân đánh đuổi bọn Lư Khắc Chính và Lư Tiến đi, rồi tự xưng làm Tiết Độ Sứ. Được 6 năm, Dương Diên Nghệ bị người nha tướng là Kiểu Công Tiện giết đi mà cướp lấy quyền.

 

6. Ngô Quyền Phá Quân Nam Hán.

Khi ấy có người tướng của Dương Diên Nghệ là Ngô Quyền cử binh đi đánh Kiểu Công Tiện để báo thù cho chúa. Ngô Quyền là người làng Đường Lâm, cùng một làng với Phùng Hưng ngày trước (huyện Phú Thọ, tỉnh Sơn Tây) làm quan với Dương Diên Nghệ. Dương Diên Nghệ thấy người có tài trí mới gả con gái cho, và phong cho vào giữ Ái Châu (Thanh Hóa). Khi được tin Kiểu Công Tiện đă giết mất Dương Diên Nghệ, Ngô Quyền liền đem quân ra đánh.

Kiểu Công Tiện cho sang cầu cứu ở bên Nam Hán, Hán Chủ nhân dịp cho thái tử là Hoằng Tháo đưa quân đi trước, ḿnh tự dẫn quân đi tiếp ứng.

Khi quân Hoằng Tháo vào gần đến sông Bạch Đằng, th́ bên này Ngô Quyền đă giết được Kiểu Công Tiện (938), rồi một mặt truyền lệnh cho quân sĩ phải hết sức pḥng bị, một mặt sai người lấy gỗ cặp sắt nhọn, cắm ngầm ở dưới ḷng sông Bạch Đằng, xong rồi chờ đến lúc nước thủy triều lên, cho quân ra khiêu chiến; quân Nam Hán đuổi theo, đến lúc nước xuống, Ngô Quyền hồi quân đánh ập lại, quân Nam Hán thua chạy, bao nhiêu thuyền mắc vào cộc gỗ thủng nát mất cả, người chết quá nửa, Hoằng Tháo bị Ngô Quyền bắt được, đem về giết đi.

Hán Chủ nghe tin ấy, khóc ̣a lên, rồi đem quân về Phiên Ngung, không dám sang quấy nhiểu nữa.

Ngô Quyền trong th́ giết được nghịch thần, báo thù cho chủ, ngoài th́ phá được cường địch, bảo toàn cho nước, thật là một người trung nghĩa lưu danh thiên cổ, mà cũng nhờ có tay Ngô Quyền, nước Nam ta mới cởi được ách Bắc thuộc hơn một ngh́n năm, và mở đường cho Đinh, Lê, Lư, Trần, về sau này được tự chủ ở cơi Nam vậy.

 

{18 Nhà Đường lúc đó chia nhiều tỉnh bên Tàu ra làm Đô Hộ Phủ như Tứ Xuyên Đô Hộ Phủ, An Nam Đô Hộ Phủ, v.v.... Vậy Đô Hộ là một chức quan chứ không phải là một chính thể cai trị các thuộc địa như ta hiểu bây giờ. }

{19 Đến đời Ngũ Quư vào quăng nhà Hậu Tấn có người tên là Đoàn Tư B́nh lên làm vua đổi quốc hiệu là Đại Lư, truyền đến đời Hồng Vơ (1368-1392) nhà Minh mới mất. Nhà Minh đặt là Đại Lư Phủ, thuộc về tỉnh Vân Nam. }

{20 Có người bảo rằng người Việt Nam ta phải đóng sưu thuế khởi đầu từ Cao Biền. năm bảy mươi năm, khi ấy có một nhà đứng lên dẹp loạn yên nước, lập lên cơ nghiệp một nhà khác. }

 

CHƯƠNG VI

Kết Quả Của Thời Bắc Thuộc

 

1. Người Nước Nam Nhiễm Văn Minh Của Tàu

2. Nho Giáo

3. Đạo Giáo

4. Phật Giáo

5. Sự Tiến Hóa Của Người Nước Nam

 

1. Người Nước Nam Nhiễm Văn Minh Của Tàu.

Từ khi vua Vũ Đế nhà Hán sai Lộ Bát Đức sang đánh lấy Nam Việt cho đến đời Ngũ Quí, ông Ngô Quyền đánh đuổi người Tàu về bắc, tính vừa tṛn 1.050 năm.

Xứ Giao Châu ta bị người Tàu sang cai trị bấy lâu năm th́ chắc là sự sinh hoạt của người bản xứ cũng bị thay đổi một cách khác hẳn với trước. Khi đất Giao Châu c̣n gọi là Văn Lang hay là Âu Lạc th́ người bản xứ ăn ở thế nào, phong tục làm sao, nay cũng không có di tích ǵ mà kê cứu rạch rơ được. Có lẽ cũng tự hồ như Mường hay là Mán ở mạn thượng du đất Bắc Việt bây giờ. Giả sử? có đem vua Hùng Vương họ Hồng Bàng và vua An Dương Vương họ Thục mà sánh với mấy người Quan Lang ở mạn thượng du th́ dễ thường cũng không xa sự thực là mấy. Nhưng đây là một điều nói phỏng mà thôi, chứ lấy ǵ làm đích xác?

Vả lại, khi người một xă hội đă văn minh như người Tàu mà đi mở đất chưa khai như đất Giao Châu lúc bấy giờ, th́ e rằng người Tàu chiếm giữ lấy chỗ b́nh địa rồi tụ họp với nhau mà làm ăn, c̣n những người bản xứ th́ hoặc là lẫn với kẻ khỏe hơn ḿnh, hoặc giết hại đi, hoặc vào ở trong rừng trong núi rồi chết ṃn chết mỏi đi. Kể như thế th́ người ḿnh bây giờ cũng không xa người Tàu là bao nhiêu.

Dẫu thế nào mặc ḷng, hết đời Bắc Thuộc rồi th́ người Giao Châu ta có một cái nghị lực riêng và cái tính chất riêng để độc lập, chứ không chịu lẫn với nước Tàu. Duy chỉ có sự sùng tính, sự học vấn, cách cai trị th́ bao giờ ḿnh cũng chịu cái ảnh hưởng của Tàu.

Nguyên nước Tàu từ đời Tam Đại đă văn minh lắm, mà nhất là về đời nhà Chu th́ cái học thuật lại càng rực rỡ lắm. Những học phái lớn như là Nho Giáo và Lăo Giáo đều khởi đầu từ đời ấy. Về sau đến đời nhà Hán, nhà Đường, những học phái ấy thịnh lên, lại có Phật Giáo ở Ấn Độ truyền sang, rồi cả ba đạo cùng truyền bá đi khắp cả mọi nơi trong nước. Từ đó trở về sau nước Tàu và những nước chịu ảnh hưởng của Tàu đều theo tông chỉ của những đạo ấy mà lập ra sự sùng tín, luân lư và phong tục tương tự như nhau cả. Vậy ta xét qua xem những học phái ấy gốc tích từ đâu, và cái tông chỉ của những học phái ấy ta thế nào.

 

2. Nho Giáo.

Nho giáo sinh ra từ đức Khổng Tử. Ngài húy là Khâu, tên chữ là Trọng Ni, sinh ở nước Lỗ (thuộc tỉnh Sơn Đông) vào năm 551 trước Tây Lịch, về đời vua Linh Vương nhà Chu.

Ngài sinh ra vào đời Xuân Thu, có Ngũ Bá tranh cường, dân t́nh khổ sở, phong tục bại hoại. Ngài muốn lấy đạo luân thường mà dạy người ta cách ăn ở với nhau trong đời. Ngài đi du lịch trong mấy nước chư hầu, hết nước nọ qua đến nước kia, môn đệ theo ngài cũng nhiều. Đến lúc già, ngài trở về nước Lỗ, soạn kinh Thi, kinh Thư, kinh Dịch, định kinh Lễ, kinh Nhạc và làm ra kinh Xuân Thu, rồi đến năm 479 trước Tây Lịch về đời vua Kính Vương nhà Chu th́ Ngài mất, thọ được 72 tuổi.

Ngài chỉ cốt lấy những điều hợp với bản tính của loài người mà dạy người, chứ không dạy những điều u uẩn huyền diệu khác với đạo thường. Ngài nói rằng: "Đạo bất viễn, nhân chi vi đạo nhu viễn nhân, bất khả dĩ vi đạo". Nghĩa là: đạo không xa cái bản tính người ta, hễ v́ đạo mà xa cái bản tính ấy th́ đạo ấy không phải là đạo. Bởi vậy cái tông chỉ của Ngài là chủ lấy Hiếu, Đễ, Trung, Thứ làm gốc, và lấy sự sửa ḿnh làm cốt mà dạy người. ngài chỉ dạy người về sự thực tế hiện tại, chứ những điều viễn vông ngoài những sự sinh hoạt ở trần thế ra th́ Ngài không bàn đến. Nói đến sự sống chết th́ Ngài bảo rằng: "Vị tri sinh, yên tri tử", chưa biết được việc sống, sao đă biết được việc chết. Nói đến việc quỉ thần th́ ngài bảo rằng: "Quỉ thần kính nhi viễn chi", quỉ thần th́ nên kính, mà không nên nói đến.

Tổng chi, đạo Ngài th́ có nhiều lư tưởng cao siêu (xem sách Nho Giáo)21 nhưng về đường thực tế th́ chú trọng ở luân thường đạo lư. Cái đạo luân lư của Ngài có thể truyền cho muôn đời về sau không bao giờ vượt qua được. Đối với mọi người th́ Ngài dạy: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân", điều ǵ ḿnh không muốn người ta làm cho ḿnh, th́ ḿnh đừng làm cho ai". Đối với việc bổn phận của ḿnh th́ ngài dạy: "Quân tử động nhi thế vi thiên hạ đạo, hành nhi thế vi thiên hạ pháp, ngôn nhi thế vi thiên hạ tắc, viễn chi tắc vọng, cận chi tắc bất yếm", người quân tử cử động việc ǵ là để làm đạo cho thiên hạ, nói năng điều ǵ là để làm mực cho thiên hạ; người ở xa th́ muốn lại gần, người ở gần th́ không bao giờ chán22.

Đạo của Khổng Tử truyền cho thầy Tăng Sâm; Tăng Sâm truyền cho Khổng Cấp; Khổng Cấp truyền cho thầy Mạnh Kha tức là thầy Mạnh Tử.

Thầy Mạnh Tử là một nhà đại hiền triết nước Tàu, làm sách Mạnh Tử, bàn sự trọng nhân nghĩa, khinh công lợi, và cho tính người ta vốn lành, ai cũng có thể nên được Nghiêu, Thuấn cả.

Đến đời nhà Tần, vua Thỉ Hoàng giết những người Nho học, đốt cả sách vở, đạo Nho phải một lúc gian nan. Đến đời vua Cao Tổ nhà Hán lại tôn kính đạo Nho, sai làm lễ thái lao tế đức Khổng Tử. Đến đời vua Vũ Đế nhà Hán lại đặt quan bác sĩ để dạy năm kinh. Từ đấy trở đi, đạo Nho mỗi ngày một thịnh, dẫu trong nước có đạo Lăo, đạo Phật mặc ḷng, bao giờ đạo nho vẫn trọng hơn.

 

3. Đạo Giáo.

Đạo giáo là bởi đạo của ông Lăo Tử mà thành ra. Lăo Tử là người nước Sở (thuộc tỉnh Hồ Bắc) họ là Lư, tên là Đam, sinh vào năm 604 trước Tây Lịch về đời vua Định Vương nhà Chu, sống được 81 tuổi, đến năm 523 trước Tây Lịch, vào đời vua Cảnh Vương nhà Chu th́ mất.

Tông chỉ của Lăo Tử là trước khi có trời đất, th́ chỉ có Đạo. Đạo là bản thể của vũ trụ, là cái gốc nguyên thỉ của các sự tạo hóa. Vạn vật đều bởi Đạo mà sinh ra. Vậy sửa ḿnh và trị nước nên phải theo Đạo, nghĩ là người ta nên điềm tĩnh, vô vi, cứ tự nhiên, chứ không nên dùng trí lực mà làm ǵ cả.

Lăo Tử soạn ra sách Đạo Đức Kinh, rồi sau có Văn Tử, Thi Tử, Trang Tử, và Liệt Tử noi theo mà truyền bá cái tông chỉ ấy.

Đạo của Lăo Tử lúc đầu là một môn triết học rất cao siêu nhưng về sau cái học thuyết biến đổi đi, rồi những người giảng thuật thần tiên cũng phụ theo đạo ấy mà nói những chuyện số kiếp và những sự tu luyện để được phép trường sinh bất tử v. v... Bởi vậy đạo Lăo mới thành ra Đạo giáo là một đạo thần tiên, phù thủy, và những người theo Đạo giáo gọi là đạo sĩ.

Nguyên từ đời vua Thỉ Hoàng nhà Tần và vua Vũ Đế nhà Hán, người Tàu đă tin sự thần tiên, sau đến cuối đời nhà Đông Hán có Trương Đạo Lăng soạn ra 24 thiên Đạo Kinh giảng cái thuật trường sinh. Bọn giặc Hoàng Cân Trương Giác chính là học tṛ của Trương Đạo Lăng. Đến đời nhà Đông Tấn lại có Cát Hồng nói rằng được tiên thuật rồi làm sách dạy những thuật ấy. Từ đấy về sau Đạo giáo thịnh dần lên, tôn Lăo Tử làm Thái Thượng Lăo Quân.

Đời vua Cao Tổ nhà Đường có người nói rằng thấy Lăo tử hiện ra ở núi Dương Giác Sơn xưng là tổ nhà Đường23. Vua Cao Tổ đến tế ở miếu Lăo Tử và tôn lên là Thái Thượng Huyền Nguyên Hoàng Đế. Bởi vậy nhà Đường trọng đạo Lăo Tử lắm, bắt con cháu phải học Đạo Đức Kinh.

Tuy đạo Lăo về sau thịnh hành ở nước Tàu, nhưng cũng không bằng đạo Phật. Đạo Phật là một đạo ở Ấn Độ đem vào nước Tàu, và lại là một tôn giáo rất lớn ở thế gian này.

 

4. Phật Giáo.

Tị tổ đạo Phật là đức Thích Ca Mâu Ni. Không biết rơ ngài sinh vào đời nào. Cứ ư kiến của đạo phái ở về phía Bắc đất Ấn Độ th́ cho là ngài sinh về năm 1028 trước Tây Lịch kỷ nguyên, vào đời vua Chiêu Vương nhà Chu. C̣n đạo phái ở phía Nam th́ cho vào năm 624. Những nhà bác học thời bây giờ cho ngài sinh vào năm 558 hay là 520, cùng với Khổng Tử một thời.

Đức Thích Ca là con một nhà quí tộc đất Ấn Độ. Ngài đă lấy vợ, có con, nhưng v́ thấy người ta ở trần thế này không ai khỏi được những khổ năo như sinh, lăo, bệnh, tử, cho nên ngài bỏ cả vợ con mà đi tu, để cầu phép giải thoát. Vậy đạo Phật cốt có hai chủ ư: một là đời là cuộc khổ năo; hai là sự thoát khỏi khổ năo.

Người ta gặp phải những sự khổ năo như thế là tại ḿnh cứ mắc trong ṿng luân hồi măi. Vậy muốn cho khỏi sự khổ năo th́ phải ra ngoài luân hồi mới được; mà ra ngoài luân hồi th́ phải cắt cho đứt những cái nhân duyên nó trói buộc ḿnh ở trần gian này. Ra được ngoài Luân Hồi th́ lên đến cơi Nát Bàn (nirvana) tức là thành Phật, bất sinh, bất tuyệt.

Nguyên đạo Phật là do ở đạo Bà La Môn (Brahmane) mà ra, nhưng tông chỉ đạo Phật không giống đạo Bà La Môn cho nên hai đạo chống nhau măi, thành ra đến ba bốn trăm năm sau, khi đức Thích Ca mất rồi, đạo Phật mới phát đạt ra ở Ấn Độ.

Đạo Phật sang nước Tàu kể từ nhà Tây Hán. Đời vua Hán Vũ Đế (140 - 86) quân nhà Hán đi đánh Hung Nô đă lấy được tượng Kim Nhân và biết rằng người Hung Nô có thói đốt hương thờ Phật24. Đời vua Ai Đế năm Nguyên thọ nguyên niên, là lịch tây năm thứ 2, vua nhà Hán sai Tần Cảnh Hiến sang sứ rợ Nhục Chi có học khẩu truyền được kinh nhà Phật.

Đến đời vua Minh Đế nhà Đông Hán, có Ban Siêu đi sứ các nước ở Tây Vực biết đạo Phật thịnh hành ở phương Tây. Vua bèn sai Thái Am đi sang Thiên Trúc lấy được 42 chương kinh và rước thầy tăng về dạy đạo Phật. Bấy giờ nhân có con bạch mă đem kinh về, cho nên nhà vua mới lập chùa Bạch Mă để thờ Phật ở đất Lạc Dương.

Từ đó đạo Phật cứ dần dần truyền bá ra khắc nước Tàu, nhưng chỉ có người Ấn Độ sang dạy đạo Phật mà thôi, măi đến đời Tam Quốc mới có người Tàu đi làm thầy tăng. Về sau người Tàu sang Ấn Độ lấy kinh đem về giảng dạy cũng nhiều.

Đời vua An Đế nhà Đông Tấn (402) đất Trường An có ông Pháp Hiển đi chơi hằng 30 nước ở xứ Ấn Độ, qua đảo Tích Lan (Ceylan) rồi theo đường hải đạo về Tàu, đem kinh nhà Phật dịch ra chữ Tàu và làm sách Phật Quốc Kư.

Đến đời Nam Bắc Triều, vua Hiến Minh nhà Ngụy sai tăng là Huệ Sinh và Tống Vân sang Tây Vực lấy được hơn 170 bộ kinh đem về. Từ đó đạo Phật rất thịnh, kinh điển có đến 450 bộ, chùa chiền được hơn 3 vạn, tăng ni có đến 2 triệu người.

Đời vua Thái Tông nhà Đường (630), có ông Huyền Trang (tục gọi là Đường Tăng hay Đường Tam Tạng) đi sang Ấn Độ ở hơn 10 năm lấy được 650 bộ kinh nhà Phật. Đến đời vua Cao Tông (672) ông Nghĩa Tĩnh lại sang Ấn Độ lấy được 400 bộ kinh nhà Phật nữa.

Từ đời nhà Đường trở đi, th́ ở bên Tàu đạo Phật càng ngày càng thịnh, mà người đi lấy kinh cũng nhiều.

 

5. Sự Tiến Hóa Của Người Nước Nam.

Khi những đạo Nho, đạo Khổng, đạo Phật phát đạt bên Tàu, th́ đất Giao Châu ta c̣n thuộc về nước Tàu, cho nên người ḿnh cũng theo những đạo ấy. Về sau nước ḿnh đă tự chủ rồi, những đạo ấy lại càng thịnh thêm, như là đạo Phật th́ thịnh về đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê, và nhà Lư, mà đạo Nho th́ thịnh từ đời nhà Trần trở đi.

Phàm phong tục và chính trị là do sự học thuật và tông giáo mà ra. Mà người ḿnh đă theo học thật và tông giáo của Tàu th́ điều ǵ ta cũng noi theo Tàu hết cả. Nhưng xét ra th́ điều ǵ ḿnh cũng thua kém Tàu, mà tự người ḿnh không thấy có t́m kiếm và bày đặt ra được cái ǵ cho xuất sắc, gọi là có cái tinh thần riêng của ṇi giống ḿnh, là tại làm sao?

Có lẽ một là tại địa thế nước Nam ta, hai là cách ăn ở của người ḿnh.

Phàm sự tiến hóa của một xă hội cũng như công việc của người làm, phải có cái ǵ đó nó đun đẩy ḿnh, nó bắt phải cố sức mà tiến hóa th́ mới tiến hóa được. Sự đun đẩy ấy là sự cần dùng và sự đua tranh. Nếu không có cần dùng th́ không có cố gắng, không cố gắng th́ không tiến hóa. Nếu không có đua tranh th́ không có t́m kiếm, không t́m t́m kiếm th́ không tài giỏi, sự lư tất nhiên là vậy.

Xem như nước Nam ta, th́ hai cái yếu điểm ấy đều kém cả. Người ḿnh ở về xứ nóng nực, cách ăn mặc giản dị, đơn sơ, không phải cần lao lo nghĩ cũng đủ sống, cho nên ai cũng thích nhàn lạc, quí hồ khỏi chết th́ thôi, chứ không ai muốn lao tâm lao lực lắm như những người ở nước văn minh khác. Tính người ḿnh như thế, th́ hễ ai nói cái ǵ, ḿnh chỉ bắt chước được mà thôi, chứ không phát khởi bày đặt ra được điều ǵ nữa.

C̣n như sự đua tranh, phải có nhiều người, nhiều nước th́ mới đua tranh được. Nhưng nước ta ở phía Đông th́ có bể, ở phía Tây, phía Nam th́ những người Mường, người Lào là những người văn minh kém ḿnh cả, c̣n ở phía Bắc có nước Tàu là hơn ḿnh, nhưng Tàu lại to quá, sự giao thông với ḿnh th́ cách trở sơn xuyên, đường sá khó khăn không tiện, chỉ có quan tư thỉnh thoảng đi lại mà thôi, chứ dân trong nước không mấy khi ra đến ngoài bờ cơi nước nhà. Người mà cả đời không đi đến đâu, mắt không trông thấy cái hay cái dở của người, th́ tiến hóa làm sao được? mà sự học của ḿnh th́ ai cũng yên trí rằng cái ǵ đă học của Tàu là hay, là tốt hơn cả: từ sự tư tưởng cho chí công việc làm, điều ǵ ḿnh cũng lấy Tàu làm gương. Hễ ai bắt chước được Tàu là giỏi, không bắt chước được là dở. Cách ḿnh sùng mộ văn minh của Tàu như thế, cho nên không chịu so sánh cái hơn cái kém, không t́m cách phát minh những điều hay tốt ra, chỉ đinh rằng người ta hơn ḿnh, ḿnh chỉ bắt chước người ta là đủ.

Địa thế nước ḿnh như thế, tính chất và sự học vấn của người ḿnh như thế, th́ cái tŕnh độ tiến hóa của ḿnh tất là phải chậm chạp và việc ǵ cũng phải thua kém người ta vậy.

 

{21 Nho Giáo - Trung Tâm Học Liệu xuất bản trọn bộ 2 quyển. }

{22 Sánh với lời của Khang Đức tiên sinh là một nhà đại triết học ở phương Âu: "Agis de telle que la maxime de ton vouloir puisse être acceptée comme règle universelle", ăn ở thế nào cho bao nhiêu những việc ḿnh làm có thể làm cái công lệ cho thiên hạ. }

{23 Lăo Tử và vua nhà Đường cùng họ Lư. }

{24 Tục lệ đốt hương mà thờ cúng khởi đầu từ đó. }

 

 

PHẦN III

Tự Chủ Thời-Đại

( Thời Kỳ Thống Nhất )

 

CHƯƠNG I

NHÀ NGÔ

( 939-965 )

1. Tiền Ngô-Vương

2. Dương Tam Kha

3. Hậu Ngô-Vương

4. Thập-Nhị Sứ-Quân

 

1. TIỀN NGÔ VƯƠNG (939-965)

Năm kỹ-hợi (939) Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa (thuộc huyện Đông-anh, tỉnh Phúc-yên). Ngô-vương đặt quan chức, chế triều-nghi, định phục-sắc và chỉnh đốn việc chính-trị trong nước, chí muốn dựng nghiệp lâu dài, nhưng chỉ làm vua được có 6 năm, đến năm Giáp Th́n (944) th́ mất, thọ 47 tuổi.

2. DƯƠNG TAM KHA (945-950).

Ngô-vương trước lấy con Dương diên Nghệ là Dương-thị lập làm vương-hậu; đến lúc mất, vương uỷ- thác con là Ngô xương Ngập cho Dương tam Kha là em Dương-hậu. Dương tam Kha bèn cướp lấy quyền của cháu, tự xưng là B́nh-vương.

Ngô xương Ngập thấy biến, chạy trốn sang Nam-sách (thuộc Hải- dương) vào ẩn ở nhà Phạm Lịnh-công ở Trà-hương (huyện Kim-thành). Tam Kha sai quân đi đuổi bắt. Phạm Lịnh-công đem vào dấu trong núi. Dương tam Kha bắt em Ngô xương Ngập là Ngô vương Văn nuôi làm con nuôi.

Năm Canh-Tuất (905) có dân ở tại thôn Thái-b́nh (thuộc Sơn-tây) làm loạn. Dương tam Kha sai Ngô xương Văn cùng với tướng là Dương cát Lợi và Đỗ cảnh Thạc đem quân đi đánh. Đi đến Từ-liêm, Ngô xương Văn mưu với hai tướng đem quân trở về bắt Dương tam Kha.

 

Ngô xương Văn nghĩ t́nh cậu cháu không nỡ giết, chỉ giáng xuống làm Trương Dương-công.

3. HẬU NGÔ VƯƠNG (950-965)

Ngô vương Văn bỏ Dương tam Kha đi rồi, xưng là Nam-tấn-vương và sai người đi đến làng Trà-hương rước anh là Ngô xương Ngập về cùng coi việc nước. Ngô xương Ngập về xưng là Thiên-sách-vương. Cả hai anh em làm vua, sử gọi là Hậu Ngô-vương.

Làm vua được ít lâu, Thiên-sách vương đă toan giữ lấy quyền một ḿnh, nhưng đến năm giáp-dần (965) th́ mất.

Thế lực nhà Ngô lúc bấy giờ mỗi ngày một kém, giặc-giă nổi lên khắp cả mọi nơi. Nam tấn-vương phải thân chinh đi đánh dẹp. Khi đi đánh giặc ở hai thôn Thái-b́nh, không may bị tên bắn chết. Bấy giờ là năm Ất-Sửu (965), Nam-tấn-vương làm vua được 15 năm.

4. THẬP NHỊ SỨ QUÂN (945-967)

Từ khi Dương tam Kha tiếm-vị rồi, những người thổ-hào ở các nơi như bọn Trần Lăm, Kiểu công Hăn v.v... đều xướng lên độc lập, xưng là Sứ-quân. Về sau Nam-tấn-vương đă khôi phục được nghiệp cũ, nhưng mà các sứ-quân vẫn không chịu về thần-phục. Bởi vậy nhà vua cứ phải đi đánh dẹp măi, mà không yên được. Đến khi Nam-tấn-vương bị giặc bắn chết, th́ con Thiên-sách-vương là Ngô xương Xí lên nối nghiệp, nhưng thế nhà vua lúc ấy suy-nhược lắm, không ai phục-tùng nữa. Ngô xương Xí về đóng giữ đất B́nh-kiều. Tướng nhà Ngô là Đỗ cảnh-Thạc cũng giữ một chỗ xưng là Sứ-quân.

Lúc bấy giờ trong nước có cả thảy 12 Sứ-quân, gây ra cảnh nội loạn kéo dài đến hơn 20 năm. Mười hai Sứ-quân là :

1. Ngô xương Xí giữ B́nh-kiều (nay là làng B́nh-kiều, phủ Khoái-châu, Hưng-yên)

2. Đỗ cảnh Thạc giữ Đỗ-động -giang (thuộc huyện Thanh-oai).

3. Trần Lăm, xưng là Trần Minh-công giữ Bố-hải-khẩu (Kỳ-bố, tỉnh Thái-b́nh).

4. Kiểu công Hăn, xưng là Kiểu Tam-chế giữ Phong-châu (huyện Bạch-hạc).

5. Nguyễn Khoan, xưng là Nguyễn Thái-b́nh giữ Tam-đái (phủ Vĩnh Tường).

6. Ngô nhật Khánh, xưng là Ngô Lăm-công giữ Đường-lâm (Phúc-thọ, Sơn-tây).

7. Lư Khuê, xưng là Lư Lang-công giữ Siêu-loại (Thuận-thành).

8. Nguyễn thủ Tiệp, xưng là Nguyễn Lịnh-công giữ Tiên-du (Bắc-ninh).

9. Lữ Đường, xưng là Lữ Tá-công giữ Tế-giang (Văn-giang, Bắc-ninh).

10. Nguyễn Siêu, xưng là Nguyễn Hữu-công giữ Tây-phù-liệt (Thanh-tŕ, Hà-đông).

11. Kiểu Thuận, xưng là Kiểu Lịnh-công giữ Hồi-hồ (Cẩm-khê, Sơn-tây).

12. Phạm bạch Hổ, xưng là Phạm Pḥng át giữ Đằng-châu (Hưng-yên).

 

Những Sứ-quân ấy cứ đánh lẫn nhau, làm cho dân-gian khổ-sở. Sau nhờ có ông Đinh bộ Lĩnh ở Hoa-lư đem quân đi đánh, mới dẹp xong cái loạn sứ-quân, đem giang-sơn lại làm một mối,và lập nên cơ nghiệp nhà Đinh vậy.

 

CHƯƠNG II

NHÀ ĐINH

( 968-980 )

1. Đinh Tiên-hoàng

2. Đinh Phế-đế

1. ĐINH TIÊN-HOÀNG (968-979)

Đinh bộ Lĩnh25 là người ở Hoa-lư động (huyện Gia-viễn, tỉnh Ninh-b́nh), con ông Đinh công Trứ làm thứ-sử ở Hoan-châu về đời Dương diên Nghệ và đời Ngô-vương Quyền. Đinh công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, thường đi chơi với trẽ chăn trâu-ḅ, bắt chúng khoanh tay làm kiệu để nghồi cho chúng rước, và lại lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau. Trẽ xứ ấy đứa nào cũng sợ, tôn lên làm anh. Đến lúc khôn-lớn lên, dân làng ở đấy theo phục rất nhiều, nhưng sau v́ không ḥa với chú, cho nên Bộ Lĩnh cùng với con là Liễn sang ở với Sứ-quân Trần Minh-công ở Bố-hải khẩu (Phủ Kiến-xương, Thái-b́nh).

Trần Minh-công thấy người khôi-ngô có chí-khí, đem ḷng yêu mến, cho được giữ binh-quyền. Đến khi Trần Minh-công mất, Đinh bộ Lĩnh đem quân về giữ Hoa-lư, chiêu mộ những người hào-kiệt, hùng cứ một phương. Năm tân-hợi (951) đời Hậu Ngô-vương, Nam Tấn-vương và Thiên-sách- vương đă đem quân vào đánh không được. Đến khi nhà Ngô mất rồi, Đinh bộ Lĩnh hàng được Sứ-quân Phạm Pḥng-át, phá được Đỗ-dộng của Đỗ cảnh Thạc. Từ đó đánh đâu được đấy, cho nên chúng tôn là Vạn-thắng-vương. Chỉ trong một năm mà vương binh được các Sứ-quân và lập thành nghiệp đế.

Năm mậu-th́n (968) Vạn-thắng-vương lên ngôi Hoàng-đế, tức là Tiên-hoàng-đế, đặt quốc-hiệu là Đại-cồ-việt, đóng đô ở Hoa-lự Tiên-hoàng xây cung-điện, chế triều-nghi, định phẩm-hàm quan văn quan vơ, phong cho Nguyễn Bặc làm Định quốc công, Lê Hoàn làm Thập-đạo tướng-quân, và phong cho con là Đinh Liễn làm Nam-việt-vương.

Năm canh-ngọ (970) Tiên-hoàng đặt niên-hiệu là Thái-b́nh nguyên-niên, và đặt năm ngôi Hoàng-hậu.

Trong khi vua Đinh Tiên-hoàng dẹp loạn Sứ-quân ở nước ta, th́ ở bên Tàu ông Triệu khuông Dẫn nối nghiệp nhà Hậu-Chu tức là vua Thái-tổ nhà Tống. Đến năm canh-ngọ (970) vua Thái-tổ nhà Tống sai tướng là Phan Mỹ sang đánh lấy Nam-Hán. Vua Tiên-hoàng sợ quân nhà Tống sang đánh, bèn sai sứ sang thông hiếu với Tống-triều.

Năm nhâm-thân (972) Tiên-hoàng lại sai Nam-việt-vương là Liễn đem đồ phương vật sang cống nhà Tống. Vua nhà Tống sai sứ sang phong cho Tiên-hoàng làm Giao-chỉ quận vương và phong cho Nam-việt-vương Liễn làm Tĩnh-hải-quân Tiết-độ-sứ, An-nam đô-hộ. Từ đó nước ta cứ giữ lệ sang triều cống nước Tàu.

Việc chính trị trong nước th́ lúc bấy giờ c̣n có nhiều người quen thói lúc loạn, không chịu tuân theo luật-lệ. Tiên-hoàng phải dùng oai để trừng-trị những bọn gian-ác: đặt vạc dầu ở trước điện, nuôi hổ báo ở trong vườn, rồi hạ lệnh rằng hễ ai phạm tội th́ bỏ vạc dầu hay là cho hổ báo ăn. H́nh-luật uy-nghiêm như thế, th́ cũng quá lắm, nhưng nhờ có những h́nh-luật ấy th́ dân trong nước mới dần dần được yên.

Việc binh-lính th́ Tiên-hoàng phân ra đạo, quân, lữ, tốt, ngũ. Mỗi một đạo có 10 quân; 1 quân 10 lữ; 1 lữ 10 tốt; 1 tốt 10 ngũ; 1 ngũ 10 người.

Vậy một đạo là 100.000 người, và cứ số ấy mà tính th́ nhà Đinh bấy giờ có 10 đạo, là 1.000.000 người.

Thiết tưởng nước ta bấy giờ đất th́ nhỏ, người th́ ít, lấy đâu làm một triệu quân được, và lấy cơm gạo đâu mà nuôi được bấy nhiêu người. Họa chăng Tiên-hoàng có được độ 10 vạn người đă là nhiều.

Tiên-hoàng bỏ trưởng lập âú, cho đứa con út là Hạng Lang làm Thái-tử. Con trưởng là Nam-việt-vương Liễn đă theo Tiên-hoàng đi trận-mạc từ thủa hàn-vi, nay không được ngôi Thái-tử, lấy sự ấy làm tức-giận bèn khiến người giết Hạng Lang đi. Ấy là gây nên mối loạn ở trong nhà.

Năm kỹ-măo (979) vua Tiên-hoàng và Nam-việt-vương Liễn bị tên Đỗ Thích giết chết. Sử chép rằng tên Đỗ Thích trước làm lại, đêm nằm thấy sao rơi vào mồm, tưởng là triệu ḿnh được làm vua, bèn định bụng làm sự thí- đoạt. Một hôm Đỗ Thích thấy Tiên-hoàng say rượu nằm trong cung, bèn lẻn vào giết Tiên-hoàng đi, rồi giết cả Nam-việt-vương Liễn.

Đ́nh-thần t́m bắt được Đỗ Thích đem làm tội, và tôn Vệ-vương Đinh Tuệ lên làm vua.

Tiên-hoàng làm vua được 12 năm, thọ được 56 tuổi.

2. PHẾ ĐẾ (979-980).

Vệ-vương mới có 6 tuổi lên làm vua, quyền- chính ở cả Thập-đạo tướng-quân là Lê Hoàn. Lê Hoàn lại cùng với Dương Thái-hậu tư thông.

Các quan đại-thần bấy giờ là bọn Đinh Điền, Nguyễn Bặc thấy Lê Hoàn nhiếp chính lộng quyền quá, mới cử binh-mă đến đánh, nhưng bị Lê Hoàn giết cả.

Lúc bấy giờ nhà Tống nghe tin Tiên-hoàng đă mất, tự-quân c̣n dại, muốn thừa thế sang lấy nước ta, mới hội đại binh ở gần biên-giới.

Bên ta được tin quân Tàu sắp sang, Lê Hoàn sai Phạm cự Lượng làm đại-tướng đem binh đi chống giữ. Trước khi khởi hành, Phạm cự Lượng họp cả quân-sĩ lại ở trong điện, rồi nói rằng: "Bây giờ quân nghịch sắp vào cơi, mà vua th́ c̣n bé, lấy ai mà thưởng phạt cho chúng ḿnh. Dẫu chúng ḿnh có hết sức lập được chút công nào, th́ rồi ai biết cho? Chi bằng nay ta tôn Thập-đạo tướng-quân lên làm vua rồi ra đánh th́ hơn"26.

 

Quân-sĩ nghe nói đều hô vạn-tuế. Thái-hậu thấy quân-sĩ thuận cả, mới sai lấy áo long-cổn mặc vào cho Lê Hoàn.

Lê Hoàn lên làm vua , giáng Đinh Tuệ xuống làm Vệ-vương, sử gọi là Phế-đế.

Nhà Đinh làm vua được 2 đời, cả thảy là 14 năm.

{25 Có sách chép rằng Đinh Tiên Hoàng tên là Hoàn, chứ không phải là Bộ Lĩnh. Bộ Lĩnh là một tước quan của Trần Lăm phong cho Đinh Hoàn. Nhưng xét trong "Khâm Định Việt Sử" và cách sách khác th́ thấy chép Đinh Bộ Lĩnh chớ không thấy Đinh Hoàn. Vậy nay cứ theo sách Khâm Định mà chép. }

{26 Xem sử Tàu, nhà Tống lấy ngôi nhà Hậu-Chu cũng giống như bên ta nhà Tiền-Lê lấy ngôi nhà Đinh. Nhà làm sử có chép lẫn nhau không? }

CHƯƠNG III

NHÀ TIỀN LÊ

( 980-1009 )

1. Lê Đại-Hành

2. Phá quân nhà Tống

3. Đánh Chiêm-thành

4. Việc đánh-dẹp và sửa sang trong nước

5. Lê Trung-Tông

6. Lê long Đĩnh

 

1. Lê Đại Hành (980-1005)

Lê Hoàn là người làng Bảo-thái, huyện Thanh-liêm, tỉnh Hà-nam bây giờ, làm quan Thập-đạo tướng-quân nhà Đinh. Nhân khi vua nhà Đinh c̣n trẻ tuổi, và lại có quân nhà Tống sang xâm, quân-sĩ tôn Lê Hoàn lên làm vua, tức là Đại-hành Hoàng-đế, niên-hiệu là Thiên-phúc, Hưng-thống (989-993), và Ứng-thiên (994-1005).

Vua Đại-hành lên làm vua rồi sai sứ đưa thư sang nhà Tống nói dối là thư của Đinh Tuệ (Phế-đế) xin phong, có ư để nhà Tống hoăn binh lại. Nhưng vua nhà Tống không nghe, sai sứ sang trách Đại-hành rằng sao được xưng đế, và lại nói rằng : "Nhà Đinh truyền tập đă ba đời rồi, vậy cho Đinh Tuệ làm Thống-soái, Lê Hoàn làm phó. Nhược bằng Đinh Tuệ c̣n trẽ tuổi không làm được, th́ Lê Hoàn phải bắt mẹ con Đinh Tuệ sang chầu Bắc-triều, rồi sẽ phong quan-tước cho Lê Hoàn". Vua Đại-hành biết mưu nhà Tống bèn không chịu và sửa-sang sự pḥng-bị .

2. Phá Quân Nhà Tống.

Nhà Tống thấy vua Đại-hành không chịu nghe lời, bèn sai tướng đem quân sang đánh. Tháng 3 năm tân-tị (981) th́ bọn Hầu nhơn Bảo và Tôn toàn Hưng tiến quân sang mặt Lạng-sơn, bọn Lưu-trừng đem thủy-quân sang mặt Bạch-đằng-giang.

Vua Đại-hành đem binh-thuyền ra chống-giữ ở Bạch-đằng. Quân nhà Tống tiến lên thế mạnh lắm, quan quân đánh không lại phải lùi. Bấy giờ lục- quân của bọn Hầu nhân Bảo tiến sang đến Chi-lăng (thuộc Ôn-châu, Lạng- sơn), vua Đại-hành sai người sang trá hàng để dụ Hầu nhơn Bảo đến chổ hiễm bắt chém đi, rồi đuổi đánh quân nhà Tống chém giết được quá nửa, và bắt được hai người bộ-tướng.

Bọn Lưu Trừng thấy lục-quân đă tan vỡ, vội-vàng đem thủy-quân rút về.

Quân ta tuy thắng trận, nhưng vua Đại-hành sợ thế-lực không chống với Tàu được lâu, bèn sai sứ đem hai viên tướng bắt được sang trả nhà Tống và xin theo lệ triều cống. Lúc ấy ở phiá bắc nước Tàu có quân Khiết-đan (Hung-nô) đang đánh phá, cho nên vua nhà Tống cũng thuận lời, thôi việc chiến-tranh với nước ta, và phong cho vua Đại-hành làm chức Tiết-độ-sứ.

Năm quí-tị (993) nhà Tống sách phong cho vua Đại-hành làm Giao-chỉ quận-vương, rồi đến năm đinh-dậu (997) lại gia phong là Nam-b́nh-vương.

Bấy giờ sứ nhà Tống thường hay đi lại, có khi vua Đại-hành phụng chiếu mà không lạy, nói dối rằng đi dánh giặc ngă ngựa đau chân. Nhà Tống biết là nói dối, nhưng cũng làm ngơ đi.

3. Đánh Chiêm Thành.

Vua Đại-hành phá được quân nhà Tống rồi, định sang đánh Chiêm-thành, v́ lúc vua Đại-hành lên ngôi, có sai sứ sang Chiêm-thành, bị vua nước ấy bắt giam sứ lại. Đến khi việc phía bắc đă yên, vua Đại-hành đem binh sang đánh báo thù. Quân vua Đại-hành sang chiếm giữ dược kinh-thành nước Chiêm và bắt được người, lấy được của rất nhiều. Từ đấy nước Chiêm-thành phải sang triều-cống nước ta.

4. Việc Đánh Dẹp Và Sửa Sang Trong Nước.

Việc trong nước th́ có các quan đại thần là bọn Từ Mục, Phạm cự Lượng, Ngô tử An giúp rập. Đặt luật-lệ, luyện quân lính và sửa-sang mọi việc.

Bấy giờ thường hay có các động Mường và những người các châu quận làm phản, vua Đại-hành phải thân chinh đi đánh-dẹp, b́nh được 49 động Hà-man (thuộc huyện Thạch-thành, tỉnh Thanh-hoá) và dẹp yên những người phản-nghịch ở các nơi. Bởi vậy thanh-thế vua Đại-hành lúc bấy giờ rất là lừng-lẫy.

Năm ất-tị (1005) là năm Ứng-thiên thứ 12, vua Đại-hành mất, thọ 65 tuổi, làm vua được 24 năm.

5. LÊ TRUNG TÔNG (1005).

Vua Đại-hành đă định cho người con thứ ba là Long Việt làm thái-tử, nhưng đến lúc vua Đại-hành mất, các hoàng-tử tranh ngôi đánh nhau trong bảy tháng. Đến khi Long Việt vừa mới lên ngôi được ba ngày th́ bị em là Long Đĩnh sai người vào cung giết đi, thọ 23 tuổi. Sử gọi là Lê Trung-tông.

6. LÊ LONG ĐĨNH ( 1005-1009 ).

Long Đĩnh là người bạo-ngược, tính hay chém giết, ác bằng Kiệt, Trụ ngày xưa. Khi đă giết anh rồi, lên làm vua thường cứ lấy sự giết người làm tṛ chơi: có khi những tù phạm phải h́nh, th́ bắt lấy rơm tẩm dầu quấn vào người rồi đốt sống; có khi bắt tù trèo lên cây rồi ở dưới sai người chặt gốc cho cây đổ ; có khi bỏ người vào sọt rồi đem thả xuống sông. Làm những điều ác như thế th́ lấy làm thích chí. Một hôm lấy mía để lên đầu nhà sư mà róc vỏ, rồi thỉnh-thoảng giă tảng nhỡ tay bổ dao vào đầu sư chảy máu ra, trông thấy thế làm vui cười. C̣n khi ra buổi chầu, có ai tấu sớ điều ǵ th́ cho những thằng hề nói khôi-hài hay là nhại tiếng làm tṛ.

Long Đĩnh làm vua được 2 năm đổi niên-hiệu là Cảnh-thụy (1008-1009). Sang năm sau là năm kỹ-dậu (1009) th́ mất, làm vua được 4 năm, thọ 24 tuổi.

 

V́ lúc sống dâm-dục quá độ, mắc bệnh không ngồi được, đến buổi chầu th́ cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là Ngọa-triều.

Long Đĩnh mất rồi, con th́ bé, đ́nh-thần nhân dịp tôn Lư công Uẩn lên làm vua, khai sáng nên cơ-nghiệp nhà Lư.

Nhà Tiền-Lê làm vua được 3 đời, cả thảy được 29 năm.

 

CHƯƠNG IV

NHÀ LƯ

( 1010-1225 )

I. LƯ THÁI TỔ

1. Thái-tổ khởi nghiệp

2. Dời đô về Thăng-long thành

3. Lấy kinh Tam-tạng

4. Việc chính-trị

II. LƯ THÁI TÔNG

1. Lê phụng Hiểu định loạn

2. Sự đánh dẹp

3. Giặc Nùng

4. Đánh Chiêm-thành

5. Việc chính-trị

III. LƯ THÁNH TÔNG

1. Việc chính-trị

2. Lấy đất Chiêm-thành

IV. LƯ NHÂN TÔNG

1. Ỹ-lan thái-phi

2. Lư đạo Thành

3. Việc sửa-sang trong nước

4. Việc đánh nhà Tống

5. Nhà Tống lấy đất Quảng-nguyên

6. Đánh Chiêm-thành

I. LƯ THÁI-TỔ (1010-1028)

Niên-hiệu : Thuận-thiên

 

1. Thái-Tổ khởi nghiệp.

 

Lư công Uẩn người ở làng Cổ-pháp, nay thuộc về huyện Đông-ngạn, phủ Từ-sơn, tỉnh Bắc-ninh (ở làng Đ́nh-bảng có lăng và đền thờ nhà Lư).

Tục truyền rằng Công Uẩn không có cha, mẹ là Phạm-thị đi chơi chùa Tiêu-sơn (làng Tiêu-sơn, phủ Từ-sơn), nằm mộng thấy đi lại với thần nhân rồi về có thai đẻ ra đứa con trai. Lên ba tuổi đem cho người sư ở chùa Cổ- pháp tên là Lư khánh Văn làm con nuôi, mới đặt tên là Lư công Uẩn.

Công Uẩn lớn lên vào Hoa-lư làm quan nhà Tiền-Lê, đến chức Tả-thân- vệ Điện-tiền Chỉ-huy-sứ. Khi Lê Long Đĩnh mất, th́ Lư công Uẩn đă ngoài 35 tuổi. Bấy giờ ḷng người đă oán-giận nhà Tiền-Lê lắm, ở trong triều có bọn Đào cam Mộc cùng với sư Vạn Hạnh mưu tôn Lư công Uẩn lên làm vua.

Lư công Uẩn bèn lên ngôi hoàng-đế, tức là vua Thái-tổ nhà Lư.

2. Dời Đô Về Thăng Long Thành.

Thái-tổ thấy đất Hoa-lư chật-hẹp không có thể mở-mang ra làm chỗ đô-hội được, bèn định dời đô về La-thành. Tháng 7 năm Thuận-thiên nguyên-niên (1010), th́ khởi sự dời đô. Khi ra đến La-thành, Thái-tổ lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng hiện ra, bèn đổi Đại-la thành là Thăng-long thành, tức là thành Hà-nội bây giờ. Cải Hoa-lư làm trường-an phủ và Cổ-pháp làm Thiên-đức phủ.

3. Lấy Kinh Tam Tạng.

Nhà Lư bấy giờ sùng đạo Phật, nhà vua trọng đăi những người đi tu, lấy tiền kho ra để làm chùa đúc chuông. Tháng 6 năm mậu-ngọ (1018) vua sai quan là Nguyễn đạo Thanh và Phạm Hạc sang Tàu lấy kinh Tam-tạng đem về để vào kho Đại-hưng.

4. Việc Chính Trị.

Lúc bấy giờ ở bên nhà Tống có nhiều việc, cho nên cũng không sinh sự lôi thôi ǵ với nước ta. Bởi vậy khi Thái-tổ lên làm vua, sai sứ sang cầu phong, vua nhà Tống liền phong cho làm Giao-chỉ quận-vương, sau lại gia phong Nam-b́nh-vương. Nước Chiêm-thành và nước Chân-lạp đều sang triều cống, cho nên việc bang-giao thời bấy giờ đều yên-trị. ở trong nước cũng có đôi ba nơi nổi lên làm loạn, như ở Diễn-châu (thuộc Nghệ-an) và ở mạn Thượng-du hay có sự phản-nghịch, nhà vua phải thân chinh đi đánh-dẹp mới yên được.

Thời bấy giờ các hoàng-tử đều phong tước vương và phải cầm quân đi đánh giặc, bởi vậy ai cũng giỏi nghề dùng binh.

Thái-tổ lưu tâm về việc sửa-sang trong nước: đổi phép cũ của nhà Tiền- Lê; chia nước ra làm 24 lộ, gọi Hoan-châu và Ái-châu là trại. Lại định ra 6 hạng thuế là : thuế ruộng, đầm, ao; thuế đất trồng dâu và băi phù-sa; thuế sản-vật ở núi; thuế mắm-muối đi qua Aỉ-quan; thuế sừng tê, ngà voi và hương ở trên mạn núi xuống; thuế tre gỗ hoa quả. Vua cho những bậc công-chúa coi việc trưng-thu các thứ thuế ấy.

Thái-tổ trị-v́ được 19 năm th́ mất, thọ 55 tuổi.

II. LƯ THÁI TÔNG (1028-1054)

Niên hiệu :

— Thiên thành (1028-1033)

— Thông-thụy (1034-1038)

— Càn-phù-hữu-đạo (1039-1041)

— Minh-đạo (1042-1043)

— Thiên-cảm-thánh-vơ (1044-1048)

— Sùng-hưng-đại-bảo (1049-1054).

1. Lê Phụng Hiểu Định Loạn.

Thái-tổ vừa mất chưa tế-táng xong, th́ các hoàng-tử là bọn Vơ-đức-vương, Dực-thánh-vương và Đông-chinh- vương đă đem quân đến vây thành để tranh ngôi của Thái-tử.

Bấy giờ các quan là bọn Lư nhân Nghĩa xin Thái-tử cho đem quân ra thành quyết được thua một trận. Khi quân của Thái-tử và quân các vương đối trận, th́ quan Vơ-vệ tướng-quân là Lê phụng Hiểu rút gươm ra chỉ vào Vơ-đức-vương mà bảo rằng : "Các người ḍm-ngó ngôi cao, khinh-dể tự- quân, trên quên ơn Tiên-đế, dưới trái nghĩa tôi con, vậy Phụng Hiểu xin dâng nhát gươm này !" Nói xong chạy xông vào chém Vơ-đức-vương ở trận tiền. Quân các vương trông thấy sợ-hăi bỏ chạy cả. Dực-thánh-vương và Đông- chinh-vương cũng phải chạy trốn.

Thái-tử Phật Mă lên ngôi, tức là vua Thái-tông.

Dực-thánh-vương và Đông-chinh-vương xin về chịu tội. Thái-tông nghĩ t́nh cốt-nhục bèn tha tội cho, và lại phục chức cũ cho cả hai ngừơi.

Cũng v́ sự phản-nghịch ấy cho nên vua Thái-tông mới lập lệ: cứ hàng năm, các quan phải đến đền Đồng-cổ (ở làng Yên-thái, Hà-nội) làm lễ đọc lời thề rằng : "Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, ai bất hiếu bất trung, xin quỉ thần làm tội". Các quan ai trốn không đến thề, phải phạt 50 trượng.

2. Sự Đánh Dẹp.

Thái-tông là người có thiên-tư đĩnh-ngộ, thông lục- nghệ, tinh thao-lược, gặp lúc trong nước có nhiều giặc-giă, nhưng ngài đă quen việc dùng binh, cho nên ngài thường thân chinh đi đánh đông dẹp bắc.

Thời bấy giờ nhà vua không đặt quan tiết trấn; phàm việc binh việc dân ở các châu, là đều giao cả cho người châu-mục. C̣n ở mạn thượng-du th́ có người tù-trưởng quản lĩnh. Cũng v́ quyền những người ấy to quá, cho nên thường hay có sự phản-nghịch. Lại có những nước lân bang như Chiêm- thành và Ai-lao thường hay sang quấy nhiễu, bởi vậy cho nên sự đánh-dẹp về đời vua Thái-tông rất nhiều.

3. Giặc Nùng.

Lúc ấy châu Quảng-nguyên (Lạng-sơn) có những người Nùng cứ hay làm loạn. Năm mậu-đần (1038) có Nùng tồn Phúc làm phản, tự xưng là Chiêu-thành Hoàng-đế, lập A-nùng làm Ninh-đức Hoàng-hậu, đặt quốc-hiệu là Tràng-sinh-quốc rồi đem quân đi đánh-phá các nơi.

Năm kỹ-măo (1039) Thái-tông thân chinh đi đánh, bắt được Nùng tồn Phúc và con là Nùng tri Thông đem về kinh làm tội. C̣n A-nùng và con là Nùng trí Cao chạy thoát được.

Năm tân-tị (1041) Nùng trí Cao cùng với mẹ là A-nùng về lấy châu Đảng-đo (gần châu Quăng-nguyên) lập ra một nước gọi là Đại-lịch-quốc. Thái-tông sai tướng lên đánh bắt được đem về Thăng-long. Nhưng vua nghĩ trước đă giết cha và anh, nay thương t́nh không giết, tha cho về và lại phong cho làm Quăng-nguyên mục. Sau lại gia phong cho tước Thái-bảo.

Năm mậu-tí (1048) Nùng trí Cao lại phản, xưng là Nhân-huệ Hoàng-đế quốc-hiệu là Đại-nam. Thái-tông sai quan thái-uư Quách thịnh Dật lên đánh không được. Bấy giờ Trí Cao xin phụ-thuộc vào nước Tàu, vua nhà Tống không cho. Trí Cao bèn đem quân sang đánh lấy Ung-châu, rồi chiếm cả thảy được 8 châu ở đất Quảng-đông và Quảng-tây. Những châu ấy là châu Hoành châu Quí, châu Cung, châu Tầm, châu Đằng, châu Ngô, châu Khang, châu Đoan.

Vua nhà Tống đă toan nhờ quân nhà Lư sang đánh giúp nhưng tướng nhà Tống là Địch Thanh can rằng : Có một Nùng trí Cao mà đất Lưỡng Quảng không chế được, lại phải nhờ quân ngoại-quốc vào đánh giúp. Nếu có ai nhân đó mà nổi loạn, th́ làm thế nào? Vua nhà Tống nghe lời ấy bèn sai bọn Dư Tĩnh và Tôn Miện đi đánh-dẹp giặc Trí Cao. Bọn Dư Tĩnh đánh măi không được, nhà Tống lấy làm lo, nhân khi Trí Cao dâng biểu xin lĩnh chức Tiết-độ-sứ châu Ung và châu Quí, vua nhà Tống đă toan thuận cho, Địch Thanh can đi, và xin đem quân đi đánh.

Địch Thanh ra hợp quân với bọn Dư Tĩnh và Tôn Miện đóng ở Tân-châu (Liễu-châu tỉnh Quảng-tây) rồi hội các tướng lại cấm không cho ra đánh nhau với giặc. Bấy giờ có quan Kiềm-hạt tỉnh Quảng-tây tên là Trần-Thự trái tướng lệnh đem quân đi đánh bị thua, Địch Thanh đem chém đi, rồi lệnh cho quân nghĩ 10 ngàỵ Quân đi thám biết chuyện về báo Trí Cao biết. Trí Cao tưởng là quân nhà Tống không dám đánh, bèn không pḥng-giữ. Địch Thanh đem quân đến cửa Côn-lôn (gần phủ Nam-ninh) đánh Nùng trí Cao. Lúc đang đánh nhau, Địch Thanh đem quân kỵ đánh hai bên tả hữu, quân của Trí Cao tan vỡ, tướng là bọn Hoàng sư Mật đều tử trận.

Trí Cao chạy thoát trốn sang nước Đại-lư. Sau người Đại-lư bắt Nùng trí Cao chém lấy đầu đem nộp nhà Tống. Giặc Nùng từ đó mới yên.

4. Đánh Chiêm Thành.

Thái-tông lên làm vua đă hơn 15 năm, mà nước Chiêm-thành không chịu thông sứ và lại cứ quấy nhiễu ở mặt bể. Thái- tông bèn sắp-sửa binh-thuyền sang đánh Chiêm-thành.

Năm giáp-thân (1044) vua Thái-tông ngự giá đi đánh Chiêm-thành. Quân Chiêm-thành dàn trận ở phía nam sông Ngũ-bồ(?) Thái-tông truyền thúc quân đánh tràn sang, quân Chiêm-thành thua chạy. Quân ta bắt được hơn 5.000 người và 30 con voi.

Tướng Chiêm-thành là Quách gia Gi chém quốc-vương là Sạ Đẩu đem đầu sang xin hàng.

Bấy giờ quan quân chém giết người bản xứ rất nhiều, máu chảy thành suối. Thái-tông trông thấy động ḷng thương, xuống lịnh cấm không được giết người Chiêm-thành, hễ ai trái lệnh th́ theo phép quân mà trị tội.

Thái-tông tiến binh đến quốc đô là Phật-thệ (nay ở làng Nguyệt-hậu, huyện Hương-thủy, tỉnh Thừa-thiên), vào thành bắt được Vương-phi là Mị Ê và các cung nữ đem về. Khi xa-giá về đến sông Lư-nhân, Thái-tông cho đ̣i Mị Ê sang chầu bên thuyền ngự . Mị Ê giữ tiết không chịu, quấn chiên lăn xuống sông mà tự-tử. Nay ở phủ Lư-nhân c̣n có đền thờ.

Thái-tông bắt về hơn 5.000 người Chiêm-thành ban cho ruộng đất lập thành phường ấp mà làm ăn.

5. Việc Chính Trị.

Thái-tông tuy phải đánh dẹp luôn, nhưng cũng không bỏ việc chính-trị trong nước, bao giờ cũng để ḷng thương dân. Hễ năm nào đói kém hay là đi đánh giặc về, th́ lại giảm thuế cho hàng hai ba năm. Ngài sửa lại luật-phép, định các bậc h́nh-phạt, các cách tra-hỏi, và đặt lệ cho những người già người trẻ, trừ khi phạm tội thập ác, th́ được lấy tiền mà chuộc tội. Nhân khi đổi luật mới, nhà vua đổi niên-hiệu là Minh-đạo (1042).

Năm quí-mùi (1043) Thái-tông hạ chiếu cấm không cho ai được mua hoàng-nam27 để làm nô. Vua lại chia đường quan-lộ ra từng cung, đặt nhà trạm để chạy giấy công-văn.

ở trong cung th́ Thái-tôn định số hậu-phi và cung-nữ như sau này : hậu và phi 13 người, ngự-nữ là 18 người , nhạc kỹ 100 người. Những cung-nữ phải học nghề thêu-dệt vóc-gấm.

Thái-tông trị-v́ được 27 năm, đến năm giáp-ngọ (1054) th́ mất, thọ 55 tuổi.

III LƯ THÁNH-TÔNG (1054-1072)

Niên-hiệu :

•        — Long-thụy thái-b́nh (1054-1058)

•        — Chương-thánh gia-khánh (1059-1065)

•        — Long-chương thiên-tự (1066-1067)

•        — Thiên-huống bảo-tượng (1060)

•        — Thần-vơ (1069-1072).

1. Việc Chính Trị.

Thái-tử là Nhật Tôn lên ngôi tức là vua Thánh-tông, ngài đổi quốc-hiệu là Đại-Việt28.

Thánh-tông là một ông vua nhân-từ, có ḷng thương dân; một năm trời làm rét lắm, Thánh-tông bảo những quan hầu gần rằng: "Trẫm ở trong cung ăn-mặc như thế này c̣n rét, nghĩ những tù-phạm giam trong ngục, phải trói buộc, cơm không có mà ăn, áo không có mà mặc; vả lại có người xét hỏi chưa xong, gian ngay chưa rơ, nhỡ rét quá mà chết th́ thật là thương lắm". Nói rồi truyền lấy chăn chiếu cho tù nằm, và mỗi ngày cho hai bửa ăn. Lại có một hôm Thánh-tông ra ngự ở điện Thiên-khánh xét án, có Động-thiên công-chúa đứng hầu bên cạnh. Thánh-tông chỉ vào công-chúa mà bảo các quan rằng : "Ḷng trẫm yêu dân cũng như yêu con trẫm vậy, hiềm v́ trăm họ ngu dại, làm càn phải tội, trẫm lấy làm thương lắm. Từ rày về sau tội ǵ cũng giăm nhẹ bớt đi" .

Vua Thánh-tông có nhân như thế, cho nên trăm họ mến-phục, trong đời Ngài làm vua ít có giặc-giă. Ngài lại có ư muốn khai-hóa sự văn-học, lập văn-miếu, làm tượng Chu-công Khổng-tử và 72 tiên-hiền để thờ. Nước ta có văn-miếu thờ Khổng-tử và chư hiền khởi đầu từ đấy.

Việc binh-chính th́ ngài đặt quân-hiệu và chia ra làm tả hữu tiền hậu 4 bộ, hợp lại là 100 đội có lính kỵ và lính bắn đá. C̣n những phiên-binh th́ lập ra thành đội riêng không cho lẫn với nhau. Binh-pháp nhà Lư bấy giờ có tiếng là giỏI, nhà Tống bên Tàu đă phải bắt chước. Ấy là một sự vẻ-vang cho nước ḿnh bao nhiêu?

2. Lấy Đất Chiêm Thành.

Vua Thánh-tông đă nhân mà lại dũng: nước Chiêm-thành hay sang quấy nhiễu, ngài thân chinh đi đánh. Đánh lần đầu không thành công, đem quân trở về. Đi đến châu Cư-liên (?) nghe thấy người khen bà Nguyên phi ở nhà giám quốc, trong nước được yên-trị, Thánh-tông nghĩ bụng rằng: "Người đàn bà trị nước c̣n được như thế, mà ḿnh đi đánh Chiêm-thành không thành công, thế ra đàn-ông hèn lắm à !" Lại đem quân trở lại đánh bắt được vua Chiêm-thành là Chế Củ. Năm ấy là năm kỷ-dậu (1069). Thánh-tông về triều, đổi niên-hiệu là Thần-vơ.

Chế Củ xin dâng đất ba châu để chuộc tội, là châu Địa-lư, châu Ma-linh và châu Bố-chính. Thánh-tông lấy 3 châu ấy và cho Chế Củ về nước.

Những châu ấy nay ở địa-hạt tỉnh Quảng-b́nh và tỉnh Quảng-trị.

Năm nhâm-tí (1072) Thánh-tông mất, trị-v́ được 17 năm, thọ 50 tuổi.

IV. LƯ NHÂN-TÔNG (1072-1127)

Niên-hiệu :

•        — Thái-ninh (1072-1075)

•        — Anh-vơ chiêu-thắng (1076-1084)

•        — Quảng-hữu (1085-1091)

•        — Hội-phong (1092-1100)

•        — Long-phù (1101-1109)

•        — Hội-tường đại-khánh (1110-1119)

•        — Thiên-phù duệ-vơ (1120-1126)

•        — Thiên-phù khánh-thọ (1127).

1. Ỹ Lan Thái-Phi.

Vua Nhân-tông là con bà Ỹ-lan Thái-phi, người ở Siêu-loại ( Bắc-ninh ). Khi trước vua Thánh-tông đă 40 tuổi mà không có con, đi cầu tự qua làng Thổ-lội (sau đổi là Siêu-loại rồi lại đổi là Thuận- quang), người đi xem đứng đầy đường, có một người con gái đi hái dâu, thấy xe nhà vua đi cứ đứng tựa vào cây lan chứ không ra xem. Vua thấy thế lấy làm lạ, truyền gọi đem vào cung, phong là Ỹ-lan phu-nhân. Được ít lâu có thai đẻ ra hoàng-tử là Càn Đức, được phong là Nguyên-phi.

Càn Đức làm thái-tử rồi lên nối ngôi, tức là vua Nhân-tông, phong cho mẹ làm Ỹ-lan thái phi.

Thái-phi tính hay ghen-ghét, thấy bà Dương-thái-hậu giữ quyền, trong bụng không yên, bèn xui vua bắt Thái-hậu và 72 người thị-nữ bỏ ngục tối, rồi đem giết cả.

2. Lư Đạo Thành.

Lúc Nhân-tông lên làm vua mới có 7 tuổi, có quan Thái-sư là Lư đạo Thành làm phụ-chính.

Ông Lư đạo Thành là người họ nhà vua, tính rất đoan-chính, hết ḷng lo việc nước. Thường những lúc sớ tấu cứ hay nói đến việc lợi hại của dân. Những quan-thuộc th́ chọn lấy người hiền-lương mà cất nhắc lên để làm mọi việc. Bởi vậy thời bấy giờ trong th́ sửa-sang được việc chính-trị, ngoài th́ đánh nhà Tống, phá quân Chiêm. Ấy cũng nhờ có tôi hiền tướng giỏi cho nên mới thành được công-nghiệp như vậỵ

3. Việc Sửa Sang Trong Nước.

Việc đánh-dẹp về đời vua Nhân-tông th́ nhiều, song những công-việc ở trong nước cũng không bỏ trễ. Đời bấy giờ mới khởi đầu đắp cái đê Cơ Xá để giữ đất kinh-thành cho khỏi lụt ngập. Việc đắp đê khởi đầu từ đó.

Năm ất-măo (1075) mở khoa thi tam-trường để lấy người văn-học vào làm quan. Kỳ thi ấy là kỳ đầu tiên ở nước ta, chọn được hơn 10 người. Thủ- khoa là Lê văn Thịnh. Ông Thủ-khoa ấy ngày sau làm đến chức thái-sư, nhưng v́ sự làm phản-nghịch, cho nên phải đày lên ở Thao-giang (huyện Tam-nông, Phú-thọ).

Năm bính-th́n (1076) lập Quốc-tử-giám để bổ những người văn-học vào dạy. Đến năm bính-dần (1086) mở khoa thi chọn người văn-học vào Hàn-lâm-viện, có Mạc hiển Tích đỗ đầu, được bổ Hàn-lâm-học-sĩ.

Sự nho-học nước ta khởi đầu thịnh lên từ thời bấy giờ.

Năm kỷ-tị (1089) định quan-chế, chia văn vơ ra làm 9 phẩm. Quan đại- thần th́ có Thái-sư, Thái-phó, Thái-uư và Thiếu-sư, Thiếu-phó, Thiếu-uư. ở dưới những bậc ấy, đàng văn-ban th́ có Thượng-thư, tả hữu Tham-tri, tả hữu Gián-nghị đại-phu, Trung-thư Thị-lang, Bộ Thị-lang v.v.. Đàng vơ-ban th́ có Đô-thống Nguyên-súy, Tổng-quản khu-mật sứ, Khu-mật tả hữu-sứ, Kim-ngô thượng-tướng, đại-tướng, đô-tướng, Chư-vệ tướng-quân v.v...

ở ngoài các châu-quận, văn th́ có Tri-phủ, Phán-phủ, Tri-châu, vơ th́ có Chư-lộ trấn trại-quan.

4. Việc Đánh Nhà Tống.

Từ nhà Đinh, nhà Lê trở đi, tuy Tàu không sang cai-trị nước ta nữa, nhưng vẫn cứ lăm-le có ư muốn xâm-lược. Đến khi vua Thần-tông nhà Tống (1068-1078) có quan Tể-tướng là Vương an Thạch đặt ra phép mới để cải-tổ việc chính-trị nước Tàu.

Nguyên nhà Tống bấy giờ bị nước Bắc-liêu và nước Tây-hạ ức hiếp, hằng năm phải đem vàng bạc và lụa vải sang cống hai nước ấy. Mà trong nước th́ không có đủ tiền để chi dụng. Vua Thần-tông mới dùng ông Vương an Thạch làm Tể-tướng để sửa-sang mọi việc.

Vương an Thạch29đặt ra ba phép về việc tài-chính và 2 phép về việc binh-chính.

Việc Tài Chính :

1. Phép thanh miêu: là khi lúa c̣n xanh th́ nhà nước cho dân vay tiền, đến khi lúa chín th́ dân lại phải trả tiền lại, tính theo lệ nhà nước đă định mà trả tiền lăi.

2. Phép miễn dịch: là cho những người dân đinh mà ai phải sưu-dịch th́ được nộp tiền, để nhà nước lấy tiền ấy thuê người làm.

3. Phép thị dịch: là đặt ra một sở buôn-bán ở chốn kinh-sư, để có những thứ hàng-hóa ǵ mà dân-sự bán không được, th́ nhà nước mua thu cả lấy mà bán. Những người con-buôn mà ai cần phải vay tiền th́ cho vay, rồi cứ tính theo lệ nhà nước mà trả tiền lăi.

Việc Binh Chính:

1. Phép bảo giáp: là lấy dân làm lính. Chia ra 10 nhà làm một bảo, 500 nhà làm một đô-bảo. Mỗi bảo có đặt hai người chánh phó để dạy dân luyện-tập vơ-nghệ

2. Phép bảo mă: là nhà nước giao ngựa cho các bảo phải nuôi, có con nào chết th́ dân phải theo giá đă định mà thường lại.

Khi năm phép ấy thi-hành ra th́ dân nước Tàu đều lấy làm oán-giận, v́ là trái với chế-độ và phong-tục cũ.

Vương an Thạch lại có ư muốn lập công ở ngoài biên, để tỏ cái công-hiệu viêc. cải-tổ của ḿnh. Bấy giờ ở Ung-châu có quan tri-châu là Tiêu Chú biết ư Vương an Thạch, mới làm sớ tâu về rằng: nếu không đánh lấy đất Giao- châu th́ về sau thành một điều lo cho nước Tàu.

Vua nhà Tống nghe lời tâu ấy, sai Tiêu Chú kinh-lư việc đánh Giao-châu. Nhưng Tiêu Chú từ chối, lấy việc ấy làm khó, đang không nổi. Nhân lúc ấy lại có Thẩm Khởi tâu bày mọi lẽ nên đánh Giao-châu. Vua nhà Tống bèn sai Thẩm Khởi làm Tri-châu châu Quế. Thẩm Khởi ra thu-xếp mọi việc theo ư Vương an Thạch, nhưng sau không biết tại lẽ ǵ phải băi về. Tống-triều cho Lưu Gi ra thay.

Lưu Gi sai người đi biên các khe ng̣i, các đồn-lũy, sửa binh-khí, làm thuyền-bè và lại cấm không cho người ở châu huyện gần đấy đi lại buôn-bán với người Giao-châu.

Bên Lư-triều ta thấy sự t́nh như thế mới viết thư sang hỏi Tống-triều, th́ Lưu Gi lại giữ lại không đệ về kinh. Lư-triều tức giận, bèn sai Lư thường Kiệt và Tôn Đản đem 10 vạn binh chia ra làm 2 đạo, thủy bộ cùng tiến sang đánh nhà Tống, lấy cớ rằng nhà Tống đặt ra phép mới làm khổ trăm họ. Vậy quân Đại-Việt sang đánh để cưú-vớt nhân-dân, v.v.....

Năm ất-măo (1075) Lư thường Kiệt đem quân sang vây đánh Khâm- châu và Liêm-châu (thuộc tỉnh Quảng-đông) giết hại hơn 8.000 người. Đạo quân của Tôn Đản sang đánh Ung-châu (tức là thành Nam-ninh thuộc tỉnh Quảng-tây), quan Đô-giám Quảng-tây là Trương thủ Tiết đem binh lại cưú Ung-châu, bị Lư thường Kiệt đón đánh ở Côn-lôn quan (gần Nam-ninh) chém Trương thủ Tiết ở trận tiền.

Tôn Đản vây thành Ung-châu hơn 40 ngày, quan tri-châu là Tô Dam kiên cố giữ măi. Đến khi quân nhà Lư hạ được thành, th́ Tô Dam bắt người nhà tất cả là 36 người chết trước, rồi tự đốt mà chết. Người trong thành cũng bắt-chước quan tri-châu, không ai chịu hàng cả. Quân nhà Lư vào thành giết hại gần đến 58.000 (?) người.

Lư thường Kiệt và Tôn Đản sang đánh nhà Tống giết hại cả thảy đến 10 vạn người, rồi lại bắt người lấy của đem về nước.

5. Nhà Tống Lấy Đất Quảng Nguyên.

Tống-triều đươc. tin quân nhà Lư sang đánh-phá ở châu Khâm, châu Liêm và châu Ung, lấy làm tức-giận lắm, bèn sai Quách Qú làm Chiêu-thảo-sứ, Triệu Tiết làm phó, đem 9 tướng quân cùng hội với nước Chiêm-thành và Chân-lạp chia đường sang đánh nước Nam ta.

 

Tháng chạp năm bính-th́n (1076) quân nhà Tống vào địa-hạt nước ta. Lư-triều sai Lư thường Kiệt đem binh đi cự địch. Thường Kiệt đánh chặn quân nhà Tống ở sông Như-nguyệt (làng Như-nguyệt ở Bắc-ninh, tức là sông Cầu bây giờ). Quân nhà Tống đánh trận ấy chết hơn 1.000 người, Quách Qú tiến quân về phía tây, đến đóng ở bờ sông Phú-lương30.

Lư thường Kiệt đem binh-thuyền lên đón đánh không cho quân nhà Tống sang sông. Quân Tống mới chặt gỗ làm máy bắn đá sang như mưa, thuyền của ta thủng nát mất nhiều, quân-sĩ chết hàng mấy ngh́n người. Lúc bấy giờ quân nhà Tống đánh hăng lắm, Lư thường Kiệt hết sức chống giữ, nhưng sợ quân ḿnh có ngă ḷng chăng, bèn đặt ra một chuyện nói rằng có thần cho bốn câu thơ :

Nam-quốc sơn-hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm -phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

Quân-lính nghe đọc mấy câu thơ ấy, ai nấy đều nức ḷng đáng giặc, quân nhà Tống không tiến lên được. Hai bên cứ chống giữ nhau măi. Lư- triều sợ đánh lâu không lợi, bèn sai sứ sang Tống xin hoăn binh.

Vua Tống thấy quân ḿnh không tiến lên được, mà lại đóng ở chỗ chướng địa, quân-sĩ trước sang hơn 8 vạn, sau chết đến quá nửa, cho nên cũng thuận hoăn-binh lui về, chiếm-giữ châu Quảng-nguyên (bây giờ là châu Quảng-uyên, tỉnh Cao-bằng), châu Tư-lang (bây giờ là châu Thượng-lang và Hạ-lang, tỉnh Cao-bằng), châu Tô, châu Mậu (ở giáp-giới tỉnh Cao-bằng và tỉnh Lạng-sơn) và huyện Quảng-lang (Ôn-châu, tỉnh Lạng-sơn).

Đến năm mậu-ngọ (1078) Lư nhân Tông sai Đào tôn Nguyên đưa voi sang cống nhà Tống và đ̣i lại những châu huyện ở mạn Quảng-nguyên. Vua Tống bắt phải trả những người châu Khâm, châu Liêm và châu Ung mà quân nhà Lư bắt về ngày trước, rồi mới trả châu huyện cho nhà Lư. Sang năm kỷ-mùi (1079) Nhân-tông cho những người Tàu về nước , tất cả chỉ có 221 người. Con trai th́ thích ba chữ vào trán, từ 15 tuổi trở lên th́ thích: Thiên-tử binh; 20 tuổi trở lên th́ thích: Đầu Nam-triều; c̣n con gái th́ thích vào tay trái hai chữ : Quan-khách.

Đất Quảng-nguyên từ khi bọn Quách Qú lấy được, cải tên là Thuận- châu và có 3.000 quân Tống ở lại giữ, nhưng v́ đất lam-chướng, mười phần chết đến năm sáu.

Đến khi nhà Lư cho những người châu Khâm, châu Liêm và châu Ung về Tàu, vua nhà Tống trả lại châu Quảng-nguyên. Nhưng v́ có người nói rằng châu ấy có nhiều vàng, người Tống tiếc của, làm hai câu thơ rằng :

Nhân tham Giao-chỉ tượng.

Khước thất Quảng-nguyên kim.

Đến mùa hạ năm giáp-tí (1084) Nhân-tông sai quan binh-bộ Thị-lang là Lê văn Thịnh sang nhà Tống bàn việc chia địa-giới. Lê văn Thịnh phân-giăi mọi lẽ, nhà Tống trả nốt cả mấy huyện mà trước c̣n giữ lại. Từ đó nước ta và nước Tàu lại thông sứ như cũ.

Năm đinh-măo (1087) vua nhà Tống phong cho Nhân-tông là Nam-b́nh-vương.

Nhà Tống bấy giờ đă suy-nhược, đến năm bính-ngọ (1126) nước Kim (Măn-châu) sang lấy mất cả phía bắc nước Tàu, nhà Tống dời đô về đóng ở Hàng-châu (thuộc Chiết-giang) gọi là Nam-tống.

6. ĐÁNH CHIÊM-THÀNH.

Nước Chiêm-thành thỉnh-thoảng cứ hay sang quấy-nhiễu, đánh thế nào cũng không được. Năm ất-măo (1075) trước khi đi đánh nhà Tống, Lư thường Kiệt đă sang đánh Chiêm-thành, vẽ được địa-đồ ba châu của Chế Cũ đă nhường ngày trước, rồi cho người sang ở.

Năm quí-mùi (1103) ở Diễn-châu (thuộc Nghệ-an) có Lư Giác làm phản. Lư thường Kiệt vào đánh, Lư Giác thua chạy sang Chiêm-thành đem quốc- vương là Chế ma Na sang đánh lấy lại ba châu Ma-linh, Bố-chính, v.v... Sang năm sau là năm giáp-thân (1104) vua Nhân-tông sai Lư thường Kiệt vào đánh Chiêm-thành. Chế ma Na thua chạy xin trả lại ba châu như cũ.

Lư thường Kiệt bấy giờ đă ngoài 70 tuổi đi đánh Chiêm-thành về được một năm th́ mất. Ông là người ở phường Thái-hoà, huyện Thọ-xương (thành phố Hà-nội), có tướng tài, tinh thao-lược, bắc đánh Tống, nam b́nh Chiêm, thật là một người danh-tướng nước ta vậy.

Từ khi b́nh-phục được nước Chiêm-thành rồi, các nước ở phía nam đều về triều-cống. Nhân-tông làm vua đến năm đinh-vị (1127) th́ mất, trị-v́ được 56 năm, thọ 63 tuổi.

 

{27 Hoàng Nam là người từ 18 tuổi trở lên. }

{28 Từ nhà Đinh đến bây giờ, nước ta vẫn gọi là Đại Cồ Việt, nay mới đổi là Đại Việt. }

{29 Xin xem "Vương An Thạch" của Đào Trinh Nhất - Tân Việt xuất bản. }

{30 Sách "Khâm-định Việt-sử" có chép rằng sông Phú-lương là con sông đi từ Bạch-hạc qua Nam- định rồi chảy ra bể, tức là sông Hồng-hà. Nhưng xem trận thế bấy giờ và xét ở trong địa-lư th́ sông Phú-lương chép ở đây chính là sông Cầu, chứ không phải sông Hồng-hà. Nếu lúc bấy giờ Lư thường Kiệt đă phá quân nhà Tống ở sông Như-nguyệt tức là khúc dưới sông Cầu, th́ tất nhà Lư c̣n đóng ở mạn sông Cầu. Quân Quách Qú làm thế nào mà tiến đến sông Hồng-hà được ? Vả lại ở Thái-nguyên hiện bây giờ có huyện Phú-lương, huyện ấy về đời nhà Lư, nhà Trần là Phú-lương phủ, mà chính con sông Cầu chảy qua địa-hạt ấy. Có lẽ là những nhà chép sử đời trước thường không thuộc địa-lư cho nên chép lầm sông Phú-lương là sông Nhị-hà, vậy ta nên cải lại. }

 

CHƯƠNG V

NHÀ LƯ

( Tiếp theo )

V. Lư Thần Tông

VI. Lư Anh Tông

1. Đỗ Anh Vũ

2. Tô Hiến Thành

3. Giặc Thân Lợi

4. Việc chính trị

VII. Lư Cao Tông

1. Tô Hiến Thành làm phụ chính

2. Sự nội loạn

VIII. Lư Huệ Tông

1. Trần thị

2. Quyền về họ Trần

XI. Lư Chiêu Hoàng

V. LƯ THẦN-TÔNG (1128-1138)

Niên-hiệu:

— Thiên Thuận (1128-1132)

— Thiên Chương Bảo Tự (1133-1137)

Nhân-tông không có con, lập con của hoàng-đệ là Sùng-hiền-hầu lên làm thái-tử, nay lên nối ngôi, tức là vua Thần-Tông31.

Bấy giờ có các quan đại-thần là bọn ông Trương Bá Ngọc, Lưu Khánh Đàm, Dương Anh Nhị giúp Thần-tông trị nước. Ngài vừa lên ngôi th́ đại xá cho các tù phạm, và trả lại những ruộng đất tịch thu của quan dân ngày trước. Quân lính th́ cho đổi phiên, cứ lần lượt 6 tháng một, được về làm ruộng. Như thế việc binh không làm ngăn-trở việc canh-nông.

Giặc-giă thời bấy giờ cũng ít. Một hai khi có người Chân-lạp và người Chiêm-thành sang quấy nhiễu ở mạn Nghệ-An, nhưng đó là những đám cướp-phá vặt vănh không mấy nỗi mà quan quân đánh đuổi đi được.

Thần Tông làm vua được 10 năm th́ mất, thọ 23 tuổi.

VI. LƯ ANH-TÔNG (1138-1175)

Niên-hiệu:

— Thiệu Minh (1138-1139)

— Đại-định (1140-1162)

— Chính-long bảo-ứng (1163-1173)

— Thiên-cảm chí bảo (1174-1175)

1. Đỗ Anh Vũ.

Thần-tông mất, triều đ́nh tôn Thái-tử là Thiên Tộ lên làm vua, tức là vua Anh-tông.

Anh-tông bấy giờ mới có 3 tuổi, Thái-hậu là Lê-thị cầm quyền nhiếp chính. Lê Thái-hậu lại tư thông với Đỗ anh Vũ, cho nên phàm việt ǵ bất cứ lớn nhỏ đều ở tay Đỗ anh Vũ quyết đoán cả. Đỗ anh Vũ được thể ra vào chỗ cung cấm, kiêu ngạo và khinh-dể đ́nh-thần. Các quan như bọn Vũ Đái, Nguyễn Dương, Nguyễn Quốc và Dương tự Minh thấy Đỗ anh Vũ lộng quyền quá độ, đều lo mưu trừ đi, nhưng sự không thành lại bị giết-hại cả.

May nhờ thời bấy giờ có nhiều tôi giỏi như Tô hiến Thành, Hoàng nghĩa Hiền, Lư công Tín làm quan đại triều cho nên Đỗ anh Vũ không dám có ư khác.

2. Tô Hiến Thành

Ông Tô hiến Thành giúp vua Anh-tông đi đánh dẹp, lập được nhiều công to, như là bắt được giặc Thân Lợi, phá được giặc Ngưu Hống và dẹp yên giặc Lào, được phong làm chức Thái-úy coi giữ việc binh. Ông luyện tập quân-lính, kén-chọn những người tài giỏi để làm tướng hiệu. Bởi vậy binh-thế nhà Lư lúc bấy giờ lại phấn-chấn lên. Ông giỏi việc vơ và chăm việc văn. Ông xin vua khai-hóa việc học-hành, và làm đền thờ đức Khổng-Tử ở cửa nam thành Thăng-Long, để tỏ ḷng mộ nho học.

 

3. Giặc Thân Lợi.

Vua Anh-tông vừa mới lên làm vua được 2 năm, th́ ở mạn Thái-nguyên có giặc Thân-Lợi làm loạn.

 

Thân Lợi xưng là con riêng vua Nhân-tông, trước đă xuất gia đi tu, rồi chiêu tập những đồ vong mạng hơn 1,000 người, chiếm giử mạn Thái-nguyên, xưng vương phong tước, đem quân đi đánh phá khắp nơi. Quan quân đánh măi không được.

Năm tân-dậu (1141) Thân Lợi về vây phủ Phú-lương, Đỗ anh Vũ đem quân lên đánh, Thân Lợi chạy lên Lạng-châu, tức là Lạng-sơn bị ông Tô hiến Thành đuổi bắt được, đem về kinh làm tội.

4. Việc Chính Trị.

Năm giáp-thân (1164) vua nhà Tống đổi Giao-chỉ quận làm An-nam quốc, và phong cho Anh-tông làm An-nam quốc-vương.

Nguyên khi trước Tàu gọi ta là Giao-chỉ quận, rồi sau đổi là Giao- châu, đến thời nhà Đường đặt An-nam đô-hộ-phủ. Nhà Đinh lên đặt Đại-Cồ-Việt, vua Lư Thánh-tông đổi là Đại-Việt. nhưng Tàu vẫn phong cho vua ta là Giao-chỉ quận-vương, đến bấy giờ mới đổi là An-nam quốc-vương. Nước ta thành tên là nước An-nam khởi đầu từ đấy.

Năm tân-măo và năm nhâm-th́n (1171-1172) Anh-tông đi chơi xem sơn-xuyên hiểm-trở, đường-sá xa gần và sự sinh-hoạt của dân-gian, rồi sai quan làm quyển địa-đồ nước An-nam33.

Năm ất-mùi (1175), Anh-tông phong cho Tô hiến Thành làm Thái- phó B́nh-chương-quân-quốc trọng-sự và phong vương tước. Anh-tông đau, uỷ thác Thái-tử là Long Cán cho Tô hiến Thành. Anh-tông mất, trị v́ được 37 năm, thọ 40 tuổi.

VII. LƯ CAO-TÔNG (1176-1210)

Niên-hiệu:

— Trinh-phù (1176-1185)

— Thiên-gia bảo-hữu (1202-1204)

— Trị-b́nh-long-ứng (1205-1210).

1. Tô Hiến Thành Làm Phụ Chánh.

Khi vua Anh-tông mất, Thái-tử Long Cán chưa đầy 3 tuổi, bà Chiêu-linh Thái-hậu muốn lập người con trưởng là con ḿnh tên là Long Xưởng33 lên làm vua, đem vàng bạc đút lót cho vợ Tô hiến Thành, nhưng ông nhất thiết không chịu, bèn cứ theo di-chiếu mà lập Long Cán, tức là vua Cao-tông.

Tô hiến Thành giúp vua Cao-tông trị nước, đến năm kỷ hợi(1179) th́ mất. Sử chép rằng khi ông đau có quan Tham-tri chính sự là Vũ tán Đường, ngày đêm hầu hạ. Đến khi bà Đỗ Thái-Hậu34 ra thăm hỏi ngày sau ai thay được ông, ông tâu rằng: có quan Gián-nghị đại-phu Trần trung Tá. Thái-hậu ngạc nhiên nói rằng tại sao không cử Vũ tán Đường? Ông đáp: "Nếu bệ-hạ hỏi người hầu-hạ, th́ xin cử người Tán Đường, hỏi người giúp nước th́ tôi xin cử người Trung-Tá".

Tô hiến Thành không những là một người có tài thao-lược, dẹp giặc yên dân mà thôi, cách thờ vua thật là trung-thành cho nên người đời sau thường ví ông với Gia cát Lượng đời Tam-quốc bên Tàu.

Tô hiến Thành mất rồi, Triều-đ́nh không theo lời ông ấy dặn, cử Đỗ yên Di làm phụ chính và Lư kính Tu làm đế-sư. Đ́nh-thần bấy giờ có người đứng đắn, cho nên bà Chiêu-linh Thái-hậu không dám mưu sự phế-lập.

Đến khi Cao-tông lớn lên cầm quyền trị nước, th́ cứ đi săn bắn chơi bời, làm cung xây điện, bắc trăm họ phải phục-dịch khổ-sở. Ngoài biên th́ quân mường thổ ở bên Tàu sang quấy nhiễu ở phía bắc, người Chiêm-thành sang đánh ở phía nam; trong nước th́ nổi lên như ong dấy. Vua tôi không ai lo nghĩ ǵ về chính-trị, chỉ làm những việc nhũng-lạm, mua quan bán chức, hà-hiếp nhân-dân, lấy tiền để làm những việc xa-xỉ.

2. Sự nổi loạn.

Năm bính-th́n (1208) ở Nghệ-an có Phạm Du, chiêu nạp những đồ vong mệnh, cho đi cướp các thôn dân, có bụng làm phản. Cao-tông sai quan Phụng-ngự là Phạm bỉnh Di đi đánh Phạm Du. Bỉnh Di đem quân vào đến nơi đánh đuổi Phạm Du đi và tịch-biên cả của-cải, đốt phá cả nhà cửa.

Phạm Du cho người về kinh, lấy vàng bạc đút lót với các quan trong triều, để vu cho Bỉnh Di làm việc hung bạo, giết hại những kẻ không có tội, và Phạm Du lại xin về triều để kêu oan.

Cao-tông nghe lời, cho vời Phạm Du vào chầu và triệu Phạm bỉnh Di về.

Bỉnh Di về kinh vào chầu, Cao-tông truyền bắt giam, lại toan đem làm tội. Bấy giờ có bộ tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc đem quân phá cửa thành vào cứu Bỉnh Di.

Cao-tông thấy biến, bèn đem giết Phạm bỉnh Di đi, rồi cùng với Thái- tử chạy lên Qui Hóa (sông Thao-giang ở phía bắc huyện Tham-nông, Phú- thọ). Thái-tử Sam th́ chạy về HảI-ấp, làng Lưu-gia (bây giờ là làng Lưu-xá, huyện Hưng-nhân).

Bọn Quách Bốc đưa xác Bỉnh Di ra mai táng xong rồi, lại vào điện tôn Hoàng-tử Thẩm lên làm vua.

Khi Thái-tử Sam chạy về Hải-ấp vào ở nhà Trần Lư. Nguyên Trần Lư là người làng Tức-mạc (huyện Mỹ-lộc, phủ Xuân-trường, tỉnh Nam-định) làm nghề đánh cá, nhà giàu, có nhiều người theo phục, sau nhân buổi loạn cũng đem chúng đi cướp phá. Đến khi Thái-tử Sam chạy về đấy, thấy con gái Trần Lư có nhan sắc, lấy làm vợ, rồi phong cho Trần Lư tước Minh-tự và phong cho người cậu Trần-thị là Tô trung Từ, người ở làng Lưu-gia làm Điện-tiền Chỉ-huy-sứ.

Anh em họ Trần mộ quân về kinh dẹp loạn, rồi lên Qui-hóa rước Cao-tông cho quân về làng Lưu-gia đón Thái-tử, c̣n Trần-thị th́ về ở nhà Trần Lư.

Cao-tông về kinh được một năm th́ phải bệnh, đến tháng 10 năm canh-ngọ (1210) th́ mất, trị-v́ được 35 năm, thọ 38 tuổi.

VIII. Lư Huệ Tông (1211-1225)

Niên-hiệu:

— Kiến-gia (1211-1224)

1. Trần Thị.

Thái-tử Sam lên ngôi, tức là vua Huệ-tông, rồi sai quan đi rước Trần-thị về phong làm Nguyên-phi.

Bấy giờ Trần Lư đă bị quân cướp giết, chúng theo về người con thứ là Trần tự Khánh. Huệ-tông bèn phong cho tự Khánh làm Chương-tín-hầu và cho người cậu Trần-thị làm Thái-úy Thuận-lưu-bá.

Năm quí-dậu (1213) Thái-hậu làm khổ Trần-thị ở trong cung, anh Trần-thị là Tự Khánh đem quân đến chốn kinh sư, nói rằng xin rước vua đi. Huệ-tông không biết t́nh-ư ǵ, nghi Tự Khánh có ư phản-nghịch bèn giáng Trần-thị xuống làm Ngự-nữ. Tự Khánh nghe tin ấy, thân đến quân môn xin lỗi và rước vua đi. Huệ-tông càng nghi lắm, bèn cùng với Thái-hậu đi lên Lạng-châu (Lạng-sơn).

Tự Khánh lại phát binh xin rước vua như trước, Huệ-tông sợ lại rước Thái-hậu về huyện B́nh-hợp (?).

Khi bấy giờ bà Thái-hậu cho Tự Khánh là phản-trắc, thường chỉ mặt Trần-thị mà xỉ mắng và xui Huệ-tông bỏ đi. Huệ-tông không nghe. Thái- hậu định bỏ thuốc độc cho Trần-thị, nhưng Huệ-tông biết ư, đến bữa ăn th́ ăn một nửa, c̣n một nửa cho Trần-thị ăn và ngày đêm không cho đi đâu. Sau v́ Thái-hậu làm ngặt quá, Huệ-tông và Trần-thị đêm bèn lẻn ra đi đến nhà tướng-quân Lê Mịch ở huyện Yên-duyên rồi lại đến Cửu-liên (?), cho đ̣i Tự Khánh đến chầu.

2. QUYỀN VỀ HỌ TRẦN.

Trần tự Khánh đem quân đến hộ giá. Huệ-tông phong Trần-thị làm Hoàng-hậu, Tự Khánh làm Phụ-chính và người anh Tự Khánh là Trần Thừa làm Nội-thị Phân-thủ. Trần tự Khánh cùng với Thượng-tướng-quân là Phân Lân sửa-sang quân ngũ, làm đồ chiến-khí, luyện-tập việc vơ. Từ đấy quân-thế lại nổi dần dần lên.

Huệ-tông phải bệnh, thỉnh-thoaảng có cơn điên, rồi cứ uống rượu say cả ngày, có việc chính-trị đều ở tay Tự Khánh quyết đoán cả.

Đến tháng chạp năm quí-mùi (1228) Tự Khánh mất, Huệ-tông cho Trần Thừa làm Phụ-quốc Thái-úy, sang năm sau lại cho người em họ Hoàng-hậu là Trần thủ Độ làm Điện-tiền chỉ-huy-sứ. Từ đó việc ǵ ở trong triều cũng quyền ở Thủ Độ cả.

Huệ-tông có bệnh măi không khỏi, mà Thái-tử th́ chưa có, Trần-thị th́ chỉ sinh được hai người con gái, người chị là Thuận-thiên công-chúa th́ đă gả cho Trần Liễu là con trưởng của Trần Thừa; con người em là Chiêu- thánh công chúa tên là Phật-kim th́ mới lên 7 tuổi, Huệ-tông yêu mến lắm, cho nên mới lập làm Thái-tử. Tháng 10 năm giáp-thân (1224) Huệ-tông truyền ngôi cho Chiêu-thánh công-chúa, rồi vào ở chùa Chân-giáo.

Huệ-tông trị v́ được 14 năm.

IX. LƯ CHIÊU-HOÀNG (1225)

Niên-hiệu:

— Thiên-chương-hữu-đạo (1224-1225)

Chiêu-thánh công-chúa lên ngôi, tức là vua Chiêu-hoàng. Bấy giờ quyền-chính ở cả Trần thủ Độ. Thủ Độ lại tư thông với Trần Thái hậu, đêm ngày mưu lấy cơ-nghiệp nhà Lư, bèn đ̣i các con quan vào trong cung để hầu Chiêu-hoàng, và lại cho cháu là Trần Cảnh vào làm chức Chính-thủ. Đến tháng chạp th́ Chiêu-hoàng lấy Trần Cảnh và truyền ngôi cho chồng.

Nhà Lư đến đấy là hết, cả thảy làm vua được 216 năm, truyền ngôi được 9 đời.

Nhà Lư có công làm cho nước Nam ta nên được một nước cường-thịnh: ngoài th́ đánh nước Tàu, b́nh nước Chiêm, trong th́ chỉnh-đốn việc vơ-bị, sửa-sang pháp-luật, xây vững cái nền tự-chủ. V́ vua Cao-tông hoang chơi, làm mất ḷng người, cho nên giặc-giă nổi lên, loạn thần nhiễu sự. Vua Huệ-tông lại nhu-nhược bỏ việc chính-trị, đem giang-sơn phó-thác cho người con gái c̣n đang thơ-dại, khiến cho kẻ gian-hùng được nhân dịp mà lấy giang-sơn nhà Lư và lập ra cơ-nghiệp nhà Trần vậy.

 

{31 Tục truyền rằng Thần Tông là con cầu tự được, mà Ngài chính là ông Từ Đạo Hạnh hóa xác sinh ra. Ở Bắc Việt ai đi đến chùa Thầy (thuộc Sơn Tây) cũng nghe nói sự tích ông Từ Đạo Hạnh và ông Nguyễn Minh Không. Chuyện hoang đường, không thể tin là sự thật được. }

{32 Quyển địa đồ ấy bây giờ không thấy c̣n di tích ở đâu cả. }

{33 Long Xưởng trước đă lập làm Thái Tử, sau v́ có tội phải giáng xuống làm thứ dân. }

{34 Đỗ Thái Hậu là mẹ đẻ ra Cao Tông. }

 

CHƯƠNG VI

NHÀ TRẦN

( 1225-1400 )

Thời kỳ thứ nhất (1225-1293)

 

I. TRẦN THÁI TÔNG

1. Trần thủ Độ

2. Việc đánh-dẹp giặc-giă

3. Việc cai-trị

4. Việc thuế-má

5. Việc đắp-đê

6. Việc học-hành

7. Pháp-luật

8. Quan-chế

9. Binh-chế

10. Việc đánh Chiêm-thành

11. Quân Mông-cổ xâm-phạm đất An-nam

II. TRẦN THÁNH TÔNG

1. Việc chính-trị

2. Sự giao-thiệp với Mông-cổ

III. TRẦN NHÂN-TÔNG

1. Việc chiến-tranh

2. Việc văn-học

I. TRẦN THÁI-TÔNG (1225-1258)

Niên-hiệu:

— Kiến-trung (1225-1237)

— Thiên-ứng chính-b́nh (1238-1350)

— Nguyên-phong (1251-1258)

I. Trần Thủ Độ.

 

Tháng chạp năm ất-dậu (1225) Trần Cảnh lên làm vua, tức là Trần Thái-Tông phong cho Trần thủ Độ làm Thái-sư Thống-quốc hành-quân chinh-thảo-sự. Bấy giờ vua Thái-tông mới có 8 tuổi, việc ǵ cũng do ở Trần thủ Độ cả. Thủ Độ tuy là một người không có học-vấn nhưng là một tay gian-hùng, chủ ư cốt gây dựng cơ-nghiệp nhà Trần cho bền-chặt, cho nên dẫu việc tàn-bạo đến đâu, cũng làm cho được. Lư Huệ-tông tuy đă xuất gia đia ở chùa rồi nhưng Thủ Độ vẫn định bụng giết đi, cho khỏi sự lo về sau.

Một hôm Huệ-tông ngồi nhổ cổ ở sân chùa Chân-giáo, Thủ-Độ đi qua trông thấy, mới nói rằng: "Nhổ cỏ th́ phải nhổ cả rể cái nó đi! " Huệ- tông nghe thế, phủi tay đứng dậy nói rằng: "Nhà ngươi nói ta hiểu rồi ". Được mấy hôm, Thủ Độ cho người đến mời Huệ-tông, Huệ-tông biết ư, vào nhà sau thắt cổ tự-tận. Thủ Độ đưa bách quan đến tế khóc xong rồi hỏa táng, chôn ở tháp Bảo-quang.

C̣n Thái-hậu là Trần-thị giáng xuống làm Thiên-cực công-chúa để gả cho Trần thủ Độ (Trần thủ Độ và Thiên-cực công-chúa là hai chị em họ). Bao nhiêu những cung-nhân nhà Lư th́ đưa gả cho những Tù-trưởng các mường.

Thủ Độ đă hại Huệ-tông rồi, lại muốn trừ nốt các tôn-thất nhà Lư. Đến năm nhăm-th́n (1232) nhân làm lễ Tiên-hậu nhà Lư ở thôn Thái-Đường, làng Hoa-lâm (huyện Đông-ngạn, tỉnh Bắc-ninh), Thủ Độ sai đào hầm, làm nhà lá ở trên, để đến khi các tôn-thất nhà Lư vào đấy tế-lễ, th́ sụt cả xuống hố rồi đổ đất chôn sống cả.

Thủ Độ chỉ lo làm cho thế nào cho ngôi nhà Trần được vững-bền, cho nên không những là tàn ác với nhà Lư mà thôi, đến luân-thường ở trong nhà, cũng làm loạn cả. Chiêu-thánh Hoàng-hậu lấy Thái-tông đă được 12 năm mà vẫn chưa có con 35 , Thủ Độ bắt Thái-tông bỏ đi và giáng xuống làm công-chúa, rồi đem người chị bà Chiêu-thánh tức là vợ Trần Liễu vào làm Hoàng-hậu, bởi v́ người chị đă có thai được 3 tháng.

Làm loạn nhân-luân như thế, th́ tự thượng-cổ mới có là một. Trần Liễu tức giận, đem quân làm loạn. Vua Thái-tông bị Thủ Độ hiếp chế như thế, trong bụng cũng không yên, đến hôm trốn ra, lên chùa Phù-vân, trên núi Yên-tử (huyện Yên-hưng, tỉnh Quảng-yên). Trần thủ Độ biết tin ấy, đem quân thần đi đón Thái-tông về. Thái-tông không chịu về, nói rằng: "Trẫm c̣n nhỏ-dại, không kham nổi việc to lớn, các quan nên chọn người khác để cho khỏi nhục xă-tắc". Thủ Độ nói măi không nghe, ngảnh lại bảo bác quan rằng: "Hoàng-thượng ở đâu là Triều-đ́nh ở đấy!" Nói đoạn, truyền sắp sửa xây cung điện ở chùa Phù-vân. Quốc-sư ở chùa ấy thấy thế, vào van lạy Thái-tông về Triều, Thái-tông bất-đắc-dĩ truyền xa-giá về Kinh. Được ít lâu 35

Chiêu Thánh Hoàng Hậu bấy giờ mới có 19 tuổi. Trần Liễu biết sức ḿnh không làm ǵ nổi, bèn nhân lúc Thái-tông ngự thuyền đi chơi, giả làm người đánh cá lẻn xuống thuyền ngự, xin hàng. Hai anh em ôm nhau mà khóc. Thủ Độ nghe tin, đến rút gươm toan giết Trần Liễu, Thái-tông can măi mới thôi. Sau Thái-tông lấy đất Yên-phụ, Yên- đường, Yên-sinh và Yên-bang (ở huyện Đông-triều và phủ Kinh-môn, Hải- dương) cho Trần Liễu làm thái-ấp và phong cho làm An-sinh-vương. Thủ Độ đă hại hết cả ḍng dỏi họ Lư, lại muốn cho họ Lư không c̣n ai nhớ đến họ Lư nửa, mới nhân v́ tổ nhà Trần tên là Lư, bắt trong nước ai là họ Lư đều phải cải là họ Nguyễn.

Thủ Độ là người rất gian-ác đối với nhà Lư, nhưng lại là một người đại công-thần của nhà Trần. Một tay cáng-đán bao nhiêu trong-sự, giúp Thái-công b́nh-phục được giặc-giă trong nước và chỉnh-đốn lại một việc, làm cho nước Nam ta bấy giờ được cường thịnh, ngày sau có thể chống-cự với Mông-cổ, khỏi phải làm nô-lệ những kẻ hùng-cường.

2. Việc Đánh Dẹp Giặc Giă.

Nước An-nam từ khi vua Cao-tông nhà Lư thất chính, trong nước chỗ nào cũng có giặc-giă. ở mạn Quốc-oai th́ có giặc Mường làm loạn, ở Hồng-châu th́ có Đoàn Thượng chiếm giữ đất Đường hào, tự xưng làm vua, ở Bắc-giang th́ có Nguyễn Nộn độc-lập xưng vương ở làng Phù-đổng. Ấy là một nước mà chia ra làm mấy giang-sơn. Khi Trần thủ Độ đă thu-xếp trong việc cướp ngôi nhà Lư rồi, mới đem quân đi đánh dẹp. Trước lên b́nh giặc Mường ở Quốc-oai, sau về đánh bọn Đoàn Thượng và Nguyễn Nộn. Nhưng thế-lực hai người ấy mạnh lắm, Trần thủ Độ đánh không lại, bèn chia đất cho hai người làm vương để giảng-ḥa.

Năm mậu-tí (1228) Nguyễn Nộn đem quân đánh Đoàn Thượng, chiếm giữ lấy đất Đường-hào, thanh-thế lừng-lẫy. Trần thủ Độ đă lấy làm lo. Nhưng chỉ được mấy tháng, th́ Nguyễn Nộn chết. Từ đó các châu huyện trong nước lại thống-hợp làm một.

3. Việc Cai Trị.

Cứ theo phép nhà Lư th́ làng nào có bao nhiêu người đi làm quan văn, quan vơ, thơ-lại, quân lính, hoàng-nam, lung-lăo, tàn-tật, và những người đến ở ngụ cư, hay là những người xiêu-lạc đến trong làng, th́ xă-quan phải khai vào cả quyển sổ gọi là trường-tịch. Ai có quan-tước mà có con được thừa ấm th́ con lại được vào làm quan, c̣n những người giàu-có, mà không có quan-tước th́ đời đời cứ phải đi lính. Thái-tông lên làm vua phải theo phép ấy, cho nên đến năm mậu-tí (1228) lại sai quan vào Thanh-hóa làm lại trường-tịch theo như lệ ngày trước.

Năm nhâm-dần (1242) Thái-tông chia nước Nam ra làm 12 lộ. Mỗi lộ đặt quan cai-trị là An-phủ-sứ, chánh-phó 2 viên. Dưới An-phủ-sứ có quan Đại-tư-xă và Tiểu-tư-xă. Từ ngũ phẩm trở lên th́ làm Đại-tư-xă, lục phẩm trở xuống th́ làm Tiểu-tư-xă, mỗi viên cai-trị, hoặc hai xă, hoặc ba bốn xă. Mỗi xă lại có một viên xă-quan là Chánh-sử-giám. Lộ nào cũng có quyển dân-tịch riêng của lộ ấy.

4. Việc Thuế Má.

Người trong nước phân ra từng hạng: con trai từ 18 tuổi th́ vào hạng tiểu-hoàng-nam, từ 20 tuổi vào hạng đại-hoàng-nam. C̣n từ 60 tuổi trở lên th́ vào lăo hạng.

Thuế thân: Thuế thân thời bấy giờ tùy theo số ruộng mà đánh, ai có một hai mẫu ruộng th́ phải đóng một năm một quan tiền thuế thân; ai co ba bốn mẫu, th́ phải đóng hai quan; ai co năm mẫu trở lên, th́ đóng ba quan. Ai không có mẫu nào, th́ không phải đóng thuế.

Thuế ruộng: Thuế ruộng th́ đóng bằng thóc: cứ mỗi một mẫu th́ chủ điền phải đóng 100 thăng thóc.

C̣n như ruộng công, th́ có sách chép rằng đời nhà Trần có hai thứ ruộng công, mỗi thứ phân ra làm ba hạng.

1. Một thứ gọi là ruộng quốc-khố: hạng nhất mỗi mẫu đánh thuế 6 thạch 80 thăng thóc; hạng nh́ mỗi mẫu 4 thạch; hạng 3 mỗi mẫu 3 thạch. 2. Một thứ gọi là thác-điền 36 : hạng nhất mỗi mẫu đánh thuế một thạch thót; hạng nh́ ba mẫu lấy một thạch, hạng ba, bốn mẫu lấy một thạch.

C̣n ruộng ao của công-dân th́ mỗi mẫu lấy ba thăng thóc thuế. Ruộng muối phải đóng bằng tiền.

Các thứ thuế: Có sách chép rằng nhà Trần đánh cả thuế trầu cau, thuế hương yên-tức, và tôm, cá, rau, quả, ǵ cũng đánh thuế cả. 36

Sử chép rằng ông Lê Phụng Hiểu đời vua Lư Thái Tông đi đánh giặc lập được nhiều công. Sau vua định phong tước cho ông, ông từ chối, xin lên núi ném con dao, hễ rơi đến đâu xin lấy đất làm tư nghiệp. Vua thuận cho. Lê Phụng Hiểu lên núi Băng Sơn ném con dao xuống xa được 10 dặm. Vua bèn lấy ruộng ở chung quanh núi Băng Sơn cho ông Lê Phụng Hiểu, gọi là thác đao điền. Sau thành ra tên thác điền là ruộng để thưởng công cho các quan. C̣n như vàng bạc tiêu-dụng trong nước th́ tiêu bằng phân, lượng đă đúc sẵn, có hiệu nhà nước. Khi nào đóng nộp cho vua quan, th́ một tiền là 70 đồng, mà thường tiêu với nhau th́ một tiền chỉ có 69 đồng mà thôi.

5. Việc Đắp Đê.

Nước Nam ta ở mạn đường ngược th́ lắm núi, mà ở trung châu th́ nhiều sông ng̣i, cho nên đến mùa lụt nước ngàn, nước lũ chảy về ngập mất cả đồng-điền. V́ vậy năm mậu-thân (1244) Thái-tông sai quan ơở các lộ đắp đê ở hai bên bờ sông cái (Hồng-hà), gọi là Đỉnh-nhĩ-đê. Lại đặt quan để coi việc đê, gọi là Hà-đê chánh phó-sứ hai viên. Hễ chỗ nào mà đê đắp vào ruộng của dân, th́ nhà nước cứ chiếu theo giá ruộng mà bồi thường cho chủ ruộng.

6. Việc Học Hành.

Năm nhăm-th́n (1232) mở khoa thi Thái-học-sinh (thi Tiến-sĩ). Từ đời nhà Lư cũng đă có thi nho-sĩ, nhưng chỉ thi Tam-trường mà thôi, đến bây giờ mới có khoa thi Thái-học-sinh, chia ra thứ bậc, làm ba giáp để định cao thấp. Đến khoa thi năm đinh-vị (1247) lại đặt ra tam-khôi: trạng nguyên, bảng-nhăn, thám-hoa. Khoa thi năm đinh-vị này có Lê văn Hưu, là người làm sử nước Nam trước hết cả, đổ bảng-nhăn. Năm ấy lại có mở khoa thi Tam-giáo: Nho, Thích, Lăo, ai hơn th́ đổ khoa giáp, ai kém th́ đổ khoa ất.

Xem như thế th́ sự học-vấn đời nhà Trần cũng rộng: Nho, Thích, Lăo cũng trọng cả. Nhưng không rơ cách học-hành và phép thi-cử bấy giờ ra thế nào, bởi v́ chỗ này sử chỉ nói lược qua mà thôi.

Năm quí-sửu (1253) lập Quốc-học-viện để giảng tứ-thư ngũ-kinh và lập giảng-vơ-đường để luyện-tập-vơ-nghệ.

7. Pháp Luật . Sử chép rằng năm giáp-th́n (1244) vua Thái-tông có định lại các luật-pháp, nhưng không nói rơ định ra thế nào. Xét trong sách " Lịch-triều hiến-chương " của ông Phan huy Chủ th́ phép nhà Trần đặt ra là hễ những người phạm tội trộm-cắp đều phải chặt tay, chặt chân, hay là cho voi giày. Xem như thế th́ h́nh-luật bấy giờ nặng lắm.

8. Quan Chế . Quan-chế đời nhà Trần cũng sửa-sang lại cả. Bấy giờ có Tam-công, Tam-thiếu, Thái-úy, Tư-mă, Tư-đồ, Tư-không, làm văn-vơ đại- thần. Tể-tướng th́ có Tả-hữu Tường-quốc, Thủ-tướng, Tham-tri. Văn-giai nột chức, th́ có các bộ Thượng-thư, Thị-lang, Lang-trung, Viên-ngoại, Ngự- sử, v.v... Ngoại chức, th́ có An phủ-sứ, Tri-phủ, Thông-phán, Thiêm-phám v.v... C̣n vơ-giai nội-chức, th́ có Phiêu-kỵ thượng-tướng-quân, Cẩm-vệ thượng-tướng quân, Kim-ngô đại-tướng-quân, Vơ-vệ đại-tướng-quân, Phó đô-tướng-quân v.v... Ngoại chức th́ có Kinh-lược-sứ, Pḥng-ngự-sứ, Thủ- ngự-sứ, Quan-sát-sứ, Đô-hộ, Đô-thống, Tổng-quản, v.v...

Quan-lại đời bấy giờ, cứ 10 năm, th́ được thăng lên một hàm, và 15 năm mới được thăng lên một chức.

Đời nhà Trần tuy quan-lại th́ nhiều, nhưng vua quan có ư thân-cận với nhau lắm. Hễ khi nào vua đăi yến, các quan uống rượu xong rồi, th́ ra dắt tay nhau mà múa hát, không có giữ lễ-phép nghiêm-khắc như những đời sau.

9. Binh Chế.

Từ khi Thái-tông lên ngôi làm vua th́ việc binh-lính một ngày một chỉnh-đốn thêm. Bao nhiêu những người dân-tráng trong nước đều phải đi lính cả. Các quân-vương ai cũng được quyền mộ tập quân-lính. V́ cớ ấy cho nên đến sau người Mông-cổ sang đánh, nước Nam ta có hơn 20 vạn quân để chống với quân nghịch. Trừ những giặc-giă nhỏ-mọn ở trong nước không kể chi, nước Nam ta bấy giờ ở phía nam có Chiêm-thành, phía bắc có quân Mông-cổ sang quấy-nhiễu cho nên phải đánh -dẹp luôn.

10. Việc Đánh Chiêm Thành.

Từ khi Thái-tông lên làm vua, nước Chiêm-Thành đă sang cống-tiến, nhưng thường vẫn sang cướp phá, và cứ đ̣i lại đất cũ. Thái-tông lấy làm tức giận, bèn sửa-soạn sự đi đánh Chiêm-thành. Năm nhăm-tí (1252) ngài ngự-giá đi đánh, bắt được vương- phi nước Chiêm tên là Bố-gia-la và quân dân nước ấy rất nhiều.

11. Quân Mông Cổ Xâm Phạm Đất An Nam.

Trong khi nhà Lư mất ngôi, nhà Trần lên làm vua ở An-nam, th́ nhà Tống bên Tàu bị người Mông-cổ đánh phá. Nguyên ở phía bắc nước Tàu có một dân-tộc gọi là Mông-cổ, ở vào khoảng thượng-lưu sông Hắc-long-giang (Amour). Người Mông-cổ hung tợn, mà lại có tính hiếu chiến, người nào cưỡi ngựa cũng giỏi, và bắn tên không ai bằng. Binh-lính thường là quân-kị, mà xếp-đặt thành cơ nào đội ấy, thật là có thứ-tự, và người nào cũng tinh nghề chiến-đấu.

Bởi tính-chất và binh-pháp của người Mông-cổ như thế, cho nên Thiết-mộc-chân (Témoudjine) tức là Thành-cát-tư-hăn (Gengis khan), miêu- hiệu là Nguyên-thái-tổ, mới chiếm giữ được cả vùng Trung-Á, cùng đất Ba- tư, sang đến phía đông-bắc Âu-la-ba. Sau quân Mông-cổ lại lấy được nước Tây-hạ, phía tây nước bắc Tàu, dứt được nước Kim và tràn sang đến nước Triều-tiên (Cao-ly).

Thành-cát-tư-hăn mất, người con thứ ba là A-loa-đài (Agotai) lên làm vua tức là Nguyên-thái-tông. A-loa-đài truyền cho con là Quí-do (Gouyouk) tức là Nguyên Định-tông. Quí-do làm vua được non ba năm th́ mất, ngôi vua Mông-cổ về chi khác. Người em con nhà chú là Mông-kha (Mong-ké) lên làm vua, tức là Nguyên Hiến-tông.

Mông-kha sai hai em là Hạt-lỗ (Houlagen) sang kinh-lư việc nước Ba- tư, và Hốt-tất-liệt (Koubilai) sang đánh nhà Tống bên Tàu. Trong khi quân Mông-cổ sang đánh nhà Tống, th́ Mông-kha mất, Hốt-tất-liệt phải rút binh về lên ngôi vua, tức là Nguyên Thế-tổ. Hốt-tất-liệt lên làm vua rồi đổi quốc hiệu là Nguyên.

Hốt-tất-liệt lại sang đánh nhà Tống. Từ đó cả nước Tàu thuộc về Mông-cổ cai-trị.

Khi Mông-kha hăy c̣n, Hốt-tất-liệt đem quân sang đánh nhà Tống, có sai một đạo quân đi đánh nước Đại-lư (thuộc tỉnh Vân-nam bây giờ) tướng Mông-cổ là Ngột-lương-hợp-thai (Wouleangotai) sai sứ sang bảo vua Trần-thái-tông về thần-phục Mông-cổ.

Thái-tông không những là không chịu, lại bắt giam sứ Mông-cổ, rồi sai Trần quốc Tuấn đem binh lên giữ ở phía Bắc. Bấy giờ là năm đinh-tị (1257).

Trần quốc Tuấn ít quân đánh không nổi, lùi về đóng ở Sơn-tây. Quân Mông-cổ kéo tràn xuống đến sông Thao. Thái-tông phải ngự-giá thân chinh, nhưng đánh không được, chạy về đóng ở sông Hồng-hà 37 . Quân Mông-cổ tiến lên đánh đuổi quân nhà Trần đến Đông-bộ-đầu (phía đông sông Nhị-hà ở hạt huyện Thượng-phúc). Thái-tông phảI bỏ kinh-đô, chạy về đóng ở sông Thiên-mạc (về hạt huyện Đông-an, tỉnh Hưng-yên).

Quân Mông-cổ vào thành Thăng-long, thấy ba người xứ Mông-cổ c̣n phải trói, giam ở trong ngục, đến khi cởi trói ra th́ một người chết. Ngột-lương-hợp-thai thấy thế tức giận quá, cho quân ra giết phá cả nam phụ lăo ấu ở trong thành.

Bấy giờ thế nguy, Thái-tông ngự thuyền đến hỏi Thái-úy là Trần nhật Hiệu. Nhật Hiệu không nói ǵ cả, cầm sào viết xuống nước hai chữ "Nhập Tống". Thái-tông lại đến hỏi Thái-sư Trần thủ Độ. Thủ Độ nói rằng: " Đầu tôi chưa rơi xuống đất, th́ xin Bệ-hạ đừng lo! ". Thái-tông nghe thấy Thủ Độ nói cứng-cỏi như thế, trong bụng mới yên. 37

Sử ta chép là sông Phú Lương.

Được ít lâu quân Mông-cổ ở nước Nam không quen thủy-thổ xem ra bộ mỏi-mệt. Thái-tông mới tiến binh lên đánh ở Đông-bộ-đầu. Quân Mông- cổ thua chạy về đến trại Qui-hóa, lại bi chủ trại đấy chiêu-tập thổ dân ra đón đánh. Quân Mông-cổ thua to, rút về Vân-nam, đi đường mỏi-mệt, đến đâu cũng không cướp-phá ǵ cả, cho nên người ta gọi là giặc Phật.

Quân Mông-cổ tuy thua phải rút về, nhưng chẳng bao lâu vua Mông- cổ dứt được nhà Tống, lấy được nước Tàu, rồi có ư muốn bắt vua nước Nam ta sang chầu ở Bắc-kinh, bởi vậy lại sai sứ sang đ̣i lệ cống. Vua Thái-tông sai Lê phụ Trần sang sứ xin cứ ba năm sang cống một lần.

Mùa xuân năm mậu-ngọ (1258), Thái-tông nhường ngôi cho Thái-tử là Trần Hoảng, để dạy-bảo mọi việc về cách trị nước, và đề pḥng ngày sau anh em không tranh nhau. Triều-đ́nh tôn Thái-tông lên làm Thái-thượng- hoàng để cùng coi việc nước. Thái-tông trị-v́ được 33 năm, làm Thái- thượng-hoàng được 19 năm th́ mất, thọ 60 tuổi.

II. TRẦN THÁNH-TÔNG (1258-1278)

Niên-hiệu: Thiệu-long (1258-1272) Bảo-phù (1273-1278)

1. Việc Chính Trị.

Thái-tử Hoảng lên ngôi, tức là vua Thánh-tông, đổi niên-hiệu là Thiệu-long.

Thánh-tông là ông vua nhân-từ trung-hậu ở với anh em họ hàng rất là tử-tế. Thường hay nói rằng: " Thiên-hạ là của ông cha để lại, nên để cho anh em cùng hưởng phú-quí chung ". Rồi cho các hoàng-thân vào nội điện, cùng ăn một mâm, nằm một giường, thật là thân-ái, chỉ có lúc nào ra việc công, hoặc buổi chầu, th́ mới phân thứ-tự theo lễ-phép mà thôi.

C̣n việc nước th́ thật ngài có ḷng lo giữ cho dân được yên trị. Trong 21 năm, ngài làm vua không có giặc-giă ǵ cả. Việc học-hành cũng mở mang thêm: cho Hoàng-đệ Trần ích Tắc là một người hay chữ trong nước lúc ấy, mở học-đường để những người văn-sĩ học-tập. Danh nho Mạc đỉnh Chi cũng học ở trường ấy ra.

Đời bấy giờ Lê văn Hưu làm xong bộ Đại-Việt sử thành 30 quyển, chép từ Triệu Vơ-vương đến Lư Chiêu-hoàng. Bộ sử này khởi đầu làm từ Trần Thái-tông đến năm nhâm-thân (1272) đời Thánh-tông mới xong. Nước Nam ta có quốc-sử khởi đầu từ đấy.

Thánh-tông lại bắt các vương-hầu, pḥ-mă phải chiêu-tập những người nghèo-đói lưu-lạc để khai-khẩn hoang điền làm trang hộ. Trang-điền có từ đấy.

2. Sự giao-thiệp với Mông-Cổ.

Nước tuy được yên, song việc giao-thiệp với Tàu một ngày một khó thêm. Đời bấy giờ Mông-cổ đă đánh được nhà Tống rồi, chỉ chực lấy nước An-nam, nhưng v́ trước tướng Mông- cổ đă đánh thua một trận, vả trong nước Tàu vẫn chưa được yên, cho nên vua Mông-cổ muốn dụng kế dụ vua An-nam sang hàng-phục, để khỏi dùng can-qua. Vậy cứ vài năm lại cho sứ sang sách-nhiễu điều nọ điều kia, và dụ vua An-nam sang chầu, nhưng vua ta cứ nay lần mai lữa, không chịu đi. Sau nhân dịp Thái-tông nhừờng ngôi cho Thánh-tông, vua Mông-cổ sai sứ sang phong vương cho Thánh-tông, và tuy không bắt nước Nam phải đổi phục-sắc và chính-trị, nhưng định cho ba năm phải một lần cống. Mà lệ cống th́ phải cho nho-sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy toán-số và thợ-thuyền mổi hạng ba người, cùng với các sản-vật như là sừng tê, ngà voi, đồi-mồi, châu-báu và các vật lạ. Vua Mông-cổ lại đặt quan Đạt-lỗ-hoa-xích (tiếng Mông-cổ tức là quan Chưởng-ấn), để đi lại giám-trị các châu-quận nước Nam.

Ư Mông-cổ muốn biết nhân-vật tài-sản nước Nam ta có những ǵ, và học-vấn xảo-kỹ ra sao, để liệu đường mà đánh lấy cho tiện. Và tuy rằng quyền chính-trị vẫn để cho vua nước Nam, nhưng đặt quan giám-trị để dần dần lập thành Bảo-hộ.

Thánh-tông bề ngoài tuy vẫn chịu thần-phục, nhưng trong bụng cũng biết rằng Mông-cổ có ư đánh lấy nước ḿnh, cho nên cứ tu binh dụng vơ để pḥng có ngày tranh chiến. Vậy tuyển đinh-tráng các lộ làm lính, phân quân-ngũ ra làm quân và đô: mỗi quân có 30 đô, mỗi đô có 80 người, bắt phải luyện tập luôn.

Năm bính-dần (1266) nhân sứ Mông-cổ sang, Thánh-tông sai quan sang Tàu đáp lễ và xin đừng bắt nho-sĩ, thầy bói, và các thợ-thuyền sang cống. Vua Mông-cổ ưng cho, nhưng bắt chịu 6 điều khác:

1. Vua phải thân vào chầu

2. Vua phải cho con hay là em sang làm tin

3. Biên sổ dân sang nộp

4. Phải chịu việc binh-dịch

5. Phải nộp thuế-má

Vua An-nam cứ lần-lữa không chịu. Đến năm tân-mùi (1271) vua Mông-cổ là Hốt-tất-liệt cải quốc-hiệu là Đại-nguyên, rồi cho sứ sang dụ Thánh-tông sang chầu nhưng Thánh-tông cáo bệnh không đi.

Năm sau Nguyên-chủ cho sứ sang t́m cột đồng-trụ của Mă Viện trồng ngày trước, nhưng Thánh-tông sai quan sang nói rằng: cột ấy lâu ngày mất đi rồi, không biết đâu mà t́m nữa. Việc ấy cũng thôi.

Đến năm ất-hợi (1275) Thánh-tông sai sứ sang Tàu nói rằng: nước Nam không phải là nước Mường-mán mà đặt quan giám-trị, xin đổi quan Đại-lỗ-hoa-xích làm quan Dẫn-tiến-sứ. Vua nhà Nguyên không cho, lại bắt theo 6 điều đă định trước. Thánh-tông cũng không chịu. Tự đấy vua nhà Nguyên thấy dụng-mưu không được, quyết ư cử binh sang đánh nước Nam, sai quan ở biên-giới do thám địa-thế nước ta. Bên An-nam cũng đặt quan pḥng-bị.

Năm đinh-sửu (1277) Thái-thượng-hoàng mất ở Thiên-trường-phủ (tức là làng Tức-mạc). Năm sau (1278), Thánh-tông nhường ngôi cho Thái- tử Khâm, rồi về ở Thiên-trường làm Thái-thượng-hoàng.

Thánh-tông trị v́ được 21 năm, làm Thái-thượng-hoàng được 13 năm, thọ 51 tuổi.

III. TRẦN NHÂN-TÔNG (1279-1293)

Niên-hiệu: Thiệu-bảo (1279-1284) Trùng-hưng (1285-1293)

1. Việc Chính Trị.

Thái-tử Trần Khâm lên làm vua, tức là vua Nhân-tông.

Lúc bấy giờ sứ nhà Nguyên đi lại hạch điều này, trách điều nọ, triều- đ́nh cũng có lắm việc bối-rối. Nhưng nhờ có Thánh-tông thượng-hoàng c̣n coi mọi việc và các quan triều-đ́nh nhiều người có tài-trí, vua Nhân-tông lại là ông vua thông-minh, quả-quyết, mà người trong nước th́ từ vua quan cho chí dân-sự đều một ḷng cả, cho nên từ năm giáp-thân (!284) đến năm mậu- tí (1288) hai lần quân Mông-cổ sang đánh rồi không làm ǵ được.

Trừ việc chiến-tranh với quân Mông-cổ ra, để sau sẽ nói, trong đời vua Nhân-tông lại c̣n giặc Lào, thường hay sang quấy-nhiễu ở chỗ biên- thùy, bởi vậy năm canh-dần (1290) vua Nhân-tông lại phải ngự giá đi đánh Lào.

2. Việc Văn Học . Đời vua Nhân-tông có nhiều giặc-giă, tuy vậy việc văn-học cũng hưng-thịnh lắm. Xem bài hịch của Hưng-đạo-vương, thơ của ông Trần quan Khải và của ông Phạm ngũ Lăo th́ biết là văn-chương đời bấy giờ có khí-lực mạnh-mẽ lắm. Lại có quan H́nh-bộ Thượng-thư là ông Nguyễn Thuyên khởi đầu dùng chữ Nôm mà làm thơ-phú. Ông Nguyễn Thuyên là người Thanh-lâm 38 , tỉnh Hải-dương, có tiếng tài làm văn như ông Hàn Dũ bên Tàu ngày xưa, bởi vậy vua cho đổi họ là Hàn. Về sau người ḿnh theo lối ấy mà làm thơ, gọi là Hàn-luật.

Năm quí-tị (1293) Nhân-tông truyền ngôi cho Thái-tử tên là Thuyên, rồi về Thiên-trường làm Thái-thượng-hoàng. Nhân-tông trị-v́ được 14 năm, nhường ngôi được 13 năm, thọ 51 tuổi.  38

Làng Lai Hạ, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, nay thuộc huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh.

 

CHƯƠNG VII GIẶC NHÀ NGUYÊN I (1284-1288)

 

1. Sài Thung sang sứ An-nam 2. Trần di Ái theo nhà Nguyên 3. Thoát Hoan sang đánh lần thứ nhất 4. Trần Hưng-đạo-vương quân thua về vạn-kiếp 5. Thành Thăng-long thất-thủ 6. Toa Đô đánh Nghệ-an 7. Hưng-đạo-vương đem vua về Thanh-hóa 8. Trận Hàm-tử-quan: Trần nhật Duật phá quân Toa Đô 9. Trận Chương-dương-Độ: Trần quang Khải khôi-phục Thăng-long 10. Trận Tây-kết: tướng nhà Trần chém Toa-Đô 11. Trận Vạn-kiếp: Thoát Hoan trốn chạy về Tàu

1. Sài Thung Sang Sứ An Nam . Nhà Nguyên nghe tin Trần Thái-tông mới mất và Thánh-tông nhượng-vị, liền sai Lễ-bộ thượng-thư là Sài Thung sang sứ, đi tự Giang-lăng (Hồ-bắc), qua Ung-châu (Quảng-tây) rồi sang nước Nam, chứ không đi qua tỉnh Vân-nam như các sứ-thần trước.

Sài Thung đến kinh-thành, lên mặt kiêu-ngạo,cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương-minh, rồi cho người đưa thư vào trách Nhân-tông rằng: "Sao không xin phép triều-đ́nh nhà Nguyên, mà dám tự-lập, vậy phải sang chầu Thiên-triều Hoàng-đế mới xong". Nhân-tông sai quan đại-thần ra tiếp. Thung không thèm đáp lễ; vua bày yến mời, Thung không thèm đến. Đ́nh- thần An-nam ai cũng lấy làm tức giận nhưng không dám nói ra.

Sau vua phải dọn yến ở điện Tập-hiền, mời măi Sài Thung mới đến. Đương khi uống rượu, Nhân-tông bảo Sài Thung rằng: "Quả-nhân xưa nay sinh-trưởng ở trong cung không quen phong-thổ, không thể nào đi được".

Được mấy hôm Sài Thung về nước. Nhân-tông sai sứ mang thư sang Tàu nói không thể sang chầu được. Nguyên-triều thấy vua An-nam không chịu sang chầu, và cứ đưa thư sang nói thoái-thác ra việc nọ việc kia, ư muốn cầm quân sang đánh, nhưng c̣n chưa quyết.

2. Trần Di Ái Theo Nhà Nguyên.

Năm nhâm-ngọ (1282) Nguyên-chủ lại cho sứ sang dụ rằng: "Nếu vua nước Nam không sang chầu được th́ phải đưa vàng ngọc sang thay, và phải nộp hiền-sĩ, thầy âm-dương bói-toán, thợ khéo mỗi hạng 2 người ".

Nhân-tông sai người chú họ là Trần di Ái và Lê Tuân, Lê Mục sang thay cho ḿnh. Nhưng Nguyên-chủ không bằng ḷng, quyết ư chiếm giữ quyền cai-trị nước Nam, bèn xuống chỉ lập ṭa Tuyên-phủ-ti, đặt quan liêu- thuộc để sang giám-trị các châu huyện. Quan nhà Nguyên sang đến nơi, Nhân-tông không nhận, đuổi về Tàu.

Nguyên-chủ thấy vậy giận lắm, bèn lập Trần di Ái làm An-nam quốc- vương, phong cho Lê Mục làm Hàn-lâm học-sĩ, Lê Tuân làm Thượng-thư- lệnh, và sai Sài Thung dẫn 1.000 quân đưa bọn ấy về nước.

Trần di Ái thấy Nguyên-chủ phong cho cũng nhận, đưa về cũng về; chắc trong bụng đồ là chuyến này nhờ sức Mông-cổ, may việc xong, th́ được làm vua, nhược bằng không xong, th́ đổ cho là Nguyên-chủ bắt-ép; v́ thế mới theo Sài Thung về.

Sài Thung đưa bọn Trần di Ái đến gần ải Nam-quan, có tin phi-báo về Kinh-đô. Nhân-tông liền sai tướng dẫn một đội quân lên đón đường đánh lũ nghịch-thần. Sài Thung bị tên bắn mù mất một mắt, trốn chạy về Tàu, c̣n lũ Trần di Ái bị bắt, phải tội đồ làm lính.

3. Thoát Hoan Sang Đánh Lần Thứ Nhất.

Nguyên-chủ thấy Sài Thung bị thương chạy về tức giận lắm, bèn sai con là Thoát Hoan làm Trấn-nam-vương, cùng với bọn Toa-Đô, Ô mă Nhi dẫn 50 vạn quân, giả tiếng mượn đường đi qua nước Nam sang đánh Chiêm-thành.

Quan trấn-thủ Lạng-sơn do-thám được tin ấy, sai người về Kinh-đô phi báo. Nhân-tông ngự thuyền ra sông B́nh-than 39

chỗ sông Đuống nối với sông Thái-b́nh, để hội các vương-hầu bách quan lại bàn kế chống giữ.

Các quan, người th́ nói nên để cho quân Nguyên mượn đường, người th́ bảo nên đưa đồ sang cống để xin hoăn binh. Duy có Trần quốc Tuấn và Trần khánh Dư quyết xin đem quân đi pḥng-giữ các nơi hiểm-yếu, 39

Làng B́nh Than, tổng Vạn Ti, huyện Gia B́nh, tỉnh Bắc Ninh. không cho quân Mông-cổ sang nước Nam. Nhân-tông ưng nghe lời ấy. Đến tháng mười năm quí-mùi (1283) phong cho Hưng-đạo-vương là Trần-quốc- Tuấn làm Tiết-chế thống-lĩnh mọi quân đi chống giữ với quân nhà Nguyên.

Qua tháng tám năm giáp-thân (1284) ông Trần quốc Tuấn truyền hịch cho các vương-hầu hội hết quân-sĩ tại bến Đông-bộ-đầu để điểm-duyệt. Quân thủy và quân bộ hết cả thảy 20 vạn.

Ông Trần quốc Tuấn truyền cho các tướng-sĩ rằng: "Bản-chức phụng-mệnh thống đốc quân-sĩ ra phá giặc. Các vương-hầu và các tướng-sĩ, ai nấy phải cần giữ phép-tắc, đi đâu không được nhiễu dân và phải đồng ḷng hết sức đánh giặc, chớ thấy thua mà ngă ḷng, chớ thấy được mà tự kiêu, việc quân có luật, phép nước không thân, các ngươi phải giữ ". Xong rồi sai Trần b́nh Trọng đem quân đi đóng đồn ở trên sông B́nh-than, Trần khánh Dư đem quân ra giữ mặt Vân-đồn (thuộc Vân-hải ở Quảng-yên), c̣n các tướng th́ chia ra đóng các nơi hiểm-yếu. Trần quốc Tuấn tự dẫn đại quân đóng ở Vạn-kiếp (tức là làng Kiếp-bạc thuộc Hải-dương) để tiếp-ứng cho các nơi.

Được ít lâu, Nhân-tông nghe tin về báo rằng nhà Nguyên hội tại Hồ- quảng sắp sửa kéo sang mặt Lạng-sơn. Vua có ư lo quân ta không địch nổi, bèn sai sứ mang đồ lể sang Tàu, xin vua nhà Nguyên hoăn binh, để thương- nghị lại.

Vua nhà Nguyên không nghe, sai Thoát Hoan cứ việc tiến binh sang. Nhân-tông thấy vậy, lập tức cho triệu các bô-lăo dân-gian hội tại điện Diên- hồng để bàn xem nên ḥa hay nên đánh. Các bô-lăo đều đồng thanh xin đánh. Vua thấy dân-gian một ḷng như vậy, cũng quyết ư kháng cự.

Quân Nguyên chia ra làm hai đạo: một đạo do tướng Mông-cổ là Toa Đô đem 10 vạn quân từ Quảng-châu đi hải-đạo sang đánh Chiêm-thành; c̣n Thoát Hoan th́ kéo đại binh đến ải-quan, sai người đưa thư sang nói cho mượn đường đi đánh Chiêm-thành.

Nhân-tông tiếp được thư của Thoát Hoan, trả lời lại rằng: "Tự bản- quốc sang Chiêm-thành, thủy lục không có đường nào tiện ". Sứ-giă về nói với Thoát Hoan, Thoát Hoan nổi giận, thúc quân kéo sang mạn Lạng-sơn, rồi sang quan Bả-tổng tên là A Lư đến dụ rằng: "Bản-súy chỉ nhờ đường Nam- quốc sang đánh Chiêm-thành, chứ không có bụng ǵ đâu mà ngại. Nên mở cửa ải cho quân bản-súy đi, và đi dến đâu, nhờ giúp ít nhiều lương-thảo, rồi khi nào phá xong Chiêm-thành th́ sẽ có trọng ta về sau. Nhược bằng kháng-cự thiên binh, th́ bản-súy sẽ không dong t́nh, phá tan bờ-cơi, bấy giờ dù hối lại cũng không kịp ".

Hưng-đạo-vương Trần quốc Tuấn nổi giận, đuổi A Lư về, rồi phân binh giữ ải Khả-li và Lộc-châu (thuộc Lạng-sơn) c̣n ḿnh th́ tự dẫn quân đi đóng giữ núi Ḱ-cấp. Những chiến thuyền th́ đóng ở Bái-tân 40  giữ mặt thủy.

4. Trần Hưng Đạo Vương Quân Thua Về Vạn Kiếp.

Thoát Hoan thấy Hưng-đạo-vương giữ cả các nơi, liền tiến binh lên đánh núi Ḱ-cấp, ải Khả-li và ải Lộc-châu. Quân hai bên đánh nhau ở núi Ḱ-cấp hai ba trận không phân thắng bại. Nhưng sau v́ Khả-li và Lộc-châu thất thủ, quân An-nam phải rút về ải Chi-lăng 41 . Thoát Hoan dẫn đại binh đến đánh Chi- lăng, Hưng-đạo-vương kém thế, thua chạy ra bến Bái-tân, xuống thuyền cùng với bọn gia-tướng, là Dă Tượng và Yết Kiêu về Vạn-kiếp. Các tướng thu nhặt tàn quân dần dần cũng kéo về đấy cả.

Nhân-tông nghe Hưng-đạo-vương thua chạy về Vạn-kiếp, liền ngự một chiếc thuyền nhỏ xuống Hải-đông (tức là Hải-dương) rồi cho vời Hưng- đạo-vương đến bàn việc, nhân thấy quân ḿnh thua, trong bụng lo sợ, mới bảo Hưng-đạo-vương rằng: "Thế giặc to như vậy, mà chống với nó th́ dân- sự tàn-hại, hay là trẫm hăy chịu hàng đi để cứu muôn dân".

Hưng-đạo-vương tâu rằng: "Bệ-hạ nói câu ấy th́ thật là lời nhân- đức, nhưng mà Tôn-miếu Xă-tắc th́ sao? Nếu bệ-hạ muốn hàng, xin trước hăy chém đầu tôi đi đă, rồi sau sẽ hàng!". Vua nghe lời nói trung-liệt như vậy, trong bụng mới yên.

Hưng-đạo-vương chiêu-tập quân các đạo, hội tại Vạn-kiếp được hơn 20 vạn quân, thế lại nổi to. Bấy giờ Hưng-đạo-vương có soạn ra một quyển B́nh-thư yếu-lược

rồi truyền hịch khuyên-răn các tướng-sĩ. Tờ hịch ấy làm bằng Hán-văn, nay dịch ra quốc âm như sau này:

"Ta thường nghe chuyện: Kỷ Tín liều thân chịu chết thay cho vua Cao-đế; Do Vu lấy ḿnh đỡ ngọn giáo cho vua Chiêu-vương; Dư Nhượng nuốt than để báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước; Kính Đức là một chức quan c̣n nhỏ, mà liều thân cứu vua Thái-tông được thoát ṿng vây; Kiểu Khanh là một bề tôi ở xa, mà kể tội mắng thằng Lộc Sơn là quân nghịch-tặc. Các bậc trung-thần nghĩa-sĩ ngày xưa, bỏ ḿnh v́ nước, đời nào không có? Giả-sử mấy người ấy cũng cứ bo bo theo lối thường t́nh, chết già ở xo nhà th́ sao cho lưu danh sử-sách đến ngh́n muôn đời như thế được? Nay các ngươi vốn ḍng vũ-tướng, không hiểu văn-nghĩa, nghe những chuyện cổ-tích ấy, nửa tin nửa ngờ, ta không nói làm ǵ nửa; ta hăy đem chuyện đời Tống, Nguyên mới rồi mà nói: Vương công Kiên là người thế nào? Tỳ-tướng của Vương công Kiên là Nguyễn văn Lập lại là người thế nào, mà giữ một thành Điếu-ngư 42

nhỏ mọn, chống với quân Mông-kha 43

kể hàng trăm vạn, khiến cho dân sự nhà Tống, đến nay c̣n đội ơn sâu. Đường ngột Ngại là người như thế nào? Tỳ-tướng của Đường ngột Ngại là Xích tu Tư lại là người thế nào, mà xông vào chỗ lam-chướng xa xôi, đánh được quân Nam-chiếu trong vài ba tuần, khiến cho quân-trướng đời Nguyên đến nay c̣n lưu tiếng tốt. Huống chi ta cùng các ngươi sinh ở đời nhiễu- nhương, gặp phải buổi gian-nan này, trông thấy những ngụy-sứ đi lại rầm- rập ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà xỉ-mắng triều-đ́nh, đem thân dê chó mà bắt-nạt tổ-phụ, lại cậy thế Hốt tất Liệt mà đ̣i ngọc-lụa, ỷ thế Vân-nam- vương 44

để vét bạc vàng; của kho có hạn, ḷng tham không cùng, khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, giữ sao cho khỏi tai-vạ về sau! Ta đây, ngày th́ quên ăn, đêm th́ quên ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt đầm-đ́a, chỉ căm-tức rằng chưa được sả thịt lột da của quân giặc, dẫu thân này phơi ngoài nội cỏ, xác này gói trong da ngựa, th́ cũng đành ḷng. Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh-quyền, cũng đă lâu ngày, không có áo th́ ta cho áo, không có ăn th́ ta cho ăn, quan c̣n nhỏ th́ ta thăng thưởng, lương có ít th́ ta tăng cấp, đi thủy th́ ta cho thuyền, đi bộ th́ ta cho ngựa, lúc hoạn-nạn th́ cùng nhau sống chết, lúc nhàn-hạ th́ cùng nhau vui cười, những cách cư-xử so với Vương công Kiên, Đường ngột Ngại ngày xưa cũng chẳng kém ǵ. Nay các ngươi trông thấy chủ nhục mà không biết lo, trông thấy quốc-sĩ mà không biết thẹn, thân làm tướng phải hầu giặc, mà không biết tức, tai nghe nhạc để hiến ngụy sứ, mà không biết căm; hoặc lấy việc chọi gà làm vui- đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu-khiển, hoặc vui thú về vườn ruộng, hoặc quyến-luyến về vợ con, hoặc nghĩ về lợi riêng mà quên việc nước, hoặc ham về săn-bắn mà quên việc binh, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc đến, th́ cựa gà trống sao cho đâm thủng được áo-giáp; mẹo cờ-bạc sao cho dùng nổi được quân mưu; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, thân ấy ngh́n vàng khôn chuộc; vả lại vợ b́u con díu, nước này trăm sự nghĩ sao; tiền-của đâu mà mua cho được đầu giặc; chó săn ấy th́ địch sao nổi quân thù; chén rượu ngon không làm được cho giặc say chết; tiếng  42

Điếu Ngư là tên núi, thuộc phủ Trùng Khánh, tỉnh Tứ Xuyên. 43

Mông Kha (Mungke) là vua Mông Cổ, anh Hốt Tất Liệt. 44

Khi quân Mông Cổ lấy được đất Vân Nam rồi, Hốt Tất Liệt phong cho con là Hố Kha Kích làm Vân Nam Vương. hát hay không làm được cho giặc điết tai; khi bấy giờ chẳng những là thái-ấp của ta không c̣n, mà bổng-lộc của các ngươi cũng hết; chẳng những là gia- quyến ta bị đuổi, mà vợ con của các ngươi cũng nguy; chẳng những là ta chịu nhục bây giờ, mà trăm năm về sau, tiếng xấu hăy c̣n măi măi; mà gia thanh của các ngươi cũng chẵng khỏi mang tiếng nhục, đến lúc bấy giờ các ngươi dẫu muốn vui-vẻ, phỏng có được hay không? Nay ta bảo thật các ngươi: nên cẩn-thận như nơi củi lửa, nên giữ-ǵn như kẻ húp canh, dạy-bảo quân-sĩ, luyện-tập cung tên, khiến cho người nào cũng có sức khỏe như Bàng Mông và Hậu Nghệ, th́ mới có thể dẹp tan được quân giặc, mà lập nên được công-danh. Chẳng những là thái-ấp ta được vững- bền, mà các ngươi cũng đều được hưởng bổng-lộc; chẳng những là gia- quyến của ta được yên-ổn, mà các ngươi cũng đều được vui với vợ con, chẳng những là tiên-nhân ta được vẻ-vang, mà các ngươi cũng được phụng- thờ tổ-phụ, trăm năm vinh-hiển; chẳng những là một ḿnh ta được sung- sướng, mà các ngươi cũng được lưu-truyền sử-sách, ngh́n đời thơm-tho; đến bấy giờ các ngươi dầu không vui-vẻ, cũng tự khắc được vui-vẻ. Nay ta soạn hết các binh pháp của các nhà danh-gia hợp lại làm một quyển gọi là "Binh-thư yếu-lược". Nếu các ngươi biết chuyên-tập sách này, theo lời dạy-bảo, th́ mới phải đạo thần-tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy-bảo, th́ tức là kẻ nghịch-thù. Bởi cớ saỏ Bởi giặc Nguyên cùng ta, là kẻ thù không đội trời chung, thế mà các ngươi cứ điềm-nhiên không nghĩ đến việc báo thù, lại không biết dạy quân-sĩ, khác nào như quay ngọn giáo mà đi theo kẻ thù, giơ tay không mà chịu thu quân giặc, khiến cho sau trận B́nh-lỗ 45

mà ta phải chịu tiếng xấu muôn đời, th́ c̣n mặt-mũi nài đứng trong trời đất nữa. Vậy nên ta phải làm ra bài hịch này để cho các ngươi biết bụng ta".

5. Thành Thăng Long Thất Thủ.

Các tướng-sĩ được lời khuyên- răn ấy, ai nấy hết ḷng luyện-tập, quyết chí đánh giặc, cho nên người nào cũng lấy mực thích vào cánh tay hai chữ "Sát Đát " nghĩa là giết quân Mông-cổ. Khi Thoát Hoan lấy xong các ải ở Lạng-sơn rồi, thừa thắng đánh xuống Vạn-kiếp, quân An-nam non thế, địch không nổi thua chạy, bao nhiêu chuyến thuyền mất cả. Quân Mông-cổ bắt được quân An-nam thấy người nào cũng có hai chử "Sát Đát" ở cánh tay, giận lắm, đem giết sạch cả, rồi kéo tràn sang mặt Kinh-bắc. Thoát Hoan thả quân cho cướp phá vùng Vơ- ninh, Gia-lâm, Đông-ngạn rồi kéo về đóng tại bến Đông-bộ-đầu, Hưng-đạo- vương lập trại mé ngạn để pḥng giữ.  45

B́nh Lỗ là tên thành, nhưng sử cũ không chép rơ ở đâu và ai xây lên. Sách "Khâm Định Việt Sử" chép rằng theo bộ "Dư Địa Chí" của ông Nguyễn Trăi, th́ đời nhà Lư có đào con sông B́nh Lỗ để đi lên Thái Nguyên cho tiện. Vậy thành B́nh Lỗ có lẽ ở vào hạt Thái Nguyên. Xem lời dặn của Trần Hưng Đạo Vương th́ thành B́nh Lỗ này xây vào đời Đinh hay đời Tiền Lê, rồi Lư Thường Kiệt đời Lư đă đánh quân Tống ở đó.

Thoát Hoan thấy phía nam ngạn sông Hồng-hà 46

có trại quân An- nam đóng giữ, mới sai quân lấy súng đại-bác bắn sang, phá tan cả các trại, quân-sĩ khiếp-sợ bỏ chạy hết sạch. Quân Mông-cổ bấy giờ làm cầu phao qua sông, kéo đến tận chân thành Thăng-long hạ trại.

Hưng-đạo-vương rước xa-gía Thượng-hoàng và vua ra ngoài Thăng- long, để các tướng ở lại giữ thành. Đến khi Thoát Hoan vây đánh, hạ được thành, biết rằng Hưng-đạo-vương đă rước xa-giá xuống mặt nam rồi, liền sai tướng dẫn quân đi đuổi đánh.

6. Toa Đô Đánh Nghệ An.

Toa Đô là tướng đạo thứ hai quân Nguyên, đi đường bể sang đánh Chiêm-thành, nhưng mà quân nước Chiêm giữ được các đường hiểm-yếu, đánh măi không được. Nguyên chúa hạ chiếu sai Toa Đô theo đường bộ kéo ra mặt Nghệ-an, hợp với quân Thoát Hoan để đánh An-nam.

Thoát Hoan được biết tin ấy, liền sai tương Ô mă Nhi dẫn quân đi đường bể vào tiếp-ứng cho Toa Đô để đánh tự mặt trong đánh ra, c̣n ở mặt ngoài th́ chiến thuyền của nhà Nguyên chia ra giữ các bến đóng ở sông Hồng-hà 47

từ Thăng-long xuống đến khúc sông Đại-hoàng (thuộc huyện Nam-xang, Hà-nam).

7. Hưng Đạo Vương Đem Vua Về Thanh Hóa.

Bấy giờ Hưng-đạo-vương dẫn các tương hộ-vệ xa-giá xuống Thiên-trường, nghe Toa Đô từ vùng trong kéo ra, Hưng-đạo-vương tâu vua xin sai Thượng-tướng Trần quang Khải đưa binh vào đóng mặt Nghệ-an, giữ chặn đường hẽm, không cho Toa Đô ra, và sai Trần b́nh Trọng ở lại giữ Thiên-trường cự nhau với quân Thoát Hoan, rồi rước xa-giá ra Hải-dương.

Trần quang Khải vào đến Nghệ-an, chia quân pḥng giữ, nhưng mà quân nhà Nguyên thế mạnh, đi đến đâu đánh tan đến đấy, lại có Ô mă Nhi ở mặt bể đánh vào. Quang Khải đương không nổi, phải lui quân ra mặt ngoài. C̣n quan trấn-thủ Nghệ-an là Trần Kiện đem cả nhà ra hàng với Toa Đô. Toa Đô cho đưa bọn Trần Kiện về Yên-kinh.

Hưng-đạo-vương nghe tin, sai tướng đem quân đi lẻn đường tắt đuổi theo. Khi quân Nguyên đưa Trần Kiện đến địa-phận Lạng-sơn, qua trại Ma-lục (?), th́ có người thổ-hào ở đấy tên là Nguyễn thế Lộc và Nguyễn Lĩnh  46

Sử chép là Phú Lương Giang. 47

Sử chép là Phú Lương Giang. đem dân binh ra đánh. Lại có quan quân đuổi đến nơi, quân Nguyên bỏ chạy. Trần Kiện bị tên bắn chết, nhưng có người nhà là Lê Tắc cướp được thây chạy thoát, đưa đến g̣ Ôn-khâu (Lạng-sơn) mai-táng xong rồi trốn sang Tàu. Lê Tắc là ḍng dơi Nguyễn Phu làm Thứ-sử Giao-châu về đời Đông-Tấn (317-419) ngày trước. Tự lúc trốn sang Tàu rồi, Lê Tắc có làm bộ sử "An-nam chí-lược". Bộ sử ấy hiện bây giờ c̣n có ở bên Tàu và bên Nhật- bản.

ở Thiên-trường, Trần b́nh Trọng thấy quân nhà Nguyên đă đến băi Đà-mạc (ở khúc sông Thiên-mạc, huyện Đông-an, Hưng-yên) liền đem binh ra đánh, nhưng chẳng may bi vây, phảI bắt. Quân Nguyên đưa B́nh Trọng về nộp cho Thoát Hoan. Thoát Hoan biết B́nh Trọng là tướng khỏe-mạnh, muốn khuyên-dỗ về hàng, thết-đăi cho ăn-uống, nhưng B́nh Trọng không ăn, dỗ-dành hỏi ḍ việc nước, B́nh Trọng cũng không nói. Sau Thoát Hoan hỏi rằng: "Có muốn là vương đất Bắc không?" B́nh Trọng quát lên rằng: "Tà thà làm quỉ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Ta đă bị bắt th́ có một chết mà thôi, can ǵ mà phải hỏi lôi-thôi!" Thoát Hoan thấy dỗ không được, sai quân đem chém.

Thánh-tông thượng-hoàng cùng Nhân-tông và Hưng-đạo-vương nghe tin Trần b́nh Trọng tử-tiết, ai nấy động ḷng thương-xót.

Hưng-đạo-vương thấy thế nguy-cấp lắm, bèn rước xa-giá ra Quảng- yên. Thuyền đi về đường sông Tam-chỉ (thuộc châu Tiên-yên), sai một tướng dẫn chiếc thuyền rồng ra cửa bể Ngọc-sơn (thuộc châu Vạn-ninh, tỉnh Quảng-yên) làm cho nghi t́nh quân giặc. Tướng nhà Nguyên là Lư Hằng và Khoan Triệt sai người do-thám biết thuyền ra Ngọc-sơn là giả, mới dẫn quân đuổi theo đến sông Tam-chỉ, Hưng-đạo-vương rước xa-giá lên bộ đi đến làng Thủy-chú rồi lại xuống thuyền ra sông Nam-triều (tức Bạch-đằng-giang, thuộc Hải-dương) rồi vạ tỉnh Thanh-hóa. Bấy giờ quân Nguyên thế lắm, đóng khắp các nơi, từ vùng Bắc-ninh, Thăng-long, Thiên-trường, chỗ nào cũng có quân đóng. Ở vùng Nghệ-an lại có Toa Đô, Đường ngột Ngải, Ô mă Nhi đánh ra. Nhân-tông kinh-hăi, Thượng-hoàng đêm ngày lo sợ. Nhà nước ngất-ngưởng nguy như trứng chồng. Bọn Hoàng-tộc là Trần ích Tắc, Trần tú Viên đều ra hàng Thoát Hoan cả. Chỉ có Hưng-đạo-vương phụng xa- giá đi, trèo non vượt bể, trải gió dầm mưa, thế lực tuy cùng, nhưng vẫn bền vững một ḷng, t́m kế đánh giặc, lo liệu việc nước không rối sợ lúc nào. Thật là một người có tài đại-tướng, có thể cứu dân giúp nước, tiếng để muôn đời.

8. Trận Hàm Tử Quan - Trần Nhật Duật phá quân Toa Đô:

Đạo quân của Toa Đô ở Chiêm-thành kéo ra đánh lấy đất Nghệ-an. Trần quang Khải đem quân lùi ra mặt ngoài giữ các đường hiểm-yếu. Toa Đô đánh măi không được, mà lương-thảo th́ một ngày một cạn, bèn cùng với Ô mă Nhi dẫn quân xuống thuyền vượt bể ra ngoài Bắc để hợp binh với Thoát Hoan. Trần quang Khải được tin ấy, cho người về Thanh-hóa phi báo. Nhân-tông hội quân-thần lại hỏi kế, Hưng-đạo-vương tâu rằng: "Toa Đô tự Chiêm- thành trở ra, qua vùng Ô-lư (Thuận-hóa), Hoan (Nghệ-an), Ái (Thanh-hóa), đường sá gập-ghềnh, quân-sĩ vất-vả, nay lại vượt bể ra Bắc, th́ sức-lực cũng đă mỏi-mệt. Vậy nay nên sai một tướng nên ra đón đường mà đánh th́ chắc phá được".

Nhân-tông nghe lời, sai Chiêu-văn-vương Trần nhật Duật làm tướng và Trần quốc Toản 48

làm phó-tướng cùng với tướng-quân là Nguyễn Khoái đem 5 vạn quân ra đón đường đánh Toa Đô ở mặt Hải-dương. Tháng tư năm ất-dậu (1285) Trần nhật Duật ra đến Hàm-tử (thuộc huyện Đông-an, Hưng-yên) th́ gặp chiến thuyền của Toa Đô, Nhật Duật liền phân binh ra đánh. Quân Nhật Duật bấy giờ có bọn Triệu Trung là tướng nhà Tống sang xin tùng chinh, mặc áo đeo cung như quân nhà Tống. Đến khi giáp trận, quân Nguyên trông thấy bọn Triệu Trung, tưởng là nhà Tống đă khôi-phục được nước Tàu, rồi cho quân sang cứu An-nam, đứa nào cũng sợ-hăi bỏ chạy. Quân ta đuổi đánh, quân giặc thua to chết hại rất nhiều. Toa Đô phải lùi ra ở bải Thiên-trường.

Trần nhật Duật thắng trận, cho Quốc Toản đưa tin về Thanh-hóa. Hưng-đạo-vương được tin mừng ấy, vào tâu với vua rằng: "Quân ta mới thắng, khí-lực đang hăng, mà quân Nguyên mới thua, tất cũng chột dạ. Vậy nên nhân dịp này mà tiến quân đánh Thoát Hoan để khôi phục Kinh-thành".

Vua nghe lời truyền sắp sửa tiến binh. Sực có Thượng tướng Trần quang Khải ở trong Nghệ-an ra, xin đi đánh Thoát Hoan. Vua liền sai Quang Khải thu-xếp quân-sĩ để ra đánh Thăng-long và truyền hịch sai Trần nhật Duật đóng quân giữ chặn đường không cho bọn Toa Đô kéo lên hợp với Thoát Hoan.  48

Sử chép rằng khi vua Nhân Tông hội các vương thần ở B́nh Than đê/ bàn việc chống giặc, Trần Quốc Toản bấy giờ mới có 15, 16 tuổi cũng theo ra hội. V́ c̣n nhỏ tuổi cho nên không được dự bàn, Quốc Toản căm tức vô cùng, trong tay cầm quả cam bóp vỡ nát ra lúc nào không biết. Khi tan hội, ai nấy về lo sửa soạn binh thuyền. Quốc Toản về nhà cùng tụ họp những người thân thuộc, sắm đồ khí giới, may lá cờ đề sáu chữ: "Phá Cường Địch Báo Hoàng Ân" Rồi đem quân đi đánh giặc. Đánh chỗ nào quân giặc cũng phải lùi. 9. Trận Chương-Dương-Độ - Trần Quang Khải khôi phục Thăng Long: Khi bấy giờ đại binh của Thoát Hoan đóng tại Thăng-long, c̣n chiến thuyền th́ lại đóng ở bến Chương-dương, địa phận huyện Thượng-phúc.

Trần quang Khải với Trần quốc Toản và Phạm ngũ Lảo đem quân từ Thanh-hóa đi thuyền ṿng đường bể ra đến bến Chương-dương, sấn vào đánh chiến-thuyền của quân Nguyên. Quan quân đánh hăng quá, quân Nguyên địch không nổi phải bỏ chạy. Quan quân lên bộ đuổi đánh về đến chân thành Thăng-long hạ trại. Thoát Hoan đem đại quân ra cự địch, bị phục binh của Trần quang Khải đánh úp lại, quân Nguyên phải bỏ thành Thăng-long chạy qua sông Hồng-hà [ 49 ] sang giữ mặt Kinh-bắc (Bắc-ninh).

 

Trần quang Khải đem quân vào thành mở tiệc khao quân. Đến khi uống rượu vui-vẻ, Quang Khải ngâm bài thơ rằng:

Đoạt sáo Chương-dương-độ 50

Cầm hồ Hàm-tử quan

Thái-b́nh nghi nỗ lực

Vạn cổ thủ giang-san Dịch nôm:

Chương-dương cướp giáo-giặc

Hàm-tử bắt quân thù

Thái-b́nh nên gắng sức

Non nước ấy ngh́n thu

 

Trần quang Khải sai người về Thanh-hoá dâng biểu báo tin thắng trận. Vua Nhân-tông thấy quân thế đă mạnh, trong hai tháng đánh được hai trận, quân-sĩ ai nấy đều nức ḷng đánh giặc, bèn rước Thượng-hoàng và cất binh-mă ra đóng ở Tràng-an (Ninh-b́nh).

10. Trận Tây Kết - Tướng Nhà Trần Chép Được Toa Đô:

Toa Đô đóng quân ở Thiên-trường xa cách Thoát Hoan hơn 200 dặm, cho nên chưa biết Thoát Hoan đă thua chạy về Bắc-giang rồi, bèn tiến b́nh vào đóng ở sông Thiên-mạc 51

định để hợp sức với Thoát Hoan làm thế ỷ- giốc. Được mấy hôm Toa Đô biết đạo tiền quân của ḿnh đă bại trận, mà  49

Sử chép là Phú Lương. 50

Chữ Nho là: 51

Thiên Mạc là một khúc sông Hồng Hà ở vào địa hạt huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên. các bến th́ chỗ nào cũng có quân nhà Trần án ngữ, mới lui về đóng ở Tây- kết 52

rồi cho người đi ḍ xem quân Thoát Hoan đóng ở đâu.

Quân An-nam từ khi đánh được trận Hàm-tử và trận Chương-dương rồi, quân-thế phấn chấn lắm. Hưng-đạo-vương mừng rỡ, vào tâu với Nhân- tông xin một mặt sai Chiêu-văn-vương Trần nhật Duật, hợp với Thượng- tướng Trần quang Khải dẫn quân chặn các đường, không cho Thoát Hoan, Toa Đô đi lại thông tin với nhau, và một mặt xin tự tiến binh ra đánh Toa Đô, rồi đánh Thoát Hoan.

Nhân-tông nghe lời ấy, cho Hưng-đạo-vương tùy ư mà sai khiến. Khi quân ra đến Tây-kết, Hưng-đạo-vương chia quân ra đánh trại quân Nguyên, và đặt phục binh để bắt Toa Đô.

Quân ta đánh hăng quá, quân Nguyên không địch nổi, Toa Đô và Ô mă Nhi đem binh lên bộ chạy ra mặt bể, nhưng khi chạy đến mé sau một dăy núi, th́ bị quân An-nam vây đánh, Toa Đô trúng tên chết, c̣n Ô mă Nhi th́ t́m đường chạy vào Thanh-hóa, nhưng bị quân ta đánh đuổi ngặt quá, phải một ḿnh lẻn xuống chiếc thuyền con chạy ra bể, trốn về Tàu được.

Khi các tướng thắng trận, đưa đầu Toa Đô về nộp, Nhân-tông thấy người dũng-kiện mà lại hết ḷng với chúa, mới than rằng: "Làm bầy tôi nên như người này!" rồi cởi áo ngự-hào đắp vào đầu Toa Đô, sai quan dùng lễ mai-táng cho tử-tế.

Trận Tây-kết đánh vào tháng năm, năm ất-dậu (1285) quan quân bắt được quân Nguyên hơn 3 vạn người, và chiến-thuyền khí-giới không biết bao nhiêu mà kể. Hưng-đạo-vương được trận toàn thắng, mở tiệc khao thưởng ba quân, rồi lên đánh mặt bắc, để tiểu-trừ Thoát Hoan.

11. Trận Vạn Kiếp - Thoát Hoan Trốn Chạy Về Tàu : Bấy giờ Thoát Hoan đóng quân ở Bắc-giang, nghe tin đồn Toa Đô tử trận, Ô mă Nhi đă trốn về Tàu, quân-binh tướng-sĩ ai nấy đều ngă ḷng cả. Vả lại trời đang mùa hè nóng-nực khó chịu, sơn-lam chướng-khí bốc lên, quân-sĩ bị dịch-tễ chết hại cũng nhiều. Bởi thế có bụng muốn rút quân về Tàu.

Hưng-đạo-vương cũng biết cơ Thoát Hoan tất phải chạy, liền sai Nguyễn Khoái, Phạm ngũ Lăo dẫn 3 vạn quân đi lên đường núi, phục sẵn hai bên rừng sậy ở bên sông Vạn-kiếp, để chờ lúc quân Nguyên chạy đến th́ đổ  52

Hiện nay thuộc phủ Khoái Châu (Hưng Yên) có làng Đông Kết ở vào trong cách xa bờ sông Hồng Hà. Hoặc ở phía tây gần bờ sông, ngày xưa có làng Tây Kết mà nay đă lỡ mất đi chăng? ra đánh; sai hai con là Hưng-vơ-vương Nghiễn và Hưng-hiếu-vương Úy dẫn 3 vạn quân đi đường Hải-dương ra mặt Quảng-yên, giữ chặn đường về châu Tư-minh; Hưng-đạo-vương tự dẫn đại quân lên Bắc-giang đánh quân Nguyên. Quân Nguyên thua chạy, Thoát Hoan dẫn đại binh chạy đến bến Vạn-kiếp, gặp bọn Nguyễn Khoái ra đánh, quân Nguyên mười phần tổn-hại mất năm. Tướng nhà Nguyên là Lư Hằng bị tên bắn chết. C̣n Thoát Hoan, Phàn Tiếp , A bát Xích, Lư Quán cố sức đánh lấy đường mà chạy. Sau thấy quân An-nam đuổi kíp quá, Thoát Hoan phải chui vào cái ống đồng để lên xe bắt quân kéo chạy. Về gần đến châu Tư-ninh lại gặp bọn Hưng-vơ-vương Nghiễn và Hưng-hiếu-vương Úy đánh đuổi một trận nửa. Lư Quán trúng tên bắn chết. Thoát Hoan, A bát Xích và Phàn Tiếp chạy thoát về Tàu được.

Thế là Đại-quân của Thoát Hoan lúc đầu mới sang lừng-lẫy bao nhiêu, bây giờ tan nát mất cả. Trong sáu tháng trời, từ tháng chạp năm giáp thân (1284) đến tháng sáu năm ất dậu (1285), quân An-nam đuổi 50 vạn quân Mông-cổ ra ngoài bờ-cỏi, chỉnh-đốn giang-sơn lại như cũ. Ấy cũng nhờ có tay Hưng-đạo-vương có tài đại-tướng, cầm quân vững-chăi, gan bền tựa sắt, và lại khéo dùng lời khuyên-dỗ, khiến cho bụng người cảm-động, sinh ḷng trung-nghĩa, cho nên tướng-sĩ ai nấy đều hết ḷng giúp nước.

Vả nước An-nam thời bấy giờ vua tôi ḥa-hợp, ḷng người như một, nhân-tài lũ-lượt kéo ra; mà quân Nguyên sang An-nam th́ đường xa muôn dặm, núi sông cách trở, hùng mạnh được lúc đầu mà thôi, sau thành ra bệnh-tật yếu-đau. Như thế mà lại gặp phải tay Hưng-đạo-vương Trần quốc Tuấn dụng binh biết đợi thời, biết thừa thế tiến thoái, cho nên sự quân nhà Nguyên thua tan-nát là sự tất-nhiên vậy.

{40 Ở Thượng lưu sông Lục Nam, có lẽ là bến Chữ. } {41 Cửa Chi Lăng, tục gọi là bầu Chi Lăng ở tổng Chi Lăng, gần ga Tuần Muội, thuộc về địa hạt châu Ôn, tỉnh Lạng Sơn. Chỗ ấy là một nơi hiểm địa nước Nam ta. Trần Hưng Đạo Vương sau lại phá quân Nguyên ở chỗ ấy, và đến đầu đời Lê, vua Thái Tổ giết tướng nhà Minh là Liễu Thăng cũng ở chỗ ấy. }

CHƯƠNG VII GIẶC NHÀ NGUYÊN II (1284-1288)

1. Nguyên-chủ định khởi binh phục thù

2. Thoát Hoan sang đánh lần thứ hai

3. Trận Vân-đồn Trần khánh Dư cướp lương của quân Nguyên

4. Trận Bạch-đằng-giang Ô mă Nhi phải bắt

5. Hưng-đạo-vương đại phá Nguyên-binh

6. Sứ An-nam sang Tàu xin ḥa

7. Định công, phạt tội

8. Định cuộc ḥa-hiếu

 

1. Nguyên Chủ định khởi binh phục thù . Hưng-đạo-vương Trần quốc Tuấn phá được quân Nguyên rồi th́ kéo quân về Tràng-an, rước Thượng-hoàng và Nhân-tông ra Thăng-long. Giang-sơn nhà Trần lại khôi phục đâu vào đấy cả. Bọn Thoát Hoan bại trận về Tàu, nghĩ khi đi th́ thanh- thế lừng-lẫy bao nhiêu, khi về th́ hao binh tổn tướng, lấy làm xấu hổ lắm. Định xin Nguyên-chủ cho thêm binh-mă sang đánh báo thù. Nguyên-chủ thấy bọn Thoát Hoan bại trận về, giận lắm, muốn bắt chém cả, nhưng quân-thần can-ngăn măi mới thôi.

Bấy giờ nhà Nguyên đang sắp sửa cất quân sang đánh Nhật-bản, bèn lập tức đ́nh việc đi đánh Nhật-bản lại và sai đóng thêm 300 chiếc thuyền, truyền hịch cho ba tỉnh Giang-hoài, Hồ-quảng, Giang-tây tụ tập quân-sĩ, định đến tháng tám th́ cất quân noi đường châu Khâm, châu Liêm sang đánh nước Nam để báo thù.

Quan tỉnh Hồ-nam là Tuyến Kha dâng sớ về can rằng: "Quân ta bại trận mới về, kẻ mang dấu-vết chưa khỏi, người đau-yếu chưa dậy, xin hăy cho quân-sĩ nghỉ-ngơi dưỡng sức ít lâu, rồi sẽ định kế xuất chinh".

Vua nhà Nguyên nghe lời, cho quân-sĩ nghĩ vài tháng. C̣n Trần ích Tắc đă theo Thoát Hoan về Tàu, th́ cho ra ở Ngạc-châu.

Nhân-tông nghe tin Nguyên-triều sắp sửa cất quân sang đánh An- nam, bèn vời Hưng-đạo-vương vào hỏi rằng: "Thoát Hoan bại trận trở về, chuyến này căm-tức định sang đánh báo thù, quân-thế hẳn to hơn trước, ta nên dùng kế ǵ mà chống lại được?" Hưng-đạo-vương tâu rằng: "Nước ta xưa kia, quân-dân hưởng thái-b́nh đă lâu, không tập đến việc chiến-trận, cho nên năm trước quân Nguyên vào cướp c̣n có kẻ trốn-tránh theo hàng- giặc. May nhờ có oai-linh Tổ-tông, và thần-vơ của Bệ-hạ, đi đến đâu đánh được đến đấy, cho nên mới quét sạch được bờ-cơi. C̣n như bây giờ quân ta quen việc chinh-chiến, mà quân nghịch th́ đi xa mỏi-mệt. Vả lại thấy Toa Đô, Lư Hằng, Lư Quán tử trận, tất cũng chột dạ, quân-t́nh đă sinh nghi-sợ, hẳn không dám hết sức mà đánh. Cứ như ư tôi, th́ chuyến này dù có quân Nguyên sang đây, ta phá cũng dễ hơn phe trước, xin bệ-hạ đừng lo".

Nhân-tông mừng rỡ, sai Hưng-đạo-vương đốc-suất các vương-hầu, mộ thêm quân-sĩ, sử-sang khí-giới để pḥng việc công thủ.

2. Thoát Hoan Sang Đánh Lần Thứ Hai.

Sang mùa xuân tháng hai năm đinh-hợi (1287) Nguyên-chủ kén lấy 7 vạn quân, 5 trăm chiếc thuyền, 6 ngh́n quân Vân-nam và 1 vạn 5 ngh́n quân ở bốn châu ngoài bể, sai Thoát Hoan làm Đại-nguyên-súy, A bát Xích làm Hành-tỉnh-tả-thừa, Áo lỗ Xích làm B́nh-chương-chính-sự, Ô mă Nhi, Phàn Tiếp làm Tham-tri chính-sự, đem tất cả hơn 30 vạn quân sang đánh nước Nam, giả danh đưa Trần ích Tắc về nước, lập làm An-nam quốc-vương 53 . Lại sai Vạn-hộ Trương văn Hổ theo đường bể tải hơn 17 54

vạn thạch lương sang cấp cho quân-sĩ.

Qua tháng mười một, Thoát Hoan dẫn quân noi đường Châu-khâm, châu Liêm đến châu Tư-minh; sai bọn Trương Ngọc lĩnh 2,000 quân coi việc chở lương-thực, khí-giới lại sai Tŕnh bằng Phi, Áo lỗ Xích, mỗi người dẫn 1 vạn quân đi đường bộ; Ô mă Nhi, Phàn Tiếp suất lĩnh thủy-quân đi đường bể, đều tiến sang An-nam.

Quan Trấn-thủ ở biên-thùy phi báo về Thăng-long. Các quan xin tuyển thêm binh. Hưng-đạo-vương nói rằng: "Binh cốt giỏi, chứ không cốt  . 53

Có sách chép rằng: Thoát Hoan sang đánh An Nam lần thứ hai này có đem một tên hướng đạo là Nguyễn Nhan, tên chữ là Nguyễn Bá Linh, phạm tội trảm quyết, t́nh nguyện đi đánh để lập công chuộc tội. Cha tên Nguyễn Nhan là người Quảng Đông sang buôn bán ở nước Nam, lấy vợ ở làng An Bài, huyện Đông Triều, đẻ ra Bá Linh, cho về Tàu học, thi đỗ tiến sĩ, lại cao tay phù thủy. Khi sang An Nam, nó dùng phép để giúp quân Nguyên. Sau Hưng Đạo Vương bắt được, đưa về chém ở làng An Bài, là quê mẹ nó. Tục truyền rằng khi tên Nguyễn Nhan chết rồi hồn nó bay hiện lên trêu ghẹo đàn bà con gái, mà hễ ai phạm đến nó th́ chết, cho nên gọi là Phạm Nhan. 54

Sử cũ chép là 70 vạn thạch. nhiều, nếu nhiều mà không giỏi, thí-dụ như Bồ Kiên có trăm vạn quân cũng không ích-ǵ!"

Nhân-tông sai Hưng-đạo-vương thống-lĩnh các vương-hầu, chia quân pḥng-giữ các nơi.

Hưng-đạo-vương sai Trần nhật Duật, Nguyễn Khoái dẫn 3 vạn quân lên giữ mặt Lạng-sơn; sai Trần quốc Toản, Lê phụ Trần dẫn 3 vạn quân và giữ mặt Nghệ-an; tự ḿnh thống đại quân ra giữ mặt Quảng-yên. Một mặt sai tiền-quân lên gần châu Tư-minh chia ra đóng làm ba đồn: Sa, Từ, Trúc, để chống-giữ quân Nguyên; một mặt sai tướng đem quân ra giữ chặt cửa sông Đại-than 55

(thuộc Hải-dương) c̣n đại-quân của Hưng-đạo-vương th́ đóng lại núi Phù-sơn.

Quan quân tuy đóng giữ như vậy, nhưng quân Nguyên thế to lắm, chống không nổi, phải rút về Vạn-kiếp; Thoát Hoan tiến lên chiếm giữ núi Phả-lại và núi Chí-linh, lập trại chống nhau với quân ta, rồi sai tướng là Tŕnh bằng Phi đem hai vạn lính đánh lấy đồn Vạn-kiếp, lại sai Ô mă Nhi và A bát Xích dẫn quân từ sông Lục-đầu đánh xuống sông Hồng-hà.

Hưng-đạo-vương rút quân về giữ Thăng-long và sai tướng rước xa- giá tạm lánh về Hám-nam (?).

Nhưng sau khi bị bọn Ô mă Nhi đuổi ngặt quá, Thượng-hoàng và Nhân-tông phải xuống thuyền ra bể đi vào Thanh-hóa. Ô mă Nhi đuổi không kịp, đem quân trở về qua Long-hưng (phủ Tiên-hưng, Thái-b́nh) biết ở đấy có Thiên-lăng, là lăng tổ nhà Trần, bèn sai quân đến phá nát cả đi.

Thoát Hoan đem binh-mă tiến lên vây đánh Thăng-long không được, phải rút về giữ Vạn-kiếp, Chí-linh và Phả-lại, Hưng-đại-vương cũng tiến quân lên lập trại để chống với giặc.

Nhân-tông thấy quân Nguyên đă lùi rồi bèn rước Thượng-hoàng ra Bắc.

3. Trận Vân Đồn - Trần khánh Dư cướp lương của quân Nguyên . Quân Nguyên đóng măi ở Vạn-kiếp lương-thực sắp cạn, Thoát Hoan bèn sai Ô mă Nhi dẫn thủy-quân ra cửa bể Đại-bàng (huyện  55

Huyện Nghi Dương nay thuộc về tỉnh Kiến An. Nghi-dương, Hải-dương) 56

đón thuyền lương của Trương văn Hổ. Ô mă Nhi đem thuyền đi đến ải Vân-đồn (Vân-hải, Quảng-yên) gặp quân của Nhân- huệ-vương Trần khánh Dư chặn đường không cho đi. Ô mă Nhi thúc quân đánh rát một trận, quân Khánh Dư thua bỏ chạy cả. Quân Nguyên kéo thẳng ra bể đi đón thuyền lương.

Thượng-hoàng nghe tin thủy-quân ở Vân-đồn bại trận, cho sứ ra bắt Khánh Dư về hỏi tội.

Khánh Dư từ khi thất trận, đang nghĩ kế phục binh thù, bỗng thấy sứ ra bắt, Khánh Dư tiếp sứ rồi nói rằng: "Tôi sai tướng-lệnh đành thôi chịu tội, nhưng xin khoan cho tôi một vài hôm, may mà tôi lập được công khác để chuộc tội chăng?"

Được mấy hôm Ô mă Nhi ra bể gặp thuyền lương của Trương văn Hổ, lại đem quân trở vào đi trước dẹp đường. Trương văn Hổ đem thuyền lương theo vào sau.

Khánh Dư đồ rằng Ô mă Nhi đă phá được quân ta, trong bụng hắn chắc rằng không c̣n ai ngăn-trở ǵ nữa, cho nên mới khinh thường đem binh thuyền đi trước. Khánh Dư bèn nhặt-nhạnh thuyền-bè phục quân sẵn đợi thuyền lương của Trương văn Hổ đến th́ kéo ra đánh.

Quả-nhiên Trương văn Hổ tải các thuyền lương vào cửa bể Lục-thủy- dương (phía đông-nam huyện Hoành-bồ tức là vịnh cửa Lục bây giờ). Khánh Dư đổ quân ra đánh. Văn Hổ địch không nổi, bao nhiêu thuyền lương bị quân của Khánh Dư phá cướp mất cả, và bắt được khí giới rất nhiều. C̣n Trương văn Hổ th́ chạy xuống chiếc thuyền nhỏ trốn về Quỳnh-châu.

Khánh Dư thắng trận đưa thư về báo tiệp. Thượng-hoàng mừng rỡ, xá tội trước không hỏi, và bảo Hưng-đạo-vương rằng: "Quân Nguyên cốt trông cậy có lương-thảo khí-giới, nay đă bị ta cướp được cả rồi, th́ thế nó không tràng-cửu được nữa. Nhưng nó chưa biết tất c̣n đắc chí, vậy ta nên tha những quân bị bắt cho về báo tin với Thoát Hoan, th́ quân-sĩ của nó tất ngă ḷng, bấy giờ mới phá rất dễ".

Hưng-đạo-vương tuân lệnh, cho lũ quân Nguyên về. Từ đấy quân của Thoát Hoan xôn-xao, có bụng muốn về Tàu, mà lương-thực một ngày một cạn.  56

Bấy giờ thuộc huyện Gia B́nh, tỉnh Bắc Ninh, liền với B́nh Than.

Ô mă Nhi từ khi ở ải Vân-đồn trở về, chờ măi không thấy thuyền lương đến, bèn đem quân đến phá trại An-hưng (thuộc Quảng-yên) rồi rút về Vạn-kiếp.

4. Trận Bạch Đằng Giang - Ô mă Nhi phải bắt.

Quân Nguyên từ khi thua trận Vân-đồn, lương-thảo một ngàymột cạn đi, Thoát Hoan muốn cho người về Tàu cầu viện và lấy thêm lương, Hưng-đạo-vương biết ư, sai tướng lên giữ núi Kỳ-cấp và ải Nữ-nhi ở mặt Lạng-sơn không cho người Tàu đi lại.

Các tướng thấy vậy bèn vào bàn với Thoát Hoan rằng: "Quân ta đóng ở đây, thành-tŕ đă không có, kho-tàng lại cạn cả; và bây giờ là đang lúc hết xuân sang hạ, khí trời nồng-nực, mà lại những chổ hiểm-yếu đều mất cả, chi bằng hăy rút quân về, rồi sau sẽ liệu kế khác".

Thoát Hoan thấy quân thế của Hưng-đạo-vương mạnh lắm, chưa có thể phá được, bèn nghe lời các tướng, sai Ô mă Nhi, Phàn Tiếp dẫn thủy- quân theo đường sông Bạch-đằng 57

về trước. C̣n mặt bộ th́ sai Tŕnh bằng Phi, Trương Quân dẫn binh đi chặn hậu. Sửa-soạn định vài hôm nữa th́ rút về.

Hưng-đạo-vương biết mưu ấy, bèn sai Nguyễn Khoái dẫn binh lẻn qua đường tắt mé sông thượng-lưu sông Bạch-đằng, kiếm gỗ đẽo nhọn bịt sắt đóng khắp giửa gịng sông, rồi phục binh chờ đến lúc nào nước thủy- triều lên th́ đem binh ra khiêu-chiến, nhử cho thuyền giặc qua chỗ đóng cọc. Hễ lúc nào nước thủy-triều xuống th́ quay binh lại hết sức mà đánh. Lại sai Phạm ngũ Lăo, Nguyễn chế Nghĩa dẫn quân lên phục ở ải Nội-bàng (thuộc Lạng-sơn) chờ quân Nguyên chạy lên đến đấy thi đổ ra mà đánh.

Các tướng đi đâu đấy cả rồi. Hưng-đạo-vương tiến quân lên đánh giặc, sực nghe tin báo rằng Ô mă Nhi đă kéo quân về đến Bạch-đằng, Hưng- đạo-vương mới hô quân-sĩ , trỏ sông Hóa-giang 58

mà thề rằng: "Trận này không phá xong giặc Nguyên, th́ không về đến sông này nửa!" Quân-sĩ ai nấy đều xin quyết chiến, kéo một mạch đến sông Bạch-đằng.

Những chiến-thuyền của Ô mă Nhi, Phàn Tiếp theo gịng sông Bạch- đằng, bỗng chốc thấy tướng nhà Trần là Nguyễn Khoái dẫn chiến thuyền đến khiêu-chiến. Ô mă Nhi tức giận thúc quân xông vào đánh, Nguyễn  57

Sông Bạch Đằng bây giờ thuộc huyện Thụy Nguyên, tỉnh Kiến An. 58

Hóa Giang là một ngọn sông thuộc về sông Thái B́nh, ở giáp giới tỉnh Kiến An và tỉnh Thái B́nh. Nay ở đấy dân sở tại c̣n nhớ chỗ con voi của Hưng Đạo Vương qua sông Hóa sa lầy mà chết. Khoái liền quay thuyền chạy. Bấy giờ đang lúc thủy-triều lên, mặt nước mênh-mông, Ô mă Nhi vô t́nh, thấy địch quân chạy, cứ việc thúc thuyền đuổi theo. Nguyễn Khoái nhử quân đi khỏi xa chỗ đóng cọc, rồi mới quay thuyền đánh vật lại. Hai bên đánh đang hăng, th́ đại quân của Hưng-đạo-vương tiếp đến. Ô mă Nhi, Phàn Tiếp thấy quan quân to thế lắm, mới quay thuyền chạy trở lại. Khi chạy đến khúc sông có cọc đóng th́ nước thủy-triều đă rút xuống, thuyền của quân Nguyên vướng mắc phải cọc, đổ nghiêng đổ ngửa, đắm vở mất nhiều. Quan quân thừa thắng đánh cực hăng, quân Nguyên chết như rạ, máu loang đỏ cả khúc sông. Tướng Nguyên là Ô mă Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ, Cơ Ngọc đều bị bắt cả.

Trận Bạch-đằng-giang đánh vào tháng ba năm mậu-tí (1288) lấy được chiến thuyền của quân Nguyên hơn 400 chiếc và bắt được quân-sĩ rất nhiều.

5. Hưng Đạo Vương Đại Phá Nguyên Binh.

Thoát Hoan nghe tin quân thủy vở tan rồi, dẫn bọn Tŕnh bằng Phi, A bát Xích, Áo lỗ Xích, Trương Quân, Trương Ngọc, đi đường bộ chạy về đến ải Nội-bàng, bỗng gặp quân phục của Phạm ngũ Lăo đổ ra đánh. Các tướng hết sức giữ ǵn Thoát Hoan, vừa đánh vừa chạy. Trương Quân dẫn 3,000 quân đi đoạn hậu cố sức đánh lấy đường chạy, bị Phạm ngũ Lăo chém chết. Thoát Hoan chạy thoát ra được cửa ải, quân-sĩ mười phần, tổn hại mất 5, 6 phần.

Bọn Thoát Hoan đang đi, bỗng lại có tin báo rằng tự cửa ải Nữ-nhi đến măi núi Ḱ-cấp hơn 100 dặm, chổ nào cũng có đồn ải. Nghe tin ấy quân-sĩ đều xôn-xao sợ-hăi, và mé sau lại nghe tiếng ầm-ầm quan quân đuổi theo và sắp kéo đến. Thoát Hoan vội-vàng sai A bát Xích, Trương Ngọc dẫn quân đi trước mở đường, Áo lỗ Xích đi đoạn hậu.

A bát Xích, Trương Ngọc gặp phải quan quân chặn đường phục ở hai bên sườn núi bắn tên thuốc độc xuống như mưa. Hai tướng đều tử trận, và quân-sĩ chết thây nằm ngổn-ngang từng đống. C̣n Tŕnh bằng Phi hết sức giữ-ǵn Thoát Hoan chạy ra Đan-kỹ, qua Lộc-châu rồi đi lẻn con đường tắt về châu Tư-minh. Áo lỗ Xích đi sau, chạy thoát được, mới nhặt-nhạnh tàn quân theo cả Thoát Hoan về Yên-kinh.

Hưng-đạo-vương chuyến này thực là trừ hết quân Mông-cổ mới hội cả tướng, dẫn quân rước xa-giá Thượng-hoàng và Nhân-tông về kinh-sư. Khi về đến Long-hưng, Nhân-tông đem bọn tướng Nguyên bị bắt là Ô mă Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ, Cơ Ngọc vào làm lễ hiến-phù ở trước Chiêu-lăng.

 

Nhân thấy giang-sơn lại được như cũ, Thánh-tông Thượng-hoàng có làm hai câu thơ để làm kỹ-niệm:

Xă-tắc lưỡng hồi lao thạc mă,

Sơn-hà thiên cổ điện kim âu.

 

Dịch nôm:

Xă-tắc hai phen bọn ngựa đá,

Non sông thiên cổ vững âu vàng.

 

Về đến Thăng-long vua sai mở tiệc khao thưởng tướng-sĩ, cho dân- sự mở hội vui-vẻ ba ngày, gọi là Thái-b́nh diên-yến.

6. Sứ An Nam Sang Tàu Xin Ḥa.

Quân nhà Nguyên sang đánh An-nam tuy thua hai ba phen thật, nhưng thế nhà Nguyên vẫn mạnh lắm, mà nước Nam ta sánh với nước Tàu lại là một nước nhỏ-mọn, cô-lập một ḿnh, không nương tựa vào đâu được; nếu cứ tranh chiến măi th́ sự thắng-bại chưa biết ra thế nào, mà muôn dân lại phải lầm-than, khổ-sở. V́ những lẽ ấy, cho nên đến tháng mười năm mậu-tí (1288) vua Nhân-tông sai quan là Đỗ thiên Thứ sang sứ nhà Nguyên, xin theo lệ cống hiến như xưa.

Nguyên-chủ thấy quân ḿnh thua mấy lần rồi, trong bụng cũng nản, cho nên cũng thuận cho thông ḥa.

Tháng hai năm kỷ-sửu (1289) Nhân-tông sai quan đưa bọn tướng Nguyên bị bắt là Tích Lệ, Cơ Ngọc về Tàu. C̣n Phàn Tiếp v́ lo mà thành bệnh chết, vua sai hỏa táng, rồi cấp người ngựa cho vợ con đem hài-cốt về nước. Các đầu mục cũng tha cho về cả. Duy có Ô mă Nhi giết hại nhiều người, vua căm-tức vô cùng, không muốn tha về, nhưng lại ngại đường ḥa- hiếu, bèn dùng mưu của Hưng-đạo-vương sai người đưa đi đến giửa bể, đánh đắm thuyền, cho chết đuối, mà Nguyên-triều cũng không trách vào đâu được. Về sau vua Dực-tông bản triều nhà Nguyễn xem đến chỗ này, có phê bốn chữ: " bất nhân phi nghĩa". Tưởng lời phê ấy cũng là chính đáng.

7. Định công, phạt tội.

Tháng tư năm kỷ-sửu (1289) mới định công, phạt tội. Bao nhiêu những vương hầu đi đánh giặc Nguyên có công đều được thăng trật cả, c̣n các tướng-sĩ khác họ mà ai có công to th́ cho quốc-tính. Nguyễn Khoái được phong tước hầu, cho ăn lộc một làng Khoái- lộ (tức là phủ Khoái bây giờ); Phạm ngũ Lăo được thăng làm Quản Thánh- dực quân. Các chúa Mường mà có công đem dân binh ra cự giặc cũng được phong hầu.

Vua lại sai văn-thần ghi-chép công-trạng của các tướng hợp biên làm quyển sách gọi là Trung hưng thực lục và lại sai thợ vẽ tranh các tướng để treo ở gác công thần.

Định công xong rồi mới xét đến tội những người hàng giặc. Khi quân Nguyên đang cường thịch, triều thần lắm kẻ hai ḷng, có giấy-má đi lại với giặc. Sau giặc thua chạy về bắc, triều-đ́nh bắt được tráp biểu hàng của các quan. Đinh-thần muốn lục ra để trị tội, nhưng Thượng-hoàng nghĩ rằng làm tội những đồ tiểu-nhân cũng vô ích, bèn sai đem đốt cả tráp đi, cho yên ḷng mọi người. Duy những người nào quả thực là hàng với giặc, th́ mới trị tội; hoặc đem cày, hoặc xử-tử. V́ thế bọn Trần Kiện, Trần văn Lộng tuy đă chết rồi, nhưng con cháu phải tước họ tôn-thất đổi ra họ Mai. C̣n Trần ích Tắc, th́ vua nghĩ t́nh cận-thân không nở bỏ họ, nhưng phải gọi là ả Trần, nghĩa là bảo nhút-nhát như đàn-bà vậy.

Những quân-dân th́ được thứ tội cả, duy có hai làng Bàng-hà, Ba điểm trước hết theo giặc, cả làng phải đồ làm binh-lính, không khi nào được làm quan.

Thưởng công, phạt tội xong rồi, Thượng-hoàng về phủ Thiên- trường, đến tháng năm, năm canh-dần (1290) th́ mất. Nhân-tông sai sứ sang cáo tang và xin phong.

8. Định cuộc ḥa-hiếu.

Tự lúc Thoát Hoan thua về, vua nhà Nguyên đă thuận cho ḥa-hiếu, nhưng trong bụng vẫn chưa nguôi giận, ư lại muốn cất binh sang đánh báo thù. Đ́nh-thần can, xin để cho sứ sang dụ vua An-nam sang chầu xem đă, nếu không sang rồi hăy liệu. Nguyên-chủ nghe lời, sai Thượng-thư Trương lập Đạo sang sứ An-nam. Nhưng vua Nhân-tông lấy cớ có tang không đi. Sai quan là Nguyễn đại Phạp đi thay. Nguyễn đại Phạp sang Tàu nói năm sau vua An-nam sẽ sang chầu.

Qua năm sau Nguyên-triều không thấy vua An-nam sang, lại sai Lại- bộ thượng-thư là Lương Tằng và Lễ-bộ thượng-thư là Trần Phu sang giục Nhân-tông sang chầu.

Nhân-tông không đi, sai sứ là Đào tử Kỳ đưa đồ vật sang cống Tàu. Nguyên-triều thấy vua An-nam không sang định khởi binh sang đánh, bèn bắt giam Tử Kỳ ở Giang-lăng, rồi sai Lưu quốc Kiệt và các tướng sửa-soạn binh-lương, chọn ngày phát binh. Lại sai Trần ích Tắc đi theo, về hội ở Tràng sa. Nhưng lúc đang sửa soạn, th́ Nguyên Thế-tổ là Hốt-tất-Liệt mất, Nguyên Thánh-tông lên ngôi, mới băi việc binh và cho sứ An-nam là Đào tử Kỳ về nước.

Từ đó nhà Nguyên với nước Nam thông ḥa, không có sự tranh chiến nữa.

 

CHƯƠNG IX

Nhà Trần

Thời Kỳ Thứ Hai

( 1293 - 1341 )

I. Trần Anh Tông

1. Đức Độ Vua Anh Tông

2. Trần Hưng Đạo Vương mất

3. Việc Đánh Ai Lao

4. Sự Giao Thiệp Với Chiêm Thành

II. Trần Minh Tông

III. Trần Hiến Tông

1. Giặc Ngưu Hống

2. Giặc Ai Lao

I. Trần Anh Tông (1293-1314)

Niên-hiệu: Hưng Long

1. Đức Độ Vua Anh Tông.

 

Thái tử Trần Thuyên lên ngôi, tức là vua Anh Tông.

Anh Tông lúc đầu hay uống rượu và đêm thường hay lén ra ngoài đi chơi, có khi bị đồ vô lại phạm đến.

Một hôm uống rượu say đến nỗi Nhân Tông Thượng Hoàng ở Thiên Trường về kinh, các quan đều ra đón rước cả, mà vua vẫn nằm ngủ. Thượng Hoàng giận lắm, truyền xa giá lập tức về Thiên Trường và hạ chiếu cho bách quan phải về đấy hội nghị. Khi Anh Tông tỉnh rượu, biết thượng hoàng về kinh, sợ hăi quá, vội vàng chạy ra ngoài cung gặp một người học tṛ tên là Đoàn Nhữ Hài, mượn thảo bài biểu để dâng lên tạ tội, rồi cùng với Nhữ Hài xuống thuyền đi suốt đêm đến phủ Thiên Trường. Thượng Hoàng xem biểu rồi quở mắng một lúc, và tha lỗi cho Anh Tông. Về đến kinh sư, Anh Tông cho Đoàn Nhữ Hài làm ngự sử trung tán, và từ đấy không uống rượu nữa. Từ xưa đến nay vua An Nam vẫn có tục lấy chàm vẽ rồng vào đùi, nhưng Anh Tông không muốn theo tục này. Một hôm Thượng Hoàng bảo Anh Tông rằng: " Ḍng dơi nhà ḿnh vẫn vẽ ḿnh để nhớ gốc ngày xưa, nay nhà vua phải theo tục ấy mới được". Anh Tông tuy vâng mệnh nhưng lừa khi Thượng Hoàng bận việc khác, lẩn đi không cho vẽ. Từ đấy, vua An Nam mới không vẽ ḿnh nữa.

Tính vua Anh Tông hay vẽ: thường có làm một tập Thủy Vân Tùy Bút, nhưng đến lúc sắp mất đem đốt đi không cho để lại. Sử có chép rằng khi Anh Tông đau nặng, hoàng hậu cho đi gọi thầy tăng về để làm lễ xem sự sinh tử, Anh Tông gạt đi mà bảo rằng: " Thầy tăng đă chết đâu mà biết được sự chết". Xem thế th́ biết Anh Tông là một ông vua hiếu thảo và lại thông minh, cho nên việc triều chính thời bấy giờ có cương kỷ lắm.

Trong triều lại có những người tài giỏi hết ḷng giúp việc nước. Văn như bọn ông Trương Hán Siêu, vơ như ông Phạm Ngũ Lăo đều là người có tài trí cả.

Phạm Ngũ Lăo là người làng Phù Ủng, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hải Dương 59 , trước theo Trần Hưng Đạo Vương đánh giặc Nguyên, lập được công to. Triều đ́nh trọng dụng cho làm đại tướng. Ngũ Lăo trị quân có kỷ luật, đăi tướng hiệu như người nhà, ở với sĩ tốt cùng chịu cam khổ, cho nên vẫn gọi quân của ông ấy là phụ tử chi binh, đánh đâu được đấy, thành một người danh tướng nước Nam ta.

Ông Phạm Ngũ Lăo đă giỏi nghề vơ, lại hay nghề văn, thường ngâm bài thơ thuật hoài sau này:

Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thu 60

Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu Nam nhi vị liễu công danh trái Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

Thời bấy giờ vua hiền, tôi trung, phép tắc nghiêm trang, thưởng phạt phân minh, chính trị không có điều ǵ hồ đồ. Việc học hành mở mang rộng răi, cho nên những người có tài văn học như bọn ông Mạc Đĩnh Chi, ông Nguyễn Trung Ngạn đều được thi đỗ, ra làm quan giúp việc triều đ́nh. Thật là một thời rất thịnh về đời nhà Trần vậy.  59

Bây giờ thuộc tỉnh Hưng Yên 60

Bài này có người dịch ra nôm như sau: Ngọn giáo non sông trải mấy thâu Ba quân hùng hổ khí thôn ngưu Công danh nếu để c̣n vương nợ Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu

2. Trần Hưng Đạo Vương mất.

Trong đời vua Anh Tông có mấy người danh tướng như là: Thượng Tướng Trần Quang Khải, thắng trận Chương Dương ngày trước, mất năm giáp ngọ (1294), và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, mất ngày 20 tháng tám năm canh tí (1300).

Hưng Đạo Vương là một danh tướng đệ nhất nước Nam, đánh giặc Nguyên có công to với nước, được phong làm Thái Sư, Thượng Phụ, Thượng Quốc Công, B́nh Bắc Đại Nguyên Súy, Hưng Đạo Đại Vương. Vua lại sai người về Vạn Kiếp làm sinh từ để thờ ngài ở chỗ dinh cũ của ngày đóng ngày trước.

Hưng Đạo Vương làm quan đến đời vua Anh Tông th́ xin về trí sĩ ở Vạn Kiếp. Khi ngài sắp mất, vua Anh Tông có ngự giá đến thăm, nhận thấy ngài bệnh nặng, mới hỏi rằng: " Thượng phụ một mai khuất núi, phỏng có quân bắc lại sang th́ làm thế nào? "

Hưng Đạo Vương tâu rằng: " Nước ta thuở xưa, Triệu Vơ Vương dựng nghiệp, Hán Đế đem binh đến đánh, Vơ Vương sai dân đốt sạch đồng áng, không để lương thảo cho giặc chiếm được, rồi đem đại quân sang châu Khâm, châu Liêm đánh quận Tràng Sa 61

dùng đoản binh mà đánh được, đó là một thời. Đến đời Đinh, Lê, nhiều người hiền lương giúp đỡ, bấy giờ nước Nam đang cường, vua tôi đồng ḷng, bụng dân phấn chấn; mà bên Tàu đang lúc suy nhược, cho nên ta đắp thành B́nh Lỗ (thuộc Thái Nguyên) phá được quân nhà Tống, đó là một thời. Đến đời nhà Lư, quân Tống sang xâm, Lư Đế sai Lư Thường Kiệt đánh mặt Khâm, Liêm, dồn đến Mai Lĩnh, quân hùng, tướng dũng, đó là có thế đánh được. Kế đến bản triều, giặc Nguyên kéo đến vây bọc bốn mặt, may được vua tôi đồng ḷng, anh em ḥa mục, cả nước đấu sức lại mà đánh, mới bắt được tướng kia, cũng là ḷng trời giúp ta mới được thế.

Đại để, kẻ kia cậy có tràng trận, mà ta th́ cậy có đoản binh; lấy đoản chống nhau với tràng, phép dùng binh thường vẫn phải như thế. C̣n như khi nào quân giặc kéo đến ầm ầm, như gió, như lửa, thế ấy lại dễ chống. Nếu nó dùng cách dần dà, như tằm ăn lá, thong thả mà không ham của dân, không cần lấy mau việc, thế ấy mới khó trị; th́ ta nên kén dùng tướng giỏi, liệu xem quyền biến, ví như đánh cờ, phải tùy cơ mà ứng biến, dùng binh phải dồn ḷng như cha con một nhà, th́ mới có thể đánh được.  61

Chỗ này Hưng Đạo Vương nói lầm: Triệu Vơ Vương đóng đô ở Phiên Ngung tức là ở gần thành Quảng Châu bây giờ, mà châu Khâm, châu Liêm th́ ở giáp giới nước ta. Lẽ nào đi đánh Trường Sa ở tỉnh Hồ Nam mà lại quay trở lại châu Khiêm, châu Liêm. Chắc hẳn người ḿnh ngày trước không thuộc địa đồ và có lẽ rằng Hưng Đạo Vương lúc nói chuyện đó cũng tưởng là kinh đô của Triệu Vơ Vương ở đâu bên nước ta bây giờ, cho nên mới nói như thế chăng?

Cách ấy cốt phải tự lúc b́nh th́ khoan sức cho dân, để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là cái thuật giữ nước hay hơn cả."

Anh Tông chịu lời ấy rất là phải.

Được mấy hôm th́ ngài mất, vua cùng các quan ai nấy đều cảm thương lắm.

Hưng Đạo Vương thực là hết ḷng với vua, với nước, tuy rằng uy quyền lừng lẫy, mà vẫn giữ chức phận làm tôi, không dám điều ǵ kiêu ngạo. Đang khi quân Nguyên quấy nhiễu, ngài cầm binh quyền, Thánh Tông, Nhân Tông cho ngài được chuyên quyền phong tước: trừ ra tự tước hầu trở xuống, cho ngài được phong trước rồi mới tâu sau. Thế mà ngài không dám tự tiện phong thưởng cho ai cả; phàm những nhà giàu mà ngài có quyên tiền gạo để cấp cho quân ăn, ngài chỉ phong cho làm giả lan tướng mà thôi, nghĩa là tướng cho vay lương. Ngài cẩn thận như thế và ở với ai cũng thật là công chính cho nên đến khi ngài mất, tự vua cho chí bách tính ai cũng thương tiếc. Nhân dân nhiều nơi lập đền thờ phụng để ghi nhớ cái công đức của ngài.

3. Việc Đánh Ai Lao.

Từ khi quân nhà Nguyên thua chạy về Tàu rồi, phía bắc được yên, nhưng ở phía tây nam có quân Ai Lao thường hay sang quấy nhiễu ở mạn Thanh Hóa, Nghệ An. Trước vua Nhân Tông đă thân chinh đi đánh giặc lại sang cướp phá. Sau Anh Tông sai tướng quân là Phạm Ngũ Lăo đi đánh ba bốn phen nữa. Đánh trận nào quân Lào cũng bị giết hại rất nhiều, cho nên từ đó phía Thanh, Nghệ, mới được yên.

4. Sự Giao Thiệp Với Chiêm Thành.

Nước Chiêm Thành đối với An Nam từ ngày nhà Trần lên làm vua, hai nước không có điều ǵ lôi thôi. Đến khi Nhân Tông đi đánh Lào trở về, th́ bỏ đi tu, trước ở chùa Vơ Lâm ( làng Vơ Lâm, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh B́nh), sau về ở An Tử Sơn (huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên). Năm tân sửu (1301) Thượng Hoàng đi sang Chiêm Thành sang phong cảnh, có ước gả Huyền Trân Công Chúa cho vua Chiêm là Chế Mân. Được ít lâu Chế Mân cho người đưa vàng bạc và các sản vật sang cống và xin cưới. Triều thần có nhiều người không thuận. Chế Mân lại xin dâng Châu Ô và Châu Rí để làm lễ cưới, bấy giờ Anh Tông mới quyết ư thuận gả. Đến tháng sáu năm bính ngọ (1306) cho công chúa về Chiêm Thành.

Sang năm sau (1307) vua Anh Tông thu nhận hai Châu Ô và Châu Rí, đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu, rồi sai quan là Đoàn Nhữ Hài vào kinh lư và đặt quan cai trị.

Huyền Trân Công Chúa lấy Chế Mân chưa được một năm th́ Chế Mân mất, mà theo tục Chiêm Thành, hễ khi vua đă chết, th́ các hậu phải hỏa thiêu chết theo.

Anh Tông được tin ấy, sai Trần Khắc Chung, giả mượn tiếng vào thăm để t́m kế đưa công chúa về.

Từ khi Chế Mân mất rồi, Chế Chí lên làm vua Chiêm Thành. Nhưng Chế Chí hay phản trắc, không giữ những điều giao ước trước, cho nên năm tân hợi (1311), Anh Tông cùng với Huệ Vơ Vương Trần Quốc Chân, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư phân binh làm ba đạo sang đánh Chiêm Thành, bắt được Chế Chí đem về An Nam và phong cho người em là Chế Đà A Bà làm vua Chiêm Thành.

Chế Chí về An Nam được phong là Hiệu Thuận Vương, nhưng chẳng được bao lâu th́ mất ở huyện Gia Lâm. Vua sai đưa hỏa táng. Từ đó về sau nước Chiêm và nước Nam thành ra có điều thù oán măi.

Năm mậu thân (1308) Nhân Tông Thượng Hoàng mất ở chùa Yên Tử Sơn. Năm giáp dần (1314) Anh Tông nhường ngôi cho thái tử Mạnh, rồi về làm Thái Thượng Hoàng ở phủ Thiên Trường đến năm canh thân (1320) th́ mất.

Anh Tông trị v́ được 21 năm, nhường ngôi được 6 năm, thọ 54 tuổi.

 

II. Trần Minh Tông (1314-1329)

Niên-hiệu: Đại Khánh (1314 - 1323)

Khai Thái (1324 - 1329)

Năm giáp dần (1314) Thái Tử Mạnh lên ngôi làm vua, tức là vua Minh Tông.

Thời bấy giờ làm quan tại triều có Đoàn Nhữ Hài, Phạm Ngũ Lăo, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Chu Văn An, v.v... đều là những người có tài cán trí lự cả.

Trong nước được yên trị; giao hiếu với nước Tàu th́ tuy rằng có lôi thôi về đường phân địa giới, nhưng đại khái vẫn được ḥa hảo. Duy chỉ có nước Chiêm Thành tự khi Chế Chí chết rồi, th́ người Chiêm cứ hay sang quấy nhiễu ở phía nam, cho nên phải dùng đến can qua. Năm mậu ngọ (1318), Minh Tông sai Huệ Vơ Vương Trần Quốc Chân và tướng quân Phạm Ngũ Lăo đem binh đi đánh, vua Chiêm là Chế Năng phải bỏ thành mà chạy.

C̣n những việc chính trị trong nước, th́ năm ất măo (1315), lập lệ cấm người trong họ không được đi thưa kiện nhau; năm bính th́n (1316) duyệt định văn vơ quan cấp; năm quư hợi (1323) mở khoa thi Thái Học Sinh; năm ấy lại cấm quân sĩ không được vẽ ḿnh như trước. Nước ta bỏ thói vẽ ḿnh từ đấy.

Minh Tông vốn là ông vua có ḷng nhân hậu, hay thương yêu nhân dân, nhưng chỉ v́ nghe nịnh thần cho nên giết oan Huệ Vơ Vương Trần Quốc Chân, là người làm quan có công với nước.

Trần Quốc Chân là thân sinh ra hoàng hậu và lại có công đi đánh Chiêm Thành thắng trận mấy lần. Nhưng v́ Hoàng Hậu chưa có hoàng tử, triều thần phân ra làm 2 đảng, một đảng th́ có Văn Hiến Hầu và Trần Khắc Chung, xin lập hoàng tử Vượng là con bà thứ, làm thái tử. Một đảng th́ có Trần Quốc Chân xin chờ cho hoàng hậu có con trai rồi sẽ lập thái tử.

Sau Văn Hiến Hầu cho tên Trần Nhạc là đầy tớ của Trần Quốc Chân một trăm lạng vàng xúi nó vu cáo cho Quốc Chân làm mưu phản. Minh Tông bắt Quốc Chân đem giam ở chùa Tư Phúc.

Trần Khắc Chung xin vua trừ Quốc Chân đi, lấy lẽ rằng bắt hổ th́ dễ, thả hổ th́ khó. Minh Tông nghe lời ấy, cấm không cho Quốc Chân ăn uống ǵ cả, đến đổi khát nước quá, Hoàng Hậu phải lấy áo nhúng xuống nước rồi mặc vào vắt ra cho uống. Uống xong th́ chết. Sau có người vợ lẽ tên Trần Nhạc ghen nhau với vợ cả, đi tố cáo ra sự Trần Nhạc lấy vàng và sự vu cáo cho Trần Quốc Chân. Bấy giờ mới rơ cái t́nh oan của một người trung thần.

Minh Tông làm vua đến năm ất tị (1329), th́ nhường ngôi cho thái tử Vượng, rồi về làm Thái Thượng Hoàng.

 

III. Trần Hiến Tông (1329-1341)

Niên-hiệu: Khai Hữu

Thái Tử Vượng mới có 10 tuổi, lên làm vua tức là vua Hiến Tông.

Hiến Tông chỉ làm vua lấy v́ mà thôi, quyền chính ở cả tay Minh Tông Thượng Hoàng, cho nên tuy ngài có làm vua được non 13 năm, nhưng không được tự chủ việc ǵ.

1. Giặc Ngưu Hống.

Minh Tông Thượng Hoàng vừa nhường ngôi xong, th́ ở mạn Đà Giang có Mường Ngưu Hống làm loạn. Thượng Hoàng phải thân chinh đi đánh. Người Ngưu Hống ở trại Chiêm Chiêu đưa thư đến giả xin hàng. Nhưng khi đạo quân ở Thanh Hóa đi đến nơi, th́ bị người ở trại ấy đổ ra đánh, phải thua chạy. Thượng hoàng đem đại binh tiến lên, thanh thế lừng lẫy, quân Ngưu Hống bỏ chạy cả vào rừng. Quân giặc tuy thua nhưng không trừ hết được, măi đến năm đinh sữu (1377) tướng nhà Trần là Hưng Hiếu Vương chém được thủ đảng Ngưu Hống ở trại Trịnh Kỳ, th́ giặc ấy mới yên.

2. Giặc Ai Lao.

Trong khi giặc Ngưu Hống c̣n đang quấy nhiễu, giặc Ai Lao lại sang đánh phá. Năm giáp tuất (1384) Minh Tông Thượng Hoàng lại phải thân chinh đi đánh. Sai ông Nguyễn Trung Ngạn vào Thanh Hóa sung chức Phát Vận Sứ để vận lương đi trước, Thượng Hoàng đem đại quân vào sau. Khi đại quân vào đến Kiềm Châu (thuộc huyện Tương Dương, Nghệ An), quân Ai Lao nghe tiếng đều bỏ chạy cả.

Thượng Hoàng bèn sai ông Nguyễn Trung Ngạn làm bài bia khắc trên núi để ghi công. Bài bia ấy chữ to bằng bàn tay, khắc vào đá sâu một tấc, đến nay vẫn c̣n.

Văn bài bia ấy dịch ra chữ nôm như sau này:

"Chương nghiêu Văn triết Thái thượng hoàng là vua thứ sáu đời nhà Trần, nước Hoàng Việt chịu mệnh trời nhất thống cơi trung hạ, trong đất ngoài bể đâu cũng thần phục. Nước Ai Lao nhỏ mọn kia dám ngạnh vương hóa; cuối mùa thu năm ất hợi vua thân đem sáu quân đi tuần cơi tây, Thế tử nước Chiêm Thành, nước Chân Lạp, nước Tiêm La và tù trưởng các dạo mán là Qú, Cầm, Xa, Lạc, tù trưởng rợ Bồ Man mới phụ và các bộ Mán Thanh xa đều mang phương vật tranh nhau đến đón rước. Chỉ có tên nghịch Bổng cứ giữ mê tối, sợ phải tội chưa lại chầu ngay. Cuối mùa đông vua đóng quân ở cánh đồng Cự, thuộc châu Mật, sai các tướng và quân rợ mọi vào tận nước, nghịch Bổng theo gió chạy trốn. Vua mới xuống chiếu đem quân về. Lúc bấy giờ là ngày tháng chạp nhuận năm ất hợi, niên hiệu Khai Hữu thứ 7, khắc vào đá".

Xem văn từ th́ h́nh như việc Minh Tông Thượng Hoàng đi đánh Ai Lao thật là hống hách lắm, nhưng cứ sự thực th́ quân ta bấy giờ chưa ra khỏi cơi, mà giặc Ai Lao th́ chưa trừ được. C̣n như việc thế tử nước Chân Lạp và nước Tiêm La, v.v.... sang chầu, th́ thiết tưởng đấy là một lối làm văn của nhà làm bia nói cho trân trọng đó mà thôi, chứ chưa chắc đă hợp với sự thực.

Năm sau quân Ai Lao lại sang cướp ở ấp Nam Nhung (thuộc huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An). Minh Tông thượng hoàng lại ngự giá đi đánh lần nữa. Ngài sai quan Kinh Lược Đại Sứ tỉnh Nghệ An là Đoàn Nhữ Hài làm Đô Đốc chư quân. Đoàn Nhữ Hài khi quân lào hèn yếu, chắc đánh là tất được. Đến khi đem quân đến ấp Nam Nhung qua sông Tiết La, chẳng may phải hôm có sương mù, bị phục binh của Lào đổ ra đánh, quan quân thua chạy cả xuống sông, chết đuối nhiều lắm. Đoàn Nhữ Hài cũng chết đuối.

Xét ra nước Ai Lao đă sang quấy nhiễu đất An Nam từ đời vua Nhân Tông và vua Anh Tông. Quan quân đă phải đi đánh nhiều lần, nhưng lần nào đánh xong th́ cũng chỉ yên được độ vài ba năm, rồi giặc lại sang đánh phá. Mà quan quân có đi đánh th́ cũng đánh cho nó đừng sang ăn cướp ở đất ḿnh nữa mà thôi, chứ không có lúc nào định chiếm giữ đất Lào cả. Có lẽ là tại đất Lào nhiều rừng lắm núi, phải sơn lam thủy chướng, đường sá xa sôi, vận tải khó nhọc, cho nên quân ta không ở được lâu. C̣n người Lào th́ họ thuộc đường sá, quen phong thổ, tiến thoái tùy tiện; thắng trận th́ họ tiến lên đánh, bại trận th́ họ rút quân đi, ḿnh không biết đâu mà đuổi. Bởi thế cho nên quân ta vẫn đánh được giặc mà giặc vẫn c̣n, thành ra cứ phải đi đánh măi.

Hiến Tông làm vua đến năm tân tị (1341) th́ mất, trị v́ được 13 năm, thọ 23 tuổi.

CHƯƠNG X Nhà Trần - Thời Kỳ Thứ Ba ( 1341 - 1400 )

I. Trần Dụ Tông 1. Việc chính trị 2. Việc giao thiệp với nước Tàu 3. Việc giao thiệp với Chiêm Thành 4. Dương Nhật Lễ

II. Trần Nghệ Tông

III. Trần Duệ Tông 1. Việc chính trị 2. Sự thi cử 3. Việc đánh Chiêm Thành

IV. Trần Phế Đế 1. Chiêm Thành sang phá Thăng Long 2. T́nh thế nước Nam 3. Nhà Minh sách nhiễu 4. Nghệ Tông thất chính 5. Lê Quư Ly giết Đế Hiễn

V. Trần Thuận Tông 1. Phạm Sư Ôn khởi loạn 2. Chế Bồng Nga tử trận 3. Lê Quư Ly chuyên quyền 4. Nghệ Tông mất

VI. Lê Quư Ly mưu sự thoán đoạt 1. Việc tài chánh 2. Việc học hành 3. Việc cai trị 4. Lập Tây Đô 5. Sự phế lập: Trần Thiếu Đế

I. Trần Dụ Tông (1341-1369) Niên-hiệu: Thiệu Phong (1341 - 1357) Đại Trị ( 1358-1369)

1. Việc Chính Trị.

Hiến Tông không có con, Minh Tông thượng hoàng lập người em tên là Hạo lên làm vua, tức là vua Dụ Tông.

Trong những năm Thiệu Phong, là mười mấy năm đầu, tuy Dụ Tông làm vua, nhưng quyền chính trị ở Minh Tông thượng hoàng quyết đoán cả, cho nên dẫu có phải mấy năm tai biến mất mùa đói khổ, nhưng việc chính trị c̣n có thứ tự. Từ năm Đại Trị nguyên niên (1358) trở đi, Thượng Hoàng mất rồi, bọn cựu thần như ông Trương Hán Siêu, ông Nguyễn Trung Ngạn cũng mất cả, từ đó việc chính trị bỏ trễ năi. Kẻ gian thần mỗi ngày một đắc chí. Ông Chu Văn An là một nhà danh nho thời bấy giờ và đang làm quan tại triều, thấy chính trị bại hoại, làm sớ dâng lên xin chém bảy người quyền thần. Vua không nghe, ông ấy bỏ quan về ở núi Chí Linh.

Vua Dụ Tông về sau cứ rượu chè chơi bời, xây cung điện, đào hồ đắp núi, rồi lại cho gọi những người nhà giàu vào trong điện để đánh bạc. Bắt vương hầu công chúa phải đặt chuyện hát tuồng 62

và bắt các quan thi nhau uống rượu, ai uống rượu được một trăm thăng th́ thưởng cho hai trật.

Chính sự như thế, cho nên giặc cướp nổi lên như ong dấy: ở mạn Hải Dương th́ có giặc Ngô Bệ làm loạn ở núi Yên Phụ; ở các nơi th́ chỗ nào cũng có giặc nổi lên cướp phá. Dân t́nh khổ sở, năm nào cũng phải đói kém. Cơ nghiệp nhà Trần bắt đầu suy từ đấy.

2. Việc Giao Thiệp Với Nước Tàu.

Bấy giờ ở bên Tàu, nhà Nguyên đă suy, trong nước rối loạn, có bọn Trần Hữu Lượng, Trương Sĩ Thành, Chu Nguyên Chương khởi binh đánh phá.

Chu Nguyên Chương dấy binh ở đất Từ Châu (tỉnh An Huy), chiếm giữ thành Kim Lăng, rồi trong 15 năm dứt được nhà Nguyên dẹp yên thiên hạ, dựng nên cơ nghiệp nhà Minh.

Năm mậu thân (1368) Minh Thái Tổ sai sứ đưa thư sang dụ nước ta, Dụ Tông sai quan Lễ Bộ Thị Lang là Đào Văn Đích sang cống. 62

Khi quân nhà Trần đánh được quân nhà Nguyên, có bắt được một tên hát bội là Lư Nguyên Cát, sau nó ở lại nước ta lấy cổ truyện mà đặt thành bài tuồng, rồi dạy người ḿnh hát. Khi con hát ra làm tṛ th́ mặc áo gấm, áo vóc, theo nhịp đàn nhịp trống mà hát. Sự hát tuồng của Việt Nam bắt đầu từ đấy.

Nước Nam ta bấy giờ tuy đă suy nhược, nhưng mà nhà Minh mới định xong thiên hạ, c̣n phải sửa sang việc nước, chưa ḍm đến nước ḿnh, cho nên cũng chưa có việc ǵ quan trọng lắm.

3. Việc Giao Thiệp Với Chiêm Thành.

Từ khi vua nước Chiêm Thành là Chế A Nan mất rồi, con là Chế Mộ và rể là Bồ Đề tranh nhau làm vua. Người Chiêm Thành bỏ Chế Mộ mà theo Bồ Đề; qua năm nhâm th́n (1352) Chế Mộ chạy sang An Nam cầu cứu.

Đến năm quư tị (1353) Dụ Tông cho quân đưa Chế Mộ về nước, nhưng quan quân đi đến đất Cổ Lụy (thuộc Quảng Nghĩa) th́ bị quân Chiêm đánh thua, phải chạy trở về. Chế Mộ cũng buồn rầu chẳng bao lâu th́ chết.

Người Chiêm Thành từ đấy được thể cứ sang cướp phá ở đất An Nam.

Năm đinh mùi (1367), Dụ Tông sai Trần Thế Hưng và Đỗ Tử B́nh đi đánh Chiêm Thành. Quan quân đi đến Chiêm Động (thuộc phủ Thăng B́nh, tỉnh Quảng Nam) bị phục quân của Chiêm Thành đánh bắt mất Trần Thế Hưng, Đổ Tử B́nh đem quân chạy trở về.

Người Chiêm thấy binh thế nước Nam suy nhược, có ư khinh dễ, cho nên qua năm mậu thân (1368) vua nước Chiêm cho sứ sang đ̣i đất Hóa Châu. Việc đ̣i Hóa Châu này th́ sử chỉ chép qua đi mà thôi. Vả bấy giờ ở nước Nam ta, vua Dụ Tông chỉ lo việc hoang chơi, không tưởng ǵ đến việc Vơ bị; mà ở bên Chiêm Thành th́ có Chế Bồng Nga, là một ông vua anh hùng, có ư đánh An Nam để rửa những thù trước. Vậy cho nên hết sức tập trận, luyện binh; bắt quân lính phải chịu khó nhọc cho quen, dàn trận voi cho tiện đường lui tới: thắng th́ cho voi đi trước để xông đột, bại th́ cho voi đi sau để ngăn giữ quân nghịch. Nhờ cách xếp đặt có thứ tự, dụng binh có kỷ luật như thế, cho nên quân Chiêm Thành từ đó mạnh lắm, sau dánh phá thành Thăng Long mấy lần, làm cho vua tôi nhà Trần phải kính sợ mấy phen.

4. Dương Nhật Lễ (1369 - 1370).

Năm kỷ dậu (1369), vua Dụ Tông mất, không có con. Triều đ́nh định lập Cung Định Vương là anh Dụ Tông lên làm vua, nhưng mà bà Hoàng Thái Hậu nhất định lập người con nuôi của Cung Túc Vương là Dương Nhật Lễ.

Nguyên mẹ Nhật Lễ là người con hát, lấy người hát bội tên là Dương Khương, có thai rồi mới bỏ Dương Khương mà lấy Cung Túc Vương, sinh ra Nhật Lễ. Nay lên làm vua, Nhật Lễ muốn cải họ là Dương để dứt ngôi nhà Trần, rồi giết bà Hoàng Thái Hậu và Cung Định Vương.

Bấy giờ Cung Tĩnh Vương ở chỗ Kinh Sư cũng sợ bị hại, vả lại tính khí cũng nhu nhược, không có ư tranh cạnh, mới bỏ trốn lên mạn Đà Giang. Các quan Tôn thất nhà Trần mới hội nhau đem binh về bắt Nhật Lễ giết đi, rồi rước Cung Tĩnh Vương về làm vua. Tức là vua Nghệ Tông.

II. Trần Nghệ Tông (1370-1372) Niên-hiệu: Thiệu Khánh

Khi Nghệ Tông giết Nhật Lễ rồi, mẹ Nhật Lễ chạy sang Chiêm Thành, xin vua nước ấy là Chế Bồng Nga đem quân sang đánh An Nam. Quân Chiêm vược bể vào cửa Đại An, kéo lên đánh Thăng Long. Quan quân đánh không nổi. Nghệ Tông phải lánh ḿnh chạy sang Đông Ngạn (ở Cổ Pháp làng Đ́nh Bảng). Quân Chiêm vào thành, đốt sạch cung điện, bắt đàn bà con gái, lấy hết các đồ báu ngọc, rồi rút quân về.

Nghệ Tông là một ông vua nhu nhược, việc ǵ cũng để cho người ngoại thích là Lê Quư Ly quyết đoán cả.

Quư Ly là ḍng dơi người ở Chiết Giang bên Tàu, tổ là Hồ Hưng Dật, từ đời Ngũ Quư sang ở nước ta, làng Bào Đột, huyện Quỳnh Lưu. Sao ông tổ tứ đại là Hồ Liêm dời ra ở Thanh Hóa, làm con nuôi nhà Lê Huấn, cho nên mới đổi họ là Lê. Lê Quư Ly có hai người cô lấy vua Minh Tông. Một người sinh ra vua Nghệ Tông, một người sinh ra vua Duệ Tông. V́ thế cho nên Nghệ Tông càng tin dùng lắm, phong cho làm Khu Mật Đại Sứ, lại gia tước Trung Tuyên Hầu.

Năm nhâm tí (1372) Nghệ Tông truyền ngôi cho em là Kính, rồi về ở phủ Thiên Trường làm Thái Thượng Hoàng.

III. Trần Duệ Tông (1372-1377) Niên-hiệu: Long Khánh

1. Việc Chính Trị.

Thái Tử Kính lên ngôi, tức là vua Duệ Tông, lập Lê Thị làm hoàng hậu (Lê Thị là em họ Quư Ly).

Duệ Tông có tính quyết đoán hơn Nghệ Tông, nhưng mà quyền bính vẫn ở tay Nghệ Tông thượng hoàng cả.

Bấy giờ quân Chiêm Thành cứ sang quấy nhiễu măi, vua Duệ Tông quyết ư đi đánh báo thù, bèn hạ chiếu luyện tập quân lính, làm chiến thuyền, và tích lương thảo để pḥng việc chinh chiến, rồi đặt thêm quân hiệu, cho Quư Ly làm Tham mưu quân sự; dổi đất Hoan Châu làm Nghệ An, Diễn Châu làm Diễn Châu Lộ, Lâm B́nh Phủ làm Tân B́nh Phủ, rồi sai quan bắt dân sửa sang đường sá tự Cửu Chân (Thanh Hóa) cho đến huyện Hà Hoa (tức là huyện Kỳ Anh bây giờ).

2. Sự Thi Cử.

Tuy bấy giờ lo việc vơ bị nhiều, nhưng cũng không quên việc văn học; năm giáp dần (1374) mở khoa thi tiến sĩ, lấy hơn 50 người cho áo măo vinh quy. Trước vẫn có thi thái học sinh, đến bấy giờ mới đổi ra là thi tiến sĩ.

3. Việc Đánh Chiêm Thành.

Năm bính th́n (1376) quân Chiêm lại sang phá ở Hóa Châu. Duệ Tông định thân chinh đi đánh. Đ́nh thần can không được. Sai quân dân Thanh Hóa, Nghệ An, vận tải 5 vạn thạch lương vào Hoá châu, rồi rước Thượng Hoàng lên duyệt binh ở Bạch Hạc. Nhân năm ấy vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga đem sang cống 15 mâm vàng, quân trấn thủ Hóa châu tên là Đỗ Tử B́nh lấy đi, rồi dâng sớ về nói rằng Chế Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, xin vua cử binh sang đánh. Được tin ấy, Duệ Tông quyết ư đi đánh; sai Quư Ly đốc vận lương thực đến cửa bể Di Luân (thuộc huyện B́nh Chính, Quảng B́nh) và tự lĩnh 12 vạn quân, cả thủy bộ cùng tiến; đi đến cửa bể Nhật Lệ (ở làng Đồng Hới, huyện Phong Lộc, Quảng B́nh) đóng lại một tháng để luyện tập sĩ tốt.

Quan tháng giêng năm đinh tị (1377) mới tiến quân vào cửa Thị Nại (tức là cửa Quy Nhơn) đánh lấy đồn Thạch Kiều và động Kỳ Mang, rồi kéo quân đến đánh thành Đồ Bàn là Kinh đô Chiêm Thành 63 .

Chế Bồng Nga lập đồn giữ ở ngoài thành, rồi cho người sang giả hàng nói Chế Bồng Nga đă bỏ thành chạy trốn rồi, chỉ c̣n có thành không mà thôi, xin tiến binh sang ngay. Duệ Tông lấy điều ấy làm thật, hạ lệnh truyền tiến binh vào thành. Đại tướng là Đỗ Lễ can măi vua không nghe. Khi quân gần đến thành Đồ Bàn, quả nhiên bị quân Chiêm đổ ra vây đánh. Quan quân thua to; Duệ Tông chết ở trận, tướng sĩ quân lính chết mười phần đến bảy tám.

Bấy giờ Đỗ Tử B́nh lĩnh hậu quân không đem binh lên cứu, Lê Quư Ly cũng bỏ chạy về. Thế mà hai người về kinh, Nghệ Tông thượng hoàng chỉ giáng Đổ Tử B́nh xuống làm lính mà thôi.  63

Thành Đồ Bàn bây giờ hăy c̣n di tích ở huyện Tuy Viễn, tỉnh Khánh Ḥa.

IV. Trần Phế Đế (1377-1388) Niên-hiệu: Xương Phù

Thượng Hoàng được tin Duệ Tông chết trận rồi, bèn lập con Duệ Tông là Hiễn lên nối ngôi, tức là vua Phế Đế.

1. Chiêm Thành Sang Phá Thăng Long.

Quân Chiêm Thành đă phá được quân An Nam và giết được Duệ Tông rồi, qua tháng sau đem quân sang đánh Thăng Long. Thượng hoàng nghe tin giặc đến, sai tướng ra giữ Đại An hải khẩu. Giặc biết chỗ ấy có pḥng bị, đi vào cửa Thần Phù (sông Chính Đại, thuộc huyện Yên Mô, Ninh B́nh) rồi lên cướp phá thành Thăng Long, không ai chống giữ được.

Tháng năm năm mậu ngọ (1378) quân Chiêm Thành lại sang đánh đất Nghệ An, rồi lại vào sông Đại Hoàng lên đánh Thăng Long lần nữa.

Quân Chiêm Thành biết nước Nam suy nhược, cứ sang cướp phá. Năm canh thân (1380) lại sang phá ở đất Thanh Hóa, Nghệ An. Vua sai Lê Quư Ly lĩnh thủy binh, Đỗ Tử B́nh lĩnh bộ binh vào giữ ở Ngu Giang, huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa). Lê Quư Ly đánh đuổi được quân Chiêm về. Đến năm nhâm tuất (1382) quân Chiêm lại sang đánh ở đất Thanh Hóa. Lê Quư Ly cùng với tướng quân Nguyễn Đa Phương giữ ở bến Thần Đầu (Ninh B́nh). Nguyễn Đa Phương phá được quân Chiêm, đuổi đánh đến đất Nghệ An mới thôi.

Từ khi đánh được trận Ngu Giang và trận Thần Đầu, quân thế An Nam đă hơi nổi, cho nên sang tháng giêng năm quư hợi (1383). Thượng hoàng sai Quư Ly vào đến Lại Bộ Nương Loan (tức là cửa Nương Loan bây giờ ở huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh) phải băo đánh nát mất nhiều thuyền, lại phải rút quân về.

Qua tháng sáu năm ấy, Chế Bồng Nga cùng với tướng là La Khải đem quân đi đường sơn lộ ra đóng ở Khổng Mục, đất Quảng Oai. Ở kinh sư nghe tin giặc Chiêm lại sang, Thượng hoàng sai tướng là Mật Ôn ra giữ ở châu Tam Kỳ ở địa hạt Quốc Oai, nhưng Mật Ôn bị quân Chiêm đánh bắt mất. Thượng Hoàng sợ hăi, sai Nguyễn Đa Phương ở lại kinh sư làm đồn giữ thành, rồi cùng với vua chạy sang Đông Ngạn. Bấy giờ có người níu thuyền lại xin Thượng hoàng cứ ở lại kinh sư mà chống giữ với giặc. Thượng hoàng không nghe.

Quân Chiêm Thành bấy giờ ra vào nước Nam ta như đi vào chỗ không người, cho nên trong mấy năm mà vào phá kinh thành 3 lần; ba lần thượng hoàng cùng Đế Hiễn phải bỏ thành mà chạy. Thế mà đến khi giặc về rồi, cũng không sửa sang ǵ để pḥng bị về sau, thật là làm nhục cái tiếng con cháu Trần Hưng Đạo Vương.

2. T́nh Thế Nước Nam.

Trong nước bấy giờ dân t́nh đói khổ, nhà vua th́ sợ giặc phải đưa của đi chôn ở trên núi Thiên Kiện, tức là núi Kiện Khê, huyện Thanh Liêm. Ở ngoài bờ cơi th́ người Chiêm hay vào đánh chỗ này, mai vào phá chỗ khác, nhà nước mỗi ngày một hèn yếu, đến nỗi phải nhờ đến lũ tăng nhân là bọn Đại Nạn Thiền Sư đi đánh giặc Chiêm.

Thuế má th́ càng ngày càng nặng. Trước dân An Nam cứ phải định nghạch chịu thuế, sống không kể, chết không trừ, ai đă làm lính, th́ cả đời chỉ phải làm lính, chứ không bao giờ được làm quan. C̣n những người có điền thổ th́ phải đóng tiền, ai không có ǵ th́ thôi. Khi nào có binh sự, th́ những người có ruộng, có đồng dâu, hay là có đầm cá phải chịu thóc, tiền và vải, để cho quân dùng. Đến nay giặc giă luôn, kho tàng trống thốc, Đỗ Tử B́nh 64

xin với vua bắt mỗi suất đinh mỗi năm phải đóng 3 quan tiền thuế. Thuế thân sinh ra từ đấy.

3. Nhà Minh Sách Nhiễu.

Ở bên Tàu th́ bấy giờ nhà Minh đă dứt được nhà Nguyên, lại có ư ḍm đất An Nam. Thường thường cho sứ đi lại sách cái nọ, đ̣i cái kia; năm giáp tí (1384) Minh Thái Tổ cho sứ sang bắt An Nam phải cấp 5000 thạch lương cho quân nhà Minh đóng ở Vân Nam. Năm sau (1385) lại cho sứ sang đem 20 tăng nhân An Nam về Kim Lăng, rồi lại đ̣i phải cống cây quư, phải nộp lương, chủ ư là xem t́nh thế nước Nam ra thế nào.

4. Nghệ Tông Thất Chính.

Vua Nghệ Tông tuy giữ quyền chính trị, nhưng việc ǵ cũng do ở Lê Quư Ly. Triều đ́nh th́ chỉ có mặt xu nịnh, người nào cũng chỉ lo lấy thân mà thôi, việc nước an nguy thế nào không ai lo nghĩ đến. Những người tôn thất như Trần Nguyên Đán 65

thấy quốc chính ră rời, xin về trí sĩ. Một hôm Thượng hoàng đến thăm bàn đến hậu sự, Nguyên Đán tâu rằng: " Xin bệ hạ thờ nhà Minh như cha, yêu nước Chiêm Thành như con, th́ quốc gia sẽ không việc ǵ, mà lăo thần chết cũng không hẩm !" Ấy là chỉ bàn những chuyện làm tôi tớ mà thôi, chứ không có chí muốn cho nước ḿnh cường thịnh. Nguyên Đán biết rằng Quư Ly sau này tất cướp ngôi nhà Trần, bèn kết làm thông gia, v́ thế cho nên sau ḍng dơi nhà Trần chết cả, duy chỉ có con cái nhà Nguyên Đán được phú quư mà thôi.  64

Đỗ Tử B́nh trước đi đánh Chiêm Thành có tội phải đày đi làm lính. Nay không biết làm thế nào đă được phục chức. 65

Trần Nguyên Đán là cháu tằng tôn Trần Quang Khải.

Nghệ Tông Thượng Hoàng th́ cứ mờ mịt, không biết ai trung ai nịnh, vẫn tưởng là Lê Quư Ly hết ḷng với nhà vua, bèn cho Lê Quư Ly gươm và cờ có chữ đề rằng: "Văn Vơ Toàn Tài, Quân Thần Đồng Đức". Lê Quư Ly làm thơ nôm dâng tạ.

5. Lê Quư Ly Mưu Giết Đế Hiễn.

Bấy giờ Đế Hiễn thấy Thượng hoàng yêu dùng Quư Ly, mới bàn với các quan thấy rằng nếu không trừ đi rồi sau tất thành ra vạ to. Quư Ly biết mưu ấy, đến kêu van với Thượng hoàng rằng: " Cổ lai chỉ bỏ cháu nuôi con, chứ chưa thấy ai bỏ con nuôi cháu bao giờ". Thượng hoàng nghe lời, xuống chiếu trách Đế Hiễn c̣n tính trẻ con và lại có ư hại kẻ công thần, làm nguy xă tắc; vậy phải giáng xuống làm Minh Đức Đại Vương, và lập Chiêu Định Vương là con Nghệ Tông lên nối ngôi.

Khi tờ chiếu ấy bố cáo ra ngoài, có mấy người tướng quân đă toan đưa quân vào điện cứu Đế Hiễn ra, nhưng vua viết hai chữ "giải giáp" và không cho được trái mệnh của Thượng hoàng. Sau Đế Hiễn bị thắt cổ chết, c̣n những tướng sĩ đồng mưu giết Quư Ly đều bị hại cả.

V. Trần Thuận Tông (1388-1398) Niên-hiệu: Quang Thái

1. Phạm Sư Ôn khởi loạn.

Nghệ Tông Thượng Hoàng đă nghe Quư Ly mà giết Đế Hiễn rồi lập người con út của ḿnh là Chiêu Định Vương lên làm vua, tức là vua Thuận Tông.

Bấy giờ trong triều th́ Lê Quư Ly chuyên quyền, chọn những chân tay cai quản các đội quân để làm vây cánh, ngoài các trấn th́ giặc giă nổi lên nhiều lắm. Ở Thanh Hóa có tên Nguyễn Thanh tự xưng là Linh Đức Vương làm loạn ở Lương Giang; tên Nguyễn Kị tự xưng là Lỗ Vương làm loạn ở Nông Cống. Ở Quốc Oai th́ có người sư tên là Phạm Sư Ôn nổi lên đem quân về đánh Kinh Sư. Thượng Hoàng, Thuận Tông và Triều đ́nh phải bỏ chạy lên Bắc giang. Phạm Sư Ôn lấy được Kinh sư, ở ba ngày rồi rút về Quốc Oai. Bấy giờ có tướng quân là Hoàng Phụng Thế đóng ở Hoàng Giang 66

để pḥng giữ quân Chiêm Thành, nghe tin Sư Ôn phạm đất Kinh sư mới đem quân về đánh lẻn bắt được Sư Ôn và phá tan giặc ấy.  66

Hoàng Giang là khúc sông Hồng Hà ở về huyện Nam Xang, Hà Nam. 2. Chế Bồng Nga Tử Trận.

Năm kỷ tị (1389) Chế Bồng Nga lại đem quân ra đánh Thanh Hóa. Vua sai Lê Quư Ly đem binh vào chống giữ ở làng Cổ Vô. Quan quân đóng cọc ngăn sông ra giữ nhau với giặc hơn 20 ngày. Giặc bèn phục binh, rồi giả tảng rút quân về. Lê Quư Ly đem quân thủy bộ đuổi đánh, bị phục binh của giặc đổ ra đánh, giết hại mất nhiều. Quư Ly trốn chạy về kinh để người tỳ tướng là Phạm Khả Vĩnh, và tướng quân là Nguyễn Đa Phương chống nhau với giặc ở Ngu Giang. Bọn Nguyễn Đa Phương thấy quân ḿnh yếu thế, giả tảng bày cờ giàn thuyền ra rồi đến đêm rút quân về.

Qua tháng mười một, quân Chiêm lại vào sông Hoàng gian, Thượng hoàng sai quan Đô tướng là Trần Khát Chân 67

đem binh đi chống giữ với giặc. Trần Khát Chân khóc và lạy rồi ra đi, Thượng hoàng cũng khóc. Xem thế th́ biết vua tôi nhà Trần, bấy giờ lấy quân Chiêm thành làm khiếp sợ lắm.

Trần Khát Chân đem quân đến Hoàng Giang xem không có chỗ nào đóng quân được tiện lợi, bèn rút về đóng ở sông Hải Triều (ở vào địa phận Huyện Hưng Nhân, tỉnh Thái B́nh và huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, tức là ở sông Luộc).

Đến tháng giêng năm canh ngọ (1390) Chế Bồng Nga đi thuyền đến xem h́nh thế quân của Trần Khát Chân. Bấy giờ có thằng đầy tớ của Chế Bồng Nga có tội, sợ phải giết, chạy sang hàng với Trần Khát Chân. Nhân khi Chế Bồng Nga đem hơn 100 chiếc thuyền đến gần trại của quân nhà Trần đóng, tên đầy tớ ấy chỉ cái thuyền của Chế Bồng Nga cho Khát Chân. Khát Chân mới truyền lấy súng bắn vào thuyền ấy. Chế Bồng Nga trúng phải đạn chết.

Quan quân đổ ra đánh, quân Chiêm thấy quốc vương chết đều bỏ chạy cả. Quan quân đánh đuổi rồi cắt lấy đầu Chế Bồng Nga đem về dâng triều đ́nh. Thượng Hoàng thấy đầu Chế Bồng Nga, tự ví ḿnh như Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ, rất là vui vẽ. Đoạn rồi định công thưởng tước các tướng sĩ.

Tướng Chiêm Thành là La Khải đem xác Chế Bồng Nga hỏa táng xong rồi, dem quân trở về nước, chiếm lấy ngôi vua Chiêm Thành. Hai người con Chế Bồng Nga phải chạy sang hàng An Nam, đều được phong tức hầu cả.  67

Trần Khát Chân là ḍng dơi Trần B́nh Trọng. 3. Lê Quư Ly Chuyên Quyền.

Từ khi giặc Chiêm đă yên, Lê Quư Ly càng ngày càng kiêu hănh. Bao nhiêu những người mà không ṭng phục ḿnh th́ xui Thượng hoàng giết đi; hoàng tử, thân vương đều bị giết hại. Mà Thượng hoàng th́ cứ tin Quư Ly một cách lạ lùng. Sĩ phu có người dâng sớ tâu với Thượng hoàng rằng Quư Ly có ư muốn ḍm cơ nghiệp nhà Trần, th́ Thượng hoàng lại đưa sớ cho Quư Ly xem, cho nên những người trung thần không ai nói năng ǵ nữa.

Uy quyền của Quư Ly một ngày một to, vây cánh một ngày một nhiều, Thượng hoàng sau tỉnh dần dần lại biết lấy làm sợ, nhưng đă chậm lắm rồi, thế không sao được nữa; mới bắt người vẽ cái tranh tứ phụ cho Quư Ly. Trong tranh ấy vẽ ông Chu công giúp vua Thành Vương, ông Hoắc Quang giúp vua Chiêu Đế, ông Gia Cát Lượng giúp vua Hậu Chủ, ông Tô Hiến Thành giúp vua Lư Cao Tông, rồi bảo Quư Ly rằng nhà ngươi giúp con trẫm cũng nên như thế. Một hôm Thượng hoàng gọi Quư Ly vào trong điện mà bảo rằng: "Nhà ngươi là thân tộc, cho nên bao nhiêu việc nước, trẫm đều ủy thác cho cả; nay quốc thế suy nhược, trẫm th́ già rồi; ngày sau con trẫm có nên giúp th́ giúp, không th́ nhà ngươi tự làm lấy". Thượng hoàng bắt chước câu ấy của ông Lưu Bị nói vớo ông Khổng Minh ngày trước, tưởng để mua chuộc được ḷng Quư Ly.

Quư Ly cởi mũ, khấu đầu khóc lóc mà thề rằng: "Nếu hạ thần không hết ḷng, hết sức giúp nhà vua, th́ trời tru đất diệt. Vả ngày trước Linh Đức Vương (tức là Phế Đế) có ḷng làm hại, nếu không có uy linh của bệ hạ, th́ nay đă ngậm cười dưới đất, c̣n đâu ngày nay nữa mà mài thân nghiền cốt để báo đền vạn nhất! Vậy hạ thần đâu có ư ǵ khác, xin bệ hạ tỏ ḷng ấy cho và đừng lo ǵ ! "

VI. Lê Quư Ly Mưu Sự Thoán Đoạt

Nghệ Tông mất rồi, Quư Ly lên làm Phụ Chính Thái Sư vào ở trong điện, dịch thiên Vô Dậu ra chữ Nôm để dạy vua và bắt người ta gọi là Phụ Chính Cai Giáo Hoàng Đế.

Từ đấy Quư Ly cứ chuyên làm mọi việc để chực đường thoán đoạt. Việc trong nước, Quư Ly xếp đặt lại cả, hoặc để mua chuộc lấy những người vây cánh.

1. Việc Tài Chính.

Quư Ly đặt ra một cách làm tiền giấy để thu tiền của dân: Tờ giấy ăn 10 đồng, th́ vẽ cây rêu bể; ăn 30 đồng th́ vẽ cái sóng; ăn một tiền, th́ vẽ đám mây; hai tiền th́ vẽ con rùa; ba tiền th́ vẽ con lân; năm tiền th́ vẽ con phượng; một quan th́ vẽ con rồng. Hễ ai làm giấy giả th́ phải tội chém. Khi đă có dấu đóng rồi th́ phát ra bắt dân phải tiêu, c̣n bao nhiêu tiền đồng th́ thu nộp nhà vua; ai mà dấu giếm th́ phải tội như là tội làm giấy giả vậy.

Việc ruộng đất th́ khi trước những nhà tôn thất cứ sai đầy tớ ra chỗ đất bồi ở ngoài bể, đắp đê để một vài năm cho hết nước mặn, rồi khai khẩn thành ruộng, để tư trang. Nay Quư Ly lập lệ rằng trừ những bậc đại vương, công chúa ra, th́ những người thứ dân không được có hơn 10 mẫu, ai có thừa ra th́ phải đưa nộp quan, và ai có tội th́ được phép lấy ruộng mà chuộc tội.

2. Việc Học Hành.

Tư trước th́ phép thi không có định văn thể; bây giờ định lại làm tứ trường văn thể và bỏ thi ám tả; nhất trường làm bài kinh nghĩa; nhị trường làm bài thi phú; tam trường làm chiếu, chế, biểu; tứ trường làm bài văn sách. C̣n như kỳ thi, th́ năm trước thi Hương, năm sau thi Hội, ai đă trúng Hội th́ vào thi một bài văn sách nữa để định cao thấp.

Những quan làm giáo chức ở các lộ, phủ, châu th́ được cấp ruộng; như ở các lộ th́ có quan đốc họ; ở phủ và châu lớn th́ các quan giáo thụ được ruộng 15 mẫu, ở phủ và châu vừa th́ được 12 mẫu, ở phủ và châu nhỏ th́ được 10 mẫu.

3. Việc Cai Trị.

Ở trong triều th́ Quư Ly định lại phẩm phục của các quan; nhất phẩm mặc áo sắc tía; nhị phẩm sắc đỏ; tam phẩm sắc hồng; tứ phẩm sắc lục; ngũ lục, thất phẩm sắc biếc; bát, cửu phẩm sắc sanh; vô phẩm và hoằng nô 68 sắc trắng.

Ở ngoài th́ cải các lộ làm trấn, và đặt thêm quan chức ở lộ, phủ, v.v.... Thanh Hóa đổi ra Thanh Đô Trấn; Quốc Oai là Quảng Oai Trấn; Đà Giang Lộ là Thiên Hưng Trấn; Nghệ An Lộ là Lâm An Trấn; Tràng An Lộ là Thiên Quan Trấn; Diễn Châu Lộ là Vọng Giang Trấn; Lạng Sơn Phủ là Lạng Sơn Trấn; Tân B́nh Phủ là Tây B́nh Trấn. Và bỏ các ti xă, chỉ để quản giáp như cũ mà thôi.

Ở các lộ, phủ, châu, huyện th́ đặt lại quan chức. Lộ th́ đặt chánh phó An phủ sứ; phủ th́ đặt chánh phó Trấn Phủ Sứ; châu th́ đặt Thông phán, Thiêm phán; huyện th́ đặt Lĩnh Úy, Chủ Bạ. Lộ coi phủ coi châu, châu coi huyện. Lộ nào cũNg phải có một tập sổ sách về những việc đinh, điền, kiện tụng, đến cuối năm th́ đệ về Kinh để kê cứu.  68

Hoằng Nô là đầy tớ nhà quan.

4. Lập Tây Đô.

Quư Ly định dời Kinh Đô vào Thanh Hóa cho dễ đường thoán đoạt, bèn sai quan vào xây thành Tây Đô ở động Yên Tôn (nay c̣n di tích ở xă Yên Tôn, huyện Vĩnh Lộc, tục gọi là Tây Giai). Đến năm bính tí (1396) Quư Ly bắt Thuận Tông phải dời kinh về Tây Độ Qua tháng ba năm sau, Quư Ly lập mưu cho người đạo sĩ vào trong cung xui Thuận Tông nhường ngôi mà đi tu tiên. Thuận Tông phải nhường ngôi cho con, rồi đi tu tiên ở cung Bảo Thanh tại núi Đại Lại (thuộc huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa).

5. Sự Phế Lập: Trần Thiếu Đế (1398 - 1400).

Quư Ly bắt Thuận Tông nhường ngôi rồi, lập Thái Tử là Án lên làm vua. Thái tử bấy giờ mới có 3 tuổi, tức là Thiếu Đế, niên hiệu là Kiến Tân.

Lê Quư Ly làm phụ chính tự xưng làm Khâm Đức Hưng Liệt Đại Vương, rồi sai người giết Thuận Tông đi.

Bấy giờ triều đ́nh có những người như là Thái Bảo Trần Nguyên Hảng, Thượng tướng quân là Trần Khát Chân lập hội để mưu trừ Quư Ly, chẳng may sự lộ ra, bị giết đến hơn 370 người 69 .

Lê Quư Ly lại xưng là Quốc Tổ Chương Hoàng, ở cung Nhân Thọ, ra vào dùng nghi vệ của Thiên Tử. Đến tháng hai năm canh th́n (1400) Quư Ly bỏ Thiếu Đế rồi tự xưng làm vua thay ngôi nhà Trần.

Nhà Trần làm vua nước Nam ta kể từ Trần Thái Tông đến Trần Thiếu Đế, với 12 ông vua, được 175 năm, công việc trong nước sửa sang được nhiều, chính trị luật lệ đều chỉnh đốn lại, học hành thi cử th́ mở mang rộng thêm ra. Lại chống với nhà Nguyên giữ được giang sơn, lấy đất Chiêm Thành mở thêm bờ cơi, thật là có công với nước Nam. Nhưng chỉ có điều luân thường trong nhà th́ bậy: cô cháu, anh em, trong họ cứ lấy lẫn nhau, thật là trái với thế tục.

C̣n như cơ nghiệp nhà Trần xiêu đổ là tại vua Duệ Tông và vua Nghệ Tông. Dụ Tông th́ hoang chơi, không chịu lo ǵ đến việc nước và lại làm loạn cả cương kỷ để đến nổi dân nghèo nước yếu. Nghệ Tông th́ không biết phân biệt hiền gian để kẻ quyền thần được thế làm loạn, thành ra tự ḿnh nối giáo cho giặc, tự ḿnh làm hại nhà ḿnh vậy.  69

Nay ở Thanh Hóa có nhiều nơi làm đền thờ Trần Khát Chân.

 

CHƯƠNG XI

Nhà Hồ

( 1400 - 1407 )

I. Hồ Quư Ly

II. Hồ Hán Thương 1. Việc vơ bị 2. Sự sưu thuế 3. Việc học hành 4. Việc giao thiệp với Chiêm Thành 5. Việc giao thiệp với nhà Minh 6. Nhà Minh đánh họ Hồ 7. Thành Đa Bang thất thủ 8. Trận Mộc Phàm Giang 9. Trận Hàm Tử Quan 10. Họ Hồ phải bắt

I. Hồ Quư Ly ( 1400 ) Niên-hiệu: Thánh Nguyên

Quư Ly bỏ Thiếu Đế, nhưng vị t́nh cháu ngoại cho nên không giết, chỉ giáng xuống làm Bảo Ninh Đại Vương, rồi tự xưng làm đế, đổi họ là Hồ. Nguyên họ Hồ là ḍng dơi nhà Ngu bên Tàu, cho nên Quư Ly đặt quốc hiệu là Đại Ngu.

Bấy giờ vua Chiêm Thành là La Khải mới mất, con là Ba Đích Lại mới nối nghiệp, Quư Ly nhân dịp ấy sai tương là Đỗ Măn làm thủy quân đô tướng, Trần Tùng làm bộ quân đô tướng lĩnh 15 vạn quân đi đánh Chiêm Thành. Nhưng Trần Tùng đem quân đi đường núi sang gần đất Chiêm Thành, cách thủy quân xa, hai bên không tiếp ứng được nhau, thành ra bộ quân thiếu lương phải rút về. Trần Tùng về phải tội, đày ra làm lính.

Quư Ly làm vua chưa được một năm, muốn bắt chước tục nhà Trần, nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương rồi làm Thái Thượng Hoàng để cùng coi việc nước.

II. Hồ Hán Thương ( 1401 - 1407 ) Niên-hiệu: Thiệu Thành (1401 - 1402) Khai Đại (1403 - 1407)

1. Việc Vơ Bị.

Hồ Quư Ly đă nhường ngôi rồi, nhưng việc ǵ cũng quyết đoán ở ḿnh cả. Hồ Hán Thương chỉ làm vua lấy v́ mà thôi.

Nhà Hồ không làm vua được bao lâu, nhưng mà công việc sửa sang cũng nhiều. Trước hết Hồ Quư Ly chỉnh đốn việc vơ bị: bề ngoài tuy lấy lễ mà đối đăi với nhà Minh, nhưng vẫn biết nhà Minh có ư muốn ḍm đất An Nam, cho nên thường cứ hỏi các quan rằng: " Ta làm thế nào cho có 100 vạn quân để đánh giặc Bắc ?" Bèn lập ra hộ tịch bắt người trong nước cứ hai tuổi trở lên th́ phải biên vào sổ, ai mà ẩn lậu th́ phải phạt. Đến lúc hộ tịch làm xong rồi, số người từ 15 tuổi đến 60 tuổi hơn gấp mấy phần lúc trước. Từ đó số quân lại thêm ra được nhiều.

C̣n như thủy binh để giữ mặt sông, mặt bể th́ Quư Ly bắt làm những thuyền lớn ở trên có sàn đi, ở dưới th́ để cho người chèo chống, thật tiện cho sự chiến đấu.

Quư Ly lại đặt ra bốn kho để chứa đồ quân khí và bắt những người xảo nghệ vào làm những đồ khí giới.

Ở các cửa bể và những chỗ hiểm yếu ở trong sông lớn đều bắt lấy gỗ đóng cọc để ngự bị quân giặc.

Việc quân chế th́ nam bắc phân ra làm 12 vệ, đông tây phân ra 8 vệ. Mỗi vệ có 18 đội, mỗi đội có 18 người. Đại quân th́ có 30 đội, trung quân th́ có 20 đội. Mỗi doanh có 15 đội, mỗi đoàn có 10 đội. C̣n những cấm vệ, th́ chỉ có 5 đội, có một người đại tướng thống lĩnh cả.

2. Việc Sưu Thuế.

Những thuyền đi buôn bán đều phải chịu thuế cả. Những thuyền hạng nhất mỗi chiếc phải 5 quan, hạng nh́ 4 quan, hạng ba 3 quan.

Thuế điền th́ ngày trước nhà Trần đánh thuế ruộng tư mỗi mẫu ba thăng thóc, ruộng dâu mỗi mẫu hoặc 9 quan, hoặc 7 quan. Thuế đinh th́ mỗi người phải đóng 3 quan. Nay nhà Hồ định lại: ruộng tư điền th́ phải đóng 5 thăng; c̣n ruộng dâu th́ chia ra làm 3 hạng: hạng nhất 5 quan, hạng nh́ 4 quan, hạng ba 3 quan. Thuế đinh th́ lấy ruộng làm ngạch: ai có 2 mẫu 6 sào trở lên th́ phải đóng 3 quan, ai có kém số ấy được giảm bớt, ai không có ruộng, và những người cô nhi quả phụ th́ được tha thuế.

3. Việc Học Hành.

Việc học hành, thi cử đều sửa sang lại, lấy toán học đặt thêm ra một trường nữa, nghĩa là trong những khoa thi, có đặt thêm ra một kỳ thi toán pháp. C̣n những cách thi, th́ những người đă đỗ hương thi, sang năm sau phảI vào bộ Lễ thi lại, ai đỗ th́ mới được tuyển bổ, rồi qua năm sau nữa th́ lại thi hội, bấy giờ có đỗ, th́ mới được là Thái Học Sinh.

Nhà Hồ lại sửa h́nh luật, và đặt ra y tỳ để coi việc thuốc thang.

4. Việc Giao Thiệp Với Chiêm Thành.

Năm nhâm ngọ (1402) tướng nhà Hồ là Đỗ Măn đem quân sang đánh Chiêm Thành. Vua nước ấy là Ba Đích Lại sai cậu là Bồ Điền sang dâng đất Chiêm Động (phủ Thăng B́nh, tỉnh Quảng Nam) để xin băi binh. Quư Ly lại bắt phải dân đất Cổ Lụy (Quảng Nghĩa) rồi phân đất ra làm châu Thăng, Châu Hoa, châu Tư, châu Nghĩa, và đặt quan An Phủ Sứ để cai trị bốn châu ấy. Lại bắt những dân có của mà không có ruộng ở các bộ khác đem vợ con vào ở để khai khẩn đất những châu ấy, bởi v́ khi vua Chiêm nhường đất Chiêm Động và Cổ Lụy, người Chiêm đều bỏ đất mà đi cả.

Năm quư mùi (1403) nhà Hồ lại muốn lấy những đất Bạt Đạt Gia, Hắc Bạch, và Sa Ly Nha về phía nam những đất đă nhường năm trước, bèn sai Phạm Nguyên Khôi và Đỗ Măn đem thủy bộ cả thảy 20 vạn quân sang đánh Chiêm Thành. Quân nhà Hồ vào vây thành Đồ Bàn hơn một tháng trời mà đánh không đổ, lương thực hết cả, phải rút quân về. Lần này hao binh tổn tướng mà không có công trạng ǵ.

5. Việc Giao Thiệp Với Nhà Minh.

Khi Hồ Hán Thương mới lên ngôi, th́ cho sứ sang nhà Minh nói dối rằng: v́ chưng ḍng dơi nhà Trần không c̣n người nào nữa, cho nên cháu ngoại lên thay để quyền lư việc nước.

Đến khi vua Thái Tổ nhà Minh mất, Hoàng Thái Tôn lên ngôi tức là vua Huệ Đế. Bấy giờ hoàng thúc là Yên Vương Lệ, đóng ở Yên Kinh, quyền to thế mạnh, có ư tranh ngôi của cháu, bèn khởi binh đánh lấy Kim Lăng, rồi lên làm vua, tức là vua Thành Tổ, đóng đô ở Yên Kinh (Bắc Kinh).

Khi Thành Tổ dẹp xong dư đảng nhà Nguyên ở phía bắc rồi, có ư muốn sang lấy nước An Nam, cho nên nhân khi Hồ Hán Thương sai sứ sang xin phong, vua Thành Tổ sai quan là Dương Bột sang xem hư thực thể nào. Hồ Quư Ly bèn bắt những quan viên phụ lăo làm tờ khai nói y như lời sứ An Nam dă sang nói. V́ thế cho nên Thành Tổ không có cớ ǵ mà từ chối, phải phong cho Hồ Hán Thương làm An Nam Quốc Vương.

Đến năm giáp thân (1404) có Trần Khang ở mạn Lăo Qua đi đường Vân Nam sang Yên Kinh, đổi tên là Trần Thiêm B́nh, xưng là con vua Nghệ Tông rồi kể rơ sự t́nh Hồ Quư Ly tiếm nghịch. Vua Thành Tổ nhà Minh sai quan ngự sử Lư Ỷ sang tra xét việc ấy. Lư Ỷ về tâu quả thật là họ Hồ làm điều thoán đoạt.

Từ đấy nhà Minh muốn mượn tiếng đánh Hồ để lấy đất An Nam. Ở bên này cha con họ Hồ cũng biết ư ấy, hết sức t́m cách chống giữ.

Năm ất dậu (1405) nhà Minh sai sứ sang đ̣i đất Lộc Châu. Trước Hồ Quư Ly đă không chịu, sau phải cắt ra 59 thôn ở Cổ Lâu nhường cho Tàu.

Tuy vậy nhà Minh vẫn cứ cứ trách nhà Hồ làm điều tiếm nghịch. Sứ nhà Hồ sang Tàu th́ nhà Minh giữ lại, không cho ai về, lại cho người sang An Nam ḍ xem sơn xuyên đạo lộ hiểm trở thế nào, để liệu đường tiến binh.

Họ Hồ biết thế nào rồi quân Minh cũng sang đánh, bèn sai đắp thành Đa Bang (bây giờ ở xă Cổ Pháp, huyện Tiên Phong, tỉnh Sơn Tây), bắt lấy gỗ đóng cọc ở sông Bạch Hạc để chặn đường quân Minh sang, và chia các vệ quân ở Đông Đô ra giữ mọi đường hiểm yếu. Đoạn rồi hội cả nội ngoại bách quan văn vơ lại bàn việc nên đánh hay là nên ḥa. Người th́ bàn đánh, người th́ bàn ḥa, nhưng Quư Ly nhất định đánh.

Từ khi Lư Ỷ trở về Tàu, nhà Hồ cho sứ sang dâng biểu tạ tội, và xin rước Trần Thiêm B́nh về. Vả bấy giờ Thiêm B́nh cứ kêu van với vua nhà Minh, xin cho đem binh sang đánh báo thù, v́ vậy năm Bính Tuất (1406) Minh Thành Tổ sai đốc tướng là Hàn Quan và bọn Hoàng Trung dẫn 5000 quân đưa Thiêm B́nh về nước.

Khi Hồ Quư Ly được tin ấy, liền sai tướng lên đón ở cửa Chi Lăng, đánh quân Minh, bắt được Thiêm B́nh đem về giết đi. Đoạn rồi biết quân Minh tất lại sang, một mặt cho sứ sang biện bạch việc Thiêm B́nh nói dối, và xin theo lệ tiếng cống như cũ, một mặt cho những công hầu được quyền mộ những người đào vong làm lính, đặt thiên hộ, bách hộ để làm quản những lính mộ ấy. Và ở các cửa sông th́ đóng cừ lại, để giữ quân giặc ở mặt bể vào. Về phía nam ngạn sông Nhị Hà (tức là sông Hồng Hà) th́ đóng cừ dài hơn 700 dặm. Lại sai dân ở Bắc Giang và Tam Đái sang làm nhà sẵn ở phía nam sông lớn để pḥng khi giặc đến, th́ bỏ sang bên này mà ở.

6. Nhà Minh Đánh Họ Hồ.

Vua nhà Minh trước đă cho hoạn quan là Nguyễn Toán sang An Nam do thám, biết nước ta phú thịnh, đă có ư đánh lấy, cho nên thường cứ t́m chuyện để lấy cớ dấy binh. Nay nhân việc Hồ Hán Thương giết Thiêm B́nh, vua Thành Tổ mới sai Thành Quốc Công là Chu Năng làm đại tướng, Tân Thành Hầu là Trương Phụ, Tây B́nh Hầu là Mộc Thạnh, làm tả hữu phó tướng, Phong Thành Hầu là Lư Bân, Vân Dương Bá là Trần Húc làm tả hữu tham tướng, chia binh ra làm hai đạo sang đánh An Nam.

Khi quân nhà Minh đến Long Châu th́ đại tướng Chu Năng chết, phó tướng Trương Phụ lên thay.

Đạo quân của Trương Phụ ở Quảng Tây đi từ đất Bằng Tường sang đánh lấy cửa Ba Lụy, tức Nam Quan bây giờ, rồi tiến sang phía tây bắc về mé sông Cái 70 . C̣n đạo quân của Mộc Thạnh ở Vân Nam theo đường Mông Tự sang đánh lấy cửa Phú Lĩnh ( thuộc tỉnh Tuyên Quang) rồi tiến sang đến sông Thao. Cả hai đạo hội ở Bạch Hạc, đóng đồn ở bờ sông phía bắc.

Tuy rằng nhà Hồ trước đă pḥng bị, nhưng mà tướng nhà Minh biết rằng người An Nam không phục họ Hồ, bèn làm hịch kể tội họ Hồ, và nói rằng quân Tàu sang là để lập ḍng dơi nhà Trần lên, cứu cho dân khỏi sự khổ sở. Trương Phụ sai viết hịch ấy vào những mảnh ván nhỏ bỏ xuống sông, trôi đến đâu, quân sĩ An Nam bắt được, nhiều người không đánh và theo hàng quân Minh; v́ thế cho nên quân Minh đi đến đâu đánh được đến đấy. Quân Hồ phải lui về giữ thành Đa Bang.

Ở chỗ thành Đa Bang, quân Hồ lập đồn ải liên tiếp ở phía nam sông Thao và sông Cái tức là dọc sông Hồng Hà, rồi đóng cọc cắm ở giữa sông, thuyền bè không đi lại được, có ư để cho quân Minh mỏi mệt rồi sẽ đánh.

7. Thành Đa Bang thất thủ.

Quân Minh tiến lên mặt có thành Đa Bang ngăn trở. Mộc Thạnh mới bàn với Trương Phụ rằng: "Mọi nơi đồn An Nam đóng gần bờ sông, quân sang không được, c̣n thành Đa Bang th́ lũy cao hào sâu, nhưng ở đằng trước có băi cát, quân có thể sang đấy được, vả ta có đồ chiến cụ, nếu đánh th́ tất thành ấy phải đổ". Trương Phụ bèn hạ lệnh rằng: "Quân kia trông cậy có thành này, mà ta lập công cũng ở đó; hễ quân sĩ ai lên được trước th́ có thưởng to !" Rồi ngay đêm hôm ấy đốt lửa thổi tù và làm hiệu, Trương Phụ, Hoàng Trung đánh mặt tây bắc, Mộc Thạnh, Trần Tuấn đánh mặt đông nam, dùng thang vân thê để lên thành; quân Hồ đánh không được phải lui vào thành, đến sáng hôm sau đào thành  70

Sử chép là Phú Lương. cho voi ra đánh. Quân Minh vẽ sư tử trùm lên ngựa rồi xông vào và dùng súng bắn hăng lắm, voi sợ chạy trở vào, quân Minh theo sau voi chạy ồ vào thành, quân Hồ thua to, phải bỏ chạy vào Hoàng Giang 71 . Quân Minh thừa thế đánh tràn xuống sông Cái, đốt sạch cả các đồn ải, rồi tiến lên đánh lấy Đông Đô (tức là Thăng Long), bắt đàn bà con gái, cướp lấy của cải. Bọn Trương Phụ tích trữ lương thực, đặt quan làm việc, định kế ở lâu dài.

8. Trận Mộc Phàm Giang.

Qua tháng ba năm đinh hợi (1407) Mộc Thạnh biết rằng con trưởng Hồ Quư Ly là Hồ Nguyên Trừng đóng ở Hoàng Giang, bèn đem thủy lục cùng tiến lên đến hạ trại ở sông Mộc Phàm (ở làng Mộc Phàm, huyện Phú Xuyên tiếp với Hoàng Giang).

Hồ Nguyên Trừng đem 30 chiếc thuyền ra đánh bị quân Mộc Thạnh ở hai bên bờ sông đánh ụp lại. Nguyên Trừng thua chạy về cửa Muộn Hải (ở Giao Thủy, Nam Định). Bấy giờ tướng nhà Hồ là Hồ Đỗ và Hồ Xạ cũng bỏ bến B́nh Than 72

(ở làng Trần Xá, huyện Chí Linh, Hải Dương) chạy về cửa Muộn Hải để cùng với Nguyên Trừng t́m kế phá giặc; nhưng quân Minh sực đến, lại bỏ chạy ra giữ cửa Đại An (thuộc phủ Nghĩa Hưng bây giờ).

Quân Minh ở Muộn Hải phải bệnh, lui về đóng ở bến Hàm Tử, để đợi quân Hồ lên sẽ đánh.

Bọn Hồ Nguyên Trừng rước Quư Ly và Hán Thương ở Tây Đô ra, rồi đem quân lên Hoàng Giang để chống giữ với giặc.

9. Trận Hàm Tử Quan.

Quân Hồ bấy giờ cả thủy và bộ được 7 vạn, giả xưng là 21 vạn, rồi phân quân bộ ra làm hai đạo đi men hai bên sông, quân thủy đi giữa, tiến lên Hàm Tử Quan. Vừa đi đến nơi bị quân Minh hai mặt xông lại mà đánh, quân bộ của nhà Hồ đương không nổi, bỏ chạy cả, phần th́ hàng giặc, phần th́ chạy xuống xông chết đuối. C̣n thủy quân th́ chạy thoát được, nhưng bao nhiêu thuyền lương th́ đắm mất cả.

Bấy giờ có quan An Phủ Sứ Bắc Giang tên là Nguyễn Hy Chu bị quân Minh bắt được, không chịu hàng phải giết.

Hồ Quư Ly và Hồ Hán Thương đưa bọn liêu thuộc chạy ra bể, rồi về Thanh Hóa, vào đến Lỗi Giang (tức là Mă Giang) gặp quân Minh đuổi đến, quân Hồ không đánh mà tan. Tướng nhà Hồ là Ngụy Thức thấy thế nguy  71

Hoàng Giang tức là khúc sông Hồng Hà thuộc về huyện Nam Xang tỉnh Hà Nam. 72

Bến B́nh Than là bến đ̣ ngang từ làng B́nh Than, Gia B́nh, Bắc Ninh qua sông Thái B́nh sang làng Trần Xá ở hữu ngạn sông Kinh Thầy, thuộc phủ Nam Sách, Hải Dương. cấp lắm, bảo Quư Ly rằng: " Nước đă mất, làm ông vua không nên để cho người ta bắt được, xin Bệ Hạ tự đốt mà chết đi c̣n hay hơn ! " Quư Ly giận lắm, bắt Ngụy Thức chém rồi chạy vào Nghệ An.

10. Họ Hồ Phải Bắt.

Trương Phụ, Mộc Thạnh biết là Quư Ly chạy vào Nghệ An, bèn đem binh đi đường bộ đuổi theo, lại sai Liễu Thăng đem thủy sư đi đuổi mặt thủy. Quư Ly vào đến cửa Kỳ La (thuộc huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh) bị quân nhà Minh bắt được. Hán Thương và những con cháu họ Hồ đều bị giặc bắt được cả ở núi Cao Vọng. Những quan nhà Hồ, người th́ ra hàng, người th́ bị bắt, người th́ không chịu nhục nhảy xuống sông tự tử.

Nhà Hồ chỉ làm vua được từ năm canh th́n (1400) đến năm đinh hợi (1407), kể vừa 7 năm th́ mất.

Xem công việc của Hồ Quư Ly làm th́ không phải là một người tầm thường, nhưng tiếc thay một người có tài kinh tế như thế, mà giả sử cứ giúp nhà Trần cho có thủy chung, th́ dẫu giặc Minh có thế mạnh đến đâu đi nữa, cũng chưa hầu dễ đă cướp được nước Nam, mà ḿnh lại được cái tiếng thơm để lại ngh́n thu. Nhưng v́ cái ḷng tham xui khiến, hễ đă có thế lực là sinh ra bụng muốn tranh quyền, cướp nước. Bởi thế Hồ Quư Ly mới làm sự thoán đoạt, và nhà Minh mới có cái cớ mà sang đánh lấy nước An Nam. Cũng v́ cái cớ ấy, cho nên ḷng người mới bỏ họ Hồ mà đem theo giặc, để đến nỗi cha con họ Hồ thua chạy, bị bắt, phải đem thân đi chịu nhục ở đất nước người!

Nhưng đấy là cái tội làm hại riêng cho một họ Hồ mà thôi, c̣n cái tội làm mất nước Nam, th́ ai gánh vác cho Quư Ly ? May mà sau có một tay đại anh hùng là vua Lê Thái Tổ hết sức ra tay trong hơn mười năm trời, cứu vớt được người ḿnh ra khỏi tay quân Tàu, chứ không th́ cái khổ làm nô lệ nước Tàu lại biết mấy mươi đời nữa mới giải thoát được.

 

CHƯƠNG XII

Nhà Hậu Trần

( 1407 - 1413 )

 

1. Nhà Minh chiếm giữ đất An Nam 2. Giản Định Đế 3. Trận Bồ Cô 4. Trần Quư Khoách 5. Trương Phụ trở sang An Nam 6. Hóa Châu thất thủ

1. Nhà Minh Chiếm Giữ Đất An Nam.

Nhà Minh không phải có yêu ǵ nhà Trần mà sang đánh nhà Hồ, chẳng qua là nhân lấy cái cớ nhà Trần mất ngôi mà đem binh sang lấy nước Nam. Lại nhân v́ người An Nam ta hay có tính ỷ lại, có việc ǵ th́ chỉ muốn nhờ người, chứ tự ḿnh không biết kiên nhẫn, không có cố gắng mà làm lấy. Một ngày ǵ nữa mà c̣n lạ cái ḷng hùm beo của người Tàu, thế mà hễ khi nào trong nước có biến loạn, lại chạy sang van lạy để rước chúng sang. Khác nào đi rước voi về giày mồ vậy.

Dẫu người Tàu có ḷng vị nghĩa mà sang giúp ḿnh nữa th́ nghĩ cũng chẳng vẻ vang ǵ cái việc đi nhờ người ta, huống chi kỳ thực th́ lúc nào chúng cũng chực đánh lừa ḿnh, như đánh lừa trẻ con, để bóp cổ ḿnh, thế mà người ḿnh vẫn không biết cái dại, là tại làm sao?

Tại là cái nghĩa dân với nước ta không có mấy người hiểu rơ. Nhà nào làm vua, cho cả nước là của riêng của nhà ấy; hễ ai lấy mất th́ đi t́m cách lấy lại, lấy không được th́ lại đi nhờ người khác lấy lại cho, chứ không nghĩ đến cái lợi chung trước cái lợi riêng, cái quyền nước trước cái quyền nhà, thế cho nên ḿnh cứ dại măi, mà vẫn không biết là dại.

Xem như lúc c̣n nhà Trần, nhà Minh đă có ư lấy đất An Nam, sau nhà Trần mất rồi lại dùng lời nói khéo, và lấy tiếng điếu phạt đem binh sang đánh họ Hồ. Đến khi bắt được cha con Hồ Quư Ly rồi, lại bày kế để chiếm giữ đất An Nam: giả treo bảng gọi con cháu họ Trần, rồi bắt quan lại và kỳ lăo làm tờ khai rằng: Họ Trần không c̣n ai nữa và đất An Nam vốn là đất Giao Châu ngày trước, nay xin đặt quận huyện như cũ.

Nhà Minh lấy cái cớ giả dối ấy để chiếm giữ lấy nước Nam, rồi chia đất ra làm 17 phủ là: Giao Châu, Bắc Giang, Lạng Giang, Lạng Sơn, Tân An, Kiến Xương, Phong Hóa, Kiến B́nh, Trấn Man, Tam Giang, Tuyên Hóa, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Tân B́nh, Thuận Hóa, Thăng Hoa, và 5 châu là: Quảng Oai, Tuyên Hóa, Qui Hóa, Gia B́nh, Diễm Châu.

C̣n những nơi yếu hại th́ đặt ra 12 vệ để pḥng giữ. Lại đặt ra 3 ti là: Bố Chính Ti, Án Sát Ti, Chưởng Đô Ti, và cả thảy ở trong nước lập ra 472 nha môn để cai trị, sai quan thượng thư là Hoàng Phúc coi cả Bố Chính và Án Sát Ti; Lữ Nghị chi Chưởng Đô Ti, Hoàng Trung làm phó.

Vua quan nhà Hồ th́ đều phải đem cả về Kim Lăng. Quư Ly về bên Tàu phải giam, rồi sau đày ra làm lính ở Quảng Tây, c̣n con cháu và các tướng sĩ th́ được tha cả không phải tội.

Vua nhà Minh lại truyền cho Trương Phụ t́m kiếm những người ẩn dật ở sơn lâm, những kẻ có tài có đức, hay văn học rộng, quen việc, hiểu toán pháp, nói năng hoạt bát cùng những người hiếu đễ, những người lực điền mà mặt mũi khôi ngô, hoặc có gân sức khoẻ mạnh, những người thầy đồ, thầy bói, thầy thuốc, v.v.... để đưa sang Kim Lăng, ban thưởng cho phẩm hàm, rồi cho về làm quan phủ, quan châu, hay là quan huyện. Bấy giờ những đồ bôn cạnh tranh nhau mà ra, duy chỉ có vài người như ông Bùi Ứng Đẩu, ông Lư Tử Cấu biết liêm sĩ, không chịu ra làm quan với nhà Minh.

Công việc xếp đặt đâu vào đấy rồi. Lữ Nghị và Hoàng Phúc ở lại trấn đất Giao Chỉ, c̣n Trương Phụ và Mộc Thạnh đem quân về Tàu, đưa địa đồ An Nam về dâng vua nhà Minh.

Bấy giờ tuy rằng nhà Minh đă chiếm giữ đất An Nam, nhưng con cháu nhà Trần c̣n có người muốn khôi phục nghiệp cũ, vả nước ta c̣n có nhiều người không muốn làm nô lệ nước Tàu, cho nên nhà Hậu Trần lại hưng khởi lên được mấy năm nữa.

2. Giản Định Đế (1407 - 1409).

Khi trước Trương Phụ treo bảng gọi con cháu nhà Trần là ư giả dối để chực giết hại, cho nên không ai dám ra. Bấy giờ có Giản Định Vương tên là Quĩ, con thứ vua Nghệ Tông chạy đến Mô Độ (thuộc làng Yên Mô, huyện Yên Mô, Ninh B́nh) gặp Trần Triệu Cơ đem chúng đi theo, bèn xưng là Giản Định Hoàng Đế, để nối nghiệp nhà Trần, đặt niên hiệu là Hưng Khánh.

Giảng Định khởi nghĩa chống với quân Minh, nhưng v́ quân ḿnh là quân mới góp nhặt được, đánh không nổi, phải thua chạy vào Nghệ An; bấy giờ có Đặng Tất là quan nhà Trần, trước đă ra hàng nhà Minh được làm đại tri châu ở Hóa Châu, nay thấy Giản Định Đế khởi nghĩa, liền giết quan nhà Minh đi, rồi đem quân ra Nghệ An để giúp việc khôi phục. Lại ở đất Đông Triều có Trần Nguyệt Hồ cũng khởi binh đánh quân nhà Minh, nhưng chẳng được bao lâu mà phải bắt, c̣n dư đảng chạy vào Nghệ An theo vua Giản Định. V́ vậy cho nên quân thế của Giản Định mới mạnh lên. Ông Đặng Tất lại giết được hàng tướng nhà Minh là Phạm Thế Căng ở cửa Nhật Lệ. Lúc bấy giờ đất An Nam từ Nghệ An trở vào lại thuộc về nhà Trần.

3. Trận Bô Cô.

Tháng chạp năm mậu tư (1408) Giản Định Đế hội tất cả quân Thuận Hóa, Tân B́nh, Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hóa, rồi tiến ra đánh Đông Đô. Quân ra đến Trường Sơn (Ninh B́nh) th́ các quan thuộc và những kẻ hào kiệt ở các nơi ra theo nhiều lắm.

Quan nhà Minh đem tin ấy về báo cho Minh Đế biết. Minh Đế sai Mộc Thạnh đem 4 vạn quân ở Vân Nam sang đánh dẹp. Mộc Thạnh cùng với các quan đô chưởng là Lữ Nghị vào đến bến Bô Cô (thuộc xă Hiếu Cổ, huyện Phong Doanh) th́ gặp quân Trần. Hai bên giao chiến, vua Giản Định tự cầm trống thúc quân, tướng sĩ ai nấy hết sức xung đột, phá tan được quân nhà Minh, chém được Lữ Nghị ở trận tiền và đuổi Mộc Thạnh về đến thành Cổ Lộng (thành nhà Minh xây, bấy giờ ở làng B́nh Cách, huyện Ư Yên).

Bấy giờ vua Giản Định muốn thừa thắng đánh tràn ra để lấy lại Đông Quan (tức Đông Đô). Nhưng ông Đặng Tất ngăn lại muốn để đợi quân các lộ về đă, rồi sẽ ra đánh. Từ đó vua tôi không được ḥa thuận, vua Giản Định lại nghe người nói gièm, bắt Đặng Tất và quan tham mưu là Nguyễn Cảnh Chân đem giết đi, thành ra ḷng người ai cũng chán ngán cả, không có ḷng giúp rập nữa.

4. Trần Quư Khoách (1403 -1413).

Giặc nước hăy c̣n, mà vua tôi đă nghi hoặc nhau, rồi đem giết hại những người có ḷng v́ nước, thật là tự ḿnh gây nên cái vạ cho ḿnh.

Bấy giờ con ông Đặng Tất là Đặng Dung và con ông Nguyễn Cảnh Chân là Nguyễn Cảnh Dị thấy thân phụ bị giết, đều bỏ vua Giản Định, đem quân bản bộ về Thanh Hóa rước vua Quư Khoách vào huyện Chi La (tức là huyện La Sơn, Hà Tĩnh) rồi tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Trùng Quang.

Lúc ấy vua Giản Định đương chống nhau với quân nhà Minh ở thành Ngự Thiên (thuộc huyện Hưng Nhân). Quư Khoách sai tướng là Nguyễn Súy ra đánh lẻn bắt đem về Nghệ An. Quư Khoách tôn Giản Định lên làm Thái Thượng Hoàng để cùng lo việc khôi phục.

5. Trương Phụ Trở Sang An Nam.

Vua nhà Minh thấy Mộc Thạnh bại binh, lại sai Trương Phụ làm thống binh, Vương Hữu làm phó đem binh sang cứu viện.

Quân nhà Trần bấy giờ chia ra là mấy đạo đi đánh dẹp các châu huyện ở mạn Hải Dương. Giản Định đóng quân ở Hạ Hồng (Ninh Giang), Quư Khoách đóng ở B́nh Than.

Khi Trương Phụ sang đến nơi, tiến binh đánh đuổi, Giản Định đem binh thuyền chạy về đến huyện Mỹ Lương (giáp Sơn Tây và phủ Nho Quan) gặp quân Trương Phụ đuổi đến bắt được giải về Kim Lăng.

Giản Định bị bắt rồi, Quư Khoách ở B́nh Than sai Đặng Dung đến giữ Hàm Tử Quan (huyện Đông An, Hưng Yên). Nhưng quân của Đặng Dung thiếu lương, phải bỏ chạy. Quư Khoách thấy quân của Đặng Dung đă thua, liệu thế giữ không nổi, bèn bỏ B́nh Than chạy về Nghệ An.

Trương Phụ thắng trận, đi đến đâu giết hại quân dân, và làm những điều tàn bạo gớm ghê như là: xếp người thành núi, hoặc rút ruột người treo lên cây, hoặc nấu thịt người để lấy đầu. C̣n những người An Nam ai ṭng phục nhà Minh mà giết được nhiều người bản quốc th́ được thưởng cho làm quan. Thật bấy giờ tha hồ cho bọn hung ác đắc chí!

Năm canh dần (1410) Trần Quư Khoách cùng với bọn Nguyễn Cảnh Dị lại đem quân ra đánh quân Minh ở Hồng Châu, được thắng trận, rồi lại ra đóng ở B́nh Than. Ở các nơi lại nổi lên đánh giết quân nhà Minh; nhưng chỉ v́ quân không có thống nhiếp, hiệu lệnh bất nhất, cho nên đến khi quân giặc đến đánh, quân nhà Trần lại thua, phải chạy về Nghệ An.

Trương Phụ một mặt đưa chiếu của vua Minh lấy lời giả nhân nghĩa mà dụ quan lại nhân dân, một mặt th́ tiến quân vào đánh Trần Quư Khoách.

Tháng tư năm quư tị (1413) Trương Phụ đưa quân đánh Nghệ An, quân Quư Khoách bấy giờ mười phần chỉ c̣n ba bốn, lương thực lại không có, phải bỏ chạy và Hóa Châu.

Trước Quư Khoách đă mấy lần cho người sang Tàu cầu phong, Minh Đế không cho, đem giết sứ thần đi. Nay Quư Khoách lại sang Nguyễn Biểu ra cầu phong với Trương Phụ . Trương Phụ bắt giữ không cho về. Nguyễn Biểu giận mắng Trương Phụ rằng: " Chúng bay trong bụng th́ chỉ lo đường chiếm giữ, ngoài mặt lại giương tiếng đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp; trước th́ nói sang lập họ Trần, sau lại đặt quận huyện để cai trị, rồi t́m kế để vơ vét của cải, ức hiếp sinh dân; chúng bay thật đồ ăn cướp hung ngược !" Trương Phụ tức giận đem giết đi.

6. Hóa Châu Thất Thủ.

Đến tháng sáu năm quư tị (1413) quân Trương Phụ vào đến Nghệ An, quan Thái Phó nhà Hậu Trần là Phan Quư Hữu ra hàng, nhưng được mấy hôm th́ mất. Trương Phụ cho con là Quư Hữu là Liêu làm tri phủ Nghệ An. Phan Liêu muốn tâng công, Quư Khoách có bao nhiêu tướng tá người nào giỏi, người nào dở, quân số nhiều ít, sơn xuyên chổ hiểm, chỗ không thế nào, khai cả cho Trương Phụ biết. Trương Phụ bèn quyết ư vào Hóa Châu, và hội chư tướng lại để bàn kế tiến binh.

Mộc Thạnh nói rằng: " Hóa Châu núi cao bể rộng khó lấy lắm".

Trương Phụ nhất định vào đánh cho được, nói rằng: " Ta sống cũng ở đất Hóa Châu này, mà chết cũng ở đất Hóa Châu này. Hóa Châu mà không lấy được th́ không mặt mũi nào về trông thấy chúa thượng !" Lập tức truyền cho quân thủy bộ tiến vào đánh Hóa Châu.

Đến tháng chín, quân Trương Phụ vào đến Thuận Hóa, Nguyễn Súy và Đặng Dung nửa đêm đem quân đến đánh trại Trương Phụ. Đặng Dung đă vào được thuyền của Trương Phụ định để bắt sống lấy nhưng không biết mặt, v́ thế Trương Phụ mới nhảy xuống xông lấy cái thuyền con mà chạy thoát được.

Bấy giờ quân nhà Trần ít lắm. Trương Phụ thấy vậy đem binh đánh úp lại, bọn Đặng Dung địch không nổi phải bỏ chạy.

Từ khi thua trận ấy rồi, Trần Quư Khoách thế yếu quá không thể chống với quân giặc được nữa, phải vào ẩn núp ở trong rừng núi. Chẳng được bao lâu Trần Quư Khoách, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung, Nguyễn Súy đều bị bắt, và phải giải về Yên Kinh cả. Đi đến giữa đường, Quư Khoách nhảy xuống bể tự tử, bọn ông Đặng Dung cũng tử tiết cả.

Cha con ông Đặng Dung đều hết ḷng giúp nước pḥ vua, tuy không thành công được, nhưng cái ḷng trung liệt của nhà họ Đặng cũng đủ làm cho người đời sau tưởng nhớ đến, bởi vậy hiện nay c̣n có đền thờ ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.

 

Ông Đặng Dung có làm bài thơ thuật hoài như sau này, mà ngày nay c̣n có nhiều người vẫn truyền tụng:

Thế sự du du nại lăo hà !

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca

Thời lai đồ điếu thành công dị

Sự khứ anh hùng ẩm hận đa

Trí chủ hữu hoài phù địa trục

Tẩy binh vô lộ văn thiên hà

Quốc thù vị phục đầu tiên bạch

 

Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma ! Dich:

Việc đời bối rối tuổi già vay

Trời đất vô cùng một cuộc say

Bần tiện gặp thời lên cũng dễ

Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay

Vai khiêng trái đất mong pḥ chúa

Giáp gột sông trời khó vạch mây

Thù trả chưa xong đầu đă bạc

Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.

 

Nhà Hậu Trần nổi lên toan đường khôi phục, nhưng hiềm v́ nỗi ḷng người c̣n ly tán, thế lực lại hèn yếu, cho nên chỉ được 7 năm th́ mất.

 

CHƯƠNG XIII Thuộc Nhà Minh

( 1414 - 1427 )

 

1. Việc chính trị nhà Minh 2. Việc tế tự 3. Cách ăn mặc 4. Sự học hành 5. Việc trạm dịch 6. Việc binh lính 7. Phép hộ thiếp và hoàng sách 8. Việc thuế má 9. Việc sưu dịch 10. Quan lại

1. Việc Chính Trị Nhà Minh.

Trương Phụ lấy được châu Thuận Hóa và châu Tân B́nh rồi, làm sổ biên số dân đinh ở hai châu ấy, đặt quan cai trị và để quân binh ở lại pḥng giữ chỗ giáp giới nước Chiêm Thành. Đến htáng 8 năm giáp ngọ (1414) Trương Phụ và Mộc Thạnh về Tàu, đem những đàn bà con gái về rất nhiều.

Bọn Hoàng Phúc ở lại sửa sang các việc trong nước để khiến cho người An Nam đồng hóa với người Tàu. Lập ra đền miếu, bắt người ḿnh cúng tế theo tục bên Tàu, rồi từ cách ăn mặc cho chí sự học hành, việc ǵ cũng bắt theo như người Tàu cả. C̣n cái ǵ là di tích của nước ḿnh như là sách vở th́ thu nhặt đem về Tàu hết sạch. Lại đặt ra thuế lệ, bổ thêm sưu dịch để lấy tiền của, làm cho dân ta bấy giờ phải nhiều điều khổ nhục

2. Việc Tế Tự.

Hoàng Phúc bắt các phủ, châu, huyện phải lập văn miếu và lập bàn thờ bách thần, xă tắc, sơn xuyên, phong vân để bốn mùa tế tự.

3. Cách Ăn Mặc.

Bắt con trai con gái không được cắt tóc, đàn bà con gái th́ phải mặt áo ngắn quần dài theo như người Tàu cả.

4. Sự Học Hành.

Quan nhà Minh bắt mở nhà học ở các phủ, châu, huyện, rồi chọn những thầy âm dương, thầy thuốc, thầy chùa, đạo sĩ, ai giỏi nghề ǵ th́ làm cho quan để dạy nghề ấy.

Vua nhà Minh lại xuống chỉ truyền lấy Ngũ Kinh, Tứ Thư và bộ Tính Lư Đại Toàn, sai quan đưa sang ban cấp cho người An Nam học ở các châu huyện, rồi lại sai thầy tăng và đạo sĩ ở Tăng Đạo Ti 73 , đi truyền giảng đạo Phật và đạo Lăo. C̣n bao nhiêu sách vở của nước Nam, từ nhà Trần về trước th́ thu lấy cả rồi đem về Kim Lăng.

Cứ theo sách Lịch Triều Hiến Chương Văn Tịch Chí của ông Phan Huy Chú th́ những sách của nước Nam mà Tàu lấy về là những sách này:

- H́nh Thư, của vua Thái Tông nhà Lư

3 quyển. - Quốc Triều Thông Lễ, của vua Thái Tông nhà Trần 10 quyển - H́nh Luật, của vua Thái Tông nhà Trần 1 quyển - Thường Lễ, niên hiệu Kiến Trung

10 quyển - Khóa Hư Tập

1 quyển - Ngự Thi

1 quyển - Di Hậu Lục, của vua Thái Tông nhà Trần 2 quyển - Cơ Cầu Lục

1 quyển - Thi Tập

1 quyển - Trung Hưng Thực Lục, của Trần Nhân Tông

2 quyển - Thi Tập

1 quyển - Thủy Vân Tùy Bút, của Trần Anh Tông

2 quyển - Thi Tập, của Trần Minh Tông

1 quyển - Trần Triều Đại Điển, của Trần Dụ Tông 2 quyển - Bảo Ḥa Điện Dư Bút, của Trần Nghệ Tông

8 quyển - Thi Tập

1 quyển - Binh Gia Yếu Lược, của Trần Hưng Đạo 1 bộ - Vạn Kiếp Bí Truyền, của Trần Hưng Đạo 1 bộ - Tứ Thư Thuyết Ước, của Chu Văn Trinh 1 bộ - Tiều Ẩn Thi

1 tập - Sầm Lâu Tập, của Uy Văn Vương Trần Quốc Toại 1 quyển - Lạc Đạo Tập, của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải 1 quyển - Băng Hồ Ngọc Hác Tập, của Trần Nguyên Đán 1 quyển - Giới Hiên Thi Tập, của Nguyễn Trung Ngạn 1 quyển - Giáp Thạch Tập, của Phạm Sư Mạnh

1 quyển - Cúc Đường Di Thảo, của Trần Nguyên Đào 2 quyển  73

Nhà Minh bấy giờ không những là mở mang Nho Học mà thôi, lại lập ra Tăng Cương Ti và Đạo Kỳ Ti để coi những việc thuộc về Đạo Phật và Đạo Lăo. - Thảo Nhàn Hiệu Tần, của Hồ Tôn Vụ

1 quyển - Việt Nam Thế Chí

1 bộ - Việt Sử Cương Mục

1 bộ - Đại Việt Sử Kư, của Lê Văn Hưu 30 quyển - Nhị Khê Thi Tập, của Nguyễn Phi Khanh

1 quyển - Phi Sa Tập, của Hàn Thuyên

1 quyển - Việt Điện U Linh Tập, của Lư Tế Xuyên

1 quyển

Những sách ấy bây giờ không biết mất đâu cả, không thấy quyển nào nữa, thật là một cái thiệt hại cho người nước ḿnh.

C̣n những người đi học, ở các phủ, châu, huyện, trước th́ ở phủ mỗi năm 2 người, ở châu 2 năm 3 người, ở huyện mỗi năm 1 người, sau cải lại ở phủ mỗi năm 1 người, ở châu 3 năm 2 người, ở huyện 2 năm 1 người, được làm học tṛ tuế cống cho vào học Quốc Tử Giám, rồi bổ đi làm quan.

5. Việc Trạm Dịch.

Từ thành Đông Quan (tức là Hà Nội) cho đến huyện Gia Lâm, phủ Từ Sơn, th́ đặt trạm để chạy giấy bằng ngựa; từ huyện Chí Linh, huyện Đông Triều cho đến phủ Vạn Ninh là nơi giáp đất Khâm Châu nước Tàu th́ đặt trạm chạy giấy bằng thuyền.

6. Việc Binh Lính.

Việc bắt lính th́ cứ theo sổ bộ mà bắt. Ở những nơi gọi là vệ sở th́ mỗi một bộ phải ba suất đinh đi lính, nhưng từ Thanh Hóa về nam người ở ít, th́ mỗi hộ chỉ phải hai suất đinh đi lính mà thôi. Những chỗ nào mà không có vệ sở th́ lập đồn ở chỗ hiểm yếu rồi lấy dân binh ra giữ.

7. Phép Hộ Thiếp và Hoàng Sách.

Việc điền hộ ở An Nam bấy giờ phải theo như lệ bên Tàu. Những dân đinh trong nước, th́ ai cũng phải có một cái giấy biên tên tuổi và hương quán để lúc nào có khám hỏi th́ phải đưa ra. Cái giấy ấy biên theo như ở trong quyển sổ của quan giữ. Hễ giấy của ai mà không hợp như ở trong sổ th́ người ấy phải bắt đi lính.

Việc cai trị ở trong nước th́ chia ra làm lư và giáp. Ở chỗ thành phố th́ gọi là phường; ở chung quanh thành phố th́ gọi là tương; ở nhà quê th́ gọi là lư. Lư lại chia ra giáp.

Cứ 110 hộ làm một lư và 10 hộ làm một giáp. Lư th́ có lư trưởng, giáp th́ có giáp thủ.

Mỗi một năm có người làm lư trưởng coi việc trong lư.

Mỗi một lư, một phường hay là một tương có một quyển sách để biên tất cả số đinh số điền vào đấy. C̣n những người tàn tật cô quả th́ biên riêng ra ở sau, gọi là kỷ linh. Ở đầu quyển sách lại có cái địa đồ.

Khi nào quyển sổ ấy xong rồi, th́ biên ra làm 4 bản, một bản có b́a vàng, cho nên gọi là hoàng sách để gửi về bộ Hộ, c̣n 3 bản b́a xanh, th́ để ở bố chính ti, ở phủ và huyện, mỗi nơi một bản.

Cứ mười năm lại tùy số dinh điền hơn lên hay kém đi thế nào, phải làm lại cái mẫu sổ khác, gửi đi cho các lư, phường và tương để cứ theo mẫu ấy mà làm.

Bấy giờ lư trưởng và giáp thủ phải đập đánh cực khổ lắm.

8. Việc Thuế Má.

Phép nhà Minh đánh thuế cứ mỗi mẫu ruộng phải nộp năm thăng thóc, mỗi một mẫu băi để trồng dâu phải nộp một lạng tơ, và mỗi cân tơ phải nộp một tấm lụa.

Lại đặt ra thuế muối. Dân mà nấu muối mỗi một tháng được bao nhiêu phải đưa vào để ở ṭa Đề Cử, đợi khi nào ṭa Bố chính khám rồi mới được bán. Ai mà nấu lậu hay là bán lậu th́ cũng phải phạt như nhau.

Ở châu, huyện nào cũng có một ṭa Thuế Khóa để thu thuế.

9. Việc Sưu Dịch.

Phàm những chỗ nào có mỏ vàng mỏ bạc th́ đặt quan ra để đốc dân phu đi khai mỏ. Những chỗ rừng núi, th́ bắt dân đi t́m ngà voi, sừng tên; ở chỗ gần bể, th́ bắt dân phải đi ṃ ngọc trai. C̣n những thổ sản như: hồ tiêu, hương liệu, cũng phải bắt cống nộp. Đến những hươu, voi, rùa, chim, vượn, rắn, cái ǵ cũng vơ vét đem về Tàu.

Từ khi bọn Lư Bân, Mă Kỳ sang thay Trương Phụ, dân ta bị bọn ấy sách nhiễu thật là khổ sở.

10. Quan Lại.

Trừ những quan lại ở bên Tàu sang cai trị ra không kể, những người An Nam như những tên Nguyễn Huân, Lương Nhữ Hốt, Đỗ Duy Trung theo hàng nhà Minh, khéo đường xu nịnh, được làm quan to, lại càng ỷ thế của giặc, làm những điều tàn bạo hung ác hơn người Tàu. Vả, trong những lúc biến loạn như thế, th́ những đồ tham tàn gian ác, không có nghĩa khí, không biết liêm sĩ, lại càng đắc chí lắm, cho nên dân t́nh cực khổ, ḷng người sầu oán. Cũng v́ lẽ ấy, có nhiều kẻ tức giận nổi lên đánh phá, làm cho trong nước không lúc nào được yên ổn.

 

CHƯƠNG XIV

Mười Năm Đánh Quân Tàu

( 1418 - 1427 )

 

1. Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn 2. Về Chí Linh lần thứ nhất 3. Về Chí Linh lần thứ hai 4. B́nh Định Vương về đóng Lư Sơn 5. B́nh Định Vương về đóng Lỗi Giang 6. Nguyễn Trăi 7. B́nh Định Vương phá quân Trần Trí 8. Về Chí Linh lần thứ ba 9. B́nh Định Vương hết lương phải ḥa với giặc. 10. B́nh Định Vương lấy đất Nghệ An 11. Vây thành Tây Đô 12. Lấy Tân B́nh và Thuận Hóa 13. Quân B́nh Định Vương tiến ra Đông Đô 14. Trận Tụy Động: Vương Thông thất thế 15. Vây thành Đông Đô 16. Vương Thông ước ḥa lần thứ nhất 17. B́nh Định Vương đóng quân ở Bồ Đề 18. B́nh Định Vương đặt pháp luật để trị quân dân 19. Trận Chi Lăng: Liễu Thăng tử trận 20. Vương Thông xin ḥa lần thứ hai 21. Trần Cao dâng biểu xin phong 22. Tờ B́nh Ngô Đại Cáo

1. Lê Lợi Khởi Nghĩa ở Lam Sơn.

Từ khi nhà Minh sang cai trị An Nam, dân ta ph?i khổ nhục trăm đường, tiếng oan không kêu ra được, ḷng tức giận ngấm nghía ở trong tâm can, chỉ mong mỏi ra cho khỏi đống than lửa. May lúc ấy có một đấng anh hùng nổi lên, kéo cờ nghĩa để chống với giặc Minh, trong 10 năm ấy lại được giang sơn cũ, và xây đắp lại nền độc lập cho nước Nam.

Đấng anh hùng ấy, người ở làng Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, họ Lê, tên là Lợi. Đă mấy đời làm nghề canh nông, nhà vẫn giàu có, lại hay giúp đỡ cho kẻ nghèo khó, cho nên mọi người đều phục, và những tôi tớ ước có hàng ngh́n người. Ông Lê Lợi khẳng khái, có chí lớn, quan nhà Minh nghe tiếng, đă dỗ cho làm quan, nhưng ông không chịu khuất, thường nói rằng: " Làm trai sinh ở trên đời, nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chứ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ người ta!" Bèn giấu tiếng ở chỗ sơn lâm, đón mời những kẻ hào kiệt, chiêu tập những kẻ lưu vong.

Đến mùa xuân năm mậu tuất (1418) đời vua Thành Tổ nhà Minh, niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 16, ông Lê Lợi cùng với tướng là Lê Thạch, Lê Liễu khởi binh ở núi Lam Sơn, tự xưng là B́nh Định Vương, rồi truyền hịch đi gần xa kể tội nhà Minh để rơ cái mục đính của ḿnh khởi nghĩa đánh kẻ thù của nước.

Việc đánh giặc Minh tuy là thuận ḷng người và hợp lẽ công bằng, nhưng mà thế lực của B́nh Định Vương lúc đầu c̣n kém lắm, tướng sĩ th́ ít, lương thực không đủ. Dẫu có dùng kế đánh được đôi ba trận, nhưng vẫn không có đủ sức mà chống giữ với quân nghịch, cho nên phải về núi Chí Linh 74

ba lần, và phải nguy cấp mấy phen, thật là gian truân vất vả. Sau nhờ hồng phúc nước Nam, B́nh Định Vương lấy được đất Nghệ An, rồi từ đó mới có thể vẫy vùng, đánh ra mặt Bắc, lấy lại được giang sơn nước nhà.

2. Về Chí Linh Lần Thứ Nhất.

Khi quan nhà Minh là Mă Kỳ ở Tây Đô, nghe tin B́nh Định Vương nổi lên ở núi Lam Sơn, liền đem quân đến đánh. Vương sang đóng ở núi Lạc Thủy (Cẩm Thủy, phủ Quảng Hóa) để đợi quân Minh. Đến khi quân Mă Kỳ đến, phục binh của Vương đổ ra đánh, đuổi được quân nghịch, nhưng v́ thế yếu lắm chống giữ không nổi, Vương phải bỏ vợ con để giặc bắt được, đem bại binh chạy về đóng ở núi Chí Linh. [ 74 ]

Sách "Khâm Định Thông Giám" chép là núi Chí Linh này ở phủ Trấn Định, tỉnh Nghệ An, tức là ở vào đất Cam Môn, Cam Cát giáp tỉnh Hà Tĩnh. Nhưng xem kỹ địa đồ th́ vua Thái Tổ khởi binh ở Lam Sơn, thuộc huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, và lúc ấy vẫn lui tới ở vùng Lạc Thủy, tức là Cẩm Thủy và ở vùng Nga Sơn. Vậy th́ núi Chí Linh này không phải ở miền Trấn Định, mà chắc là chỉ ở trong vùng Thanh Hóa mà thôi. Xem như khi ngài thua ở Chí Linh th́ chạy về Lư Sơn ở châu Quan Hóa, thuộc phủ Quảng Hóa th́ biết. Vả lại ngày khởi nghĩa từ năm mậu tuất (1418) mà măi đến năm giáp th́n (1424) th́ ngài mới bàn sự đi đánh mạng Nghệ An, như thết mà nói rằng núi Chí Linh ở phủ Trấn Định, tức là xứ Ngọc Ma ngày trước, ở phía nam tỉnh Nghệ An bấy giờ th́ chắc là lầm. 3. Về Chí Linh Lần Thứ Hai.

Tháng tư năm kỷ hợi (1419) B́nh Định Vương lại ra đánh lấy đồn Nga Lạc (thuộc huyện Nga Sơn, Thanh Hóa) giết được tướng nhà Minh là Nguyễn Sao, nhưng quân của Vương bấy giờ hăy c̣n ít, đánh lâu không được, lại phải rút về Chí Linh.

Quan nhà Minh biết rằng Chí Linh là chỗ B́nh Định Vương lui tới, bèn đem binh đến vây đánh. Vương bị vây nguy cấp lắm, mới hỏi các tướng rằng: Có ai làm được như người Kỷ Tín ngày trước chịu chết thay cho vua Hán Cao không? Bấy giờ có ông Lê Lai liều ḿnh v́ nước, xin mặc thay áo ngự bào cưỡi voi ra trận đánh nhau với giặc. Quân nhà Minh tưởng là B́nh Định Vương thật, xúm nhau lại vây đánh, bắt được giết đi rồi rút quân về Tây Đô.

4. B́nh Định Vương Về Đóng Lư Sơn.

Vương nhờ có ông Lê Lai chịu bỏ ḿnh cứu chúa, mới trốn thoát được nạn lớn, rồi một mặt cho người sang Ai Lao cầu cứu, một mặt thu nhặt những tàn quân về đóng ở Lư Sơn (ở phía tây châu Quan Hóa).

Ngay năm ấy, ở Nghệ An có quan tri phủ là Phan Liêu làm phản nhà Minh; ở Hạ Hồng có Trịnh Công Chứng, Lê Hành; ở Khoái Châu có Nguyễn Đặc; ở Hoàng Giang có Nguyễn Đa Cấu, Trần Nhuế; ở Thủy Đường có Lê Ngà, nổi lên làm loạn, quân nhà Minh phải đi đánh dẹp các nơi cho nên B́nh Định Vương ở vùng Thanh Hóa cũng được nhân dịp mà dưỡng uy súc nhuệ.

5. B́nh Định Vương Về Đóng Lỗi Giang.

Năm canh tí (1420) B́nh Định Vương đem quân ra đóng ở làng Thôi, định xuống đánh Tây Đô, tướng nhà Minh là Lư Bân được tin ấy, đem quân đến đánh, đi đến chỗ Thi Lang, bị phục binh của Vương đánh phá một trận, quân Minh bỏ chạy. Vương lại đem quân lên đóng ở Lỗi Giang 75

và ở đồn Ba Lậm. Quân Minh phải lùi về đóng ở Nga Lạc và Quan Du để pḥng giữ Tây Đô.

6. Nguyễn Trăi.

Khi B́nh Định Vương về đánh ở Lỗi Giang, th́ có ông Nguyễn Trăi 76 , vào yết kiến, dâng bài sách b́nh Ngô, vua xem lấy làm hay, dùng ông ấy làm tham mưu.   [75]

Lỗi Giang là tên một khúc sông Mă Giang ở vùng trên huyện Cẩm Thủy. 76

Ông Nguyễn Trăi là cháu ngoại ông Trần Nguyên Đán, bởi vậy ông cùng với Trần Nguyên Hăng có t́nh thân. Ông Nguyễn Trăi và ông Trần Nguyên Hăng là người đại công thần nhà Lê, sau đều bị giết hại cả.

Ông Nguyễn Trăi là con ông Bảng Nhăn Nguyễn Phi Khanh. Đời nhà Hồ, ông đă thi đỗ tiến sĩ (1400). Khi ông Nguyễn Phi Khanh bị nhà Minh bắt về Kim Lăng, ông theo khóc, lên đến cửa Nam Quan không chịu trở lại. Ông Phi Khanh bảo rằng: " Con phải trở về mà lo trả thù cho cha, rửa thẹn cho nước, chứ đi theo khóc lóc mà làm ǵ ? " Từ đó ông trở lại, ngày đêm lo việc phục thù. Nay ra giúp B́nh Định Vương, bày mưu định kế để lo sự b́nh định.

7. B́nh Định Vương Phá Quân Trần Trí.

Đến tháng 11 năm tân sửu (1421) tướng nhà Minh là Trần Trí đem mấy vạn quân đến đánh B́nh Định Vương ở đồn Ba Lậm, lại ước với người Lào sang cùng đánh hai mặt. Vương mới hội các tướng lại bàn rằng: Quân kia tuy nhiều nhưng ở xa đến, c̣n đang nhọc mệt, ta nên đưa quân ra đón đành tất là phải được. Bàn xong, đến đêm đem quân vào cướp trại Minh, giết được hơn 1.000 người. Trần Trí thấy vậy giận lắm, sáng hôm sau truyền lệnh kéo toàn quân đến đánh. Quân An Nam đă phục sẳn trước, thấy quân Minh đến, liền đổ ra đánh hăng quá, quân Minh lại phải lui về.

Đang khi hai bên c̣n đối địch, có ba vạn người Lào giả xưng sang làm viện binh cho B́nh Đ́nh Vương. Vương không biết là dối, quân Lào nửa đêm kéo đến đánh, tướng của Vương là Lê Thạch bị tên bắn chết. Nhưng mà quân ta giữ vững đồn trại, quân Lào phải lùi về.

8. Về Chí Linh Lần Thứ Ba.

Sang năm sau là năm nhâm dần (1422) B́nh Định Vương tự đồn Ba Lậm tiến lên đánh đồn Quan Gia, bị quân Minh và quân Lào hai mặt đánh lại, phải thua chạy về giữ đồn Khôi Sách. Quân Minh và quân Lào thừa thế đổ đến vây kín bốn mặt. Vương thấy thế nguy quá, mới bảo các tướng rằng: "Quân giặc vây kín rồi, nếu không liều sống chết đánh tháo lấy đường chạy ra, th́ chết cả !" Quân sĩ ai nấy đều cố sức đánh phá, quân giặc phải lùi. Vương lại đem quân về núi Chí Linh.

Từ khi B́nh Định Vương đem binh về Chí Linh, lương thực một ngày một kém, trong hai tháng trời quân sĩ phải ăn rau ăn cỏ có bao nhiêu voi ngựa làm thịt ăn hết cả. Tướng sĩ mỏi mệt, đều muốn nghỉ ngơi, xin Vương hăy tạm ḥa với giặc. Vương bất đắc dĩ sai Lê Trăn đi xin ḥa. Quan nhà Minh bấy giờ thấy đánh không lợi, cũng thuận cho ḥa.

9. B́nh Định Vương Hết Lương Phải Ḥa Với Giặc.

Năm quư măo (1423) B́nh Định Vương đem quân về Lam Sơn. Bấy giờ tướng nhà Minh là bọn Trần Trí, Sơn Thọ thường hay cho Vương trâu, ngựa, cá mắm và thóc lúa; Vương cũng cho Lê Trăn đưa vàng bạn ra tạ. Nhưng sau bọn Trần Trí ngờ có bụng giả dối, bắt giữ Lê Trăn lại, không cho về, v́ vậy Vương mới tuyệt giao không đi lại nữa, rồi đem quân về đóng ở núi Lư Sơn.

10. B́nh Định Vương Lấy Đất Nghệ An.

Năm giáp th́n (1424) B́nh Định Vương hội các tướng bàn kế tiến thủ. Quan thiếu úy là Lê Chích nói rằng: " Nghệ An là đất hiểm yếu, đất rộng người nhiều, nay ta hăy vào lấy Trà Long (phủ Tương Dương) rồi hạ thành Nghệ An, để làm chỗ trú chân đă, nhiên hậu sẽ quay trở ra đánh lấy Đông Đô, như thế thiên hạ có thể b́nh được."

Vương cho kế ấy là phải, bèn đem quân về nam, đánh đồn Đa Căng, tướng nhà Minh là Lương Nhữ Hốt bỏ chạy.

Lấy được đồn Đa Căng rồi, Vương tiến quân vào đánh Trà Long, đi đến núi Bồ Liệp, ở phủ Qú Châu, gặp bọn Trần Trí, Phương Chính đem binh đến đánh, Vương bèn t́m chỗ hiểm phục sẳn; khi quân Minh vừa đến, quân ta đổ ra đánh, chém được tướng nhà Minh là Trần Trung, giết được sĩ tốt hơn 2.000 người, bắt được hơn 100 con ngựa. Quân Minh bỏ chạy, Vương đem binh đến vây đánh Trà Long. Quan tri phủ là Cầm Bành chờ cứu binh măi không được, phải mở cửa thành ra hàng.

Từ khi B́nh Định Vương khởi nghĩa cho đến giờ, đánh với quân nhà Minh đă nhiều phen, được thua đă trải qua mấy trận, nhưng quan nhà Minh vẫn lấy làm khinh thường, cho nên không tâu về cho Minh Triều biết. Bấy giờ Hoàng Phúc về Tàu rồi, vua nhà Minh sai Binh Bộ Thượng Thư là Trần Hiệp sang thay.

Trần Hiệp thấy B́nh Định Vương lấy được châu Trà Long, thanh thế lừng lẫy, bèn vội vàng làm sớ tâu cho vua nhà Minh biết. Minh Đế mới xuống chiếu trách mắng bọn Trần Trí, Phương Chí, bắt phải dẹp ngay cho yên giặc ấy. Bọn Trần Trí sợ hăi đem cả thủy bô, cùng tiến lên đánh B́nh Định Vương.

Vương sai Đinh Liệt đem 1.000 quân đi đuờng tắt ra giữ Đỗ Gia 77 , c̣n Vương th́ đem cả tướng sĩ đến ở mạn thượng du đất Khả Lưu ở bắc ngạn sông Lam Giang (thuộc huyện Lương Sơn), rồi t́m chỗ hiểm yếu phục binh để đợi quân Minh.

Khi quân Minh đă đến Khả Lưu, Vương bèn sai người ban ngày th́ kéo cờ đánh trống, ban đêm th́ bắt đốt lửa để làm nghi binh, rồi cho binh sang bên kia sông phục sẵn. Sáng hôm sau quân Minh tiến lên bị phục binh  [77]

Vào quăng gần đồn Linh Cảm, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. bốn mặt đổ ra đánh, tướng nhà Minh là Chu Kiệt phải bắt, Hoàng Thành phải chém, c̣n quân sĩ bỏ chạy cả. Trần Trí phải thu quân về giữ thành Nghệ An.

Tháng giêng năm ất tị (1425) Vương đem binh về đánh thành Nghệ An, đi đến làng Đa Lôi ở huyện Thổ Du (bây giờ là huyện Thanh Chương) dân sự đưa trâu đưa rượu ra đón rước, già trẻ đều nói rằng: không ngờ ngày nay lại thấy uy nghi nước cũ. Bấy giờ lại có quan tri phủ Ngọc ma (phủ Trấn Định) là Cầm Quư đem binh mă về giúp.

Vương bèn xuống lệnh rằng: "Dân ta lâu nay đă phải khổ sổ về chính trị bạo ngược của người Tàu, quân ta đi đến đâu cấm không được xâm phạm đến chút ǵ của ai. Những gạo thóc trâu ḅ mà không phải là của người nhà Minh th́ không được lấy". Đoạn rồi, phân binh đi đánh lấy các nơi, đi đến đâu các quan châu huyện ra hàng cả, đều t́nh nguyện đi đánh thành Nghệ An. Vương bèn đem quân về vây thành; quân Minh hết sức giữ ǵn không dám ra đánh.

Đương khi vây đánh ở Nghệ An, tướng nhà Minh là Lư An ở Đông Quan đem quân đi dường bể vào cứu. Quân của Trần Trí ở trong thành cũng đổ ra đánh, Vương nhử quân Minh đến cửa sông Độ Gia, rồi dùng phục binh đánh tan quân giặc. Trần Trí bỏ chạy về Đông Quan, c̣n Lư An vào giữ thành, Vương lại đem quân về vây thành.

11. Vây Thành Tây Đô.

Đến tháng năm, Vương sai quan Tư Không là Đinh Lễ đem binh đi đánh Diễn Châu, Đinh Lễ đi vừa đến nơi, th́ gặp tướng nhà Minh là Trương Hùng đem 300 chiếc thuyền lương ở Đông Quan mới vào, quân ở trong thành ra tiếp, bị phục binh của Đinh Lễ đánh đuổi. Bao nhiêu thuyền lương Đinh Lễ cướp lấy được cả, rồi đuổi Trương Hùng ra đến Tây Đô. B́nh Định Vương được tin ấy liền sai Lê Sát và Lưu Nhân Chú đem binh ra tiếp ứng Đinh Lễ. Đinh Lễ nhân dịp tiến lên vây thành Tây Đô.

12. Lấy Tân B́nh và Thuận Hóa.

Qua tháng bảy, Vương sai quan Tư Đồ Trần Nguyên Hăn 78 , Thượng Tướng Lê Nỗ đem hơn một ngh́n quân vào lấy châu Tân B́nh và châu Thuận Hóa. Đi đến Bố Chính th́ gặp tướng nhà Minh là Nhâm Năng, hai bên đánh nhau, quân nhà Minh bị phục binh đánh chạy tan cả. Bấy giờ lại có đạo thủy quân của Lê Ngân đem hơn 70 chiếc thuyền đi đường bể vào, Trần Nguyên Hăn liền đem cả thủy bộ tiến  [78]

Trần Nguyên Hăn, có nơi chép là Trần Hăn, là cháu Trần Nguyên Đán, ḍng dơi Trần Quang Khải. lên đánh hạ được hai thành ấy, mộ thêm mấy vạn tinh binh đưa ra đánh mặt bắc.

Từ đây binh thế của B́nh Định Vương một ngaymột mạnh, các tướng tôn ngài lên làm "Đại Thiên Hành Hóa", nghĩa là thay trời làm mọi việc.

13. Quân B́nh Định Vương Tiến Ra Đông Đô.

Năm bính ngọ (1426) Vương thấy tinh binh của nhà Minh ở cả Nghệ An, ở ngoài Đông Đô không có bao nhiêu người, bèn sai Lư Triện, Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả, Đỗ Bí ra đánh Quốc Oai, Quảng Oai, Gia Hưng, Quư Hóa, Đà Giang, Tam Đái (Bạch Hạc), Tuyên Quang để chặn đường viện binh ở Vân Nam sang. Sau Lưu Nhân Chú và Bùi Bị ra đánh Thiên Trường, Kiến Xương, Tân Hưng, Thượng hồng (B́nh Giang), Hạ Hồng (Ninh Giang), Bắc Giang, Lạng Giang để chặn đường viện binh ở Lưỡng Quảng sang. Lại sai Đinh Lễ, Nguyễn Xí đem binh đi thẳng ra đánh Đông Quan.

Quân của B́nh Định Vương đi đến đâu giữ kỷ luật rất nghiêm, không xâm phạm đến của ai chút ǵ, cho nên ai ai cũng vui ḷng theo phục. Bọn Lư Triện lấy được Quốc Oai và Tam Đái rồi đem quân về đánh Đông Quan.

Quan tham tướng nhà Minh là Trần Trí đem binh ra đóng ở Ninh Kiều 79

(phía tây phủ Giao Châu) và ở Ứng Thiên (?) để chống giữ; quân Lư Triện đến đánh, Trần Trí thua chạy về đóng ở phía tây sông Ninh Giang (khúc trên sông Đáy). Chợt có tin báo rằng có hơn một vạn quân Vân Nam sang cứu. Lư Triện sợ để hai đạo quân của Minh hợp lại th́ khó đánh, bèn bảo Phạm Văn Xảo đem hơn một ngh́n người đi đón chặn đường quân Vân Nam; c̣n ḿnh th́ cùng với Đỗ Bí đem quân đến đánh Trần Trí. Trần Trí thua chạy; bọn Lư Triện đuổi đến làng Nhân Mục bắt được tướng nhà Minh là Vi Lạng, chém được hơn 1.000, rồi lại quay trở về Ninh Giang hợp binh với Văn Xảo để đánh quân Vân Nam.

Phạm Văn Xảo đến cầu Xa Lộc (?) th́ gặp quân Vân Nam sang, đánh một trận, quân nghịc thua chạy về giữ thành tam giang.

Trần Trí thấy thế ở Đông Quan yếu lắm bèn viết thư vào Nghệ An gọi Phương Chính đem binh ra cứu, để giữ lấy chỗ căn bản. Phương Chính  [79]

Những tên Ninh Kiều, Ninh Giang, Ứng Thiên chắc là ở vùng huyện Từ Liêm, huyện Thanh Oai, về quăng sông Nhuệ Giang và sông Đáy. Mà Ninh Giang có lẽ là khúc sông Đáy ở vào quăng Từ Liêm hay Thanh Oai ǵ đó. được thư bèn sai Thái Phúc ở lại giữ thành Nghệ An, rồi đem quân xuống thuyền đi đường bể ra Đông Quan.

B́nh Định Vương nghe tin ấy, liền sai Lê Ngân, Lê Văn An, Lê Bôi, Lê Thận, Lê Văn Linh ở lại vây thành Nghệ An; Vương tự đem đại quân cả thủy bộ Phương Chính ra bắc. Ra đến Thanh Hóa, Vương đem binh vào đánh thành Tây Đô, nhưng quân Minh giữ vững thành tŕ đánh không được, Vương đem quân đến đóng ở Lỗi Giang.

14. Trận Tụy Động - Vương Thông Thất Thế.

Từ khi B́nh Định Vương ở Lư Sơn vào đánh Nghệ An đến giờ, đánh đâu được đấy, thanh thế lừng lẫy, quân Minh khiếp sợ, đem tin về cho Minh Triều biết, Minh Đế liền sai Chinh Di Tướng Quân là Vương Thông và Tham Tướng là Mă Anh đem 5 vạn quân sang cứu Đông Quan. Trần Trí và Phương Chính th́ phải cách hết cả quan tước bắt phải theo quân đi đánh giặc, c̣n Trần Hiệp th́ cứ giữ chức Tham Tán Quân Vụ.

Vương Thông sang đến đất Đông Quan hội tất cả quân sĩ lại được mười vạn, cùng với bọn Trần Hiệp chia làm ba đạo đi đánh B́nh Định Vương.

Vương Thông đem quân đến đóng ở bến Cổ Sở (thuộc huyện Thạch Thất, phủ Quốc Oai, Sơn Tây). Phương Chính đóng ở Sa Thôi (thuộc huyện Từ Liêm), Mă Kỳ đóng ở Thanh Oai, đồn lũy liên tiếp nhau một dăy dài hơn mấy mươi dặm.

Bọn Lư Triện, Đỗ Bí ở Ninh Kiều đem quân và voi đến phục ở Cổ Lăm, rồi cho quân đến đánh nhữ Mă Kỳ. Mă Kỳ đem tất cả quân đuổi đến cầu Tam La (ở giáp giới huyện Thanh Oai và huyện Từ Liêm), quân phục binh của Lư Triện đổ ra đánh, quân Minh thua chạy, nhiều người xuống đồng lầy, chạy không được, bị chém hơn 1.000 người. Lư Triện đuổi quân Minh đến Nhân Mục, bắt được hơn 500 người. Mă Kỳ một ḿnh một ngựa chạy thoát được.

Bọn Lư Triện thừa thắng tiến lên đánh đạo quân Phương Chính. Nhưng Phương Chính thấy Mă Kỳ đă thua cũng rút quân lui, rồi cùng Mă Kỳ về hội với Phương Thông ở bến Cổ Sở.

Vương Thông liệu tất thế nào quân An Nam cũng đến đánh, bèn phục binh và pḥng bị trước cả. Chợt có quân của Lư Triện đến. Quân Minh giả ra đánh rồi bỏ chạy, nhử quân ta và chỗ hiểm có chông sắt. Đi đến đấy, voi xéo phải chông đi không được, rồi lại có phục binh đổ ra đánh, Lư Triện thua chạy về giữ Cao Bộ (ở vùng Chương Đức, Mỹ Lương) và cho người về Thanh Đàm (tức là huyện Thanh Tŕ bây giờ) gọi bọn Đinh Lễ và Nguyễn Xí đến cứu.

Đinh Lễ và Nguyễn Xí đem 3.000 quân và hai con voi lập tức đêm hôm ấy đến Cao Bộ, rồi phân binh ra phục sẵn ở Tụy Động (thuộc huyện Mỹ Lương) và ở Chúc Động (thuộc huyện Chương Đức) 80 . Chợt bắt được tên thám tử của quân Minh, tra ra th́ biết rằng quân Vương Thông đóng ở Ninh Kiều, có một đạo quân đi lẻn ra đường sau quân Lư Triện để đánh tập hậu, đại quân sang đ̣ chỉ chờ lúc nào nghe súng th́ hai mặt đổ lại cùng đánh.

Biết mưu ấy rồi, đến canh năm đêm hôm ấy, Đinh Lễ sai người bắn súng làm hiệu để đánh lừa quân giặc. Quả nhiên quân giặc nghe tiếng súng đều kéo ùa đến đánh. Bấy giờ phải độ trời mưa, đường lầy, quân Minh vừa đến Tụy Động th́ bị quân ta bốn mặt đổ ra đánh, chém được quan Thượng Thư là Trần Hiệp, và Nội Quan là Lư Lượng. C̣n những quân sĩ nhà Minh th́ chết hại nhiều lắm: phần th́ giày xéo lẫn nhau mà chết, phần th́ ngă xuống sông chết đuối, cả thảy đến hơn năm vạn người; c̣n bị bắt sống hơn một vạn người, các đồ đạc khí giới th́ lấy được không biết bao nhiêu mà kể. Trận Tụy Động đánh vào tháng mười năm bính ngọ (1426).

Phương Chính và Mă Kỳ chạy thoát được, rồi cùng với Vương Thông về giữ thành Đông Quan.

Bọn Đinh Lễ thừa thắng đem binh về vây thành và cho người về Lỗi Giang báo tin thắng trận cho B́nh Định Vương biết.

Vương liền tiến binh ra Thanh Đàm, rồi một mặt sai Trần Nguyên Hăn đem 100 chiếc thuyền đi theo sông Lung Giang (?) 81

ra cửa Hát Giang (cửa sông Đáy thông với sông Cái) rồi thuận ḍng sông Nhị Hà xuống đóng ở bến Đông Bộ Đầu ; một mặt sai bọn Bùi Bị đem hơn 1 vạn quân đi lẻn ra đóng ở Tây Dương Kiều (?), Vương tự dẫn đại quân đến hạ trại ở gần thành Đông Quan. Quân Minh giữ ở trong thành không ra đánh, bao nhiêu chiến thuyền th́ Vương lấy được cả.

Kể từ ngày B́nh Định Vương đem binh vào đánh Nghệ An đến giờ, tuy rằng đánh đâu được đấy, nhưng chưa có trận nào quan hệ bằng trận Tụy Động này. Bởi v́ việc thắng bại trong 10 phần, đánh xong trận này, th́ đă chắc được 7, 8 phần rồi. Quân thế nhà Minh chỉ c̣n ở trong mấy thành bị vây  [80]

Tụy Động và Chúc Động ở vào quăng huyện Chương Mỹ, phía đông có sông Đáy, phía tây có con sông con gọi là sông Bùi, chảy vào sông Đáy, chỗ Ngă Ba Thá. [81]

Chắc là một khúc sông Đáy thuộc hạt tỉnh Hà Đông bây giờ. nữa mà thôi, mặt ngoài th́ viện binh lại chưa có, mà dẫu cho có sang nữa, th́ thế của B́nh Định Vương cũng đă vững lắm rồi.

Nhưng cứ trong Việt Sử th́ quân của Lư Triện và Đinh Lễ chẳng qua chỉ có mấy ngh́n người mà thôi, làm thế nào mà phá được hơn 10 vạn quân tinh binh của Vương Thông ? Vả lại sử chép rằng đánh trận Tụy Động quân An Nam giết được hơn 5 vạn quân Minh, lại bắt được hơn 1 vạn người, như thế chẳng hóa ra quân Minh hèn lắm ru! E rằng nhà làm sử có ư thiên vị, cho nên sự thực không được rơ lắm. Nhưng dẫu thực hư thế nào mặc ḷng, đại khái trận Tụy Động là một trận đánh nhau to, mà Vương Thông th́ thua, phải rút quân về giữ thành Đông Quan rồi bị vây, c̣n B́nh Định Vương th́ ra bắc thu phục các châu huyện. Việc ấy chắc là thật có.

15. Vây Thành Đông Đô.

Từ khi B́nh Định Vương ra Đông Đô, những kẻ hào kiệt ở các nơi đều nô nức về theo, xin hết sức đi đánh giặc. Vương dùng lời úy dụ và lấy cái nghĩa lui tới mà giảng giải cho mọi người nghe, rồi cứ tùy tài mà thu dùng.

Vương chia đất Đông Đô ra làm bốn đạo, đặt quan văn vơ để coi việc chính trị.

Cứ theo sách "Lịch Triều Hiến Chương Địa Dư Chí" của ông Phan Huy Chú th́ những trấn Tam Giang, Tuyên Quan, Hưng Hóa, Gia Hưng thuộc về Tây Đạo; những trấn Thượng Hồng, Hạ Hồng, Thượng Sách, Hạ Sách cùng với lộ An Bang thuộc về Đông Đạo; những trấn Bắc Giang, Thái Nguyên thuộc về Bắc Đạo; những lộ Khoái Châu, Lư Nhân, Tân Hưng, Kiến Xương, Thiên Trường thuộc về Nam Đạo.

16. Vương Thông Xin Ḥa Lần Thứ Nhất.

Vương Thông ở Đông Quan cứ bị thua măi, liệu thế đánh không được nữa, muốn băi binh về Tàu, nhưng sợ mang tiếng, bèn lục tờ chiếu của vua nhà Minh, niên hiệu Vĩnh Lạc (1407), nói về việc t́m con cháu họ Trần, rồi cho người ra nói với B́nh Định Vương t́m người ḍng dơi họ Trần lập lên, để xin băi binh.

Vương nghĩ đánh nhau măi, trong nước tàn hại, dân t́nh khổ sở, bèn y theo lời Vương Thông. Nhân lúc bấy giờ có người tên là Hồ Ông trốn ở Ngọc Ma, xưng là cháu ba đời vua Nghệ Tông, vương bèn cho người đi đón Hồ Ông về đổi tên là Trần Cao, lập nên làm vua, mà Vương th́ xưng làm Vệ Quốc Công để cầu phong với nhà Minh, cho chóng xong việc.

Vương Thông cho người đưa thư ra xin ḥa, và xin cho đem toàn quân về nước. B́nh Định Vương thuận cho, định ngày để Vương Thông gọi quân ở các nơi về hội tại Đông Đô, rồi về Tàu. Việc đă định như thế, nhưng mà bấy giờ có mấy người An Nam theo nhà Minh, như những tên Trần Phong, Lương Nhữ Hốt, sợ rằng quân Minh về th́ ḿnh phải giết, bèn lấy chuyện Ô Mă Nhi ngày trước can Vương Thông đừng rút quân về. Vương Thông nghe lời, bề ngoài tuy nói ḥa, nhưng bề trong sai người đào hào, rắc chông, rồi cho người đi lẻn đem thư về Tàu cầu cứu.

B́nh Định Vương bắt được người đưa thư, giận lắm, không giao thông với quân Minh nữa, rồi sai Lê Quốc Hưng đánh thành Điêu Diêu (huyện Gia Lâm, Bắc Ninh) và thành Thị Kiều (tức là Thị Cầu thuộc huyện Vơ Giang, Bắc Ninh); Trịnh Khả và Lê Khuyển đánh thành Tam Giang (tức là Tam Đái, nay là huyện Bạch Hạc); Lê Sát và Lê Thụ đánh thành Xương Giang ( tức là Phủ Lạng Thương bây giờ); Trần Lựu, Lê Bôi đánh thành Kỳ Ôn. Chẳng bao lâu những thành ấy đều lấy được cả.

17. B́nh Định Vương Đóng Quân ở Bồ Đề.

Tháng giêng năm đinh mùi (1427), B́nh Định Vương tiến quân lên đóng ở chỗ Bồ Đề, ở phía bắc sông Nhị Hà, rồi sai tướng đánh thành Đông Quan: Trịnh Khả đánh cửa Đông, Đinh Lễ đánh cửa Nam, Lê Cực đánh cửa Tây, Lư Triện đánh cửa Bắc.

Quân nhà Minh một ngày một kém, tướng nhà Minh giữ thành Nghệ An và thành Diễn Châu là bọn Thái Phúc và Tiết Tụ đều ra hàng cả. B́nh Định Vương lại sai Lại Bộ Thượng Thư là ông Nguyễn Trăi, làm hịch đi khuyên tướng sĩ các nơi về hàng.

Nhưng cũng v́ thấy quân Minh đă yếu thế, có ư khinh định cho nên quân ta mất hai viên đại tướng. Trước th́ Lư Triện đóng ở Từ Liêm, không cẩn thận, bị quân của Phương Chính đến đánh lẻn giết mất; sau Vương Thông ở Đông Quan đem binh ra đánh Lê Nguyễn ở Tây Phù Liệt (thuộc huyện Thanh Tŕ), Vương sai Đinh Lễ và Nguyễn Xí đem 500 quân đi cứu. Đi đến Mỹ Động (thuộc Hoàng Mai, huyện Thanh Tŕ) gặp quân Minh, hai bên đánh nhau. Vương Thông thấy quân Đinh Lễ có ít, bèn vây lại đánh bắt được Đinh Lễ và Nguyễn Xí. Nguyễn Xí trốn đi được, c̣n Đinh Lễ bị giết.

18. B́nh Định Vương Đặt Pháp Luật Để Trị Quân Dân.

B́nh Định Vương cứ một mặt vây đánh thành Đông Quan và các thành khác, một mặt lo việc cai trị, đặt ra các điều lệ để cho việc binh có kỷ luật và cho ḷng dân được yên.

Trước hết Vương dụ cấm tà đạo: ai mà dùng những phép tà ma giả dối để đánh lừa người ta th́ phải tội. C̣n những dân sự bị loạn phải lưu tán đi chỗ khác cho về nguyên quán, cứ việc làm ăn như cũ.

Những vợ con gia quyến của những người ra làm quan với giặc, th́ được phép theo lệ, lấy tiền mà chuộc 82 ; c̣n những quân lính nhà Minh đă hàng th́ đưa về Thiên Trường, Kiến Xương, Lư Nhân, Tân Hưng để nuôi nấng tử tế.

Vương đặt ra ba điều để răn các quan: 1. Không được vô t́nh. 2. Không được khi mạn. 3. Không được gian dâm

Và lại dụ rằng những quân lính ngày thường có tội không được giết càn, trừ lúc nào ra trận mà trái quân lệnh th́ mới theo phép mà thi hành.

Vương lại đặt ra 10 điều để làm kỷ luật cho các tướng sĩ: 1. Trong quân ồn ào không nghiêm. 2. Không có việc ǵ mà đặt chuyện ra để làm cho mọi người sợ hăi. 3. Lúc lâm trận nghe trống đánh, thấy cờ phất, mà chùng ch́nh không tiến. 4. Thấy kéo cờ dừng quân mà không dừng. 5. Nghe tiếng chiêng lùi quân mà không lùi 6. Pḥng giữ không cẩn thận, để mất thứ ngũ. 7. Lo riêng việc vợ con, mà bỏ việc quân. 8. Tha binh đinh về để lấy tiền, và làm sổ sách mập mờ. 9. Theo bụng yêu ghét của ḿnh mà làm ḷa mất công quả của người ta. 10. Gian dâm, trộm cắp.

Hễ tướng sĩ ai mà phạm vào 10 điều ấy th́ phải tội chém.

C̣n quân lính, th́ hễ nghe một tiếng súng mà không có tiếng chiêng, th́ các tướng hiệu phải đến dinh nghe lệnh; hễ nghe hai ba tiếng súng và hai ba tiếng chiêng ấy là có việc cảnh cấp, quan chấp lệnh phải sắp hàng ngũ, c̣n quan thiếu úy th́ đến dinh mà nghe lệnh; hễ đến lúc lâm trận mà lùi hoặc là bỏ những người sau không cứu, th́ phải tội chém, nhưng gián hoặc đă có ai không may chết trận mà ḿnh hết sức mang được xác ra th́ khỏi tội.  [82]

Vợ con của quan Bố Chính th́ phải 70 quan; vợ con những sinh viên và thổ quan th́ 10 quan; c̣n những con trai, con gái đầy tớ, đứa ở th́ 5 quan.

Đại khái kỷ luật ở trong quân của B́nh Định Vương như thế, cho nên đi đâu, dân gian kính phục lắm.

19. Trận Chi Lăng - Liễu Thăng Tử Trận.

Từ khi quân Minh thua trận Tụy Động, Trần Hiệp bị giết, Vương Thông cho người về tâu với Minh Đế để xin thêm binh. Minh Đế thất kinh, liền sai Chinh Lỗ Phó Tướng Quân An Viễn Hầu là Liễu Thăng, Tham Tướng Bảo Định Bá là Lương Minh, Đô Đốc là Thôi Tụ, Binh Bộ Thượng Thư là Lư Khánh, Công Bộ Thượng Thư là Hoàng Phúc, Hữu Bố Chính Sứ là Nguyễn Đức Huân, đem 10 vạn quân, hai vạn ngựa, đi đường Quảng Tây sang đánh cửa Ba Lụy, bấy giờ là tháng chạp năm bính ngọ (1427). Lại sai Chinh Nam Đại Tướng Quân Kiềm Quốc Công là Mộc Thạnh, Tham Tướng Anh Hưng Bá là Từ Hanh, Tây Ninh Bá là Đàm Trung đi đường vào Vân Nam sang đánh cửa Lê Hoa.

Khi các tướng nghe viện binh của quân Minh sắp đến, nhiều người khuyên Vương đánh ngay lấy thành Đông Quan để tuyệt đường nội ứng, nhưng Vương không nghe, bảo rằng: "Việc đánh thành là hạ sách, nay ta hăy cứ dưỡng binh súc nhuệu để đợi quân địch đến th́ ra đánh. Hễ viện quân mà thua, th́ quân trong thành tất phải ra hàng. Thế có phải làm một việc mà thành được hai không?" Đoạn rồi bắt phải giữ ǵn mọi nơi cho nghiêm nhặt, lại bắt người ở Lạng Giang, Bắc Giang, Tam Đái, Tuyên Quan, Quy Hóa đi chỗ khác, bỏ đồng không để tránh quân Minh.

Đến tháng mười (1427) B́nh Định Vương nghe tin quân của bọn Liễu Thăng đă sắp sang đất An Nam, liền hội các tướng lại bàn rằng: "Quân kia cậy khoẻ khinh yếu, lấy nhiều bắt nạt ít, chỉ cốt đánh cho được, chứ không tưởng đến điều khác. Nay đường xa ngh́n dặm, mà đi có mấy ngày, nếu ta nhân lúc người ngựa của chúng đang mỏi mệt, ta "dĩ dật đăi lao", đánh là tất được". Bèn sai Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Linh, Đinh Liệt, Lê Thụ đem 1 vạn quân và 5 con voi lên phục sẵn ở cửa Chi Lăng, để đợi quân Minh. Lại sai Lê Lư, Lê Văn An, đem 3 vạn quân cứ lục tục kéo lên đánh giặc.

Bấy giờ Trần Lựu đang giữ cửa Ba Lụy (Nam Quan) thấy quân Minh đến, lui về giữ Ai Lưu; đến khi quân giặc đến đánh Ai Lưu, Trần Lựu lại lùi về giữ Chi Lăng, cứ cách từng đoạn, chỗ nào cũng có đồn, quân Minh đi đến đâu không ai dám chống giữ, phá luôn một lúc được những mấy cái đồn. Liễu Thăng đắc ư đuổi tràn đi. B́nh Định Vương lại làm ra bộ khiếp sợ, cho người đưa thư sang nói với Liễu Thăng xin lập Trần Cao lên làm vua để xin băi binh. Liễu Thăng tiếp thư không mở ra xem cho người đưa về Bắc Kinh, rồi cứ tiến lên đánh.

Ngày 18 tháng 9, quân Liễu Thăng đến gần cửa Chi Lăng. Lê Sát sai Trần Lựu ra đánh rồi bỏ chạy. Liễu Thăng mừng lắm, chỉ đem 100 lính kị đuổi theo, bỏ đại đội ở lại sau. Đuổi được một đoạn, phải chỗ bùn lầy đi không được, phục binh ta đổ ra đánh, chém Liễu Thăng ở núi Đảo Mă Pha (bây giờ là Mă Yên Sơn, ở làng Mai Sao, thuộc Ôn Châu). Việc ấy vào ngày 20 tháng 9 năm đinh mùi.

Bọn Lê Sát, Trần Lựu thừa thắng đuổi đánh quân Minh giết hơn 1 vạn người. Lúc bấy giờ đạo quân của Lê Lư cũng vừa đến, hội lại tiến lên đánh quân Minh, chém được Lương Minh ở giữa trận (ngày 25). Lư Khánh th́ tự tử (ngày 28). C̣n bọn Hoàng Phúc và Thôi Tụ đem bại binh chạy về thành Xương Giang (thành của nhà Minh xây ở xă Thọ Xương, phủ Lạng Giang), đi đến nữa đường bị quân của Lê Sát đuổi đến đánh phá một trận; Thôi Tụ cố đánh lấy đường chạy về Xương Giang, không ngờ thành ấy đă bị bọn Trần Nguyên Hăn lấy mất rồi, quân Minh sợ hăi quá bèn lập trại đắp lũy ở giữa đồng để chống giữ.

B́nh Định Vương sai quân thủy bộ vây đánh, sai Trần Nguyên Hăn chặn đường tải lương của quân Minh, lại sai Phạm Vấn, Lê Khôi, Nguyễn Xí đem quân thiết đội vào đánh chém quân Minh được hơn 5 vạn, bắt sống được Hoàng Phúc, Thôi Tụ và 3 vạn quân. Thôi Tụ không chịu hàng phải giết.

Bấy giờ Mộc Thạnh với bọn Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả đang giữ nhau ở cửa Lê Hoa. Trước Vương cũng đă liệu rằng Mộc Thạnh là người lăo luyện tất chờ xem quân Liễu Thăng thắng bại thế nào rồi mới tiến, bèn sai đưa thư dặn bọn Văn Xảo cứ giữ vững chứ đừng ra đánh. Đến khi quân Liễu Thăng thua rồi, Vương cho những tên t́ tướng đă bắt được, đem những giấy má ấn tín lên cho Mộc Thạnh biết.

Mộc Thạnh được tin ấy, sợ quá, đem quân chạy, bị quân Trịnh Khả đuổi theo chém được hơn 1 vạn người và bắt được cả người lẫn ngựa mỗi thứ hơn một ngh́n.

20. Vương Thông Xin Ḥa Lần Thứ Hai.

B́nh Định Vương sai đưa bọn Hoàng Phúc và hai cái hổ phù, hai dấu đài ngân của quan Chinh Lỗ Phó Tướng Quân về Đông Quan cho Vương Thông biết.

Vương Thông biết rằng viện binh sang đă bị thua rồi, sợ hăi quá, viết thư xin ḥa. Vương thuận cho, rồi cùng với Vương Thông lập đàn thề ở phía nam thành Đông Quan, hẹn đến tháng chạp th́ đem quân về Tàu.

21. Trần Cao Dâng Biểu Xin Phong.

B́nh Định Vương đă ḥa với Vương Thông rồi, quân Minh ở Tây Đô và ở các nơi đều giải binh cả. Vương sai Lê Thiếu Dĩnh, Lê Quang Cảnh và Lê Đức Huy đem tờ biểu và phương vật sang sứ nhà Minh.

Những đồ phương vật là: 1. Hai người bằng vàng để thay ḿnh. 2. Một lư hương bằng bạc. 3. Một đôi b́nh hoa bằng bạc 4. Ba mươi tấm lượt. 5. Mười bốn đôi ngà voi. 6. Mười hai b́nh hương trầm. 7. Hai vạn nén hương duyến. 8. Hai mươi bố cây hương trầm.

Và lại đem hai cái dấu đài ngân, đôi hổ phù của Chính Lỗ Phó Tướng Quân cùng với sổ kê những người quan quân nhân mă đă bị bắt đem trả lại Minh Triều.

C̣n tờ biểu th́ đứng tên Trần Cao, đại lược như sau này:

"Khi vua Thái Tổ Cao Hoàng Đế mới lên ngôi, tổ tiên tôi là Nhật Khuê vào triều cống trước nhất, bấy giờ ngài có ban thưởng, phong cho tước Vương. Từ đó nhà tôi vẫn nối đời giữ bờ cơi, không bỏ thiếu lễ triều cống bao giờ.

Mới rồi nhân họ Hồ thoán nghịch, vua Thái Tông Văn Hoàng Đế quân sang hỏi tội. Sau khi đă dẹp yên rồi, ngài có hạ chiếu t́m con cháu họ Trần để giữ lấy ḍng dơi cúng tế. Bấy giờ quan tổng binh Trương Phụ t́m chưa được khắp, đă xin đặt làm quận huyện.

Nguyên tôi lúc trước v́ trong nước có loạn, chạy trốn vào xứ Lăo Qua, cũng là muốn để t́m chốn yên thân mà thôi, không ngờ người trong nước, vẫn quen thói mọi, nhớ đến ân trạch nhà tôi thuở trước, lại cố ư ép tôi phải về, bất đắc dĩ tôi cũng phải theo.

Dẫu rằng trong khi vội vàng, bị người trong nước cố ép, nhưng cũng là cái tội tôi không biết liệu xử. Mới đây tôi đă có xin lỗi trước hàng quân, nhưng không ai chịu nghe, bấy giờ người nước tôi sợ phải tai vạ, liền đem nhau ra pḥng bị các cửa ải, cũng là một kế giữ ḿnh.

Ngờ đâu quan quân xa xôi mới đến thấy voi sợ hăi, tức khắc vỡ tan. Việc đă xảy ra như vậy, dẫu bởi sự bất đắc dĩ của người trong nước cũng là lỗi của tôi. Nhưng bao nhiêu những quân và ngựa bắt được đều phải thu dưỡng tử tế, không dám xâm phạm một tí ǵ.

 

Dám xin hoàng thượng ngày nay lại theo như lời chiếu của vua Thái Tông Văn Hoàng Đế, t́m lấy con cháu họ Trần, nghĩ đến cái ḷng thành vào triều cống trước nhất của tổ tiên tôi ngày xưa, mà xá cái tội to như g̣ núi ấy, không bắt phải cái phạt nặng bằng búa ŕu, khiến cho tôi được nối nghiệp ở xứ nam, để giữ chức triều cống.

Tôi đă sai người thân tín mang tờ biểu tạ và đưa trả những ấn tín nhân mă tới chốn kinh sư, nay lại xin đệ tâu những danh số ấy"

Vua nhà Minh bấy giờ là Tuyên Tông xem biểu biết rằng giả dối, nhưng cũng muốn nhân dịp ấy để thôi việc binh, bèn đưa tờ biểu cho quần thần xem, mọi người đều xin ḥa. Minh Đế sai quan Lễ Bộ Thị Lang là Lư Kỳ đưa chiếu sang phong cho Trần Cao làm An Nam Quốc Vương, bỏ ṭa Bố Chính và triệt quân về Tàu.

Đến tháng chạp năm đinh mùi, Vương Thông theo lời ước với B́nh Định Vương, đem bộ binh qua sông Nhị Hà, c̣n thủy quân theo sau.

Bấy giờ có người xui Vương rằng: lúc trước người Minh tàn ác lắm, nên đem giết cả đi. Vương nói rằng: " Phục thù báo oán là cái thường t́nh của mọi người, nhưng cái bản tâm người có nhân không muốn giết người bao giờ. Vả người ta đă hàng mà lại c̣n giết th́ không hay. Nếu ḿnh muốn thỏa cơn giận một lúc, mà chịu cái tiếng muôn đời giết kẻ hàng, th́ sao bằng để cho muôn vạn con người sống mà khỏi được cái mối tranh chiến về đời sau, lại để tiếng thơm lưu truyền thiên cổ trong sử xanh".

Vương không giết người Minh lại cấp cho thủy quân 500 chiếc thuyền giao cho Phương Chính và Mă Kỳ quản lĩnh; cấp lương thảo cho lục quân giao cho Sơn Thọ, Hoàng Phúc quản lĩnh; c̣n 2 vạn người đă ra hàng và đă bị bắt th́ giao cho Mă Anh quản lĩnh đem về Tàu. Vương Thông th́ lĩnh bộ binh đi sau. B́nh Định Vương tiễn biệt rất hậu.

Giặc Minh lục tục về bắc, bấy giờ mới thật là: Nam Quốc Sơn Hà, Nam Đế Cư; nước Nam lại được tự chủ như cũ.

23. Tờ B́nh Ngô Đại Cáo.

B́nh Định Vương dẹp xong giặc Minh rồi, sai ông Nguyễn Trăi làm tờ bá cáo cho thiên hạ biết.

Tờ B́nh Ngô Đại Cáo này làm bằng Hán Văn, là một bản văn chương rất có giá trị trong đời Lê. Nay theo nguyên văn ở trong tập Hoàng Việt Văn Tuyển mà chép ra như sau này:

B́nh Ngô Đại Cáo

Tượng mảng:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ v́ khử bạo. Như nước Việt từ trước, vốn xưng văn hiến đă lâu. Sơn hà cương vực đă chia, phong tục bắc nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lư, Trần, gây nền độc lập; cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có.

Vậy nên:

Lưu Cung sợ uy mất vía, Triệu Tiết nghe tiếng giật ḿnh. Cửa Hàm Tử giết tươi Toa Đô, sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mă. Xét xem cổ tích, đă có minh trưng 83 .

Vừa rồi:

V́ họ Hồ chính sự phiền hà, để trong nước nhân dân oán bạn. Quân cuồng Minh đă thừa cơ tứ ngược 84 , bọn gian tà c̣n bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Chước dối đủ muôn ngh́n khóe, ác chứa ngót hai mươi năm. Bại nhân nghĩa, nát cả càn khôn, nặng khoa liễm 85

vét không sơn trạch. Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể ṃ châu, nào hố bẫy hươu đen, nào lưới ḍ chim sả. Tàn hại cả côn trùng thảo mộc; nheo nhóc thay quan quả điên liên 86 . Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề về những nỗi phu phen, bắt bớ mất cả nghề canh cửi. Độc ác thay ! trúc rừng không ghi hết tội; dơ bẩn thay ! nước bể không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo thần nhân nhịn được.

Ta đây:

Núi Lam Sơn dấy nghĩa, chốn hoang dă nương ḿnh. Ngắm non sông căm nỗi thế thù, thề sống chết cùng quân nghịch tặc. Đau ḷng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa; nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn v́ giận, sách lược thao suy xét đă tinh; ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt v́:

83

Minh trưng: chứng cớ rơ ràng. 84

Tứ ngược: Hết sức tàn ngược. 85

Khoa liễm: Thuế má. 86

Quan: Người không vợ; Quả: người góa chồng; Điên Liên: những kẻ không có nhà ở, không trông cậy vào đâu được.

Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu. Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần, nơi duy ác hiếm người bàn bạc. Đôi phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm con mắt dục đông 87 ; mấy thủa đợi chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả 88 . Thế mà trông người, người càng vắng ngắt, vẫn mịt mờ như kẻ vọng dương 89 . thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội vă như khi chửng nịch 90 . Phần th́ giận hung đồ ngang dọc, phần th́ lo quốc bộ khó khăn. Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần; khi Khôi huyện quân không một lữ. Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiết thiên ma; cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử. Múa đầu gậy, ngọn cờ phất phới, ngóng vân nghê bốn cơi đan hồ. Mở tiệc quân, chén rượu ngọt ngào, khắp tướng sĩ một ḷng phụ tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi; quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.

Dọn hay:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang sét dậy, miền Trà Lân trúc phá tro baỵ Sĩ khí đă hăng, quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ mất vía chạy tan; Phương Chính, Lư An t́m đường trốn tránh. Đánh Tây Kinh phá tan thế giặc, lấy Đông Đô thu lại cơi xưa. Dưới Ninh Kiều máu chảy thành sông; bến Tụy Động xác đầy ngoại nội. Trần Hiệp đă thiệt mạng. Lư Lương lại phơi thây. Vương Thông hết cấp lo lường, Mă Anh không đường cứu đỡ. Nó đă trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao; ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất. Tưởng nó phải thay ḷng đổi dạ, hiểu lẽ tới lui; ngờ đâu c̣n kiếm kế t́m phương, gây mầm tội nghiệt. Cậy ḿnh là phải, chỉ quen đổ vạ cho người; tham công một thời, chẳng bỏ bày tṛ dơ duốc. Đến nỗi đứa trẻ ranh như Tuyên Đức 91 , nhàm vơ không thôi; lại sai đồ nhút nhát như Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy. Năm đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng từ Khâu Ôn tiếng san; lại năm nay tháng mười, Mộc Thạnh tự Vân Nam kéo đến. Ta đă điều binh giữ hiểm để ngăn lối Bắc quân; ta lại sai tướng chẹn ngang để tuyệt đường lương đạo. Mười tám, Liễu Thăng thua ở Chi Lăng, hai mươi, Liễu Thăng chết ở Mă Yên. Hai mươi lăm, Lương Minh trận vong; hai mươi tám, Lư Khánh tự vẫn. Lưỡi dao ta đang sắc, ngọn giáo giặc phải lùi. Lại thêm quân bốn mặt vây thành, hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc. Sĩ tốt ra oai t́ hổ, thần thứ đủ mặt trảo nha. Gươm mài đá, đá núi cũng ṃn; voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận sạch không ḱnh ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt toang đê cũ. Thôi Tụ phải qú mà xin lỗi, Hoàng Phúc tự trói  [87]

Dục đông: ư nói muốn về lấy Đông Đô. 88

Hư tả: Cỗ xe không bên trái để đợi người hiền. 89

Vọng dương: Trông ra biển không thấy ǵ. 90

Chửng nịch: Vớt người chết đuối. 91

Vua Tuyên Tông nhà Minh, niên hiệu Tuyên Đức. để ra hàng. Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường, Xương Giang, B́nh Than máu trôi đỏ nước. Gớm ghê thay ! sắc phong vân cũng đổi; thảm đạm thay ! sáng nhật nguyệt phải mờ. Binh Vân Nam nghẽn ở Lê Hoa, sợ mà mất mật; quân Mộc Thạnh tan chưn Cần Trạm, chạy để thoát thân. Suối máu Lănh Câu, nước sông rền rĩ; thành xương Đan Xá, cỏ nội đầm đ́a. Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy; các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu. Bắt tướng giặc mang về, nó đă vẫy đuôi phục tôi; thể ḷng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh. Mă Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực. Vương Thông, Mă Anh, phát cho vài ngh́n cỗ ngựa, về đến Tàu c̣n đổ mồ hôi. Nó đă sợ chết cầu ḥa, ngỏ ḷng thú phục; ta muốn toàn quân là cốt, cả nước nghỉ ngơi.

Thế mới là mưu kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa có. Giang san từ đây mở mặt, xă tắc từ đầy vững nền. Nhật nguyệt hối mà lại minh, càn khôn bĩ mà lại thái. Nền vạn thế xây nên chăn chắn, thẹn ngh́n thu rửa sạch làu làu. Thế là nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng che chở, giúp đỡ cho nước ta vậy.

Than ôi !

Vẫy vùng một mảng nhung y nên công đại định, phẳng lặng bốn bề thái vũ mở hội vĩnh thanh. Bá cáo xa gần, ngỏ cùng cho biết.

B́nh Ngô Đại Cáo

Cái văn : nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân; điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo. Duy ngă Đại-Việt chi quốc, thực vi văn-hiến chi bang. Sơn xuyên chi phong vực kư thù, Nam Bắc chi phong-tục diệc dị. Tự Triệu Đinh Lư Trần chi triệu tạo ngă quốc, dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương. Tuy cường nhược th́ hữu bất đồng, nhi hào kiệt thế vị thường phạp.

Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại, nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong. Toa Đô kư cầm ư Hàm-tử quan, Ô Mă hựu ế ư Bạch-đằng hải. Kê chư văng cổ, quyết hữu minh trưng.

Khoảnh nhân Hồ-chính chi phiền-hà, trí-sử nhân-tâm chi oán-bạn. Cuồng-Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngă dân; ngụy đảng hoài gian, cánh dĩ măi ngă quốc. Hân thương-sinh ư ngược-diễm, hảm xích-tử ư họa-khanh. Khi thiên vơng dân, quỷ-kế cái thiên vạn trạng; liên binh kết hấn, nẫm ác đăi nhị thập niên. Bại nghĩa thương nhân, kiền khôn ky hồ dục tức; trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di. Khai kim-trường, tắc mạo lam-chướng nhi phủ sơn đào sa; thái minh-châu, tắc xúc giao-long nhi hoàn yêu thộn hải. Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hăm tịnh, điễn vật chức thúy cầm chi vơng la. Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh, quan quả điên-liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở. Tuấn sinh dân chi huyết, dĩ nhuận kiệt-hiệt chi vẫn nha; cực thổ mộc chi công, dĩ sùng công tư chi giải vũ. Châu lư chi chinh dao trọng khốn, lư diêm chi trữ trục giai không. Quyết Đông-hải chi thủy, bất túc dĩ trạc kỳ ô; Khánh Nam-sơn chi trúc, bất túc dĩ thư kỳ ác. Thần nhân chi sở cộng phẫn, thiên địa chi sở bất dung.

Dư phấn tích Lam-sơn, thê thân hoang dă. Niệm thế-thù khởi khả cộng đái, thệ nghịch-tặc nan dữ câu sinh. Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên, thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật. Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao-lược chi thư; tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lư. Đồ hồi chi chí, ngộ mỵ bất vong. Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi th́, chính tặc thế phương trương chi nhật.

Nại dĩ nhân tài thu diệp, tuấn kiệt thần tinh. Bôn tẩu tiền hậu giả kư phạp kỳ nhân, mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ. Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất-uất nhi dục đông; cố ư đăi hiền chi xa, thường cấp-cấp dĩ hư tả. Nhiên kỳ đắc nhân chi hiệu, mang nhược vọng dương; do kỷ chi thành, thậm ư chửng nịch. Phẫn hung-đồ chi vị diệt, niệm quốc-bộ chi tao truân. Linh-sơn chi thực tận kiêm tuần, Khôi-huyện chi chúng vô nhất lữ. Cái thiên dục khốn ngă dĩ giáng quyết nhâm, cố dư ích lệ chi dĩ tế vu nạn. Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập; đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm. Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị; dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất kỳ.

Tốt năng dĩ đại nghĩa nhi thắng hung-tàn, dĩ chi nhân nhi dịch cường-bạo. Bồ-đằng chi đ́nh khu điện xiết, Trà-lân chi trúc phá khôi phi. Sĩ khí dĩ chi ích tăng, quân thanh dĩ chi đại chấn. Trần Trí, Sơn Thọ, văn phong nhi trĩ phách; Lư An, Phương Chính, dả tức dĩ thâu sinh. Thừa thắng trường khu, Tây-kinh kư vi ngă hữu; tuyển phong tiến thủ, Đông-đô tận phục cựu cương. Ninh-kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lư; Tụy-động chi thi tích dă, di xú thiên niên. Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, kư kiêu kỳ thủ; Lư Lượng tặc chi gian đố, hựu bộc quyết thi. Vương Thông lư loạn nhi phần giả ích phần, Mă Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ. Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đăi vong; ngă mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất. Vị bỉ tất dịch tâm nhi cải lự, khởi ư phục tác nghiệt dĩ tốc cô. Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân; tham nhất th́ chi công, dĩ di tiếu ư thiên-hạ. Toại lệnh Tuyên- đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm; nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nhụ tướng, dĩ du cứu phần. Đinh-vị cửu nguyệt, Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu-ôn nhi tiến; bản niên bản nguyệt, Mộc Thạnh diệc phân đồ tự Vân-nam nhi lai. Dư tiền kư tuyển binh tắc hiểm dĩ tồi kỳ phong, dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực. Bản nguyệt thập bát nhật, Liễu Thăng vi ngă quân sở công, kế đọa ư Chi-lăng nhi dă; bản nguyệt nhị thập nhật, Liễu Thăng vi ngă quân sở bại, thân tử ư Mă-yên chi sơn. Nhị thập ngũ nhật, Bảo-định bá Lương Minh trận hăm nhi táng khu; nhị thập bát nhật, thượng-thư Lư Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.

Ngă toại nghinh nhận nhi giải, bỉ tự đảo qua tương công. Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi, kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt. Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ, thân mệnh trảo nha chi thần. Ẩm tượng nhi hà thủy can, ma đao nhi sơn thạch khuyết. Nhất cổ nhi ḱnh khô ngạc đoạn, tái cổ nhi điểu tán quân kinh. Quyết hội nghị ư băng đê, chấn cương phong ư cảo diệp. Đô-đốc Thôi Tụ tất hàng nhi tống khoản, thượng-thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu cầm. Cương-thi tắc Lạng-giang, Lạng-sơn chi đồ; chiến-huyết xích Xương-giang, B́nh-than chi thủy. Phong vân vị chi biến sắc, nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.

Kỳ Vân-nam binh vi ngă quân sở ách ư Lê-hoa, tự đỗng nghi hư hát nhi tiên dĩ phá đảm. Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân đại bại ư Cần- trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân. Lănh-câu chi huyết xử phiêu, giang-thủy vị chi ô yết; Đan-xá chi thi sơn tích, dă thảo vị chi ân hồng. Lưỡng lộ cứ binh, kư bất tuyền chủng nhi âu bại; các thành cùng khấu, diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng. Tặc thủ thành cầm, bỉ kư điệu ngạ- hổ khất liên chi vỹ; thần vũ bất sát, dư diệc thể Thượng-đế hiếu sinh chi tâm. Tham-tướng Phương Chính, nội-quan Mă Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, kư độ hải nhi do thả hồn phi phách táng. Tổng-binh Vương Thông, tham-chính Mă-Anh, hựu cấp mă sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh. Bỉ kư úy tử tham sinh, nhi tu hiếu hữu thành; dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân đắc tức.

Phi duy kế mưu chi cực kỳ thâm viễn, cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn. Xă-tắc dĩ chi điện an, sơn xuyên dĩ chi cải quán. Kiền khôn kư bĩ nhi phục thái, nhật nguyệt kư hối nhi phục minh. Vu dĩ khai vạn thế thái b́nh chi cơ, vu dĩ tuyết thiên cổ vô-cùng chi sỉ. Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu, nhi trí nhiên dă.

Ô-hô! Nhất nhung đại-định, ngật thành vô cạnh chi công; tứ hải vĩnh-thanh, dản bố duy-tân chi cáo. Bá cáo hà nhĩ, hàm sử văn tri.

 

CHƯƠNG XV

NHÀ LÊ

( 1428-1788 )

Thời-Kỳ Thống-Nhất (1428-1527)

I. Lê Thái Tổ

1. B́nh-định-vương lên ngôi tôn

2. Việc học-hành

3. Luật-lệ

4. Việc cai-trị

5. Phép quân-điền

6. Việc binh-lính

7. Công thần bị giết

II. Lê Thái Tông

III. Lê Nhân Tông

1. Cai-trị

2. Việc thuế-lệ

3. Việc canh-nông

4. Nhà sinh-tế

5. Việc sửa phong-tục

6. Địa-đồ nước Nam

7. Đại-Việt sử-kư

8. Việc văn-học

9. Việc vũ-bị

10. Đánh Chiêm-thành

11. Đánh Lăo-qua

12. Đánh Bồn-man

13. Việc giao-thiệp với Tàu

V. Lê Hiến Tông

VI. Lê Túc Tông và Lê Uy Mục

VII. Lê Tương Dực

1. Việc thuế-má

2. Đại-Việt thông-giám

3. Sự biến-loạn

VIII. Lê Chiêu Hoàng và Lê Cung Hoàng

1. Giặc Trần Cao quấy-nhiễu ở Đông-đô

2. Quan trong Triều làm loạn

3. Mạc đăng Dung chuyên quyền

I. Lê Thái Tổ ( 1428 - 1433 )

Niên-hiệu: Thuận Thiên

 

1. B́nh Định Vương Lên Ngôi Tôn.

B́nh-định-vương là Lê Lợi có công dẹp giặc Minh, đem lại giang-sơn cho nước nhà. Nhưng v́ trước phải lấy cớ lập con cháu nhà Trần để cầu ḥa với nhà Minh, cho nên phải tôn Trần Cao lên làm vua. Nay việc chiến-tranh đă xong, ḷng người theo về B́nh-định-vương, mà Trần Cao cũng biết chừng không ai để cho ḿnh ở yên, bèn trốn vào châu Ngọc-Ma (thuộc phủ Trấn-ninh) nhưng bị quan quân đuổi bắt được, đem về bắt phải uống thuốc độc mà chết.

Trần Cao chết rồi, B́nh-định-vương lên ngôi tức là vua Thái-tổ nhà Lê, đặt quốc-hiệu là Đại-Việt. Năm ấy là năm mậu-thân, lịch Tây là năm 1428.

Vua Thái-tổ sai sứ sang cầu phong bên Tàu, nhưng mà nhà Minh không chịu, bắt phải t́m con cháu nhà Trần để lập lên làm vua. Sứ nhà Minh đi về hai ba lần, sau vua Thái-tổ bắt các quan viên và phụ lăo trong nước làm tờ khai rằng con cháu nhà Trần thật không c̣n ai nữa, và xin phong cho ngài là Lê Lợi làm vua nước Nam. Vua nhà Minh thấy vậy mới thuận phong vương cho ngài.

Từ đấy lệ cứ 3 năm phải sang cống nhà Minh một lần, mà lần nào cũng phải đúc hai người bằng vàng gọi là: "đại thân kim nhân ". Có lẽ là lúc đánh trận Chi-lăng có giết mất tướng nhà Minh là Liễu Thăng và Lương Minh, cho nên phải đúc hai người bằng vàng thế mạng.

Việc cầu phong và việc chịu cống nước Tàu là việc thế bất-đắc-dĩ, v́ rằng nước ta đối với nước Tàu th́ lớn nhỏ khác nhau nhiều lắm; vả lại nước ta một ḿnh lẻ-loi ở phía nam không có vây-cánh nào cả, như vậy, nếu mà cứ kháng-cự, không chịu kém một tí, th́ không bao giờ yên được. Mà dẫu bề ngoài ḿnh chịu kém nước Tàu, nhưng kỳ thực bề trong vẫn tự chủ, chứ người Tàu không xâm-phạm ǵ đến việc nước ḿnh. Thế cũng là một sự giao-thiệp khôn-khéo, làm cho nước được yên-trị.

Vua Thái-tổ lên ngôi rồi, phong thưởng cho các công-thần: bên văn th́ ông Nguyễn Trăi đứng đầu, bên vơ th́ ông Lê Vấn đứng đầu, cả thảy là 227 người đều được quốc-tính cả. Ngài lại phong cho ông Nguyễn Trăi là Quan-phục-hầu, ông Trần nguyên Hăn là Tả-tướng-quốc, ông Phạm văn Xảo làm Thái-úy.

Những người công-thần vào bậc thứ nhất th́ được thưởng tước là Thượng-trí-tự, bậc thứ nh́ th́ được tước là Đại-trí-tự, bậc thứ ba th́ được tước là Trí-tự.

2. Việc Học Hành.

Vua Thái-tổ sửa-sang việc học-hành, đặt trường Quốc-tử-giám ở đất kinh-đô để cho con cháu các quan viên và những người thường dân tuấn-tú vào học-tập; mở nhà học và đặt thầy dạy nho-học ở các phủ và các lộ. Rồi lại bắt các quan văn vũ từ tứ phẩm trở xuống phải vào thi Minh-kinh-khoa,

nghĩa là quan văn th́ phải thi kinh-sử, quan vũ th́ phải thi vũ-kinh. ở các lộ cũng mở khoa thi Minh-kinh

để cho những người ẩn-dật ra ứng-thí mà chọn lấy nhân-tài.

Những người đi tu đạo Phật, đạo Lăo cũng bắt phải thi kinh điển những đạo ấy; hễ ai thi trúng th́ mới cho phép được làm tăng và đạo-sĩ, ai thi hỏng th́ phải về tục làm ăn.

3. Luật Lệ.

Đặt ra luật-lệ mới theo như h́nh-luật nhà Đường: có tội xuy, tội trượng, tội đồ, tội lưu và tội tử.

Tội xuy chia ra làm 5 bậc từ 10 roi đến 50 roi; tội trượng cũng chia ra làm 5 bậc, từ 60 đến 100 trượng; tội đồ chia ra làm 3 bậc: đồ làm dịch đinh, đồ làm lính chuồng voi, và đồ làm lính đồn-điền; tội lưu chia ra làm 3 bậc : lưu đi cận châu, lưu đi viễn châu và lưu đi ngoại châu 92 ; tội tử cũng chia ra làm 3 bậc: tội thắt cổ và chém, tội chém bêu đầu và tội lăng-tŕ.

Hễ ai được vào hàng bát nghị [ 93 ]

th́ trước phải tâu xin nghị, khi vào nghị xong rồi lại phải tâu để vua xét lại. Những người cựu thần có công từ ngũ-phẩm dĩ thượng, có ai phạm tội đồ hay là tội lưu th́ cũng tha cả; con cháu những người được nghị công mà có tội, th́ cứ theo cái thứ bậc tập [92]

Lưu đi cận châu là vào Nghệ-an, đi viễn châu là vào Bố-chính, đi ngoại châu là vào Tân-b́nh. [ 93 ]

Bát nghị là : Nghị thân, nghị cố, nghị hiền, nghị năng, nghị công, nghị quí, nghị cần, nghị tân. Xem ở sách Chu-lễ th́ biết rơ. ấm của ông cha mà giảm cho. Những quan viên, quân dân ai có lầm-lỗi, nhỡ ra phạm đến tội lưu trở xuống th́ được cho chuộc. Những người 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống hay là có phế-tật mà phạm tội lưu trở xuống, th́ cũng được cho chuộc. Những người 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống hay là đốc-tật, th́ cứ thứ-tự giảm bớt cho. Những người phạm tội ǵ hay là phạm tội ăn-trộm, ăn-cắp của người ta mà tự ḿnh ra thú nhận trước, th́ được lượng tội mà giảm cho ít nhiều.

Trong nước bấy giờ có nhiều người du-đăng cứ rượu chè cờ bạc, không chịu làm ăn tử-tế, vậy nên đặt ra phép nghiêm để trừng-trị : ai đánh đổ-bác bắt được phải chặt ngón tay mất ba phân; đánh cờ, bắt được phải chặt ngón tay mất một phân; không có việc ǵ quần-tụ nhau để rượu chè, phải đánh 100 trượng, người dung chứa những kẻ ấy cũng phải tội, nhưng mà được giảm đi một bậc.

Sự nghiêm-phạt như thế, th́ có thái-quá thật, v́ là làm tàn-hại đến thân-thể người ta, nhưng mà cũng có công-hiệu, khiến cho trong nước bớt có thứ người cả đời không chịu làm ǵ, chỉ đi đánh lừa người mà kiếm ăn.

4. Việc Cai Trị.

Khi vua Thái-tổ mới ở Nghệ-an ra Đông-đô, th́ đă chia nước ra làm bốn đạo, nay lại đặt thêm một đạo nữa gọi là Hải-tây- đạo, gồm cả Thanh-hóa, Nghệ-an, Tân-b́nh và Thuận-hóa.

Trong các đạo, đạo nào cũng có quan Hành-khiển để giữ sổ-sách về việc quân-dân. C̣n như các xă-thôn th́ cứ xă nào có hơn 100 người trở lên, gọi là đại xă, đặt ba người xă quan; xă nào có 50 người trở lên, gọi là trung xă, đặt hai xă quan; xă nào có 10 người trở lên gọi là tiểu xă, đặt một người xă quan để coi việc trong xă.

5. Phép Quân Điền.

Bấy giờ thường những người không có công-lao ǵ với nhà-nước th́ lắm ruộng nhiều nương, mà những kẻ phải đánh đông dẹp bắc lao-lung khổ-sở, lúc về một tấc đất cũng không có. V́ thế cho nên vua Thái-tổ định ra phép quân-điền

để lấy công điền, công thổ mà chia cho mọi người, từ quan đại-thần cho đến những người già yếu cô quả, ai cũng có một phần ruộng, khiến cho sự giàu nghèo ở trong nước khỏi chênh-lệch lắm.

6. Việc Binh Lính.

Khi giặc Minh hăy c̣n ở nước Nam, th́ phải cần có nhiều quân binh, cho nên lúc quân An-nam ta mới ra Đông-đô, cả thảy được 25 vạn, sau lấy được Đông-đô rồi cho 15 vạn về làm ăn, chỉ để lại 10 vạn để pḥng-vệ mà thôi, nay lại chia quân ra làm 5 phiên, một phiên ở lại lưu ban c̣n bốn phiên cho về làm ruộng, cứ lần lượt thay đổi nhau mà về.

7. Công Thần Bị Giết.

Vua Thái-tổ vẫn là một ông vua anh tài, đánh đuổi được giặc Minh, mà lại sửa-sang được nhiều công-việc ích-lợi cho nước, nhưng khi ngài lên làm vua rồi, có tính hay nghi-ngờ, chém giết những người công-thần như ông Trần nguyên Hăn và ông Phạm văn Xảo. Hai ông ấy giúp ngài đă có công to, về sau chỉ v́ sự gièm-pha mà đều phải chết oan cả.

Nghĩ mà buồn thay cho mấy người công-thần đời xưa, chỉ lầm về hai chữ công danh, mà đem tấm ḷng son sắt đi phù-tá quân-vương trong lúc nguy-nan, mong được chút hiển-vinh để cho thỏa cái chí trượng-phu ở đời. Ngờ đâu : Chim bay đă hết, cung tốt cất đi, thỏ nhanh chết rồi, chó săn phải giết; đến khi công việc xong rồi, th́ không những là một thân ḿnh cũng không được trọn vẹn mà cả họ-hàng thường cũng phải vạ lây. Thế mới biết chỉ có ôn Trương tử Pḥng nhà Hán là người kiến cơ hơn cả !

Vua Thái-tổ làm vua được 6 năm th́ mất, thọ được 49 tuổi.

II. Lê Thái Tông ( 1434 - 1442 )

Niên-hiệu: Thiệu B́nh ( 1434 - 1442 )

Đại Bảo ( 1440 - 1442 )

Khi vua Thái-tông lên làm vua th́ ngài mới có 11 tuổi, cho nên công- việc ǵ cũng ở quan Phụ-chính là Lê Sát quyết định hết cả.

Lê Sát là một người ít học nhưng v́ trước theo vua Thái-tổ lập được công to, quan làm đến Đại-tư-đồ. Nay làm Phụ-chính, thường hay cậy quyền, trái phép, làm nhiều điều kiêu-hănh, hễ triều-thần ai là người không ṭng-phục th́ t́m cách làm hại.

Vua Thái-tông tuy c̣n trẻ tuổi nhưng vốn có tính thông-minh, làm vua được ít lâu th́ ra thân chính lấy, rồi giết Lê Sát đi để thu lấy quyền. Song cũng v́ ít tuổi mà lại không có người phù-tá, cho nên sau thành say- đắm tửu sắc làm lắm điều không được chính-đính.

Đời Thái-tông làm vua th́ trong nước phải mấy năm đại hạn, nước lụt và hoàng-trùng làm hại mùa-màng, dân phải đói khổ. ở mạn mường- mán lại có đôi ba đám giặc nổi lên làm loạn, có khi vua phải thân chinh đi đánh, có khi chỉ sai quan đi tiểu-trừ, cũng dẹp yên được. C̣n việc giao- thiệp với những nước lân-bang, như Tiêm-la (Thái-lan), Chiêm-thành, Ai-lao th́ những nước ấy đều có sứ thần đi lại và thường có tiến cống cả.

Ở trong th́ chỉnh-đốn việc thi-cử lại. Lệ cứ 5 năm một lần thi hương, 6 năm một lần thi hội. Phép thi th́ kỳ đệ-nhất làm một bài kinh- nghĩa, bốn bài tứ-thư nghĩa, mỗi bài phải 300 chữ trở lên; kỳ đệ-nhị th́ làm bài chiếu, bài chế và bài biểu; kỳ đệ-tam làm bài thi phú; kỳ đệ-tứ th́ làm một bài văn sách phải 1.000 chữ trở lên.

Đến năm nhâm-tuất (1442) mở khoa thi tiến-sĩ, bao nhiêu những người thi đỗ đều được khắc tên vào bia đá để phấn-chấn ḷng người văn- học. Các tiến-sĩ được khắc tên vào bia ở Văn-miếu khởi đầu từ đấy.

Những cách-thức tiêu-dùng tiền và lụa vải ở trong nước cũng định lại cả; cứ 60 đồng là một tiền; lụa th́ cứ dài 30 thước, rộng 1 thước 5 tấc trở lên là một tấm; giấy th́ 100 tờ làm một tập.

Tháng bảy năm nhâm-tuất (1442), Thái-tông đi duyệt binh ở huyện Chí-linh. Bấy giờ ông Nguyễn Trăi đă về trí sĩ ở trại Côn-sơn, thuộc huyện Chí-linh. Khi vua đi qua đó có vào thăm, và thấy người hầu ông ấy là Nguyễn thị Lộ có tài sắc, bèn bắt theo hầu. Đi đến huyện Gia-định (nay là huyện Gia-b́nh ở Bắc-ninh) th́ vua mất. Triều-đ́nh đổ tội cho Nguyễn thị Lộ giết vua, bắt ông Nguyễn Trăi làm tội và tru di cả ba họ.

Vua Thái-tông làm vua được 9 năm, thọ được 20 tuổi.

III. Lê Nhân Tông ( 1443 - 1459 )

Niên-hiệu: Đại Ḥa ( 1443 - 1453)

Diên Ninh ( 1454 - 1459 )

Khi vua Thái-tông mất, thái-tử là Băng Cơ mới lên 2 tuổi. Các quan đại-thần là bọn Lê Khả, Nguyễn Xí, lập thái-tử lên làm vua, tức là Nhân-tông, để bà Hoàng-thái-hậu ra nhiếp chính.

Trong mấy năm bà thái-hậu cầm quyền, th́ có mấy việc quan-trọng như là đặt ra 14 điều hộ-luật về việc tư-điền; đổi cách thi để lấy người làm lại, bỏ thi ám-tả và thi kinh-nghĩa, chỉ thi viết và thi tính mà thôi. Lại đào sông B́nh-lỗ [94] ở tỉnh Thái-Nguyên để cho tiện đường vận-tải.

C̣n ở ngoài, th́ vua nước Chiêm-thành là Bí Cai cứ hay sang cướp phá ở đất Hóa-châu. Triều-đ́nh đă mấy phen sai quan vào đánh đuổi, nhưng vẫn không chừa. Đến năm bính-dần (1446) Triều-đ́nh sai Lê Thụ, Lê Khả đem quân sang đánh Chiêm-thành lấy được thành Đồ-bàn, bắt được Bí Cai và cả phi tần đem về để ở Đông-kinh, rồi lập người cháu vua Bồ-đề là Mă-kha-qui-Lai lên làm vua.

Năm mậu-th́n (1448) lại có xứ Bồn-man xin nội thuộc nước ta, đặt làm châu Qui-hợp. Đất Bồn-man phía đông-nam giáp tỉnh Nghệ-an, tỉnh Quảng-b́nh, phía tây-bắc giáp tỉnh Hưng-hóa, tỉnh Thanh-hóa.

Tuy vậy, nhưng v́ bà Thái-hậu hay nghe những lời nói gièm, chém giết các quan cựu-thần như là Lê Khả, Lê khắc Phục, làm cho nhiều người không phục.

Năm quí-dậu (1453), Nhân-tông mới bắt đầu thân chính. Trước hết ngài truy-tặng cho những người công-thần và cấp ruộng quan-điền cho con cháu các ông Lê Sát, Lê Ngân, và Lê khắc Phục.

Lại sai ông Phan phù Tiên làm bộ quốc-sử kể từ vua Thái-tông nhà Trần cho đến khi thuộc nhà Minh, cả thảy là 10 quyển.

Trước các vương-hầu và các quan văn-vũ đều cứ theo phẩm-hàm của ḿnh mà ăn lộc lấy thuế trong 50 hộ hay là 100 hộ. Nay Nhân-tông lại cho thêm tiền tuế-bổng nữa.

Vua Nhân-tông có lẽ cũng nên được một ông vua hiền, nhưng chẳng may ngài có người anh là Lạng-sơn-vương Nghi Dân, trước đă làm Thái-tử, sau v́ người mẹ phải tội cho nên phải bỏ. Đến năm kỷ-măo (1459), Nghi Dân đồng mưu với bọn Lê đắc Ninh, Phạm Đồn, Phan Ban và Trần Lăng, nửa đêm trèo thành vào giết Nhân-tông và Hoàng-thái-hậu, tự xưng làm vua, rồi cho sứ sang Tàu cầu phong.

Nhân-tông trị-v́ được 17 năm, thọ 19 tuổi. [94]

"Khâm-định Việt-sử" chép rằng sông B́nh-lỗ chảy từ Thái-nguyên về đến Phù-lộ, th́ có lẽ sông B́nh-lỗ là sông Cà-lồ chăng? IV. Lê Thánh Tông ( 1460 - 1497 ) Niên-hiệu: Quang Thuận ( 1460 - 1469) Hồng Đức ( 1470 - 1497 )

Nghi Dân cướp ngôi vua được 8 tháng, nhưng v́ tính hay nghe lời dua-nịnh, chém giết kẻ cựu thần, cho nên ḷng người không ai phục, đến tháng sáu năm canh-th́n (1460) các quan đại-thần là bọn Nguyễn Xí, Đinh Liệt mưu chém Phạm Đồn và Phan Ban ở giữa nghị-sự-đường, rồi đóng cữa thành lại vào bắt Nghi Dân giết đi, rước con thứ tư vua Thái-tông là B́nh- nguyên-vương Tư-Thành lên làm vua, tức là vua Thánh-tông.

Thánh-tông là một ông vua thông-minh, thờ mẹ rất có hiếu, ở với bề tôi đăi lấy ḷng thành. Ngài trị-v́ được 38 năm, sửa-sang được nhiều việc chính-trị, mở-mang sự học hành, chỉnh-đốn các việc vũ-bị, đánh dẹp nước Chiêm, nước Lào, mở thêm bờ-cơi, khiến cho nước Nam ta bấy giờ đuợc văn- minh thêm ra và lại lừng-lẫy một phương, kể từ xưa đến nay chưa bao giờ cường-thịnh như vậy.

Thánh-tông lên ngôi rồi phong tước và cấp ruộng quan điền cho các công-thần. Ngài lại truy-tặng những người công-thần bị giết oan ngày trước, và cho t́m con cháu ông Nguyễn Trăi về, cấp cho 100 mẫu ruộng để phụng- thờ tổ-tiên.

Những người mà được quốc-tính, nay ngài cho phục tính lại để cho khỏi mất tên họ.

1. Việc Cai Trị.

Từ trước đến giờ triều-chính vẫn theo lối cũ của nhà Trần : trên th́ có tả hữu Tướng-quốc, rồi đến Lễ-bộ, Lại-bộ, Nội- các-viện, Trung-Thư, Hoàng-Môn, và ba sở Môn-hạ, lại có ngũ-đạo Hành- khiển để coi sổ-sách quân-dân các đạo. Đến khi Nghi Dân cướp ngôi, đặt ra lục Bộ và lục Khoa. Lục Bộ là : Lại-bộ, Hộ-bộ, Lễ-bộ, Binh-bộ, Công-bộ và H́nh-bộ. Lục khoa là : Lại-khoa, Lễ-khoa, Binh-khoa, H́nh-khoa, Hộ-khoa và Công-khoa.

Quan lục bộ th́ có Thượng-thư làm đầu, rồi đến tả hữu Thị-lang, Lang-trung, Viên-ngoại-lang, Tư-vụ.

Thánh-tông đặt thêm ra lục tự là : Đại-lư-tự, Thái-thường-tự, Quang- lộc-tự, Thái-bộc-tự, Hồng-lô-tự, Thượng-bảo-tự. Quan Lục Tự th́ có Tự- khanh, Thiếu-khanh và Tự-thừa.

Ngài lại lập ra quan chế và lễ-nghi theo như bên Tàu. Các quan văn vơ có phần ruộng đất, lại được tiền tuế bổng. Nhưng ai mà làm điều ǵ nhũng-lạm th́ đều phải nghiêm trị.

Ngài lại định lệ trí sĩ, cho các quan nội ngoại : ai làm quan đến 65 tuổi th́ được xin về trí sĩ, c̣n những người làm nha-lại đến 60 tuổi cũng được xin về.

Trước vua Thái-tổ chia ra làm 5 đạo, có phủ, lộ, trấn, châu, huyện, xă. Đạo th́ đặt quan Hành-khiển, Tuyên-phủ chánh phó-sứ; phủ th́ đặt Tri- phủ; lộ th́ đặt An-phủ-sứ; trấn th́ đặt Trấn-phủ-sứ; huyện th́ đặt Chuyển- vận-sứ và Tuần-sát-sứ; xă th́ đặt Xă-quan.

Thánh-tông chia nước ra làm 12 đạo là Thanh-hóa, Nghệ-an, Thuận-hóa, Thiên-trường, Nam-sách, Quốc-oai, Bắc-giang, An-bang, Hưng- hóa, Tuyên-quang, Thái-nguyên, Lạng-sơn. Mỗi đạo có ṭa Đô, ṭa Thừa và ṭa Hiến. Ṭa Đô th́ có chánh phó Đô-tổng-binh, coi về việc binh; ṭa Thừa th́ có Thừa-chính chánh-phó-sứ, coi về việc chính; ṭa Hiến th́ có Hiến-sát chánh-phó-sứ, coi về việc h́nh.

Lại đặt ra chức Giám sát-ngự-sử để đi xem xét công-việc ở các đạo cho khỏi sự nhũng-nhiễu.

Sau nhân có đất Quảng-nam mới lấy của Chiêm-thành lại đặt ra làm 13 xứ là Thanh-hóa, Nghệ-an, Sơn-nam (trước là Thiên-trường), Sơn-tây (trước là Quốc-oai), Kinh-bắc (trước là Bắc-giang), Hải-dương (trước là Nam- sách), Thái-nguyên, Tuyên-quang, Hưng-hóa, Lạng-sơn, An-bang, Thuận- hóa, Quảng-nam. Ở những xứ hiểm-yếu như Nghệ-an, Thuận-hóa, Tuyên- quang, Hưng-hóa, Thái-nguyên, Lạng-sơn, Quảng-nam đều đặt chức Thủ- ngự kinh-lược-sứ để pḥng giữ. Trong 13 xứ ấy lại chia làm 52 phủ, 172 huyện và 50 châu. C̣n ở dưới phủ huyện th́ có hương, phường, xă, thôn, trang, sách, động, nguyên, trưởng cả thảy là 8.006.

2. Việc Thuế Lệ.

Bấy giờ thuế đinh mỗi người đồng niên đóng 8 tiền; c̣n thuế ruộng, thuế đất và thuế đất băi trồng dâu th́ cứ kể mẫu mà đóng thuế, mà thứ đất nào cũng chia ra làm ba hạng.

Việc làm sổ hộ, th́ cứ 6 năm một kỳ, quan phủ huyện phải dẫn các xă-trưởng về Kinh để khai số hộ-khẩu ở các xă.

3. Việc Canh Nông.

Vua Thánh-tông lấy sự nông-tang làm trọng, cho nên ngài chú ư về việc ấy lắm. Thường thường ngài sắc cho phủ huyện phải hết sức khuyên bảo dân làm việc cày ruộng trồng dâu.

Đặt quan Hà-đê và quan Khuyến-nông để coi việc cày cấy trong nước. Bắt quan Hộ-bộ và quan Thừa-chính ở các xứ phải tâu cho ngài biết những đất bỏ hoang để bắt phủ huyện đốc dân phu khai-khẩn làm ruộng.

Lập ra cả thảy 42 sở đồn-điền, đặt quan để trông-nom sự khai-khẩn, khiến cho dân khỏi phải đói-khổ.

4. Nhà Tế Sinh.

Vua Thánh-tông lại lo đến các chứng bệnh làm hại dân. Ngài lập nhà Tế-sinh để nuôi những người đau-yếu, và khi nào ở đâu có dịch tễ th́ sai quan đem thuốc đi chữa bệnh.

5. Việc Sửa Phong Tục. Dân ta bấy giờ sùng-tín đạo Phật, hay làm đ́nh làm chùa. Những lễ hôn và lễ tang th́ làm những điều trái với lẽ thường, như là nhà nào có tang-chế th́ làm cỗ bàn ăn-uống, rồi bày ra các tṛ hát xướng, làm một cuộc vui chơi. Lễ hôn th́ ăn lễ hỏi rồi, để ba bốn năm mới cho rước dâu về nhà chồng.

Thánh-tông cấm không cho làm chùa mới, để tiền của và công-phu mà làm việc có ích. Cấm những nhà có lễ tang không được bày cuộc hát xướng. Việc hôn th́ khi đă nhận lễ hỏi rồi, phải chọn ngày cho rước dâu, và lệ cứ cưới rồi ngày hôm sau đi chào cha mẹ, ba ngày th́ đi lễ từ đường.

Ngài lại đặt ra 24 điều, sức cho dân-xă thường thường giảng đọc để giữ lấy thói tốt :

1. Cha mẹ dạy con phải có phép-tắc, trai gái đều có nghề-nghiệp, không được rượu-chè cờ-bạc, tập nghề hát-xướng để hại phong-tục.

2. Người gia-trưởng tự ḿnh phải giữ lễ-phép để cho cả nhà bắt-chước; nếu con em làm càn, th́ bắt tội người gia trưởng.

3. Vợ chồng cần-kiệm làm ăn, ân-nghĩa trọn-vẹn, duy chỉ có khi nào người vợ phạm tội thất-xuất th́ mới được bỏ, chứ không được khiên ái cẩu dung làm hại đến phong-hóa.

4. Làm kẻ tử-đệ nên yêu-mến anh em, ḥa-thuận với hương-đảng, phải lấy lễ-nghĩa mà cư-xử; nếu trái phép th́ người tôn-trưởng đánh-đập dạy-bảo, có tội to th́ phải đem nộp quan để trừng-trị.

5. ở chốn hương-đảng tông-tộc, có việc hoạn-nạn th́ phải giúp-đỡ lẫn nhau; nếu ai có tiếng là người hạnh-nghĩa tốt, th́ các quan phủ huyện sở tại phải bẩm lên ṭa Thừa, ṭa Hiến, để tâu vua mà tinh biểu cho.

6. Đàn-bà có lỗi mà cha mẹ và chồng đă trừng-trị th́ nên phải sửa ḿnh đổi lổi, không được tự-tiện trốn đi, làm hư mất nết đàn-bà.

7. Người đàn-bà góa không được chứa những đứa trai trẻ ở trong nhà, nói dối là con nuôi để ám hành những việc gian dâm.

8. Người đàn-bà góa chồng, đối với các con vợ cả, hoặc vợ lẽ, nàng hầu, nên có ḷng thương-xót, không được mưu-mô để chiếm đoạt gia-tài làm của riêng ḿnh.

9. Đàn-bà góa chồng, chưa có con-cái, phải ở nhà chồng để giữ đủ tang-lễ, không được chuyển-vận, của-cải mang về nhà ḿnh.

10. Làm đàn-bà th́ phải theo chồng, không được cậy cha mẹ ḿnh phú-quí mà khinh nhà chồng, nếu không như thế th́ bắt tội đến cha mẹ.

11. Kẻ sĩ-phu nên quí phẩm-hạnh và giữ phép quan, nếu cứ xu-nịnh những kẻ quyền quí để cậy thế làm càn th́ phải cách bỏ đi không kể đến nữa.

12. Kẻ điển-lại chỉ việc giữ sổ-sách giấy-má để làm việc quan, nếu làm những sự điên-đảo án từ, th́ quan trên sẽ xét ra mà trừng trị.

13. Quan dân đều phải hiếu-để, và chăm-chỉ làm ruộng, cùng giúp đỡ lẫn nhau; khi đi làm việc quan, không được trễ biếng, trốn-tránh. Nếu ai có tiếng là người lương-thiện th́ các quan phủ huyện phải tŕnh ṭa Thừa, ṭa Hiến để tâu mà tinh biểu cho.

14. Kẻ thương-măi phải tùy thời giá mà buôn-bán với nhau, không được thay đổi thưng đấu, và tụ-tập đồ-đảng để đi trộm-cướp; nếu phạm điều ấy th́ trị tội rất nặng.

15. Việc hôn-giá tế-tự phải giữ lễ-phép, không được làm càn.

16. Chỗ dân-gian có mở trường du-hí hoặc cúng-tế, th́ con-trai con-gái đến xem, không được đứng lẫn lộn, để khỏi thói dâm.

17. Các hàng quán bên đường, có phụ-nữ đi xa đến trọ, th́ phải pḥng giữ. Nếu để hà-hiếp ô-nhục người ta, việc phát-giác ra, th́ người phạm cùng với chủ nhà đều phải trị tội cả.

18. Phủ huyện phải lập bia ở các nơi sở-tại để cấm con-trai con-gái không được cùng tắm một bến, để cho có phân biệt.

19. Các xă-thôn phải chọn một vài người già-cả, đạo-đức làm trưởng, những ngày thong-thả đem dân ra đ́nh, tuyên giảng những lời cáo dụ, để khiến dân bắt-chước làm điều thiện, thành ra mỹ tục.

20. Trong hạt phủ huyện có kẻ cường-hào xâm-chiếm điền-thổ, ức-hiếp cô- độc và xui-giục người ta kiện-tụng, th́ cho xă-thôn cáo giác lên để quan xử- trị, nếu mà ẩn-nặc th́ phải biếm-băi.

21. Các nhà vương, công, đại-thần dung túng những đứa tiểu-nhân, đưa người khấn lễ, và để cho người nhà đi ức-hiếp dân-gian mà mua rẻ các đồ vật, th́ cho dân được đầu cáo để trọng trị.

22. Những người làm quan phủ, huyện mà biết khuyên-bảo dân-gian làm điều lễ-nghĩa khiêm-nhượng, có quan Thừa-chính, Hiến-sát xét thực, th́ được cho vào hạng tốt; nếu ai không chăm dạy-bảo dân th́ cho là người không xứng chức.

23. Các người huynh-trưởng ở chốn xă-thôn và phường biết dạy bảo con em trong làng cho nên được phong-tục tốt, th́ quan phủ huyện phải bẩm ṭa Thừa, ṭa Hiến để tâu vua ban khen cho.

24. Các dân mường-mán ở ngoài bờ-cơi, nên giữ lời di-huấn, không được trái đạo luân-thường như cha, anh, chú, bác đă chết th́ con em không được chiếm lấy những thê-thiếp, nếu mà trái phép, th́ sẽ trị tội rất nặng.

6. Địa Đồ Nước Nam.

Từ xưa đến nay nước Nam ta vẫn không có địa-đồ, Thái-tông bèn sai quan ở các đạo xem xét ở trong hạt ḿnh có những núi sông ǵ, hiểm-trở thế nào phải vẽ địa-đồ ra cho rơ-ràng và chỗ nào tự cổ chí kim có những sự-tích ǵ phải ghi-chép vào cho tường-tận, rồi gửi về bộ Hộ để làm quyển địa-dư nước ta.

7. Đại Việt Sử Kư.

Thánh-tông sai Ngô sĩ Liên làm bộ Đại-Việt sử-kư chia ra làm 2 bản. Một bản kể từ Hồng-bàng-thị cho đến thập-nhị Sứ- quân có 5 quyển. Một bản kể từ Đinh Tiên-hoàng cho đến Lê Thái-tổ có 10 quyển. Cả thảy là 15 quyển.

8. Việc Văn Học.

Vua Thánh-tông định phép thi hương, sửa phép thi hội, để chọn lấy nhân-tài. Thường ngài ra làm chủ các kỳ thi đ́nh, và ngài lập ra lệ xướng danh các Tiến-sĩ và lệ cho về vinh qui.

Ngài mở rộng nhà Thái-học ra. Phía trước th́ làm nhà Văn-miếu, phía sau th́ làm nhà Thái-học, và làm ra các pḥng ốc để cho những kẻ sinh-viên ở học. Làm kho Bí-thư để mà chứa sách. Sự học bấy giờ càng ngày càng mở-mang thêm.

Ngài lại hay ngâm thi, đặt ra Quỳnh-uyển cửu-ca, xưng làm Tao-đàn nguyên-súy, cùng với kẻ triều-thần là bọn ông Thân nhân Trung, Đỗ Nhuận, cả thảy 28 người xướng họa với nhau. Non xanh nước biếc chỗ nào cũng có thơ của ngài.

Ngài sai ông Thân nhân Trung và ông Đỗ Nhuận làm bộ Thiên-nam dư-hạ-tập, 100 quyển nói về việc chính là h́nh-luật đời Hồng-đức. Ngài làm ra một quyển Thân-chinh kư-sự, kể việc ngài đi đánh Chiêm-thành, Lăo-qua và các mường.

9. Việc Vơ Bị.

Tuy rằng vua Thánh-tông hết ḷng sửa-sang mọi việc trong nước, nhưng ngài cũng hiểu rằng phàm một nước mà cường-thịnh th́ tất là phải có vơ-bị, cho nên ngài bắt các quan tổng-binh phải chăm giảng-tập trận-đồ, phải luyện-tập sĩ-tốt để pḥng khi có việc.

Ngài đổi năm Vệ-quân ra làm năm phủ là : Trung-quân phủ, Nam quân-phủ, Bắc-quân phủ, Đông-quân phủ và Tây-quân phủ. Mỗi một phủ th́ có 6 vệ, mỗi vệ có 5 hay là 6 sở, mỗi sở có số quân độ 400 người. Quân cả 5 phủ ước chừng 6, 7 vạn người. Ngài lại đặt ra 31 điều quân lệnh để tập thủy trận; 42 điều để tập bộ trận.

Lại đặt ra lệ cứ ba năm một kỳ thi vơ. Tướng-sĩ ai đậu th́ thưởng, ai hỏng th́ phạt, để khiến mọi người đều vui ḷng về việc vơ-bị.

Đời vua Thánh-tông mấy năm về trước cũng được yên ổn, nhưng mấy năm về sau th́ phải chinh-chiến nhiều lần. Khi th́ phải đánh giặc Lào, khi th́ đánh những giặc cỏ ở trong nước; nhưng chỉ có đánh Chiêm-thành, đánh Lăo-qua và đánh Bồn-man là phải dùng đến đại-binh.

10. Đánh Chiêm Thành.

Năm canh-th́n (1470) là năm Hồng-đức nguyên-niên, vua nước Chiêm-thành là Trà Toàn muốn sinh sự với nước Nam. Một mặt th́ cho người sang cầu viện-binh bên nhà Minh, một mặt th́ đem quân sang đánh phá ở đất Hóa-châu.

Vua Thánh-tông cho sứ sang Tàu kể chuyện Trà Toàn làm nhiễu, rồi ngài tự làm tướng, cử đại-binh hơn 20 vạn sang đánh Chiêm-thành; khi quân vào đến Thuận-hóa, Thánh-tông đóng quân lại để luyện-tập và sai người lẻn sang vẽ địa-đồ nước Chiêm-thành để biết cho rơ chỗ hiểm chỗ không rồi mới tiến binh lên đánh lấy cửa Thị-nại (cửa B́nh-định).

Trà Toàn đánh thua, rút quân về giữ kinh-thành Đồ-bàn. Quân An- Nam kéo đến vây đánh, phá được thành, bắt được Trà Toàn.

Bấy giờ có tướng Chiêm-thành là Bô tŕ Tŕ chạy về đất Phan-lung, sai sứ vào cống và xin xưng thần. Thánh-tông có ư muốn làm cho nước Chiêm yếu thế đi, mới chia đất ra làm ba nước, phong làm ba vua, một nước gọi là Chiêm-thành, một là Hóa-anh và một nước nữa là Nam-phan.

C̣n đất Đồ-bàn, đất Đại-chiêm và đất Cổ-lũy th́ vua Thánh-tông lấy để lập thêm đạo Quảng-nam, có 3 phủ, 9 huyện, rồi đặt quan cai-trị, và chọn dân đinh từ 15 tuổi trở lên, ai là người thông-minh ham học th́ cho làm sinh-đồ, để dạy cho sự học-hành và sự lễ-nghĩa.

Khi Trà Toàn đă phải bắt rồi, em là Trà Toại trốn vào núi, sai người sang kêu với nhà Minh và xin phong làm vua. Thánh-tông biết tin ấy liền sai ông Lê Niệm đem 3 vạn quân vào bắt được Trà Toại giải về kinh-sư. Sau vua nhà Minh có sai sứ sang bảo ngài phải trả đất Chiêm-thành, nhưng ngài không chịu.

Từ khi vua Thánh-tông đánh được Chiêm-thành rồi, thanh-thế nước Nam lừng-lẫy, nước Lào và các mường ở phía tây đều về triều cống cả.

11. Đánh Lăo Qua.

Đến năm kỷ-hợi (1479) có tù-trưởng xứ Bồn-man là Cầm Công có ư làm phản, xui người Lăo-qua [95] đem binh quấy- nhiễu ở miền tây nước ta. Thánh-tông liền sai quan Thái-úy là Lê thọ Vực  [95]

Lăo-qua, là đất thượng Lào ở về phía tây Bắc-Việt bây giờ tức là Luang-Prabang. Có khi gọi là nước Nam-chướng. cùng với các tướng quân là Trịnh công Lộ, Lê đ́nh Ngạn, Lê Lộng và Lê nhân Hiếu chia làm 5 đạo đi từ Nghệ-an, Thanh-hóa và Hưng-hóa sang đánh đuổi vua Lăo-qua đến sông Kim-sa 96 giáp với nước Diến-điện. Trận ấy quân An- nam được toàn thắng.

12. Đánh Bồn Man.

Gây nên sự đánh Lăo-qua là cũng v́ họ Cầm ở Bồn-man muốn làm điều phản-nghịch.

Nguyên đất Bồn-man trước đă xin nội thuộc, đổi làm châu Qui-hợp, nhưng vẫn để cho tù-trưởng là họ Cầm được đời đời làm Phụ-đạo. Sau đổi làm Trấn-ninh phủ, có 7 huyện, và đặt quan phủ huyện để giám-trị. Nay Cầm Công cậy có người Lăo-qua giúp-đỡ, bèn đuổi quân An-nam đi, chiếm lấy đất, rồi đem quân chống giữ với quan quân.

Thánh-tông bèn ngự giá thân-chinh, nhưng đi đến Phù-liệt, được tin thắng trận của quân ta sang đánh Lăo-qua, ngài trở về, sai ông Lê Niệm đem binh đi đánh. Cầm Công đánh thua chết, c̣n những người Bồn-man xin hàng.

Thánh-tông phong cho người họ Cầm Công là Cầm Đông làm Tuyên- úy-đại-sứ và đặt quan cai-trị như trước.

13. Việc Giao Thiệp Với Tàu.

Nước ta bấy giờ tuy phải theo lệ xưng thần với nhà Minh, nhưng vua Thánh-tông vẫn hết ḷng pḥng- bị mặt bắc. Thỉnh-thoảng có những người thổ-dân sang quấy-nhiễu, th́ lập tức cho quan quân lên tiễu-trừ và cho sứ sang Tàu để phân-giải mọi sự cho minh-bạch. Có một hôm được tin rằng người nhà Minh đem binh đi qua địa- giới, Thánh-tông liền cho người lên do-thám thực hư. Ngài bảo với triều- thần rằng : "Ta phải giữ-ǵn cho cẩn-thận, đừng để cho ai lấy mất một phân núi, một tấc sông của vua Thái-tổ để lại."

Ngài có ḷng v́ nước như thế, cho nên dẫu nước Tàu có ư muốn ḍm-ngó cũng không dám làm ǵ. Vả lại quân An-nam bấy giờ đi đánh Lào, dẹp Chiêm, thanh-thế bao nhiêu, nhà Minh cũng phải lấy lễ-nghĩa mà đăi An-nam, cho nên sự giao-thiệp của hai nước vẫn được ḥa-b́nh.

Xem những công việc của vua Thánh-tông th́ ngài thật là một đấng anh-quân. Những sự văn-trị và sự vơ-công ở nước Nam ta không có đời nào thịnh hơn là đời Hồng-đức. Nhờ có vua Thái-tổ th́ giang-sơn nước Nam mới  [96]

Theo địa-dư nước Tàu, th́ Kim-sa-giang là khúc trên sông Trưng-giang. Sông ấy chảy ở phía bắc qua tỉnh Tây-khương và Tứ-xuyên. Đây có lẽ là nhà chép sử lẫn với khúc sông Lan-thương- giang là khúc trên Cửu-long-giang c̣n, và nhờ có vua Thánh-tông th́ văn-hóa nước ta mới thịnh, vậy nên người An-nam ta không bao giờ quên công đức hai ông vua ấy.

Thánh-tông làm vua được 38 năm thọ được 56 tuổi.

V. Lê Hiến Tông ( 1497 - 1504 )

Niên-hiệu: Cảnh Thống

Thái-tử là Tăng lên nối ngôi làm vua, tức là vua Hiến-tông.

Ngài là một ông vua thông-minh ḥa-hậu. Thường khi băi triều rồi, ngài ra ngồi nói chuyện với các quan, hễ ai có điều ǵ trái phải, ngài lấy lời êm-ái mà nhủ-bảo, chứ không gắt mắng bao giờ. Ngài vẫn hay nói rằng : "Vua Thái-tổ đă gây-dựng cơ-đồ, vua Thánh-tông đă sửa-sang mọi việc, ta nay chỉ nên lo ǵn-giữ nếp cũ, và mở-mang sự nhân-chính ra cho sáng rơ công-đức của ông cha trước."

Ngài theo cái chủ-ư ấy mà trị dân, cho nên trong mấy năm ngài làm vua không có giặc-giă ǵ, mà những việc chính-trị đều theo như đời Hồng- đức, chứ không thay-đổi ǵ cả. Nhất là về việc cày ruộng trồng dâu, ngài lưu tâm khuyên-nhủ quan dân, khiến mọi người phải hết sức giữ-ǵn, bắt đào sông, khai ng̣i, đắp đường, làm xe nước, để cho tiện việc vệ nông. Việc văn-học cũng vậy, không bao giờ ngài để trể-nải. Nhưng ngài trị-v́ được có 7 năm th́ mất, thọ được 44 tuổi.

VI. Lê Túc Tông ( 1504 ) và Lê Uy Mục ( 1505 - 1509 )

Niên-hiệu: Thái Trinh và Đoan Khánh

Hiến-tông mất, truyền ngôi lại cho người con thứ ba tên là Thuần, tức là vua Túc-tông.

Túc-tông làm vua được 6 tháng th́ mất. Triều-đ́nh tôn người anh thứ hai của ngài là Tuấn lên làm vua, tức là vua Uy-mục.

Từ vua Uy-mục trở đi th́ cơ-nghiệp nhà Lê mỗi ngày một suy dần, v́ rằng từ đó về sau không có ông vua nào làm được việc nhân-chính, và lại thường hay say-đắm tửu sắc, làm những điều tàn-ác, cho nên thành ra sự giặc-giă, thoán-doạt, đến nỗi về sau dẫu có trung-hưng lên được, nhưng quyền chính-trị vẫn về tay kẻ cường-thần.

Vua Uy-mục mới lên làm vua th́ giết tổ-mẫu là bà Thái-hoàng Thái- hậu, giết quan Lễ-bộ Thượng-thư là ông Đàm văn Lễ và quan Đô-ngự-sử là ông Nguyễn quang Bật, v́ lẽ rằng khi vua Hiến-tông mất, bà Thái-hậu và hai ông ấy có ư không chịu lập ngài.

Đă làm điều bạo-ngược, lại say đắm tửu-sắc; đêm nào cũng cùng với cung-nhân uống rượu, rồi đến khi say th́ giết đi. Có khi bắt quân sĩ lấy gậy đánh nhau để làm tṛ chơi. Tính đă hung-ác, mà lại hay phản-trắc. Cho nên sứ Tàu sang làm thơ gọi Uy-mục là Quỉ-vương .

Bấy giờ Uy-mục lại hay tin dùng mấy kẻ ngoại-thích và t́m những người có sức mạnh để làm túc-vệ. Bởi thế cho nên Mạc đăng Dung là người đánh cá vào thi đỗ đô-lực-sĩ, được làm chức Đô-chỉ-huy-sứ. C̣n những tôn- thất và công-thần th́ bị đánh-đuổi, dân sự th́ bị hà-hiếp, ḷng người ta-oán, thiên-hạ mất cả trông-cậy, triều-thần có nhiều người bỏ quan trốn đi.

Tháng chạp năm kỷ-tị (1509) có Giản-tu-công tên là Oanh cháu vua Thánh-tông, là anh em con chú con bác với ngài, bị bắt giam. Ông đút tiền cho người canh ngục mới được ra, trốn về Tây-đô, rồi hội với các quan cựu- thần đem binh ra đánh bắt vua Uy-mục và Hoàng-hậu Trần-thị giết đi.

VII. Lê Tương Dực ( 1510 - 1516 )

Niên-hiệu: Hồng Thuận

Giản-tu-công giết vua Uy-mục rồi tự lập làm vua, tức là vua Tương- dực.

Vua Tương-dực tính hay chơi-bời và xa-xỉ, như là sai người thợ tên là Vũ như Tô làm cái điện 100 nóc, xây cái Cửu-trùng-đài, bắt quân dân làm trong mấy năm trời không xong, mà thật là hao-tổn tiền-của, chết hại nhiều người. Rồi lại đóng chiến-thuyền bắt đàn-bà chèo chơi ở hồ Tây. Lại tư- thông cả với những cung-nhân đời tiền triều. V́ hoang dâm như thế cho nên sứ nhà Minh sang trông thấy ngài, bảo rằng ngài là tướng lợn,

sự loạn-vong chắc là sắp tới vậy.

1. Việc Thuế Má.

Việc thuế-má lúc bấy giờ th́ đại-khái cũng như mấy triều trước, nhưng không biết rơ tiền-tài sản-vật đồng-niên thu được những ǵ. Đến đời vua Tương-dực thấy sử chép rằng trước th́ thuế vàng thuế bạc đồng niên thu được :

Vàng mười, thứ tốt gọi là "kiêm-kim".. 480 lượng Vàng mười

2.883 lượng Bạc

4.930 lượng Nay vua Tương-dực định lệ đổi lại mỗi năm thu được : Vàng mười thứ "kiêm-kim"

449 lượng Vàng mười

2.901 lượng Bạc

6.125 lượng Những vàng bạc ấy là nộp vào kho để chi vua tiêu-dùng. C̣n cách thu-nộp thế nào th́ không rơ.

2. Đại Việt Thông Giám.

Đời bấy giờ có quan Binh-bộ Thượng-thư là ông Vũ Quỳnh làm xong bộ Đại-Việt thông-giám; chia ra từ họ Hồng-Bàng cho đến thập-nhị Sứ-quân làm ngoại-kỷ, c̣n từ Đinh Tiên- hoàng đến Lê Thái-tổ làm bản-kỷ, cả thảy là 26 quyển. Vua sai ông Lê Tung soạn bài tổng-luận về bộ sử ấy.

3. Sự Biến Loạn.

Thời bấy giờ vua th́ hoang chơi, triều-thần th́ tuy là có bọn ông Nguyễn văn Lang, ông Lê Tung, ông Lương đắc Bằng, v.v... nhưng người th́ già chết, người th́ xin thôi quan về. Vả cũng không có ai là người có thể ngăn giữ được vua và kinh-doanh được việc nước, cho nên trong nước giặc-giă nổi lên khắp cả mọi nơi. ở đất Kinh-bắc th́ có Thân duy Nhạc, Ngô văn Tổng, làm loạn ở huyện Đông-ngạn và huyện Gia-lâm; đất Sơn-tây th́ có Trần Tuân đánh phá. Lại có tên Phùng Chương làm giặc ở núi Tam-đảo; Trần công Ninh chống giữ ở huyện An-lăng. Đất Nghệ-an th́ có Lê Hy, Trịnh Hưng, Lê văn Triệt làm phản. Lại ở huyện Thủy-đường (Hải- dương) có Trần Cao thấy sấm nói rằng ở phương đông có thiên-tử khí,

bèn cùng với đồ-đảng đánh lấy đất Hải-dương, Thủy-đường, Đông-triều, rồi tự xưng là vua Đế-thích giáng sinh, bởi thế thiên-hạ theo có hàng vạn người.

Trần Cao đem quân về đóng ở đất Bồ-đề, bên kia sông Nhị-hà, chực sang lấy Kinh-đô. Sau quan quân sang đánh, Trần Cao lui về đóng ở Châu- sơn, thuộc phủ Từ-sơn. Vua sai An-ḥa-hầu là Nguyễn hoằng Dụ sang đóng quân ở Bồ-đề để chống giữ.

Tuy trong nước giặc cướp như thế, nhưng vua cũng không chịu sửa- sang việc ǵ cả, lại khinh-dể các quan triều-thần. Bấy giờ có Nguyên-quận- công là Trịnh duy Sản, trước vẫn có công đi đánh giặc, nhưng sau v́ hay can vua mà phải đánh. Trịnh duy Sản tức giận bèn mưu với Lê quảng Độ và Tŕnh chí Sâm để lập vua khác, rồi giả mượn tiếng đi đánh giặc, đêm đem binh vào cửa Bắc-thần giết vua Tương-dực.

Ngài trị-v́ được 8 năm, thọ được 24 tuổi.

VIII. Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng ( 1516 - 1527 )

Niên-hiệu: Quang Thiệu ( 1516 - 1526 )

Thống Nguyên ( 1527 )

Bọn Trịnh duy Sản giết vua Tương-dực rồi, hội triều-đ́nh lại định lập con Mục-ư-vương là Quang Trị, mới có 8 tuổi, nhưng Vơ-tá-hầu là Phùng Mại bàn nên lập cháu ba đời vua Thánh-tông là con Cẩm-giang-vương tên là Y, đă 14 tuổi. Đảng Trịnh duy Sản bắt Phùng Mại chém ngay ở chỗ nghị-sự, rồi lập Quang Trị. Quang Trị mới làm vua được ba ngày, chưa kịp đổi niên-hiệu th́ bị Trịnh duy Đại là anh Trịnh duy Sản đem vào Tây-kinh. Quang Trị vào đấy được mấy ngày lại bị giết.

Lúc trong triều c̣n đang rối loạn, chưa biết ai là vua th́ Nguyễn hoằng Dụ ở bến Bồ-đề được tin Trịnh duy Sản đă giết vua Tương-dực, bèn đem quân về đốt phá Kinh-thành và bắt Vũ như Tô, là người đốc việc làm đền-đài cho vua Tương-dực, đem chém ở ngoài thành.

Bọn Trịnh duy Sản lại lập con Cẩm-giang-vương là Y lên làm vua, tức là vua Chiêu-tông.

Nhưng bây giờ Kinh-thành đă bị tàn-phá rồi, Trịnh duy Sản phải rước vua vào Tây-kinh.

1. Giặc Trần Cao Quấy Nhiễu ở Đông Đô.

Giặc Trần Cao thấy Triều-đ́nh đă bỏ kinh-đô, bèn đem quân sang chiếm lấy, rồi tiếm hiệu làm vua.

Triều-đ́nh vào đến Tây-kinh, truyền hịch đi các nơi lấy binh ra đánh Trần Cao.

Trịnh duy Sản, Nguyễn hoằng Dụ, Trịnh Tuy, Trần Chân và các quan cựu thần phân binh ra vây Đông-kinh. Trần Cao phải bỏ thành chạy lên đất Lạng-nguyên (có lẽ là Lạng-sơn).

Triều-đ́nh lại về Đông-kinh, rồi sai Trịnh duy Sản lên Lạng-nguyên đuổi đánh Trần Cao. Trịnh duy Sản khinh địch quá, bị giặc giết mất. Quan giặc lại về đóng ở Bồ-đề. Vua sai Thiết-sơn-bá là Trần Chân đem quân đánh tập hậu, phá được quân của giặc.

Trần Cao lại chạy về Lạng-nguyên, và thấy sự-nghiệp không thành, bèn nhường quyền lại cho con là Thăng rồi cắt tóc đi tu để trốn cho khỏi nạn.

2. Quan Trong Triều Làm Loạn.

Tuy giặc Trần Cao đă phá được, nhưng mà lúc bấy giờ vua Chiêu-tông hăy c̣n trẻ tuổi, chưa quyết-đoán được, mà Triều-thần th́ không có ai là người có chí giúp nước, đến nỗi ngoài th́ giặc làm loạn, trong th́ các quan sinh ra hiềm-thù, đem quân đánh lẫn nhau, như là Nguyễn hoằng Dụ và Trịnh Tuy, hai người đi đánh giặc về rồi mỗi người đóng quân một nơi để chống-cự với nhau, vua can ngăn cũng không được.

ở trong triều th́ bọn Trịnh duy Đại mưu sự làm phản, bị người tố cáo ra, phải giết cả đảng.

Bọn Nguyễn hoằng Dụ và Trịnh Tuy cứ đánh nhau măi, sau Trần Chân bênh Trịnh Tuy đem quân đánh Nguyễn hoằng Dụ. Nguyễn hoằng Dụ bỏ chạy về giữ Thanh-hóa.

Vua sai bọn Mạc đăng Dung đi đánh Nguyễn hoằng Dụ. Nhưng Đăng Dung tiếp được thư của Hoằng Dụ viết riêng cho ḿnh, bèn không đánh, đem quân trở về.

Bấy giờ quyền-bính về cả Trần Chân và lại có người nói rằng Trần Chân có ư làm phản, vua bèn cho người vời Trần Chân vào thành rồi đóng cửa thành lại, bắt giết đi.

Bộ tướng của Trần Chân là bọn Hoàng duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng nghe tin Trần Chân phải giết, bèn đem quân vào đánh phá kinh-thành. Vua phải chạy sang lánh ḿnh ở đất Gia-lâm, rồi cho người vào Thanh-hóa vời Nguyễn hoằng Dụ ra đánh giặc. Nguyễn hoằng Dụ không ra.

Chiêu-tông không biết mong cậy vào ai được, phải cho người sang Hải-dương vời Mạc Đăng Dung về giúp. Mối thoán-đoạt gây nên từ đó.

Nguyên Mạc đăng Dung là cháu 7 đời ông Mạc đĩnh Chi, ngày trước vốn ở làng Đông-cao, huyện B́nh-hà (thuộc Hải-dương), sau dời sang ở làng Cổ-chai (thuộc huyện Nghi-dương, tỉnh Kiến-an bây giờ). Mạc đăng Dung thủa trẻ nhà nghèo, làm nghề đánh cá, nhưng có sức mạnh, thi đỗ Đô-lực-sĩ, làm đến Đô-chỉ-huy-sứ về triều vua Uy-mục; đến triều vua Tương-dực được phong là Vũ-xuyên-hầu.

Nay vua Chiêu-tông gọi sang, nhất thiết trao cả binh quyền để đánh giặc Hoàng duy Nhạc.

Mạc đăng Dung đem vua về ở Bồ-đề rồi cho người mật dụ bọn Nguyễn Kính, Nguyễn Áng về hàng. Bọn ấy nói rằng Trần Chân bị giết là tại Chử Khải, Trịnh Hựu, Ngô Bính gièm-pha. Nếu nhà vua làm tội ba người ấy th́ xin về hàng.

Vua bắt ba người đem giết đi, nhưng bọn tên Kính tên Áng vẫn không giải binh. Mạc đăng Dung lại dời vua về Bảo-châu (thuộc huyện Từ- liêm). Thế giặc vẫn mạnh, rồi lại có Trịnh Tuy và Nguyễn Sư làm phản, thông với bọn tên Kính lập Lê Do lên làm vua, đóng hành-điện ở Từ-liêm.

Vua lại phải cho người vào gọi Nguyễn hoằng Dụ lần nữa. Nguyễn hoằng Dụ đem binh Thanh-hóa ra để cùng với Mạc đăng Dung đi đánh giặc. Nhưng Hoằng Dụ xuất binh đánh trước, bại trận, phải rút quân về Thanh.

Được ít lâu Mạc đăng Dung trừ được bọn Lê Do, Trịnh Tuy và Nguyễn Sư, rồi lại hàng được bọn Hoàng duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng đem về làm vây-cánh của ḿnh. Từ đó quyền bính về cả Đăng Dung.

3. Mạc Đăng Dung Chuyên Quyền.

Mạc đăng Dung bây giờ quyền-thế hống-hách, ra vào cung cấm tiếm dụng nghi-vệ thiên-tử. Các quan ai có v́ nhà vua mà can-gián điều ǵ, th́ Đăng Dung t́m cách giết đi. Các quan triều-thần có nhiều người thấy quyền lớn về cả họ Mạc, cũng bỏ vua mà theo pḥ Mạc đăng Dung.

Vua Chiêu-tông thấy vậy, mới mưu ngầm với bọn nội thần là Phạm Hiến và Phạm Thứ để đánh Mạc đăng Dung, lại cho người vào Tây-kinh vời Trịnh Tuy đem binh ra làm ngoại ứng. Đêm đến canh hai vua chạy lên Sơn- tây để thu-xếp binh-mă đánh họ Mạc.

Sáng hôm sau Mạc đăng Dung mới biết vua xuất ngoại, liền sai Hoàng duy Nhạc đem quân đuổi theo, đến Thạch-thất, Duy Nhạc bị quân sở- tại bắt được giết đi.

Mạc đăng Dung cùng với các quan ở trong triều lập Hoàng-đệ là Xuân lên làm vua, tức là Cung-hoàng, đổi niên-hiệu là Thống-nguyên. Nhưng ở kinh-thành sợ vua Chiêu-tông viện quân về đánh, cho nên Mạc đăng Dung rước Hoàng-đệ Xuân về ở đất Gia-phúc, nay là Gia-lộc thuộc tỉnh Hải-dương.

Khi vua Chiêu-tông chạy lên Sơn-tây, những người hào-kiệt ở các nơi theo về cũng nhiều, nhưng v́ vua nghe lời những kẻ hoạn-quan là bọn Phạm Điền, không theo lời bàn của các tướng, cho nên ḷng người ly-tán, mọi việc hỏng cả. Vua cho người vào Thanh-hóa vời Trịnh Tuy ba bốn lần, Trịnh Tuy do-dự măi không ra. Sau Trịnh Tuy cùng với Trịnh duy Tuấn đem hơn một vạn quân ra giúp, th́ vua lại nghe lời bọn Phạm Điền bắt Nguyễn bá Kỷ là thuộc tướng của Trịnh Tuy đem giết đi. Trịnh Tuy tức giận đem quân bắt vua Chiêu-tông về Thanh-hóa.

Năm giáp-thân (1524) Mạc đăng Dung đem quân vào đánh Thanh- hóa, Trịnh Tuy thua trận rồi chết, vua Chiêu-tông bị bắt đem về để ở Đông- hà (thuộc huyện Thọ-xương), rồi cho người đến giết đi.

Vua Chiêu-tông làm vua được 11 năm, thọ 26 tuổi.

Cách hai năm sau là năm đinh-hợi (1527), Mạc đăng Dung bắt các quan nhà Lê thảo bài chiếu truyền ngôi cho nhà Mạc.

Cung-hoàng và bà Hoàng-thái-hậu đều bị giết cả. Bấy giờ triều-thần có Vũ Duệ, Ngô Hoán, quan Đô-ngự-sử là Nguyễn văn Vận, quan Hàn-lâm hiệu-lư là Nguyễn thái Bạt, quan Lễ-bộ thượng-thư là Lê tuấn Mậu, quan Lại- bộ thượng-thư là Đàm thận Huy, quan Tham-chính-sứ là Nguyễn duy Tường, quan Quan-sát-sứ là Nguyễn tự Cường, tước B́nh-hồ-bá là Nghiêm bá Kư, quan Đô-ngự-sử là Lại kim Bảng, quan Hộ-bộ thượng-thư là Nguyễn thiệu Tri, quan Phó Đô-ngự-sử là Nguyễn hữu Nghiêm, quan Lễ-bộ tả Thị-Lang là Lê vô Cương đều là người khoa-giáp cả, người th́ nhổ vào mặt Mạc đăng Dung hay là lấy nghiên mực đập vào mặt, hay chửi mắng, bị Đăng Dung giết đi. Có người th́ theo vua không kịp, nhảy xuống sông mà chết, người th́ quay đầu về Lam-sơn lạy rồi tự-tử. Những người ấy đều là người có nghĩa- khí để tiếng thơm về sau.

Nhà Lê, kể từ vua Thái-tổ cho đến vua Cung-hoàng vừa một trăm năm (1428-1527), được 10 ông vua. Nhưng trong bấy nhiêu ông, trừ vua Thái-tổ ra, th́ chỉ có vua Thánh-tông và vua Hiến-tông là đă lớn tuổi mới lên ngôi, c̣n th́ ông nào lên làm vua cũng c̣n trẻ tuổi cả. V́ thế cho nên việc triều-chính mỗi ngày một suy-kém, lại có những ông vua hoang-dâm, làm lắm điều tàn-bạo để đến nổi trong nước xảy ra nhiều sự biến loạn.

Vậy vận nhà Lê phải lúc trung-suy, nhưng công-đức vua Thái-tổ và vua Thánh-tông làm cho ḷng người không quên nhà Lê, cho nên dầu nhà Mạc có cướp ngôi cũng không được lâu bền, và về sau họ Trịnh tuy có chuyên-quyền nhưng cũng chỉ giữ ngôi chúa, chứ không dám cướp ngôi vua.

 

 

 

CHƯƠNG XIII Thuộc Nhà Minh

( 1414 - 1427 )

 

1. Việc chính trị nhà Minh 2. Việc tế tự 3. Cách ăn mặc 4. Sự học hành 5. Việc trạm dịch 6. Việc binh lính 7. Phép hộ thiếp và hoàng sách 8. Việc thuế má 9. Việc sưu dịch 10. Quan lại

1. Việc Chính Trị Nhà Minh.

Trương Phụ lấy được châu Thuận Hóa và châu Tân B́nh rồi, làm sổ biên số dân đinh ở hai châu ấy, đặt quan cai trị và để quân binh ở lại pḥng giữ chỗ giáp giới nước Chiêm Thành. Đến htáng 8 năm giáp ngọ (1414) Trương Phụ và Mộc Thạnh về Tàu, đem những đàn bà con gái về rất nhiều.

Bọn Hoàng Phúc ở lại sửa sang các việc trong nước để khiến cho người An Nam đồng hóa với người Tàu. Lập ra đền miếu, bắt người ḿnh cúng tế theo tục bên Tàu, rồi từ cách ăn mặc cho chí sự học hành, việc ǵ cũng bắt theo như người Tàu cả. C̣n cái ǵ là di tích của nước ḿnh như là sách vở th́ thu nhặt đem về Tàu hết sạch. Lại đặt ra thuế lệ, bổ thêm sưu dịch để lấy tiền của, làm cho dân ta bấy giờ phải nhiều điều khổ nhục

2. Việc Tế Tự.

Hoàng Phúc bắt các phủ, châu, huyện phải lập văn miếu và lập bàn thờ bách thần, xă tắc, sơn xuyên, phong vân để bốn mùa tế tự.

3. Cách Ăn Mặc.

Bắt con trai con gái không được cắt tóc, đàn bà con gái th́ phải mặt áo ngắn quần dài theo như người Tàu cả.

4. Sự Học Hành.

Quan nhà Minh bắt mở nhà học ở các phủ, châu, huyện, rồi chọn những thầy âm dương, thầy thuốc, thầy chùa, đạo sĩ, ai giỏi nghề ǵ th́ làm cho quan để dạy nghề ấy.

Vua nhà Minh lại xuống chỉ truyền lấy Ngũ Kinh, Tứ Thư và bộ Tính Lư Đại Toàn, sai quan đưa sang ban cấp cho người An Nam học ở các châu huyện, rồi lại sai thầy tăng và đạo sĩ ở Tăng Đạo Ti 73 , đi truyền giảng đạo Phật và đạo Lăo. C̣n bao nhiêu sách vở của nước Nam, từ nhà Trần về trước th́ thu lấy cả rồi đem về Kim Lăng.

Cứ theo sách Lịch Triều Hiến Chương Văn Tịch Chí của ông Phan Huy Chú th́ những sách của nước Nam mà Tàu lấy về là những sách này:

- H́nh Thư, của vua Thái Tông nhà Lư

3 quyển. - Quốc Triều Thông Lễ, của vua Thái Tông nhà Trần 10 quyển - H́nh Luật, của vua Thái Tông nhà Trần 1 quyển - Thường Lễ, niên hiệu Kiến Trung

10 quyển - Khóa Hư Tập

1 quyển - Ngự Thi

1 quyển - Di Hậu Lục, của vua Thái Tông nhà Trần 2 quyển - Cơ Cầu Lục

1 quyển - Thi Tập

1 quyển - Trung Hưng Thực Lục, của Trần Nhân Tông

2 quyển - Thi Tập

1 quyển - Thủy Vân Tùy Bút, của Trần Anh Tông

2 quyển - Thi Tập, của Trần Minh Tông

1 quyển - Trần Triều Đại Điển, của Trần Dụ Tông 2 quyển - Bảo Ḥa Điện Dư Bút, của Trần Nghệ Tông

8 quyển - Thi Tập

1 quyển - Binh Gia Yếu Lược, của Trần Hưng Đạo 1 bộ - Vạn Kiếp Bí Truyền, của Trần Hưng Đạo 1 bộ - Tứ Thư Thuyết Ước, của Chu Văn Trinh 1 bộ - Tiều Ẩn Thi

1 tập - Sầm Lâu Tập, của Uy Văn Vương Trần Quốc Toại 1 quyển - Lạc Đạo Tập, của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải 1 quyển - Băng Hồ Ngọc Hác Tập, của Trần Nguyên Đán 1 quyển - Giới Hiên Thi Tập, của Nguyễn Trung Ngạn 1 quyển - Giáp Thạch Tập, của Phạm Sư Mạnh

1 quyển - Cúc Đường Di Thảo, của Trần Nguyên Đào 2 quyển  73

Nhà Minh bấy giờ không những là mở mang Nho Học mà thôi, lại lập ra Tăng Cương Ti và Đạo Kỳ Ti để coi những việc thuộc về Đạo Phật và Đạo Lăo. - Thảo Nhàn Hiệu Tần, của Hồ Tôn Vụ

1 quyển - Việt Nam Thế Chí

1 bộ - Việt Sử Cương Mục

1 bộ - Đại Việt Sử Kư, của Lê Văn Hưu 30 quyển - Nhị Khê Thi Tập, của Nguyễn Phi Khanh

1 quyển - Phi Sa Tập, của Hàn Thuyên

1 quyển - Việt Điện U Linh Tập, của Lư Tế Xuyên

1 quyển

Những sách ấy bây giờ không biết mất đâu cả, không thấy quyển nào nữa, thật là một cái thiệt hại cho người nước ḿnh.

C̣n những người đi học, ở các phủ, châu, huyện, trước th́ ở phủ mỗi năm 2 người, ở châu 2 năm 3 người, ở huyện mỗi năm 1 người, sau cải lại ở phủ mỗi năm 1 người, ở châu 3 năm 2 người, ở huyện 2 năm 1 người, được làm học tṛ tuế cống cho vào học Quốc Tử Giám, rồi bổ đi làm quan.

5. Việc Trạm Dịch.

Từ thành Đông Quan (tức là Hà Nội) cho đến huyện Gia Lâm, phủ Từ Sơn, th́ đặt trạm để chạy giấy bằng ngựa; từ huyện Chí Linh, huyện Đông Triều cho đến phủ Vạn Ninh là nơi giáp đất Khâm Châu nước Tàu th́ đặt trạm chạy giấy bằng thuyền.

6. Việc Binh Lính.

Việc bắt lính th́ cứ theo sổ bộ mà bắt. Ở những nơi gọi là vệ sở th́ mỗi một bộ phải ba suất đinh đi lính, nhưng từ Thanh Hóa về nam người ở ít, th́ mỗi hộ chỉ phải hai suất đinh đi lính mà thôi. Những chỗ nào mà không có vệ sở th́ lập đồn ở chỗ hiểm yếu rồi lấy dân binh ra giữ.

7. Phép Hộ Thiếp và Hoàng Sách.

Việc điền hộ ở An Nam bấy giờ phải theo như lệ bên Tàu. Những dân đinh trong nước, th́ ai cũng phải có một cái giấy biên tên tuổi và hương quán để lúc nào có khám hỏi th́ phải đưa ra. Cái giấy ấy biên theo như ở trong quyển sổ của quan giữ. Hễ giấy của ai mà không hợp như ở trong sổ th́ người ấy phải bắt đi lính.

Việc cai trị ở trong nước th́ chia ra làm lư và giáp. Ở chỗ thành phố th́ gọi là phường; ở chung quanh thành phố th́ gọi là tương; ở nhà quê th́ gọi là lư. Lư lại chia ra giáp.

Cứ 110 hộ làm một lư và 10 hộ làm một giáp. Lư th́ có lư trưởng, giáp th́ có giáp thủ.

Mỗi một năm có người làm lư trưởng coi việc trong lư.

Mỗi một lư, một phường hay là một tương có một quyển sách để biên tất cả số đinh số điền vào đấy. C̣n những người tàn tật cô quả th́ biên riêng ra ở sau, gọi là kỷ linh. Ở đầu quyển sách lại có cái địa đồ.

Khi nào quyển sổ ấy xong rồi, th́ biên ra làm 4 bản, một bản có b́a vàng, cho nên gọi là hoàng sách để gửi về bộ Hộ, c̣n 3 bản b́a xanh, th́ để ở bố chính ti, ở phủ và huyện, mỗi nơi một bản.

Cứ mười năm lại tùy số dinh điền hơn lên hay kém đi thế nào, phải làm lại cái mẫu sổ khác, gửi đi cho các lư, phường và tương để cứ theo mẫu ấy mà làm.

Bấy giờ lư trưởng và giáp thủ phải đập đánh cực khổ lắm.

8. Việc Thuế Má.

Phép nhà Minh đánh thuế cứ mỗi mẫu ruộng phải nộp năm thăng thóc, mỗi một mẫu băi để trồng dâu phải nộp một lạng tơ, và mỗi cân tơ phải nộp một tấm lụa.

Lại đặt ra thuế muối. Dân mà nấu muối mỗi một tháng được bao nhiêu phải đưa vào để ở ṭa Đề Cử, đợi khi nào ṭa Bố chính khám rồi mới được bán. Ai mà nấu lậu hay là bán lậu th́ cũng phải phạt như nhau.

Ở châu, huyện nào cũng có một ṭa Thuế Khóa để thu thuế.

9. Việc Sưu Dịch.

Phàm những chỗ nào có mỏ vàng mỏ bạc th́ đặt quan ra để đốc dân phu đi khai mỏ. Những chỗ rừng núi, th́ bắt dân đi t́m ngà voi, sừng tên; ở chỗ gần bể, th́ bắt dân phải đi ṃ ngọc trai. C̣n những thổ sản như: hồ tiêu, hương liệu, cũng phải bắt cống nộp. Đến những hươu, voi, rùa, chim, vượn, rắn, cái ǵ cũng vơ vét đem về Tàu.

Từ khi bọn Lư Bân, Mă Kỳ sang thay Trương Phụ, dân ta bị bọn ấy sách nhiễu thật là khổ sở.

10. Quan Lại.

Trừ những quan lại ở bên Tàu sang cai trị ra không kể, những người An Nam như những tên Nguyễn Huân, Lương Nhữ Hốt, Đỗ Duy Trung theo hàng nhà Minh, khéo đường xu nịnh, được làm quan to, lại càng ỷ thế của giặc, làm những điều tàn bạo hung ác hơn người Tàu. Vả, trong những lúc biến loạn như thế, th́ những đồ tham tàn gian ác, không có nghĩa khí, không biết liêm sĩ, lại càng đắc chí lắm, cho nên dân t́nh cực khổ, ḷng người sầu oán. Cũng v́ lẽ ấy, có nhiều kẻ tức giận nổi lên đánh phá, làm cho trong nước không lúc nào được yên ổn.

 

CHƯƠNG XIV

Mười Năm Đánh Quân Tàu

( 1418 - 1427 )

 

1. Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn 2. Về Chí Linh lần thứ nhất 3. Về Chí Linh lần thứ hai 4. B́nh Định Vương về đóng Lư Sơn 5. B́nh Định Vương về đóng Lỗi Giang 6. Nguyễn Trăi 7. B́nh Định Vương phá quân Trần Trí 8. Về Chí Linh lần thứ ba 9. B́nh Định Vương hết lương phải ḥa với giặc. 10. B́nh Định Vương lấy đất Nghệ An 11. Vây thành Tây Đô 12. Lấy Tân B́nh và Thuận Hóa 13. Quân B́nh Định Vương tiến ra Đông Đô 14. Trận Tụy Động: Vương Thông thất thế 15. Vây thành Đông Đô 16. Vương Thông ước ḥa lần thứ nhất 17. B́nh Định Vương đóng quân ở Bồ Đề 18. B́nh Định Vương đặt pháp luật để trị quân dân 19. Trận Chi Lăng: Liễu Thăng tử trận 20. Vương Thông xin ḥa lần thứ hai 21. Trần Cao dâng biểu xin phong 22. Tờ B́nh Ngô Đại Cáo

1. Lê Lợi Khởi Nghĩa ở Lam Sơn.

Từ khi nhà Minh sang cai trị An Nam, dân ta ph?i khổ nhục trăm đường, tiếng oan không kêu ra được, ḷng tức giận ngấm nghía ở trong tâm can, chỉ mong mỏi ra cho khỏi đống than lửa. May lúc ấy có một đấng anh hùng nổi lên, kéo cờ nghĩa để chống với giặc Minh, trong 10 năm ấy lại được giang sơn cũ, và xây đắp lại nền độc lập cho nước Nam.

Đấng anh hùng ấy, người ở làng Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, họ Lê, tên là Lợi. Đă mấy đời làm nghề canh nông, nhà vẫn giàu có, lại hay giúp đỡ cho kẻ nghèo khó, cho nên mọi người đều phục, và những tôi tớ ước có hàng ngh́n người. Ông Lê Lợi khẳng khái, có chí lớn, quan nhà Minh nghe tiếng, đă dỗ cho làm quan, nhưng ông không chịu khuất, thường nói rằng: " Làm trai sinh ở trên đời, nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chứ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ người ta!" Bèn giấu tiếng ở chỗ sơn lâm, đón mời những kẻ hào kiệt, chiêu tập những kẻ lưu vong.

Đến mùa xuân năm mậu tuất (1418) đời vua Thành Tổ nhà Minh, niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 16, ông Lê Lợi cùng với tướng là Lê Thạch, Lê Liễu khởi binh ở núi Lam Sơn, tự xưng là B́nh Định Vương, rồi truyền hịch đi gần xa kể tội nhà Minh để rơ cái mục đính của ḿnh khởi nghĩa đánh kẻ thù của nước.

Việc đánh giặc Minh tuy là thuận ḷng người và hợp lẽ công bằng, nhưng mà thế lực của B́nh Định Vương lúc đầu c̣n kém lắm, tướng sĩ th́ ít, lương thực không đủ. Dẫu có dùng kế đánh được đôi ba trận, nhưng vẫn không có đủ sức mà chống giữ với quân nghịch, cho nên phải về núi Chí Linh 74

ba lần, và phải nguy cấp mấy phen, thật là gian truân vất vả. Sau nhờ hồng phúc nước Nam, B́nh Định Vương lấy được đất Nghệ An, rồi từ đó mới có thể vẫy vùng, đánh ra mặt Bắc, lấy lại được giang sơn nước nhà.

2. Về Chí Linh Lần Thứ Nhất.

Khi quan nhà Minh là Mă Kỳ ở Tây Đô, nghe tin B́nh Định Vương nổi lên ở núi Lam Sơn, liền đem quân đến đánh. Vương sang đóng ở núi Lạc Thủy (Cẩm Thủy, phủ Quảng Hóa) để đợi quân Minh. Đến khi quân Mă Kỳ đến, phục binh của Vương đổ ra đánh, đuổi được quân nghịch, nhưng v́ thế yếu lắm chống giữ không nổi, Vương phải bỏ vợ con để giặc bắt được, đem bại binh chạy về đóng ở núi Chí Linh. [ 74 ]

Sách "Khâm Định Thông Giám" chép là núi Chí Linh này ở phủ Trấn Định, tỉnh Nghệ An, tức là ở vào đất Cam Môn, Cam Cát giáp tỉnh Hà Tĩnh. Nhưng xem kỹ địa đồ th́ vua Thái Tổ khởi binh ở Lam Sơn, thuộc huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, và lúc ấy vẫn lui tới ở vùng Lạc Thủy, tức là Cẩm Thủy và ở vùng Nga Sơn. Vậy th́ núi Chí Linh này không phải ở miền Trấn Định, mà chắc là chỉ ở trong vùng Thanh Hóa mà thôi. Xem như khi ngài thua ở Chí Linh th́ chạy về Lư Sơn ở châu Quan Hóa, thuộc phủ Quảng Hóa th́ biết. Vả lại ngày khởi nghĩa từ năm mậu tuất (1418) mà măi đến năm giáp th́n (1424) th́ ngài mới bàn sự đi đánh mạng Nghệ An, như thết mà nói rằng núi Chí Linh ở phủ Trấn Định, tức là xứ Ngọc Ma ngày trước, ở phía nam tỉnh Nghệ An bấy giờ th́ chắc là lầm. 3. Về Chí Linh Lần Thứ Hai.

Tháng tư năm kỷ hợi (1419) B́nh Định Vương lại ra đánh lấy đồn Nga Lạc (thuộc huyện Nga Sơn, Thanh Hóa) giết được tướng nhà Minh là Nguyễn Sao, nhưng quân của Vương bấy giờ hăy c̣n ít, đánh lâu không được, lại phải rút về Chí Linh.

Quan nhà Minh biết rằng Chí Linh là chỗ B́nh Định Vương lui tới, bèn đem binh đến vây đánh. Vương bị vây nguy cấp lắm, mới hỏi các tướng rằng: Có ai làm được như người Kỷ Tín ngày trước chịu chết thay cho vua Hán Cao không? Bấy giờ có ông Lê Lai liều ḿnh v́ nước, xin mặc thay áo ngự bào cưỡi voi ra trận đánh nhau với giặc. Quân nhà Minh tưởng là B́nh Định Vương thật, xúm nhau lại vây đánh, bắt được giết đi rồi rút quân về Tây Đô.

4. B́nh Định Vương Về Đóng Lư Sơn.

Vương nhờ có ông Lê Lai chịu bỏ ḿnh cứu chúa, mới trốn thoát được nạn lớn, rồi một mặt cho người sang Ai Lao cầu cứu, một mặt thu nhặt những tàn quân về đóng ở Lư Sơn (ở phía tây châu Quan Hóa).

Ngay năm ấy, ở Nghệ An có quan tri phủ là Phan Liêu làm phản nhà Minh; ở Hạ Hồng có Trịnh Công Chứng, Lê Hành; ở Khoái Châu có Nguyễn Đặc; ở Hoàng Giang có Nguyễn Đa Cấu, Trần Nhuế; ở Thủy Đường có Lê Ngà, nổi lên làm loạn, quân nhà Minh phải đi đánh dẹp các nơi cho nên B́nh Định Vương ở vùng Thanh Hóa cũng được nhân dịp mà dưỡng uy súc nhuệ.

5. B́nh Định Vương Về Đóng Lỗi Giang.

Năm canh tí (1420) B́nh Định Vương đem quân ra đóng ở làng Thôi, định xuống đánh Tây Đô, tướng nhà Minh là Lư Bân được tin ấy, đem quân đến đánh, đi đến chỗ Thi Lang, bị phục binh của Vương đánh phá một trận, quân Minh bỏ chạy. Vương lại đem quân lên đóng ở Lỗi Giang 75

và ở đồn Ba Lậm. Quân Minh phải lùi về đóng ở Nga Lạc và Quan Du để pḥng giữ Tây Đô.

6. Nguyễn Trăi.

Khi B́nh Định Vương về đánh ở Lỗi Giang, th́ có ông Nguyễn Trăi 76 , vào yết kiến, dâng bài sách b́nh Ngô, vua xem lấy làm hay, dùng ông ấy làm tham mưu.   [75]

Lỗi Giang là tên một khúc sông Mă Giang ở vùng trên huyện Cẩm Thủy. 76

Ông Nguyễn Trăi là cháu ngoại ông Trần Nguyên Đán, bởi vậy ông cùng với Trần Nguyên Hăng có t́nh thân. Ông Nguyễn Trăi và ông Trần Nguyên Hăng là người đại công thần nhà Lê, sau đều bị giết hại cả.

Ông Nguyễn Trăi là con ông Bảng Nhăn Nguyễn Phi Khanh. Đời nhà Hồ, ông đă thi đỗ tiến sĩ (1400). Khi ông Nguyễn Phi Khanh bị nhà Minh bắt về Kim Lăng, ông theo khóc, lên đến cửa Nam Quan không chịu trở lại. Ông Phi Khanh bảo rằng: " Con phải trở về mà lo trả thù cho cha, rửa thẹn cho nước, chứ đi theo khóc lóc mà làm ǵ ? " Từ đó ông trở lại, ngày đêm lo việc phục thù. Nay ra giúp B́nh Định Vương, bày mưu định kế để lo sự b́nh định.

7. B́nh Định Vương Phá Quân Trần Trí.

Đến tháng 11 năm tân sửu (1421) tướng nhà Minh là Trần Trí đem mấy vạn quân đến đánh B́nh Định Vương ở đồn Ba Lậm, lại ước với người Lào sang cùng đánh hai mặt. Vương mới hội các tướng lại bàn rằng: Quân kia tuy nhiều nhưng ở xa đến, c̣n đang nhọc mệt, ta nên đưa quân ra đón đành tất là phải được. Bàn xong, đến đêm đem quân vào cướp trại Minh, giết được hơn 1.000 người. Trần Trí thấy vậy giận lắm, sáng hôm sau truyền lệnh kéo toàn quân đến đánh. Quân An Nam đă phục sẳn trước, thấy quân Minh đến, liền đổ ra đánh hăng quá, quân Minh lại phải lui về.

Đang khi hai bên c̣n đối địch, có ba vạn người Lào giả xưng sang làm viện binh cho B́nh Đ́nh Vương. Vương không biết là dối, quân Lào nửa đêm kéo đến đánh, tướng của Vương là Lê Thạch bị tên bắn chết. Nhưng mà quân ta giữ vững đồn trại, quân Lào phải lùi về.

8. Về Chí Linh Lần Thứ Ba.

Sang năm sau là năm nhâm dần (1422) B́nh Định Vương tự đồn Ba Lậm tiến lên đánh đồn Quan Gia, bị quân Minh và quân Lào hai mặt đánh lại, phải thua chạy về giữ đồn Khôi Sách. Quân Minh và quân Lào thừa thế đổ đến vây kín bốn mặt. Vương thấy thế nguy quá, mới bảo các tướng rằng: "Quân giặc vây kín rồi, nếu không liều sống chết đánh tháo lấy đường chạy ra, th́ chết cả !" Quân sĩ ai nấy đều cố sức đánh phá, quân giặc phải lùi. Vương lại đem quân về núi Chí Linh.

Từ khi B́nh Định Vương đem binh về Chí Linh, lương thực một ngày một kém, trong hai tháng trời quân sĩ phải ăn rau ăn cỏ có bao nhiêu voi ngựa làm thịt ăn hết cả. Tướng sĩ mỏi mệt, đều muốn nghỉ ngơi, xin Vương hăy tạm ḥa với giặc. Vương bất đắc dĩ sai Lê Trăn đi xin ḥa. Quan nhà Minh bấy giờ thấy đánh không lợi, cũng thuận cho ḥa.

9. B́nh Định Vương Hết Lương Phải Ḥa Với Giặc.

Năm quư măo (1423) B́nh Định Vương đem quân về Lam Sơn. Bấy giờ tướng nhà Minh là bọn Trần Trí, Sơn Thọ thường hay cho Vương trâu, ngựa, cá mắm và thóc lúa; Vương cũng cho Lê Trăn đưa vàng bạn ra tạ. Nhưng sau bọn Trần Trí ngờ có bụng giả dối, bắt giữ Lê Trăn lại, không cho về, v́ vậy Vương mới tuyệt giao không đi lại nữa, rồi đem quân về đóng ở núi Lư Sơn.

10. B́nh Định Vương Lấy Đất Nghệ An.

Năm giáp th́n (1424) B́nh Định Vương hội các tướng bàn kế tiến thủ. Quan thiếu úy là Lê Chích nói rằng: " Nghệ An là đất hiểm yếu, đất rộng người nhiều, nay ta hăy vào lấy Trà Long (phủ Tương Dương) rồi hạ thành Nghệ An, để làm chỗ trú chân đă, nhiên hậu sẽ quay trở ra đánh lấy Đông Đô, như thế thiên hạ có thể b́nh được."

Vương cho kế ấy là phải, bèn đem quân về nam, đánh đồn Đa Căng, tướng nhà Minh là Lương Nhữ Hốt bỏ chạy.

Lấy được đồn Đa Căng rồi, Vương tiến quân vào đánh Trà Long, đi đến núi Bồ Liệp, ở phủ Qú Châu, gặp bọn Trần Trí, Phương Chính đem binh đến đánh, Vương bèn t́m chỗ hiểm phục sẳn; khi quân Minh vừa đến, quân ta đổ ra đánh, chém được tướng nhà Minh là Trần Trung, giết được sĩ tốt hơn 2.000 người, bắt được hơn 100 con ngựa. Quân Minh bỏ chạy, Vương đem binh đến vây đánh Trà Long. Quan tri phủ là Cầm Bành chờ cứu binh măi không được, phải mở cửa thành ra hàng.

Từ khi B́nh Định Vương khởi nghĩa cho đến giờ, đánh với quân nhà Minh đă nhiều phen, được thua đă trải qua mấy trận, nhưng quan nhà Minh vẫn lấy làm khinh thường, cho nên không tâu về cho Minh Triều biết. Bấy giờ Hoàng Phúc về Tàu rồi, vua nhà Minh sai Binh Bộ Thượng Thư là Trần Hiệp sang thay.

Trần Hiệp thấy B́nh Định Vương lấy được châu Trà Long, thanh thế lừng lẫy, bèn vội vàng làm sớ tâu cho vua nhà Minh biết. Minh Đế mới xuống chiếu trách mắng bọn Trần Trí, Phương Chí, bắt phải dẹp ngay cho yên giặc ấy. Bọn Trần Trí sợ hăi đem cả thủy bô, cùng tiến lên đánh B́nh Định Vương.

Vương sai Đinh Liệt đem 1.000 quân đi đuờng tắt ra giữ Đỗ Gia 77 , c̣n Vương th́ đem cả tướng sĩ đến ở mạn thượng du đất Khả Lưu ở bắc ngạn sông Lam Giang (thuộc huyện Lương Sơn), rồi t́m chỗ hiểm yếu phục binh để đợi quân Minh.

Khi quân Minh đă đến Khả Lưu, Vương bèn sai người ban ngày th́ kéo cờ đánh trống, ban đêm th́ bắt đốt lửa để làm nghi binh, rồi cho binh sang bên kia sông phục sẵn. Sáng hôm sau quân Minh tiến lên bị phục binh  [77]

Vào quăng gần đồn Linh Cảm, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. bốn mặt đổ ra đánh, tướng nhà Minh là Chu Kiệt phải bắt, Hoàng Thành phải chém, c̣n quân sĩ bỏ chạy cả. Trần Trí phải thu quân về giữ thành Nghệ An.

Tháng giêng năm ất tị (1425) Vương đem binh về đánh thành Nghệ An, đi đến làng Đa Lôi ở huyện Thổ Du (bây giờ là huyện Thanh Chương) dân sự đưa trâu đưa rượu ra đón rước, già trẻ đều nói rằng: không ngờ ngày nay lại thấy uy nghi nước cũ. Bấy giờ lại có quan tri phủ Ngọc ma (phủ Trấn Định) là Cầm Quư đem binh mă về giúp.

Vương bèn xuống lệnh rằng: "Dân ta lâu nay đă phải khổ sổ về chính trị bạo ngược của người Tàu, quân ta đi đến đâu cấm không được xâm phạm đến chút ǵ của ai. Những gạo thóc trâu ḅ mà không phải là của người nhà Minh th́ không được lấy". Đoạn rồi, phân binh đi đánh lấy các nơi, đi đến đâu các quan châu huyện ra hàng cả, đều t́nh nguyện đi đánh thành Nghệ An. Vương bèn đem quân về vây thành; quân Minh hết sức giữ ǵn không dám ra đánh.

Đương khi vây đánh ở Nghệ An, tướng nhà Minh là Lư An ở Đông Quan đem quân đi dường bể vào cứu. Quân của Trần Trí ở trong thành cũng đổ ra đánh, Vương nhử quân Minh đến cửa sông Độ Gia, rồi dùng phục binh đánh tan quân giặc. Trần Trí bỏ chạy về Đông Quan, c̣n Lư An vào giữ thành, Vương lại đem quân về vây thành.

11. Vây Thành Tây Đô.

Đến tháng năm, Vương sai quan Tư Không là Đinh Lễ đem binh đi đánh Diễn Châu, Đinh Lễ đi vừa đến nơi, th́ gặp tướng nhà Minh là Trương Hùng đem 300 chiếc thuyền lương ở Đông Quan mới vào, quân ở trong thành ra tiếp, bị phục binh của Đinh Lễ đánh đuổi. Bao nhiêu thuyền lương Đinh Lễ cướp lấy được cả, rồi đuổi Trương Hùng ra đến Tây Đô. B́nh Định Vương được tin ấy liền sai Lê Sát và Lưu Nhân Chú đem binh ra tiếp ứng Đinh Lễ. Đinh Lễ nhân dịp tiến lên vây thành Tây Đô.

12. Lấy Tân B́nh và Thuận Hóa.

Qua tháng bảy, Vương sai quan Tư Đồ Trần Nguyên Hăn 78 , Thượng Tướng Lê Nỗ đem hơn một ngh́n quân vào lấy châu Tân B́nh và châu Thuận Hóa. Đi đến Bố Chính th́ gặp tướng nhà Minh là Nhâm Năng, hai bên đánh nhau, quân nhà Minh bị phục binh đánh chạy tan cả. Bấy giờ lại có đạo thủy quân của Lê Ngân đem hơn 70 chiếc thuyền đi đường bể vào, Trần Nguyên Hăn liền đem cả thủy bộ tiến  [78]

Trần Nguyên Hăn, có nơi chép là Trần Hăn, là cháu Trần Nguyên Đán, ḍng dơi Trần Quang Khải. lên đánh hạ được hai thành ấy, mộ thêm mấy vạn tinh binh đưa ra đánh mặt bắc.

Từ đây binh thế của B́nh Định Vương một ngaymột mạnh, các tướng tôn ngài lên làm "Đại Thiên Hành Hóa", nghĩa là thay trời làm mọi việc.

13. Quân B́nh Định Vương Tiến Ra Đông Đô.

Năm bính ngọ (1426) Vương thấy tinh binh của nhà Minh ở cả Nghệ An, ở ngoài Đông Đô không có bao nhiêu người, bèn sai Lư Triện, Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả, Đỗ Bí ra đánh Quốc Oai, Quảng Oai, Gia Hưng, Quư Hóa, Đà Giang, Tam Đái (Bạch Hạc), Tuyên Quang để chặn đường viện binh ở Vân Nam sang. Sau Lưu Nhân Chú và Bùi Bị ra đánh Thiên Trường, Kiến Xương, Tân Hưng, Thượng hồng (B́nh Giang), Hạ Hồng (Ninh Giang), Bắc Giang, Lạng Giang để chặn đường viện binh ở Lưỡng Quảng sang. Lại sai Đinh Lễ, Nguyễn Xí đem binh đi thẳng ra đánh Đông Quan.

Quân của B́nh Định Vương đi đến đâu giữ kỷ luật rất nghiêm, không xâm phạm đến của ai chút ǵ, cho nên ai ai cũng vui ḷng theo phục. Bọn Lư Triện lấy được Quốc Oai và Tam Đái rồi đem quân về đánh Đông Quan.

Quan tham tướng nhà Minh là Trần Trí đem binh ra đóng ở Ninh Kiều 79

(phía tây phủ Giao Châu) và ở Ứng Thiên (?) để chống giữ; quân Lư Triện đến đánh, Trần Trí thua chạy về đóng ở phía tây sông Ninh Giang (khúc trên sông Đáy). Chợt có tin báo rằng có hơn một vạn quân Vân Nam sang cứu. Lư Triện sợ để hai đạo quân của Minh hợp lại th́ khó đánh, bèn bảo Phạm Văn Xảo đem hơn một ngh́n người đi đón chặn đường quân Vân Nam; c̣n ḿnh th́ cùng với Đỗ Bí đem quân đến đánh Trần Trí. Trần Trí thua chạy; bọn Lư Triện đuổi đến làng Nhân Mục bắt được tướng nhà Minh là Vi Lạng, chém được hơn 1.000, rồi lại quay trở về Ninh Giang hợp binh với Văn Xảo để đánh quân Vân Nam.

Phạm Văn Xảo đến cầu Xa Lộc (?) th́ gặp quân Vân Nam sang, đánh một trận, quân nghịc thua chạy về giữ thành tam giang.

Trần Trí thấy thế ở Đông Quan yếu lắm bèn viết thư vào Nghệ An gọi Phương Chính đem binh ra cứu, để giữ lấy chỗ căn bản. Phương Chính  [79]

Những tên Ninh Kiều, Ninh Giang, Ứng Thiên chắc là ở vùng huyện Từ Liêm, huyện Thanh Oai, về quăng sông Nhuệ Giang và sông Đáy. Mà Ninh Giang có lẽ là khúc sông Đáy ở vào quăng Từ Liêm hay Thanh Oai ǵ đó. được thư bèn sai Thái Phúc ở lại giữ thành Nghệ An, rồi đem quân xuống thuyền đi đường bể ra Đông Quan.

B́nh Định Vương nghe tin ấy, liền sai Lê Ngân, Lê Văn An, Lê Bôi, Lê Thận, Lê Văn Linh ở lại vây thành Nghệ An; Vương tự đem đại quân cả thủy bộ Phương Chính ra bắc. Ra đến Thanh Hóa, Vương đem binh vào đánh thành Tây Đô, nhưng quân Minh giữ vững thành tŕ đánh không được, Vương đem quân đến đóng ở Lỗi Giang.

14. Trận Tụy Động - Vương Thông Thất Thế.

Từ khi B́nh Định Vương ở Lư Sơn vào đánh Nghệ An đến giờ, đánh đâu được đấy, thanh thế lừng lẫy, quân Minh khiếp sợ, đem tin về cho Minh Triều biết, Minh Đế liền sai Chinh Di Tướng Quân là Vương Thông và Tham Tướng là Mă Anh đem 5 vạn quân sang cứu Đông Quan. Trần Trí và Phương Chính th́ phải cách hết cả quan tước bắt phải theo quân đi đánh giặc, c̣n Trần Hiệp th́ cứ giữ chức Tham Tán Quân Vụ.

Vương Thông sang đến đất Đông Quan hội tất cả quân sĩ lại được mười vạn, cùng với bọn Trần Hiệp chia làm ba đạo đi đánh B́nh Định Vương.

Vương Thông đem quân đến đóng ở bến Cổ Sở (thuộc huyện Thạch Thất, phủ Quốc Oai, Sơn Tây). Phương Chính đóng ở Sa Thôi (thuộc huyện Từ Liêm), Mă Kỳ đóng ở Thanh Oai, đồn lũy liên tiếp nhau một dăy dài hơn mấy mươi dặm.

Bọn Lư Triện, Đỗ Bí ở Ninh Kiều đem quân và voi đến phục ở Cổ Lăm, rồi cho quân đến đánh nhữ Mă Kỳ. Mă Kỳ đem tất cả quân đuổi đến cầu Tam La (ở giáp giới huyện Thanh Oai và huyện Từ Liêm), quân phục binh của Lư Triện đổ ra đánh, quân Minh thua chạy, nhiều người xuống đồng lầy, chạy không được, bị chém hơn 1.000 người. Lư Triện đuổi quân Minh đến Nhân Mục, bắt được hơn 500 người. Mă Kỳ một ḿnh một ngựa chạy thoát được.

Bọn Lư Triện thừa thắng tiến lên đánh đạo quân Phương Chính. Nhưng Phương Chính thấy Mă Kỳ đă thua cũng rút quân lui, rồi cùng Mă Kỳ về hội với Phương Thông ở bến Cổ Sở.

Vương Thông liệu tất thế nào quân An Nam cũng đến đánh, bèn phục binh và pḥng bị trước cả. Chợt có quân của Lư Triện đến. Quân Minh giả ra đánh rồi bỏ chạy, nhử quân ta và chỗ hiểm có chông sắt. Đi đến đấy, voi xéo phải chông đi không được, rồi lại có phục binh đổ ra đánh, Lư Triện thua chạy về giữ Cao Bộ (ở vùng Chương Đức, Mỹ Lương) và cho người về Thanh Đàm (tức là huyện Thanh Tŕ bây giờ) gọi bọn Đinh Lễ và Nguyễn Xí đến cứu.

Đinh Lễ và Nguyễn Xí đem 3.000 quân và hai con voi lập tức đêm hôm ấy đến Cao Bộ, rồi phân binh ra phục sẵn ở Tụy Động (thuộc huyện Mỹ Lương) và ở Chúc Động (thuộc huyện Chương Đức) 80 . Chợt bắt được tên thám tử của quân Minh, tra ra th́ biết rằng quân Vương Thông đóng ở Ninh Kiều, có một đạo quân đi lẻn ra đường sau quân Lư Triện để đánh tập hậu, đại quân sang đ̣ chỉ chờ lúc nào nghe súng th́ hai mặt đổ lại cùng đánh.

Biết mưu ấy rồi, đến canh năm đêm hôm ấy, Đinh Lễ sai người bắn súng làm hiệu để đánh lừa quân giặc. Quả nhiên quân giặc nghe tiếng súng đều kéo ùa đến đánh. Bấy giờ phải độ trời mưa, đường lầy, quân Minh vừa đến Tụy Động th́ bị quân ta bốn mặt đổ ra đánh, chém được quan Thượng Thư là Trần Hiệp, và Nội Quan là Lư Lượng. C̣n những quân sĩ nhà Minh th́ chết hại nhiều lắm: phần th́ giày xéo lẫn nhau mà chết, phần th́ ngă xuống sông chết đuối, cả thảy đến hơn năm vạn người; c̣n bị bắt sống hơn một vạn người, các đồ đạc khí giới th́ lấy được không biết bao nhiêu mà kể. Trận Tụy Động đánh vào tháng mười năm bính ngọ (1426).

Phương Chính và Mă Kỳ chạy thoát được, rồi cùng với Vương Thông về giữ thành Đông Quan.

Bọn Đinh Lễ thừa thắng đem binh về vây thành và cho người về Lỗi Giang báo tin thắng trận cho B́nh Định Vương biết.

Vương liền tiến binh ra Thanh Đàm, rồi một mặt sai Trần Nguyên Hăn đem 100 chiếc thuyền đi theo sông Lung Giang (?) 81

ra cửa Hát Giang (cửa sông Đáy thông với sông Cái) rồi thuận ḍng sông Nhị Hà xuống đóng ở bến Đông Bộ Đầu ; một mặt sai bọn Bùi Bị đem hơn 1 vạn quân đi lẻn ra đóng ở Tây Dương Kiều (?), Vương tự dẫn đại quân đến hạ trại ở gần thành Đông Quan. Quân Minh giữ ở trong thành không ra đánh, bao nhiêu chiến thuyền th́ Vương lấy được cả.

Kể từ ngày B́nh Định Vương đem binh vào đánh Nghệ An đến giờ, tuy rằng đánh đâu được đấy, nhưng chưa có trận nào quan hệ bằng trận Tụy Động này. Bởi v́ việc thắng bại trong 10 phần, đánh xong trận này, th́ đă chắc được 7, 8 phần rồi. Quân thế nhà Minh chỉ c̣n ở trong mấy thành bị vây  [80]

Tụy Động và Chúc Động ở vào quăng huyện Chương Mỹ, phía đông có sông Đáy, phía tây có con sông con gọi là sông Bùi, chảy vào sông Đáy, chỗ Ngă Ba Thá. [81]

Chắc là một khúc sông Đáy thuộc hạt tỉnh Hà Đông bây giờ. nữa mà thôi, mặt ngoài th́ viện binh lại chưa có, mà dẫu cho có sang nữa, th́ thế của B́nh Định Vương cũng đă vững lắm rồi.

Nhưng cứ trong Việt Sử th́ quân của Lư Triện và Đinh Lễ chẳng qua chỉ có mấy ngh́n người mà thôi, làm thế nào mà phá được hơn 10 vạn quân tinh binh của Vương Thông ? Vả lại sử chép rằng đánh trận Tụy Động quân An Nam giết được hơn 5 vạn quân Minh, lại bắt được hơn 1 vạn người, như thế chẳng hóa ra quân Minh hèn lắm ru! E rằng nhà làm sử có ư thiên vị, cho nên sự thực không được rơ lắm. Nhưng dẫu thực hư thế nào mặc ḷng, đại khái trận Tụy Động là một trận đánh nhau to, mà Vương Thông th́ thua, phải rút quân về giữ thành Đông Quan rồi bị vây, c̣n B́nh Định Vương th́ ra bắc thu phục các châu huyện. Việc ấy chắc là thật có.

15. Vây Thành Đông Đô.

Từ khi B́nh Định Vương ra Đông Đô, những kẻ hào kiệt ở các nơi đều nô nức về theo, xin hết sức đi đánh giặc. Vương dùng lời úy dụ và lấy cái nghĩa lui tới mà giảng giải cho mọi người nghe, rồi cứ tùy tài mà thu dùng.

Vương chia đất Đông Đô ra làm bốn đạo, đặt quan văn vơ để coi việc chính trị.

Cứ theo sách "Lịch Triều Hiến Chương Địa Dư Chí" của ông Phan Huy Chú th́ những trấn Tam Giang, Tuyên Quan, Hưng Hóa, Gia Hưng thuộc về Tây Đạo; những trấn Thượng Hồng, Hạ Hồng, Thượng Sách, Hạ Sách cùng với lộ An Bang thuộc về Đông Đạo; những trấn Bắc Giang, Thái Nguyên thuộc về Bắc Đạo; những lộ Khoái Châu, Lư Nhân, Tân Hưng, Kiến Xương, Thiên Trường thuộc về Nam Đạo.

16. Vương Thông Xin Ḥa Lần Thứ Nhất.

Vương Thông ở Đông Quan cứ bị thua măi, liệu thế đánh không được nữa, muốn băi binh về Tàu, nhưng sợ mang tiếng, bèn lục tờ chiếu của vua nhà Minh, niên hiệu Vĩnh Lạc (1407), nói về việc t́m con cháu họ Trần, rồi cho người ra nói với B́nh Định Vương t́m người ḍng dơi họ Trần lập lên, để xin băi binh.

Vương nghĩ đánh nhau măi, trong nước tàn hại, dân t́nh khổ sở, bèn y theo lời Vương Thông. Nhân lúc bấy giờ có người tên là Hồ Ông trốn ở Ngọc Ma, xưng là cháu ba đời vua Nghệ Tông, vương bèn cho người đi đón Hồ Ông về đổi tên là Trần Cao, lập nên làm vua, mà Vương th́ xưng làm Vệ Quốc Công để cầu phong với nhà Minh, cho chóng xong việc.

Vương Thông cho người đưa thư ra xin ḥa, và xin cho đem toàn quân về nước. B́nh Định Vương thuận cho, định ngày để Vương Thông gọi quân ở các nơi về hội tại Đông Đô, rồi về Tàu. Việc đă định như thế, nhưng mà bấy giờ có mấy người An Nam theo nhà Minh, như những tên Trần Phong, Lương Nhữ Hốt, sợ rằng quân Minh về th́ ḿnh phải giết, bèn lấy chuyện Ô Mă Nhi ngày trước can Vương Thông đừng rút quân về. Vương Thông nghe lời, bề ngoài tuy nói ḥa, nhưng bề trong sai người đào hào, rắc chông, rồi cho người đi lẻn đem thư về Tàu cầu cứu.

B́nh Định Vương bắt được người đưa thư, giận lắm, không giao thông với quân Minh nữa, rồi sai Lê Quốc Hưng đánh thành Điêu Diêu (huyện Gia Lâm, Bắc Ninh) và thành Thị Kiều (tức là Thị Cầu thuộc huyện Vơ Giang, Bắc Ninh); Trịnh Khả và Lê Khuyển đánh thành Tam Giang (tức là Tam Đái, nay là huyện Bạch Hạc); Lê Sát và Lê Thụ đánh thành Xương Giang ( tức là Phủ Lạng Thương bây giờ); Trần Lựu, Lê Bôi đánh thành Kỳ Ôn. Chẳng bao lâu những thành ấy đều lấy được cả.

17. B́nh Định Vương Đóng Quân ở Bồ Đề.

Tháng giêng năm đinh mùi (1427), B́nh Định Vương tiến quân lên đóng ở chỗ Bồ Đề, ở phía bắc sông Nhị Hà, rồi sai tướng đánh thành Đông Quan: Trịnh Khả đánh cửa Đông, Đinh Lễ đánh cửa Nam, Lê Cực đánh cửa Tây, Lư Triện đánh cửa Bắc.

Quân nhà Minh một ngày một kém, tướng nhà Minh giữ thành Nghệ An và thành Diễn Châu là bọn Thái Phúc và Tiết Tụ đều ra hàng cả. B́nh Định Vương lại sai Lại Bộ Thượng Thư là ông Nguyễn Trăi, làm hịch đi khuyên tướng sĩ các nơi về hàng.

Nhưng cũng v́ thấy quân Minh đă yếu thế, có ư khinh định cho nên quân ta mất hai viên đại tướng. Trước th́ Lư Triện đóng ở Từ Liêm, không cẩn thận, bị quân của Phương Chính đến đánh lẻn giết mất; sau Vương Thông ở Đông Quan đem binh ra đánh Lê Nguyễn ở Tây Phù Liệt (thuộc huyện Thanh Tŕ), Vương sai Đinh Lễ và Nguyễn Xí đem 500 quân đi cứu. Đi đến Mỹ Động (thuộc Hoàng Mai, huyện Thanh Tŕ) gặp quân Minh, hai bên đánh nhau. Vương Thông thấy quân Đinh Lễ có ít, bèn vây lại đánh bắt được Đinh Lễ và Nguyễn Xí. Nguyễn Xí trốn đi được, c̣n Đinh Lễ bị giết.

18. B́nh Định Vương Đặt Pháp Luật Để Trị Quân Dân.

B́nh Định Vương cứ một mặt vây đánh thành Đông Quan và các thành khác, một mặt lo việc cai trị, đặt ra các điều lệ để cho việc binh có kỷ luật và cho ḷng dân được yên.

Trước hết Vương dụ cấm tà đạo: ai mà dùng những phép tà ma giả dối để đánh lừa người ta th́ phải tội. C̣n những dân sự bị loạn phải lưu tán đi chỗ khác cho về nguyên quán, cứ việc làm ăn như cũ.

Những vợ con gia quyến của những người ra làm quan với giặc, th́ được phép theo lệ, lấy tiền mà chuộc 82 ; c̣n những quân lính nhà Minh đă hàng th́ đưa về Thiên Trường, Kiến Xương, Lư Nhân, Tân Hưng để nuôi nấng tử tế.

Vương đặt ra ba điều để răn các quan: 1. Không được vô t́nh. 2. Không được khi mạn. 3. Không được gian dâm

Và lại dụ rằng những quân lính ngày thường có tội không được giết càn, trừ lúc nào ra trận mà trái quân lệnh th́ mới theo phép mà thi hành.

Vương lại đặt ra 10 điều để làm kỷ luật cho các tướng sĩ: 1. Trong quân ồn ào không nghiêm. 2. Không có việc ǵ mà đặt chuyện ra để làm cho mọi người sợ hăi. 3. Lúc lâm trận nghe trống đánh, thấy cờ phất, mà chùng ch́nh không tiến. 4. Thấy kéo cờ dừng quân mà không dừng. 5. Nghe tiếng chiêng lùi quân mà không lùi 6. Pḥng giữ không cẩn thận, để mất thứ ngũ. 7. Lo riêng việc vợ con, mà bỏ việc quân. 8. Tha binh đinh về để lấy tiền, và làm sổ sách mập mờ. 9. Theo bụng yêu ghét của ḿnh mà làm ḷa mất công quả của người ta. 10. Gian dâm, trộm cắp.

Hễ tướng sĩ ai mà phạm vào 10 điều ấy th́ phải tội chém.

C̣n quân lính, th́ hễ nghe một tiếng súng mà không có tiếng chiêng, th́ các tướng hiệu phải đến dinh nghe lệnh; hễ nghe hai ba tiếng súng và hai ba tiếng chiêng ấy là có việc cảnh cấp, quan chấp lệnh phải sắp hàng ngũ, c̣n quan thiếu úy th́ đến dinh mà nghe lệnh; hễ đến lúc lâm trận mà lùi hoặc là bỏ những người sau không cứu, th́ phải tội chém, nhưng gián hoặc đă có ai không may chết trận mà ḿnh hết sức mang được xác ra th́ khỏi tội.  [82]

Vợ con của quan Bố Chính th́ phải 70 quan; vợ con những sinh viên và thổ quan th́ 10 quan; c̣n những con trai, con gái đầy tớ, đứa ở th́ 5 quan.

Đại khái kỷ luật ở trong quân của B́nh Định Vương như thế, cho nên đi đâu, dân gian kính phục lắm.

19. Trận Chi Lăng - Liễu Thăng Tử Trận.

Từ khi quân Minh thua trận Tụy Động, Trần Hiệp bị giết, Vương Thông cho người về tâu với Minh Đế để xin thêm binh. Minh Đế thất kinh, liền sai Chinh Lỗ Phó Tướng Quân An Viễn Hầu là Liễu Thăng, Tham Tướng Bảo Định Bá là Lương Minh, Đô Đốc là Thôi Tụ, Binh Bộ Thượng Thư là Lư Khánh, Công Bộ Thượng Thư là Hoàng Phúc, Hữu Bố Chính Sứ là Nguyễn Đức Huân, đem 10 vạn quân, hai vạn ngựa, đi đường Quảng Tây sang đánh cửa Ba Lụy, bấy giờ là tháng chạp năm bính ngọ (1427). Lại sai Chinh Nam Đại Tướng Quân Kiềm Quốc Công là Mộc Thạnh, Tham Tướng Anh Hưng Bá là Từ Hanh, Tây Ninh Bá là Đàm Trung đi đường vào Vân Nam sang đánh cửa Lê Hoa.

Khi các tướng nghe viện binh của quân Minh sắp đến, nhiều người khuyên Vương đánh ngay lấy thành Đông Quan để tuyệt đường nội ứng, nhưng Vương không nghe, bảo rằng: "Việc đánh thành là hạ sách, nay ta hăy cứ dưỡng binh súc nhuệu để đợi quân địch đến th́ ra đánh. Hễ viện quân mà thua, th́ quân trong thành tất phải ra hàng. Thế có phải làm một việc mà thành được hai không?" Đoạn rồi bắt phải giữ ǵn mọi nơi cho nghiêm nhặt, lại bắt người ở Lạng Giang, Bắc Giang, Tam Đái, Tuyên Quan, Quy Hóa đi chỗ khác, bỏ đồng không để tránh quân Minh.

Đến tháng mười (1427) B́nh Định Vương nghe tin quân của bọn Liễu Thăng đă sắp sang đất An Nam, liền hội các tướng lại bàn rằng: "Quân kia cậy khoẻ khinh yếu, lấy nhiều bắt nạt ít, chỉ cốt đánh cho được, chứ không tưởng đến điều khác. Nay đường xa ngh́n dặm, mà đi có mấy ngày, nếu ta nhân lúc người ngựa của chúng đang mỏi mệt, ta "dĩ dật đăi lao", đánh là tất được". Bèn sai Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Linh, Đinh Liệt, Lê Thụ đem 1 vạn quân và 5 con voi lên phục sẵn ở cửa Chi Lăng, để đợi quân Minh. Lại sai Lê Lư, Lê Văn An, đem 3 vạn quân cứ lục tục kéo lên đánh giặc.

Bấy giờ Trần Lựu đang giữ cửa Ba Lụy (Nam Quan) thấy quân Minh đến, lui về giữ Ai Lưu; đến khi quân giặc đến đánh Ai Lưu, Trần Lựu lại lùi về giữ Chi Lăng, cứ cách từng đoạn, chỗ nào cũng có đồn, quân Minh đi đến đâu không ai dám chống giữ, phá luôn một lúc được những mấy cái đồn. Liễu Thăng đắc ư đuổi tràn đi. B́nh Định Vương lại làm ra bộ khiếp sợ, cho người đưa thư sang nói với Liễu Thăng xin lập Trần Cao lên làm vua để xin băi binh. Liễu Thăng tiếp thư không mở ra xem cho người đưa về Bắc Kinh, rồi cứ tiến lên đánh.

Ngày 18 tháng 9, quân Liễu Thăng đến gần cửa Chi Lăng. Lê Sát sai Trần Lựu ra đánh rồi bỏ chạy. Liễu Thăng mừng lắm, chỉ đem 100 lính kị đuổi theo, bỏ đại đội ở lại sau. Đuổi được một đoạn, phải chỗ bùn lầy đi không được, phục binh ta đổ ra đánh, chém Liễu Thăng ở núi Đảo Mă Pha (bây giờ là Mă Yên Sơn, ở làng Mai Sao, thuộc Ôn Châu). Việc ấy vào ngày 20 tháng 9 năm đinh mùi.

Bọn Lê Sát, Trần Lựu thừa thắng đuổi đánh quân Minh giết hơn 1 vạn người. Lúc bấy giờ đạo quân của Lê Lư cũng vừa đến, hội lại tiến lên đánh quân Minh, chém được Lương Minh ở giữa trận (ngày 25). Lư Khánh th́ tự tử (ngày 28). C̣n bọn Hoàng Phúc và Thôi Tụ đem bại binh chạy về thành Xương Giang (thành của nhà Minh xây ở xă Thọ Xương, phủ Lạng Giang), đi đến nữa đường bị quân của Lê Sát đuổi đến đánh phá một trận; Thôi Tụ cố đánh lấy đường chạy về Xương Giang, không ngờ thành ấy đă bị bọn Trần Nguyên Hăn lấy mất rồi, quân Minh sợ hăi quá bèn lập trại đắp lũy ở giữa đồng để chống giữ.

B́nh Định Vương sai quân thủy bộ vây đánh, sai Trần Nguyên Hăn chặn đường tải lương của quân Minh, lại sai Phạm Vấn, Lê Khôi, Nguyễn Xí đem quân thiết đội vào đánh chém quân Minh được hơn 5 vạn, bắt sống được Hoàng Phúc, Thôi Tụ và 3 vạn quân. Thôi Tụ không chịu hàng phải giết.

Bấy giờ Mộc Thạnh với bọn Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả đang giữ nhau ở cửa Lê Hoa. Trước Vương cũng đă liệu rằng Mộc Thạnh là người lăo luyện tất chờ xem quân Liễu Thăng thắng bại thế nào rồi mới tiến, bèn sai đưa thư dặn bọn Văn Xảo cứ giữ vững chứ đừng ra đánh. Đến khi quân Liễu Thăng thua rồi, Vương cho những tên t́ tướng đă bắt được, đem những giấy má ấn tín lên cho Mộc Thạnh biết.

Mộc Thạnh được tin ấy, sợ quá, đem quân chạy, bị quân Trịnh Khả đuổi theo chém được hơn 1 vạn người và bắt được cả người lẫn ngựa mỗi thứ hơn một ngh́n.

20. Vương Thông Xin Ḥa Lần Thứ Hai.

B́nh Định Vương sai đưa bọn Hoàng Phúc và hai cái hổ phù, hai dấu đài ngân của quan Chinh Lỗ Phó Tướng Quân về Đông Quan cho Vương Thông biết.

Vương Thông biết rằng viện binh sang đă bị thua rồi, sợ hăi quá, viết thư xin ḥa. Vương thuận cho, rồi cùng với Vương Thông lập đàn thề ở phía nam thành Đông Quan, hẹn đến tháng chạp th́ đem quân về Tàu.

21. Trần Cao Dâng Biểu Xin Phong.

B́nh Định Vương đă ḥa với Vương Thông rồi, quân Minh ở Tây Đô và ở các nơi đều giải binh cả. Vương sai Lê Thiếu Dĩnh, Lê Quang Cảnh và Lê Đức Huy đem tờ biểu và phương vật sang sứ nhà Minh.

Những đồ phương vật là: 1. Hai người bằng vàng để thay ḿnh. 2. Một lư hương bằng bạc. 3. Một đôi b́nh hoa bằng bạc 4. Ba mươi tấm lượt. 5. Mười bốn đôi ngà voi. 6. Mười hai b́nh hương trầm. 7. Hai vạn nén hương duyến. 8. Hai mươi bố cây hương trầm.

Và lại đem hai cái dấu đài ngân, đôi hổ phù của Chính Lỗ Phó Tướng Quân cùng với sổ kê những người quan quân nhân mă đă bị bắt đem trả lại Minh Triều.

C̣n tờ biểu th́ đứng tên Trần Cao, đại lược như sau này:

"Khi vua Thái Tổ Cao Hoàng Đế mới lên ngôi, tổ tiên tôi là Nhật Khuê vào triều cống trước nhất, bấy giờ ngài có ban thưởng, phong cho tước Vương. Từ đó nhà tôi vẫn nối đời giữ bờ cơi, không bỏ thiếu lễ triều cống bao giờ.

Mới rồi nhân họ Hồ thoán nghịch, vua Thái Tông Văn Hoàng Đế quân sang hỏi tội. Sau khi đă dẹp yên rồi, ngài có hạ chiếu t́m con cháu họ Trần để giữ lấy ḍng dơi cúng tế. Bấy giờ quan tổng binh Trương Phụ t́m chưa được khắp, đă xin đặt làm quận huyện.

Nguyên tôi lúc trước v́ trong nước có loạn, chạy trốn vào xứ Lăo Qua, cũng là muốn để t́m chốn yên thân mà thôi, không ngờ người trong nước, vẫn quen thói mọi, nhớ đến ân trạch nhà tôi thuở trước, lại cố ư ép tôi phải về, bất đắc dĩ tôi cũng phải theo.

Dẫu rằng trong khi vội vàng, bị người trong nước cố ép, nhưng cũng là cái tội tôi không biết liệu xử. Mới đây tôi đă có xin lỗi trước hàng quân, nhưng không ai chịu nghe, bấy giờ người nước tôi sợ phải tai vạ, liền đem nhau ra pḥng bị các cửa ải, cũng là một kế giữ ḿnh.

Ngờ đâu quan quân xa xôi mới đến thấy voi sợ hăi, tức khắc vỡ tan. Việc đă xảy ra như vậy, dẫu bởi sự bất đắc dĩ của người trong nước cũng là lỗi của tôi. Nhưng bao nhiêu những quân và ngựa bắt được đều phải thu dưỡng tử tế, không dám xâm phạm một tí ǵ.

 

Dám xin hoàng thượng ngày nay lại theo như lời chiếu của vua Thái Tông Văn Hoàng Đế, t́m lấy con cháu họ Trần, nghĩ đến cái ḷng thành vào triều cống trước nhất của tổ tiên tôi ngày xưa, mà xá cái tội to như g̣ núi ấy, không bắt phải cái phạt nặng bằng búa ŕu, khiến cho tôi được nối nghiệp ở xứ nam, để giữ chức triều cống.

Tôi đă sai người thân tín mang tờ biểu tạ và đưa trả những ấn tín nhân mă tới chốn kinh sư, nay lại xin đệ tâu những danh số ấy"

Vua nhà Minh bấy giờ là Tuyên Tông xem biểu biết rằng giả dối, nhưng cũng muốn nhân dịp ấy để thôi việc binh, bèn đưa tờ biểu cho quần thần xem, mọi người đều xin ḥa. Minh Đế sai quan Lễ Bộ Thị Lang là Lư Kỳ đưa chiếu sang phong cho Trần Cao làm An Nam Quốc Vương, bỏ ṭa Bố Chính và triệt quân về Tàu.

Đến tháng chạp năm đinh mùi, Vương Thông theo lời ước với B́nh Định Vương, đem bộ binh qua sông Nhị Hà, c̣n thủy quân theo sau.

Bấy giờ có người xui Vương rằng: lúc trước người Minh tàn ác lắm, nên đem giết cả đi. Vương nói rằng: " Phục thù báo oán là cái thường t́nh của mọi người, nhưng cái bản tâm người có nhân không muốn giết người bao giờ. Vả người ta đă hàng mà lại c̣n giết th́ không hay. Nếu ḿnh muốn thỏa cơn giận một lúc, mà chịu cái tiếng muôn đời giết kẻ hàng, th́ sao bằng để cho muôn vạn con người sống mà khỏi được cái mối tranh chiến về đời sau, lại để tiếng thơm lưu truyền thiên cổ trong sử xanh".

Vương không giết người Minh lại cấp cho thủy quân 500 chiếc thuyền giao cho Phương Chính và Mă Kỳ quản lĩnh; cấp lương thảo cho lục quân giao cho Sơn Thọ, Hoàng Phúc quản lĩnh; c̣n 2 vạn người đă ra hàng và đă bị bắt th́ giao cho Mă Anh quản lĩnh đem về Tàu. Vương Thông th́ lĩnh bộ binh đi sau. B́nh Định Vương tiễn biệt rất hậu.

Giặc Minh lục tục về bắc, bấy giờ mới thật là: Nam Quốc Sơn Hà, Nam Đế Cư; nước Nam lại được tự chủ như cũ.

23. Tờ B́nh Ngô Đại Cáo.

B́nh Định Vương dẹp xong giặc Minh rồi, sai ông Nguyễn Trăi làm tờ bá cáo cho thiên hạ biết.

Tờ B́nh Ngô Đại Cáo này làm bằng Hán Văn, là một bản văn chương rất có giá trị trong đời Lê. Nay theo nguyên văn ở trong tập Hoàng Việt Văn Tuyển mà chép ra như sau này:

B́nh Ngô Đại Cáo

Tượng mảng:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ v́ khử bạo. Như nước Việt từ trước, vốn xưng văn hiến đă lâu. Sơn hà cương vực đă chia, phong tục bắc nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lư, Trần, gây nền độc lập; cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có.

Vậy nên:

Lưu Cung sợ uy mất vía, Triệu Tiết nghe tiếng giật ḿnh. Cửa Hàm Tử giết tươi Toa Đô, sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mă. Xét xem cổ tích, đă có minh trưng 83 .

Vừa rồi:

V́ họ Hồ chính sự phiền hà, để trong nước nhân dân oán bạn. Quân cuồng Minh đă thừa cơ tứ ngược 84 , bọn gian tà c̣n bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Chước dối đủ muôn ngh́n khóe, ác chứa ngót hai mươi năm. Bại nhân nghĩa, nát cả càn khôn, nặng khoa liễm 85

vét không sơn trạch. Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể ṃ châu, nào hố bẫy hươu đen, nào lưới ḍ chim sả. Tàn hại cả côn trùng thảo mộc; nheo nhóc thay quan quả điên liên 86 . Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề về những nỗi phu phen, bắt bớ mất cả nghề canh cửi. Độc ác thay ! trúc rừng không ghi hết tội; dơ bẩn thay ! nước bể không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo thần nhân nhịn được.

Ta đây:

Núi Lam Sơn dấy nghĩa, chốn hoang dă nương ḿnh. Ngắm non sông căm nỗi thế thù, thề sống chết cùng quân nghịch tặc. Đau ḷng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa; nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn v́ giận, sách lược thao suy xét đă tinh; ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt v́:

83

Minh trưng: chứng cớ rơ ràng. 84

Tứ ngược: Hết sức tàn ngược. 85

Khoa liễm: Thuế má. 86

Quan: Người không vợ; Quả: người góa chồng; Điên Liên: những kẻ không có nhà ở, không trông cậy vào đâu được.

Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu. Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần, nơi duy ác hiếm người bàn bạc. Đôi phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm con mắt dục đông 87 ; mấy thủa đợi chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả 88 . Thế mà trông người, người càng vắng ngắt, vẫn mịt mờ như kẻ vọng dương 89 . thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội vă như khi chửng nịch 90 . Phần th́ giận hung đồ ngang dọc, phần th́ lo quốc bộ khó khăn. Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần; khi Khôi huyện quân không một lữ. Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiết thiên ma; cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử. Múa đầu gậy, ngọn cờ phất phới, ngóng vân nghê bốn cơi đan hồ. Mở tiệc quân, chén rượu ngọt ngào, khắp tướng sĩ một ḷng phụ tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi; quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.

Dọn hay:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang sét dậy, miền Trà Lân trúc phá tro baỵ Sĩ khí đă hăng, quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ mất vía chạy tan; Phương Chính, Lư An t́m đường trốn tránh. Đánh Tây Kinh phá tan thế giặc, lấy Đông Đô thu lại cơi xưa. Dưới Ninh Kiều máu chảy thành sông; bến Tụy Động xác đầy ngoại nội. Trần Hiệp đă thiệt mạng. Lư Lương lại phơi thây. Vương Thông hết cấp lo lường, Mă Anh không đường cứu đỡ. Nó đă trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao; ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất. Tưởng nó phải thay ḷng đổi dạ, hiểu lẽ tới lui; ngờ đâu c̣n kiếm kế t́m phương, gây mầm tội nghiệt. Cậy ḿnh là phải, chỉ quen đổ vạ cho người; tham công một thời, chẳng bỏ bày tṛ dơ duốc. Đến nỗi đứa trẻ ranh như Tuyên Đức 91 , nhàm vơ không thôi; lại sai đồ nhút nhát như Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy. Năm đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng từ Khâu Ôn tiếng san; lại năm nay tháng mười, Mộc Thạnh tự Vân Nam kéo đến. Ta đă điều binh giữ hiểm để ngăn lối Bắc quân; ta lại sai tướng chẹn ngang để tuyệt đường lương đạo. Mười tám, Liễu Thăng thua ở Chi Lăng, hai mươi, Liễu Thăng chết ở Mă Yên. Hai mươi lăm, Lương Minh trận vong; hai mươi tám, Lư Khánh tự vẫn. Lưỡi dao ta đang sắc, ngọn giáo giặc phải lùi. Lại thêm quân bốn mặt vây thành, hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc. Sĩ tốt ra oai t́ hổ, thần thứ đủ mặt trảo nha. Gươm mài đá, đá núi cũng ṃn; voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận sạch không ḱnh ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt toang đê cũ. Thôi Tụ phải qú mà xin lỗi, Hoàng Phúc tự trói  [87]

Dục đông: ư nói muốn về lấy Đông Đô. 88

Hư tả: Cỗ xe không bên trái để đợi người hiền. 89

Vọng dương: Trông ra biển không thấy ǵ. 90

Chửng nịch: Vớt người chết đuối. 91

Vua Tuyên Tông nhà Minh, niên hiệu Tuyên Đức. để ra hàng. Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường, Xương Giang, B́nh Than máu trôi đỏ nước. Gớm ghê thay ! sắc phong vân cũng đổi; thảm đạm thay ! sáng nhật nguyệt phải mờ. Binh Vân Nam nghẽn ở Lê Hoa, sợ mà mất mật; quân Mộc Thạnh tan chưn Cần Trạm, chạy để thoát thân. Suối máu Lănh Câu, nước sông rền rĩ; thành xương Đan Xá, cỏ nội đầm đ́a. Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy; các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu. Bắt tướng giặc mang về, nó đă vẫy đuôi phục tôi; thể ḷng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh. Mă Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực. Vương Thông, Mă Anh, phát cho vài ngh́n cỗ ngựa, về đến Tàu c̣n đổ mồ hôi. Nó đă sợ chết cầu ḥa, ngỏ ḷng thú phục; ta muốn toàn quân là cốt, cả nước nghỉ ngơi.

Thế mới là mưu kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa có. Giang san từ đây mở mặt, xă tắc từ đầy vững nền. Nhật nguyệt hối mà lại minh, càn khôn bĩ mà lại thái. Nền vạn thế xây nên chăn chắn, thẹn ngh́n thu rửa sạch làu làu. Thế là nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng che chở, giúp đỡ cho nước ta vậy.

Than ôi !

Vẫy vùng một mảng nhung y nên công đại định, phẳng lặng bốn bề thái vũ mở hội vĩnh thanh. Bá cáo xa gần, ngỏ cùng cho biết.

B́nh Ngô Đại Cáo

Cái văn : nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân; điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo. Duy ngă Đại-Việt chi quốc, thực vi văn-hiến chi bang. Sơn xuyên chi phong vực kư thù, Nam Bắc chi phong-tục diệc dị. Tự Triệu Đinh Lư Trần chi triệu tạo ngă quốc, dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương. Tuy cường nhược th́ hữu bất đồng, nhi hào kiệt thế vị thường phạp.

Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại, nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong. Toa Đô kư cầm ư Hàm-tử quan, Ô Mă hựu ế ư Bạch-đằng hải. Kê chư văng cổ, quyết hữu minh trưng.

Khoảnh nhân Hồ-chính chi phiền-hà, trí-sử nhân-tâm chi oán-bạn. Cuồng-Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngă dân; ngụy đảng hoài gian, cánh dĩ măi ngă quốc. Hân thương-sinh ư ngược-diễm, hảm xích-tử ư họa-khanh. Khi thiên vơng dân, quỷ-kế cái thiên vạn trạng; liên binh kết hấn, nẫm ác đăi nhị thập niên. Bại nghĩa thương nhân, kiền khôn ky hồ dục tức; trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di. Khai kim-trường, tắc mạo lam-chướng nhi phủ sơn đào sa; thái minh-châu, tắc xúc giao-long nhi hoàn yêu thộn hải. Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hăm tịnh, điễn vật chức thúy cầm chi vơng la. Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh, quan quả điên-liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở. Tuấn sinh dân chi huyết, dĩ nhuận kiệt-hiệt chi vẫn nha; cực thổ mộc chi công, dĩ sùng công tư chi giải vũ. Châu lư chi chinh dao trọng khốn, lư diêm chi trữ trục giai không. Quyết Đông-hải chi thủy, bất túc dĩ trạc kỳ ô; Khánh Nam-sơn chi trúc, bất túc dĩ thư kỳ ác. Thần nhân chi sở cộng phẫn, thiên địa chi sở bất dung.

Dư phấn tích Lam-sơn, thê thân hoang dă. Niệm thế-thù khởi khả cộng đái, thệ nghịch-tặc nan dữ câu sinh. Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên, thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật. Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao-lược chi thư; tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lư. Đồ hồi chi chí, ngộ mỵ bất vong. Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi th́, chính tặc thế phương trương chi nhật.

Nại dĩ nhân tài thu diệp, tuấn kiệt thần tinh. Bôn tẩu tiền hậu giả kư phạp kỳ nhân, mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ. Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất-uất nhi dục đông; cố ư đăi hiền chi xa, thường cấp-cấp dĩ hư tả. Nhiên kỳ đắc nhân chi hiệu, mang nhược vọng dương; do kỷ chi thành, thậm ư chửng nịch. Phẫn hung-đồ chi vị diệt, niệm quốc-bộ chi tao truân. Linh-sơn chi thực tận kiêm tuần, Khôi-huyện chi chúng vô nhất lữ. Cái thiên dục khốn ngă dĩ giáng quyết nhâm, cố dư ích lệ chi dĩ tế vu nạn. Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập; đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm. Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị; dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất kỳ.

Tốt năng dĩ đại nghĩa nhi thắng hung-tàn, dĩ chi nhân nhi dịch cường-bạo. Bồ-đằng chi đ́nh khu điện xiết, Trà-lân chi trúc phá khôi phi. Sĩ khí dĩ chi ích tăng, quân thanh dĩ chi đại chấn. Trần Trí, Sơn Thọ, văn phong nhi trĩ phách; Lư An, Phương Chính, dả tức dĩ thâu sinh. Thừa thắng trường khu, Tây-kinh kư vi ngă hữu; tuyển phong tiến thủ, Đông-đô tận phục cựu cương. Ninh-kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lư; Tụy-động chi thi tích dă, di xú thiên niên. Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, kư kiêu kỳ thủ; Lư Lượng tặc chi gian đố, hựu bộc quyết thi. Vương Thông lư loạn nhi phần giả ích phần, Mă Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ. Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đăi vong; ngă mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất. Vị bỉ tất dịch tâm nhi cải lự, khởi ư phục tác nghiệt dĩ tốc cô. Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân; tham nhất th́ chi công, dĩ di tiếu ư thiên-hạ. Toại lệnh Tuyên- đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm; nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nhụ tướng, dĩ du cứu phần. Đinh-vị cửu nguyệt, Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu-ôn nhi tiến; bản niên bản nguyệt, Mộc Thạnh diệc phân đồ tự Vân-nam nhi lai. Dư tiền kư tuyển binh tắc hiểm dĩ tồi kỳ phong, dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực. Bản nguyệt thập bát nhật, Liễu Thăng vi ngă quân sở công, kế đọa ư Chi-lăng nhi dă; bản nguyệt nhị thập nhật, Liễu Thăng vi ngă quân sở bại, thân tử ư Mă-yên chi sơn. Nhị thập ngũ nhật, Bảo-định bá Lương Minh trận hăm nhi táng khu; nhị thập bát nhật, thượng-thư Lư Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.

Ngă toại nghinh nhận nhi giải, bỉ tự đảo qua tương công. Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi, kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt. Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ, thân mệnh trảo nha chi thần. Ẩm tượng nhi hà thủy can, ma đao nhi sơn thạch khuyết. Nhất cổ nhi ḱnh khô ngạc đoạn, tái cổ nhi điểu tán quân kinh. Quyết hội nghị ư băng đê, chấn cương phong ư cảo diệp. Đô-đốc Thôi Tụ tất hàng nhi tống khoản, thượng-thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu cầm. Cương-thi tắc Lạng-giang, Lạng-sơn chi đồ; chiến-huyết xích Xương-giang, B́nh-than chi thủy. Phong vân vị chi biến sắc, nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.

Kỳ Vân-nam binh vi ngă quân sở ách ư Lê-hoa, tự đỗng nghi hư hát nhi tiên dĩ phá đảm. Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân đại bại ư Cần- trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân. Lănh-câu chi huyết xử phiêu, giang-thủy vị chi ô yết; Đan-xá chi thi sơn tích, dă thảo vị chi ân hồng. Lưỡng lộ cứ binh, kư bất tuyền chủng nhi âu bại; các thành cùng khấu, diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng. Tặc thủ thành cầm, bỉ kư điệu ngạ- hổ khất liên chi vỹ; thần vũ bất sát, dư diệc thể Thượng-đế hiếu sinh chi tâm. Tham-tướng Phương Chính, nội-quan Mă Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, kư độ hải nhi do thả hồn phi phách táng. Tổng-binh Vương Thông, tham-chính Mă-Anh, hựu cấp mă sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh. Bỉ kư úy tử tham sinh, nhi tu hiếu hữu thành; dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân đắc tức.

Phi duy kế mưu chi cực kỳ thâm viễn, cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn. Xă-tắc dĩ chi điện an, sơn xuyên dĩ chi cải quán. Kiền khôn kư bĩ nhi phục thái, nhật nguyệt kư hối nhi phục minh. Vu dĩ khai vạn thế thái b́nh chi cơ, vu dĩ tuyết thiên cổ vô-cùng chi sỉ. Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu, nhi trí nhiên dă.

Ô-hô! Nhất nhung đại-định, ngật thành vô cạnh chi công; tứ hải vĩnh-thanh, dản bố duy-tân chi cáo. Bá cáo hà nhĩ, hàm sử văn tri.

 

CHƯƠNG XV

NHÀ LÊ

( 1428-1788 )

Thời-Kỳ Thống-Nhất (1428-1527)

I. Lê Thái Tổ

1. B́nh-định-vương lên ngôi tôn

2. Việc học-hành

3. Luật-lệ

4. Việc cai-trị

5. Phép quân-điền

6. Việc binh-lính

7. Công thần bị giết

II. Lê Thái Tông

III. Lê Nhân Tông

1. Cai-trị

2. Việc thuế-lệ

3. Việc canh-nông

4. Nhà sinh-tế

5. Việc sửa phong-tục

6. Địa-đồ nước Nam

7. Đại-Việt sử-kư

8. Việc văn-học

9. Việc vũ-bị

10. Đánh Chiêm-thành

11. Đánh Lăo-qua

12. Đánh Bồn-man

13. Việc giao-thiệp với Tàu

V. Lê Hiến Tông

VI. Lê Túc Tông và Lê Uy Mục

VII. Lê Tương Dực

1. Việc thuế-má

2. Đại-Việt thông-giám

3. Sự biến-loạn

VIII. Lê Chiêu Hoàng và Lê Cung Hoàng

1. Giặc Trần Cao quấy-nhiễu ở Đông-đô

2. Quan trong Triều làm loạn

3. Mạc đăng Dung chuyên quyền

I. Lê Thái Tổ ( 1428 - 1433 )

Niên-hiệu: Thuận Thiên

 

1. B́nh Định Vương Lên Ngôi Tôn.

B́nh-định-vương là Lê Lợi có công dẹp giặc Minh, đem lại giang-sơn cho nước nhà. Nhưng v́ trước phải lấy cớ lập con cháu nhà Trần để cầu ḥa với nhà Minh, cho nên phải tôn Trần Cao lên làm vua. Nay việc chiến-tranh đă xong, ḷng người theo về B́nh-định-vương, mà Trần Cao cũng biết chừng không ai để cho ḿnh ở yên, bèn trốn vào châu Ngọc-Ma (thuộc phủ Trấn-ninh) nhưng bị quan quân đuổi bắt được, đem về bắt phải uống thuốc độc mà chết.

Trần Cao chết rồi, B́nh-định-vương lên ngôi tức là vua Thái-tổ nhà Lê, đặt quốc-hiệu là Đại-Việt. Năm ấy là năm mậu-thân, lịch Tây là năm 1428.

Vua Thái-tổ sai sứ sang cầu phong bên Tàu, nhưng mà nhà Minh không chịu, bắt phải t́m con cháu nhà Trần để lập lên làm vua. Sứ nhà Minh đi về hai ba lần, sau vua Thái-tổ bắt các quan viên và phụ lăo trong nước làm tờ khai rằng con cháu nhà Trần thật không c̣n ai nữa, và xin phong cho ngài là Lê Lợi làm vua nước Nam. Vua nhà Minh thấy vậy mới thuận phong vương cho ngài.

Từ đấy lệ cứ 3 năm phải sang cống nhà Minh một lần, mà lần nào cũng phải đúc hai người bằng vàng gọi là: "đại thân kim nhân ". Có lẽ là lúc đánh trận Chi-lăng có giết mất tướng nhà Minh là Liễu Thăng và Lương Minh, cho nên phải đúc hai người bằng vàng thế mạng.

Việc cầu phong và việc chịu cống nước Tàu là việc thế bất-đắc-dĩ, v́ rằng nước ta đối với nước Tàu th́ lớn nhỏ khác nhau nhiều lắm; vả lại nước ta một ḿnh lẻ-loi ở phía nam không có vây-cánh nào cả, như vậy, nếu mà cứ kháng-cự, không chịu kém một tí, th́ không bao giờ yên được. Mà dẫu bề ngoài ḿnh chịu kém nước Tàu, nhưng kỳ thực bề trong vẫn tự chủ, chứ người Tàu không xâm-phạm ǵ đến việc nước ḿnh. Thế cũng là một sự giao-thiệp khôn-khéo, làm cho nước được yên-trị.

Vua Thái-tổ lên ngôi rồi, phong thưởng cho các công-thần: bên văn th́ ông Nguyễn Trăi đứng đầu, bên vơ th́ ông Lê Vấn đứng đầu, cả thảy là 227 người đều được quốc-tính cả. Ngài lại phong cho ông Nguyễn Trăi là Quan-phục-hầu, ông Trần nguyên Hăn là Tả-tướng-quốc, ông Phạm văn Xảo làm Thái-úy.

Những người công-thần vào bậc thứ nhất th́ được thưởng tước là Thượng-trí-tự, bậc thứ nh́ th́ được tước là Đại-trí-tự, bậc thứ ba th́ được tước là Trí-tự.

2. Việc Học Hành.

Vua Thái-tổ sửa-sang việc học-hành, đặt trường Quốc-tử-giám ở đất kinh-đô để cho con cháu các quan viên và những người thường dân tuấn-tú vào học-tập; mở nhà học và đặt thầy dạy nho-học ở các phủ và các lộ. Rồi lại bắt các quan văn vũ từ tứ phẩm trở xuống phải vào thi Minh-kinh-khoa,

nghĩa là quan văn th́ phải thi kinh-sử, quan vũ th́ phải thi vũ-kinh. ở các lộ cũng mở khoa thi Minh-kinh

để cho những người ẩn-dật ra ứng-thí mà chọn lấy nhân-tài.

Những người đi tu đạo Phật, đạo Lăo cũng bắt phải thi kinh điển những đạo ấy; hễ ai thi trúng th́ mới cho phép được làm tăng và đạo-sĩ, ai thi hỏng th́ phải về tục làm ăn.

3. Luật Lệ.

Đặt ra luật-lệ mới theo như h́nh-luật nhà Đường: có tội xuy, tội trượng, tội đồ, tội lưu và tội tử.

Tội xuy chia ra làm 5 bậc từ 10 roi đến 50 roi; tội trượng cũng chia ra làm 5 bậc, từ 60 đến 100 trượng; tội đồ chia ra làm 3 bậc: đồ làm dịch đinh, đồ làm lính chuồng voi, và đồ làm lính đồn-điền; tội lưu chia ra làm 3 bậc : lưu đi cận châu, lưu đi viễn châu và lưu đi ngoại châu 92 ; tội tử cũng chia ra làm 3 bậc: tội thắt cổ và chém, tội chém bêu đầu và tội lăng-tŕ.

Hễ ai được vào hàng bát nghị [ 93 ]

th́ trước phải tâu xin nghị, khi vào nghị xong rồi lại phải tâu để vua xét lại. Những người cựu thần có công từ ngũ-phẩm dĩ thượng, có ai phạm tội đồ hay là tội lưu th́ cũng tha cả; con cháu những người được nghị công mà có tội, th́ cứ theo cái thứ bậc tập [92]

Lưu đi cận châu là vào Nghệ-an, đi viễn châu là vào Bố-chính, đi ngoại châu là vào Tân-b́nh. [ 93 ]

Bát nghị là : Nghị thân, nghị cố, nghị hiền, nghị năng, nghị công, nghị quí, nghị cần, nghị tân. Xem ở sách Chu-lễ th́ biết rơ. ấm của ông cha mà giảm cho. Những quan viên, quân dân ai có lầm-lỗi, nhỡ ra phạm đến tội lưu trở xuống th́ được cho chuộc. Những người 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống hay là có phế-tật mà phạm tội lưu trở xuống, th́ cũng được cho chuộc. Những người 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống hay là đốc-tật, th́ cứ thứ-tự giảm bớt cho. Những người phạm tội ǵ hay là phạm tội ăn-trộm, ăn-cắp của người ta mà tự ḿnh ra thú nhận trước, th́ được lượng tội mà giảm cho ít nhiều.

Trong nước bấy giờ có nhiều người du-đăng cứ rượu chè cờ bạc, không chịu làm ăn tử-tế, vậy nên đặt ra phép nghiêm để trừng-trị : ai đánh đổ-bác bắt được phải chặt ngón tay mất ba phân; đánh cờ, bắt được phải chặt ngón tay mất một phân; không có việc ǵ quần-tụ nhau để rượu chè, phải đánh 100 trượng, người dung chứa những kẻ ấy cũng phải tội, nhưng mà được giảm đi một bậc.

Sự nghiêm-phạt như thế, th́ có thái-quá thật, v́ là làm tàn-hại đến thân-thể người ta, nhưng mà cũng có công-hiệu, khiến cho trong nước bớt có thứ người cả đời không chịu làm ǵ, chỉ đi đánh lừa người mà kiếm ăn.

4. Việc Cai Trị.

Khi vua Thái-tổ mới ở Nghệ-an ra Đông-đô, th́ đă chia nước ra làm bốn đạo, nay lại đặt thêm một đạo nữa gọi là Hải-tây- đạo, gồm cả Thanh-hóa, Nghệ-an, Tân-b́nh và Thuận-hóa.

Trong các đạo, đạo nào cũng có quan Hành-khiển để giữ sổ-sách về việc quân-dân. C̣n như các xă-thôn th́ cứ xă nào có hơn 100 người trở lên, gọi là đại xă, đặt ba người xă quan; xă nào có 50 người trở lên, gọi là trung xă, đặt hai xă quan; xă nào có 10 người trở lên gọi là tiểu xă, đặt một người xă quan để coi việc trong xă.

5. Phép Quân Điền.

Bấy giờ thường những người không có công-lao ǵ với nhà-nước th́ lắm ruộng nhiều nương, mà những kẻ phải đánh đông dẹp bắc lao-lung khổ-sở, lúc về một tấc đất cũng không có. V́ thế cho nên vua Thái-tổ định ra phép quân-điền

để lấy công điền, công thổ mà chia cho mọi người, từ quan đại-thần cho đến những người già yếu cô quả, ai cũng có một phần ruộng, khiến cho sự giàu nghèo ở trong nước khỏi chênh-lệch lắm.

6. Việc Binh Lính.

Khi giặc Minh hăy c̣n ở nước Nam, th́ phải cần có nhiều quân binh, cho nên lúc quân An-nam ta mới ra Đông-đô, cả thảy được 25 vạn, sau lấy được Đông-đô rồi cho 15 vạn về làm ăn, chỉ để lại 10 vạn để pḥng-vệ mà thôi, nay lại chia quân ra làm 5 phiên, một phiên ở lại lưu ban c̣n bốn phiên cho về làm ruộng, cứ lần lượt thay đổi nhau mà về.

7. Công Thần Bị Giết.

Vua Thái-tổ vẫn là một ông vua anh tài, đánh đuổi được giặc Minh, mà lại sửa-sang được nhiều công-việc ích-lợi cho nước, nhưng khi ngài lên làm vua rồi, có tính hay nghi-ngờ, chém giết những người công-thần như ông Trần nguyên Hăn và ông Phạm văn Xảo. Hai ông ấy giúp ngài đă có công to, về sau chỉ v́ sự gièm-pha mà đều phải chết oan cả.

Nghĩ mà buồn thay cho mấy người công-thần đời xưa, chỉ lầm về hai chữ công danh, mà đem tấm ḷng son sắt đi phù-tá quân-vương trong lúc nguy-nan, mong được chút hiển-vinh để cho thỏa cái chí trượng-phu ở đời. Ngờ đâu : Chim bay đă hết, cung tốt cất đi, thỏ nhanh chết rồi, chó săn phải giết; đến khi công việc xong rồi, th́ không những là một thân ḿnh cũng không được trọn vẹn mà cả họ-hàng thường cũng phải vạ lây. Thế mới biết chỉ có ôn Trương tử Pḥng nhà Hán là người kiến cơ hơn cả !

Vua Thái-tổ làm vua được 6 năm th́ mất, thọ được 49 tuổi.

II. Lê Thái Tông ( 1434 - 1442 )

Niên-hiệu: Thiệu B́nh ( 1434 - 1442 )

Đại Bảo ( 1440 - 1442 )

Khi vua Thái-tông lên làm vua th́ ngài mới có 11 tuổi, cho nên công- việc ǵ cũng ở quan Phụ-chính là Lê Sát quyết định hết cả.

Lê Sát là một người ít học nhưng v́ trước theo vua Thái-tổ lập được công to, quan làm đến Đại-tư-đồ. Nay làm Phụ-chính, thường hay cậy quyền, trái phép, làm nhiều điều kiêu-hănh, hễ triều-thần ai là người không ṭng-phục th́ t́m cách làm hại.

Vua Thái-tông tuy c̣n trẻ tuổi nhưng vốn có tính thông-minh, làm vua được ít lâu th́ ra thân chính lấy, rồi giết Lê Sát đi để thu lấy quyền. Song cũng v́ ít tuổi mà lại không có người phù-tá, cho nên sau thành say- đắm tửu sắc làm lắm điều không được chính-đính.

Đời Thái-tông làm vua th́ trong nước phải mấy năm đại hạn, nước lụt và hoàng-trùng làm hại mùa-màng, dân phải đói khổ. ở mạn mường- mán lại có đôi ba đám giặc nổi lên làm loạn, có khi vua phải thân chinh đi đánh, có khi chỉ sai quan đi tiểu-trừ, cũng dẹp yên được. C̣n việc giao- thiệp với những nước lân-bang, như Tiêm-la (Thái-lan), Chiêm-thành, Ai-lao th́ những nước ấy đều có sứ thần đi lại và thường có tiến cống cả.

Ở trong th́ chỉnh-đốn việc thi-cử lại. Lệ cứ 5 năm một lần thi hương, 6 năm một lần thi hội. Phép thi th́ kỳ đệ-nhất làm một bài kinh- nghĩa, bốn bài tứ-thư nghĩa, mỗi bài phải 300 chữ trở lên; kỳ đệ-nhị th́ làm bài chiếu, bài chế và bài biểu; kỳ đệ-tam làm bài thi phú; kỳ đệ-tứ th́ làm một bài văn sách phải 1.000 chữ trở lên.

Đến năm nhâm-tuất (1442) mở khoa thi tiến-sĩ, bao nhiêu những người thi đỗ đều được khắc tên vào bia đá để phấn-chấn ḷng người văn- học. Các tiến-sĩ được khắc tên vào bia ở Văn-miếu khởi đầu từ đấy.

Những cách-thức tiêu-dùng tiền và lụa vải ở trong nước cũng định lại cả; cứ 60 đồng là một tiền; lụa th́ cứ dài 30 thước, rộng 1 thước 5 tấc trở lên là một tấm; giấy th́ 100 tờ làm một tập.

Tháng bảy năm nhâm-tuất (1442), Thái-tông đi duyệt binh ở huyện Chí-linh. Bấy giờ ông Nguyễn Trăi đă về trí sĩ ở trại Côn-sơn, thuộc huyện Chí-linh. Khi vua đi qua đó có vào thăm, và thấy người hầu ông ấy là Nguyễn thị Lộ có tài sắc, bèn bắt theo hầu. Đi đến huyện Gia-định (nay là huyện Gia-b́nh ở Bắc-ninh) th́ vua mất. Triều-đ́nh đổ tội cho Nguyễn thị Lộ giết vua, bắt ông Nguyễn Trăi làm tội và tru di cả ba họ.

Vua Thái-tông làm vua được 9 năm, thọ được 20 tuổi.

III. Lê Nhân Tông ( 1443 - 1459 )

Niên-hiệu: Đại Ḥa ( 1443 - 1453)

Diên Ninh ( 1454 - 1459 )

Khi vua Thái-tông mất, thái-tử là Băng Cơ mới lên 2 tuổi. Các quan đại-thần là bọn Lê Khả, Nguyễn Xí, lập thái-tử lên làm vua, tức là Nhân-tông, để bà Hoàng-thái-hậu ra nhiếp chính.

Trong mấy năm bà thái-hậu cầm quyền, th́ có mấy việc quan-trọng như là đặt ra 14 điều hộ-luật về việc tư-điền; đổi cách thi để lấy người làm lại, bỏ thi ám-tả và thi kinh-nghĩa, chỉ thi viết và thi tính mà thôi. Lại đào sông B́nh-lỗ [94] ở tỉnh Thái-Nguyên để cho tiện đường vận-tải.

C̣n ở ngoài, th́ vua nước Chiêm-thành là Bí Cai cứ hay sang cướp phá ở đất Hóa-châu. Triều-đ́nh đă mấy phen sai quan vào đánh đuổi, nhưng vẫn không chừa. Đến năm bính-dần (1446) Triều-đ́nh sai Lê Thụ, Lê Khả đem quân sang đánh Chiêm-thành lấy được thành Đồ-bàn, bắt được Bí Cai và cả phi tần đem về để ở Đông-kinh, rồi lập người cháu vua Bồ-đề là Mă-kha-qui-Lai lên làm vua.

Năm mậu-th́n (1448) lại có xứ Bồn-man xin nội thuộc nước ta, đặt làm châu Qui-hợp. Đất Bồn-man phía đông-nam giáp tỉnh Nghệ-an, tỉnh Quảng-b́nh, phía tây-bắc giáp tỉnh Hưng-hóa, tỉnh Thanh-hóa.

Tuy vậy, nhưng v́ bà Thái-hậu hay nghe những lời nói gièm, chém giết các quan cựu-thần như là Lê Khả, Lê khắc Phục, làm cho nhiều người không phục.

Năm quí-dậu (1453), Nhân-tông mới bắt đầu thân chính. Trước hết ngài truy-tặng cho những người công-thần và cấp ruộng quan-điền cho con cháu các ông Lê Sát, Lê Ngân, và Lê khắc Phục.

Lại sai ông Phan phù Tiên làm bộ quốc-sử kể từ vua Thái-tông nhà Trần cho đến khi thuộc nhà Minh, cả thảy là 10 quyển.

Trước các vương-hầu và các quan văn-vũ đều cứ theo phẩm-hàm của ḿnh mà ăn lộc lấy thuế trong 50 hộ hay là 100 hộ. Nay Nhân-tông lại cho thêm tiền tuế-bổng nữa.

Vua Nhân-tông có lẽ cũng nên được một ông vua hiền, nhưng chẳng may ngài có người anh là Lạng-sơn-vương Nghi Dân, trước đă làm Thái-tử, sau v́ người mẹ phải tội cho nên phải bỏ. Đến năm kỷ-măo (1459), Nghi Dân đồng mưu với bọn Lê đắc Ninh, Phạm Đồn, Phan Ban và Trần Lăng, nửa đêm trèo thành vào giết Nhân-tông và Hoàng-thái-hậu, tự xưng làm vua, rồi cho sứ sang Tàu cầu phong.

Nhân-tông trị-v́ được 17 năm, thọ 19 tuổi. [94]

"Khâm-định Việt-sử" chép rằng sông B́nh-lỗ chảy từ Thái-nguyên về đến Phù-lộ, th́ có lẽ sông B́nh-lỗ là sông Cà-lồ chăng? IV. Lê Thánh Tông ( 1460 - 1497 ) Niên-hiệu: Quang Thuận ( 1460 - 1469) Hồng Đức ( 1470 - 1497 )

Nghi Dân cướp ngôi vua được 8 tháng, nhưng v́ tính hay nghe lời dua-nịnh, chém giết kẻ cựu thần, cho nên ḷng người không ai phục, đến tháng sáu năm canh-th́n (1460) các quan đại-thần là bọn Nguyễn Xí, Đinh Liệt mưu chém Phạm Đồn và Phan Ban ở giữa nghị-sự-đường, rồi đóng cữa thành lại vào bắt Nghi Dân giết đi, rước con thứ tư vua Thái-tông là B́nh- nguyên-vương Tư-Thành lên làm vua, tức là vua Thánh-tông.

Thánh-tông là một ông vua thông-minh, thờ mẹ rất có hiếu, ở với bề tôi đăi lấy ḷng thành. Ngài trị-v́ được 38 năm, sửa-sang được nhiều việc chính-trị, mở-mang sự học hành, chỉnh-đốn các việc vũ-bị, đánh dẹp nước Chiêm, nước Lào, mở thêm bờ-cơi, khiến cho nước Nam ta bấy giờ đuợc văn- minh thêm ra và lại lừng-lẫy một phương, kể từ xưa đến nay chưa bao giờ cường-thịnh như vậy.

Thánh-tông lên ngôi rồi phong tước và cấp ruộng quan điền cho các công-thần. Ngài lại truy-tặng những người công-thần bị giết oan ngày trước, và cho t́m con cháu ông Nguyễn Trăi về, cấp cho 100 mẫu ruộng để phụng- thờ tổ-tiên.

Những người mà được quốc-tính, nay ngài cho phục tính lại để cho khỏi mất tên họ.

1. Việc Cai Trị.

Từ trước đến giờ triều-chính vẫn theo lối cũ của nhà Trần : trên th́ có tả hữu Tướng-quốc, rồi đến Lễ-bộ, Lại-bộ, Nội- các-viện, Trung-Thư, Hoàng-Môn, và ba sở Môn-hạ, lại có ngũ-đạo Hành- khiển để coi sổ-sách quân-dân các đạo. Đến khi Nghi Dân cướp ngôi, đặt ra lục Bộ và lục Khoa. Lục Bộ là : Lại-bộ, Hộ-bộ, Lễ-bộ, Binh-bộ, Công-bộ và H́nh-bộ. Lục khoa là : Lại-khoa, Lễ-khoa, Binh-khoa, H́nh-khoa, Hộ-khoa và Công-khoa.

Quan lục bộ th́ có Thượng-thư làm đầu, rồi đến tả hữu Thị-lang, Lang-trung, Viên-ngoại-lang, Tư-vụ.

Thánh-tông đặt thêm ra lục tự là : Đại-lư-tự, Thái-thường-tự, Quang- lộc-tự, Thái-bộc-tự, Hồng-lô-tự, Thượng-bảo-tự. Quan Lục Tự th́ có Tự- khanh, Thiếu-khanh và Tự-thừa.

Ngài lại lập ra quan chế và lễ-nghi theo như bên Tàu. Các quan văn vơ có phần ruộng đất, lại được tiền tuế bổng. Nhưng ai mà làm điều ǵ nhũng-lạm th́ đều phải nghiêm trị.

Ngài lại định lệ trí sĩ, cho các quan nội ngoại : ai làm quan đến 65 tuổi th́ được xin về trí sĩ, c̣n những người làm nha-lại đến 60 tuổi cũng được xin về.

Trước vua Thái-tổ chia ra làm 5 đạo, có phủ, lộ, trấn, châu, huyện, xă. Đạo th́ đặt quan Hành-khiển, Tuyên-phủ chánh phó-sứ; phủ th́ đặt Tri- phủ; lộ th́ đặt An-phủ-sứ; trấn th́ đặt Trấn-phủ-sứ; huyện th́ đặt Chuyển- vận-sứ và Tuần-sát-sứ; xă th́ đặt Xă-quan.

Thánh-tông chia nước ra làm 12 đạo là Thanh-hóa, Nghệ-an, Thuận-hóa, Thiên-trường, Nam-sách, Quốc-oai, Bắc-giang, An-bang, Hưng- hóa, Tuyên-quang, Thái-nguyên, Lạng-sơn. Mỗi đạo có ṭa Đô, ṭa Thừa và ṭa Hiến. Ṭa Đô th́ có chánh phó Đô-tổng-binh, coi về việc binh; ṭa Thừa th́ có Thừa-chính chánh-phó-sứ, coi về việc chính; ṭa Hiến th́ có Hiến-sát chánh-phó-sứ, coi về việc h́nh.

Lại đặt ra chức Giám sát-ngự-sử để đi xem xét công-việc ở các đạo cho khỏi sự nhũng-nhiễu.

Sau nhân có đất Quảng-nam mới lấy của Chiêm-thành lại đặt ra làm 13 xứ là Thanh-hóa, Nghệ-an, Sơn-nam (trước là Thiên-trường), Sơn-tây (trước là Quốc-oai), Kinh-bắc (trước là Bắc-giang), Hải-dương (trước là Nam- sách), Thái-nguyên, Tuyên-quang, Hưng-hóa, Lạng-sơn, An-bang, Thuận- hóa, Quảng-nam. Ở những xứ hiểm-yếu như Nghệ-an, Thuận-hóa, Tuyên- quang, Hưng-hóa, Thái-nguyên, Lạng-sơn, Quảng-nam đều đặt chức Thủ- ngự kinh-lược-sứ để pḥng giữ. Trong 13 xứ ấy lại chia làm 52 phủ, 172 huyện và 50 châu. C̣n ở dưới phủ huyện th́ có hương, phường, xă, thôn, trang, sách, động, nguyên, trưởng cả thảy là 8.006.

2. Việc Thuế Lệ.

Bấy giờ thuế đinh mỗi người đồng niên đóng 8 tiền; c̣n thuế ruộng, thuế đất và thuế đất băi trồng dâu th́ cứ kể mẫu mà đóng thuế, mà thứ đất nào cũng chia ra làm ba hạng.

Việc làm sổ hộ, th́ cứ 6 năm một kỳ, quan phủ huyện phải dẫn các xă-trưởng về Kinh để khai số hộ-khẩu ở các xă.

3. Việc Canh Nông.

Vua Thánh-tông lấy sự nông-tang làm trọng, cho nên ngài chú ư về việc ấy lắm. Thường thường ngài sắc cho phủ huyện phải hết sức khuyên bảo dân làm việc cày ruộng trồng dâu.

Đặt quan Hà-đê và quan Khuyến-nông để coi việc cày cấy trong nước. Bắt quan Hộ-bộ và quan Thừa-chính ở các xứ phải tâu cho ngài biết những đất bỏ hoang để bắt phủ huyện đốc dân phu khai-khẩn làm ruộng.

Lập ra cả thảy 42 sở đồn-điền, đặt quan để trông-nom sự khai-khẩn, khiến cho dân khỏi phải đói-khổ.

4. Nhà Tế Sinh.

Vua Thánh-tông lại lo đến các chứng bệnh làm hại dân. Ngài lập nhà Tế-sinh để nuôi những người đau-yếu, và khi nào ở đâu có dịch tễ th́ sai quan đem thuốc đi chữa bệnh.

5. Việc Sửa Phong Tục. Dân ta bấy giờ sùng-tín đạo Phật, hay làm đ́nh làm chùa. Những lễ hôn và lễ tang th́ làm những điều trái với lẽ thường, như là nhà nào có tang-chế th́ làm cỗ bàn ăn-uống, rồi bày ra các tṛ hát xướng, làm một cuộc vui chơi. Lễ hôn th́ ăn lễ hỏi rồi, để ba bốn năm mới cho rước dâu về nhà chồng.

Thánh-tông cấm không cho làm chùa mới, để tiền của và công-phu mà làm việc có ích. Cấm những nhà có lễ tang không được bày cuộc hát xướng. Việc hôn th́ khi đă nhận lễ hỏi rồi, phải chọn ngày cho rước dâu, và lệ cứ cưới rồi ngày hôm sau đi chào cha mẹ, ba ngày th́ đi lễ từ đường.

Ngài lại đặt ra 24 điều, sức cho dân-xă thường thường giảng đọc để giữ lấy thói tốt :

1. Cha mẹ dạy con phải có phép-tắc, trai gái đều có nghề-nghiệp, không được rượu-chè cờ-bạc, tập nghề hát-xướng để hại phong-tục.

2. Người gia-trưởng tự ḿnh phải giữ lễ-phép để cho cả nhà bắt-chước; nếu con em làm càn, th́ bắt tội người gia trưởng.

3. Vợ chồng cần-kiệm làm ăn, ân-nghĩa trọn-vẹn, duy chỉ có khi nào người vợ phạm tội thất-xuất th́ mới được bỏ, chứ không được khiên ái cẩu dung làm hại đến phong-hóa.

4. Làm kẻ tử-đệ nên yêu-mến anh em, ḥa-thuận với hương-đảng, phải lấy lễ-nghĩa mà cư-xử; nếu trái phép th́ người tôn-trưởng đánh-đập dạy-bảo, có tội to th́ phải đem nộp quan để trừng-trị.

5. ở chốn hương-đảng tông-tộc, có việc hoạn-nạn th́ phải giúp-đỡ lẫn nhau; nếu ai có tiếng là người hạnh-nghĩa tốt, th́ các quan phủ huyện sở tại phải bẩm lên ṭa Thừa, ṭa Hiến, để tâu vua mà tinh biểu cho.

6. Đàn-bà có lỗi mà cha mẹ và chồng đă trừng-trị th́ nên phải sửa ḿnh đổi lổi, không được tự-tiện trốn đi, làm hư mất nết đàn-bà.

7. Người đàn-bà góa không được chứa những đứa trai trẻ ở trong nhà, nói dối là con nuôi để ám hành những việc gian dâm.

8. Người đàn-bà góa chồng, đối với các con vợ cả, hoặc vợ lẽ, nàng hầu, nên có ḷng thương-xót, không được mưu-mô để chiếm đoạt gia-tài làm của riêng ḿnh.

9. Đàn-bà góa chồng, chưa có con-cái, phải ở nhà chồng để giữ đủ tang-lễ, không được chuyển-vận, của-cải mang về nhà ḿnh.

10. Làm đàn-bà th́ phải theo chồng, không được cậy cha mẹ ḿnh phú-quí mà khinh nhà chồng, nếu không như thế th́ bắt tội đến cha mẹ.

11. Kẻ sĩ-phu nên quí phẩm-hạnh và giữ phép quan, nếu cứ xu-nịnh những kẻ quyền quí để cậy thế làm càn th́ phải cách bỏ đi không kể đến nữa.

12. Kẻ điển-lại chỉ việc giữ sổ-sách giấy-má để làm việc quan, nếu làm những sự điên-đảo án từ, th́ quan trên sẽ xét ra mà trừng trị.

13. Quan dân đều phải hiếu-để, và chăm-chỉ làm ruộng, cùng giúp đỡ lẫn nhau; khi đi làm việc quan, không được trễ biếng, trốn-tránh. Nếu ai có tiếng là người lương-thiện th́ các quan phủ huyện phải tŕnh ṭa Thừa, ṭa Hiến để tâu mà tinh biểu cho.

14. Kẻ thương-măi phải tùy thời giá mà buôn-bán với nhau, không được thay đổi thưng đấu, và tụ-tập đồ-đảng để đi trộm-cướp; nếu phạm điều ấy th́ trị tội rất nặng.

15. Việc hôn-giá tế-tự phải giữ lễ-phép, không được làm càn.

16. Chỗ dân-gian có mở trường du-hí hoặc cúng-tế, th́ con-trai con-gái đến xem, không được đứng lẫn lộn, để khỏi thói dâm.

17. Các hàng quán bên đường, có phụ-nữ đi xa đến trọ, th́ phải pḥng giữ. Nếu để hà-hiếp ô-nhục người ta, việc phát-giác ra, th́ người phạm cùng với chủ nhà đều phải trị tội cả.

18. Phủ huyện phải lập bia ở các nơi sở-tại để cấm con-trai con-gái không được cùng tắm một bến, để cho có phân biệt.

19. Các xă-thôn phải chọn một vài người già-cả, đạo-đức làm trưởng, những ngày thong-thả đem dân ra đ́nh, tuyên giảng những lời cáo dụ, để khiến dân bắt-chước làm điều thiện, thành ra mỹ tục.

20. Trong hạt phủ huyện có kẻ cường-hào xâm-chiếm điền-thổ, ức-hiếp cô- độc và xui-giục người ta kiện-tụng, th́ cho xă-thôn cáo giác lên để quan xử- trị, nếu mà ẩn-nặc th́ phải biếm-băi.

21. Các nhà vương, công, đại-thần dung túng những đứa tiểu-nhân, đưa người khấn lễ, và để cho người nhà đi ức-hiếp dân-gian mà mua rẻ các đồ vật, th́ cho dân được đầu cáo để trọng trị.

22. Những người làm quan phủ, huyện mà biết khuyên-bảo dân-gian làm điều lễ-nghĩa khiêm-nhượng, có quan Thừa-chính, Hiến-sát xét thực, th́ được cho vào hạng tốt; nếu ai không chăm dạy-bảo dân th́ cho là người không xứng chức.

23. Các người huynh-trưởng ở chốn xă-thôn và phường biết dạy bảo con em trong làng cho nên được phong-tục tốt, th́ quan phủ huyện phải bẩm ṭa Thừa, ṭa Hiến để tâu vua ban khen cho.

24. Các dân mường-mán ở ngoài bờ-cơi, nên giữ lời di-huấn, không được trái đạo luân-thường như cha, anh, chú, bác đă chết th́ con em không được chiếm lấy những thê-thiếp, nếu mà trái phép, th́ sẽ trị tội rất nặng.

6. Địa Đồ Nước Nam.

Từ xưa đến nay nước Nam ta vẫn không có địa-đồ, Thái-tông bèn sai quan ở các đạo xem xét ở trong hạt ḿnh có những núi sông ǵ, hiểm-trở thế nào phải vẽ địa-đồ ra cho rơ-ràng và chỗ nào tự cổ chí kim có những sự-tích ǵ phải ghi-chép vào cho tường-tận, rồi gửi về bộ Hộ để làm quyển địa-dư nước ta.

7. Đại Việt Sử Kư.

Thánh-tông sai Ngô sĩ Liên làm bộ Đại-Việt sử-kư chia ra làm 2 bản. Một bản kể từ Hồng-bàng-thị cho đến thập-nhị Sứ- quân có 5 quyển. Một bản kể từ Đinh Tiên-hoàng cho đến Lê Thái-tổ có 10 quyển. Cả thảy là 15 quyển.

8. Việc Văn Học.

Vua Thánh-tông định phép thi hương, sửa phép thi hội, để chọn lấy nhân-tài. Thường ngài ra làm chủ các kỳ thi đ́nh, và ngài lập ra lệ xướng danh các Tiến-sĩ và lệ cho về vinh qui.

Ngài mở rộng nhà Thái-học ra. Phía trước th́ làm nhà Văn-miếu, phía sau th́ làm nhà Thái-học, và làm ra các pḥng ốc để cho những kẻ sinh-viên ở học. Làm kho Bí-thư để mà chứa sách. Sự học bấy giờ càng ngày càng mở-mang thêm.

Ngài lại hay ngâm thi, đặt ra Quỳnh-uyển cửu-ca, xưng làm Tao-đàn nguyên-súy, cùng với kẻ triều-thần là bọn ông Thân nhân Trung, Đỗ Nhuận, cả thảy 28 người xướng họa với nhau. Non xanh nước biếc chỗ nào cũng có thơ của ngài.

Ngài sai ông Thân nhân Trung và ông Đỗ Nhuận làm bộ Thiên-nam dư-hạ-tập, 100 quyển nói về việc chính là h́nh-luật đời Hồng-đức. Ngài làm ra một quyển Thân-chinh kư-sự, kể việc ngài đi đánh Chiêm-thành, Lăo-qua và các mường.

9. Việc Vơ Bị.

Tuy rằng vua Thánh-tông hết ḷng sửa-sang mọi việc trong nước, nhưng ngài cũng hiểu rằng phàm một nước mà cường-thịnh th́ tất là phải có vơ-bị, cho nên ngài bắt các quan tổng-binh phải chăm giảng-tập trận-đồ, phải luyện-tập sĩ-tốt để pḥng khi có việc.

Ngài đổi năm Vệ-quân ra làm năm phủ là : Trung-quân phủ, Nam quân-phủ, Bắc-quân phủ, Đông-quân phủ và Tây-quân phủ. Mỗi một phủ th́ có 6 vệ, mỗi vệ có 5 hay là 6 sở, mỗi sở có số quân độ 400 người. Quân cả 5 phủ ước chừng 6, 7 vạn người. Ngài lại đặt ra 31 điều quân lệnh để tập thủy trận; 42 điều để tập bộ trận.

Lại đặt ra lệ cứ ba năm một kỳ thi vơ. Tướng-sĩ ai đậu th́ thưởng, ai hỏng th́ phạt, để khiến mọi người đều vui ḷng về việc vơ-bị.

Đời vua Thánh-tông mấy năm về trước cũng được yên ổn, nhưng mấy năm về sau th́ phải chinh-chiến nhiều lần. Khi th́ phải đánh giặc Lào, khi th́ đánh những giặc cỏ ở trong nước; nhưng chỉ có đánh Chiêm-thành, đánh Lăo-qua và đánh Bồn-man là phải dùng đến đại-binh.

10. Đánh Chiêm Thành.

Năm canh-th́n (1470) là năm Hồng-đức nguyên-niên, vua nước Chiêm-thành là Trà Toàn muốn sinh sự với nước Nam. Một mặt th́ cho người sang cầu viện-binh bên nhà Minh, một mặt th́ đem quân sang đánh phá ở đất Hóa-châu.

Vua Thánh-tông cho sứ sang Tàu kể chuyện Trà Toàn làm nhiễu, rồi ngài tự làm tướng, cử đại-binh hơn 20 vạn sang đánh Chiêm-thành; khi quân vào đến Thuận-hóa, Thánh-tông đóng quân lại để luyện-tập và sai người lẻn sang vẽ địa-đồ nước Chiêm-thành để biết cho rơ chỗ hiểm chỗ không rồi mới tiến binh lên đánh lấy cửa Thị-nại (cửa B́nh-định).

Trà Toàn đánh thua, rút quân về giữ kinh-thành Đồ-bàn. Quân An- Nam kéo đến vây đánh, phá được thành, bắt được Trà Toàn.

Bấy giờ có tướng Chiêm-thành là Bô tŕ Tŕ chạy về đất Phan-lung, sai sứ vào cống và xin xưng thần. Thánh-tông có ư muốn làm cho nước Chiêm yếu thế đi, mới chia đất ra làm ba nước, phong làm ba vua, một nước gọi là Chiêm-thành, một là Hóa-anh và một nước nữa là Nam-phan.

C̣n đất Đồ-bàn, đất Đại-chiêm và đất Cổ-lũy th́ vua Thánh-tông lấy để lập thêm đạo Quảng-nam, có 3 phủ, 9 huyện, rồi đặt quan cai-trị, và chọn dân đinh từ 15 tuổi trở lên, ai là người thông-minh ham học th́ cho làm sinh-đồ, để dạy cho sự học-hành và sự lễ-nghĩa.

Khi Trà Toàn đă phải bắt rồi, em là Trà Toại trốn vào núi, sai người sang kêu với nhà Minh và xin phong làm vua. Thánh-tông biết tin ấy liền sai ông Lê Niệm đem 3 vạn quân vào bắt được Trà Toại giải về kinh-sư. Sau vua nhà Minh có sai sứ sang bảo ngài phải trả đất Chiêm-thành, nhưng ngài không chịu.

Từ khi vua Thánh-tông đánh được Chiêm-thành rồi, thanh-thế nước Nam lừng-lẫy, nước Lào và các mường ở phía tây đều về triều cống cả.

11. Đánh Lăo Qua.

Đến năm kỷ-hợi (1479) có tù-trưởng xứ Bồn-man là Cầm Công có ư làm phản, xui người Lăo-qua [95] đem binh quấy- nhiễu ở miền tây nước ta. Thánh-tông liền sai quan Thái-úy là Lê thọ Vực  [95]

Lăo-qua, là đất thượng Lào ở về phía tây Bắc-Việt bây giờ tức là Luang-Prabang. Có khi gọi là nước Nam-chướng. cùng với các tướng quân là Trịnh công Lộ, Lê đ́nh Ngạn, Lê Lộng và Lê nhân Hiếu chia làm 5 đạo đi từ Nghệ-an, Thanh-hóa và Hưng-hóa sang đánh đuổi vua Lăo-qua đến sông Kim-sa 96 giáp với nước Diến-điện. Trận ấy quân An- nam được toàn thắng.

12. Đánh Bồn Man.

Gây nên sự đánh Lăo-qua là cũng v́ họ Cầm ở Bồn-man muốn làm điều phản-nghịch.

Nguyên đất Bồn-man trước đă xin nội thuộc, đổi làm châu Qui-hợp, nhưng vẫn để cho tù-trưởng là họ Cầm được đời đời làm Phụ-đạo. Sau đổi làm Trấn-ninh phủ, có 7 huyện, và đặt quan phủ huyện để giám-trị. Nay Cầm Công cậy có người Lăo-qua giúp-đỡ, bèn đuổi quân An-nam đi, chiếm lấy đất, rồi đem quân chống giữ với quan quân.

Thánh-tông bèn ngự giá thân-chinh, nhưng đi đến Phù-liệt, được tin thắng trận của quân ta sang đánh Lăo-qua, ngài trở về, sai ông Lê Niệm đem binh đi đánh. Cầm Công đánh thua chết, c̣n những người Bồn-man xin hàng.

Thánh-tông phong cho người họ Cầm Công là Cầm Đông làm Tuyên- úy-đại-sứ và đặt quan cai-trị như trước.

13. Việc Giao Thiệp Với Tàu.

Nước ta bấy giờ tuy phải theo lệ xưng thần với nhà Minh, nhưng vua Thánh-tông vẫn hết ḷng pḥng- bị mặt bắc. Thỉnh-thoảng có những người thổ-dân sang quấy-nhiễu, th́ lập tức cho quan quân lên tiễu-trừ và cho sứ sang Tàu để phân-giải mọi sự cho minh-bạch. Có một hôm được tin rằng người nhà Minh đem binh đi qua địa- giới, Thánh-tông liền cho người lên do-thám thực hư. Ngài bảo với triều- thần rằng : "Ta phải giữ-ǵn cho cẩn-thận, đừng để cho ai lấy mất một phân núi, một tấc sông của vua Thái-tổ để lại."

Ngài có ḷng v́ nước như thế, cho nên dẫu nước Tàu có ư muốn ḍm-ngó cũng không dám làm ǵ. Vả lại quân An-nam bấy giờ đi đánh Lào, dẹp Chiêm, thanh-thế bao nhiêu, nhà Minh cũng phải lấy lễ-nghĩa mà đăi An-nam, cho nên sự giao-thiệp của hai nước vẫn được ḥa-b́nh.

Xem những công việc của vua Thánh-tông th́ ngài thật là một đấng anh-quân. Những sự văn-trị và sự vơ-công ở nước Nam ta không có đời nào thịnh hơn là đời Hồng-đức. Nhờ có vua Thái-tổ th́ giang-sơn nước Nam mới  [96]

Theo địa-dư nước Tàu, th́ Kim-sa-giang là khúc trên sông Trưng-giang. Sông ấy chảy ở phía bắc qua tỉnh Tây-khương và Tứ-xuyên. Đây có lẽ là nhà chép sử lẫn với khúc sông Lan-thương- giang là khúc trên Cửu-long-giang c̣n, và nhờ có vua Thánh-tông th́ văn-hóa nước ta mới thịnh, vậy nên người An-nam ta không bao giờ quên công đức hai ông vua ấy.

Thánh-tông làm vua được 38 năm thọ được 56 tuổi.

V. Lê Hiến Tông ( 1497 - 1504 )

Niên-hiệu: Cảnh Thống

Thái-tử là Tăng lên nối ngôi làm vua, tức là vua Hiến-tông.

Ngài là một ông vua thông-minh ḥa-hậu. Thường khi băi triều rồi, ngài ra ngồi nói chuyện với các quan, hễ ai có điều ǵ trái phải, ngài lấy lời êm-ái mà nhủ-bảo, chứ không gắt mắng bao giờ. Ngài vẫn hay nói rằng : "Vua Thái-tổ đă gây-dựng cơ-đồ, vua Thánh-tông đă sửa-sang mọi việc, ta nay chỉ nên lo ǵn-giữ nếp cũ, và mở-mang sự nhân-chính ra cho sáng rơ công-đức của ông cha trước."

Ngài theo cái chủ-ư ấy mà trị dân, cho nên trong mấy năm ngài làm vua không có giặc-giă ǵ, mà những việc chính-trị đều theo như đời Hồng- đức, chứ không thay-đổi ǵ cả. Nhất là về việc cày ruộng trồng dâu, ngài lưu tâm khuyên-nhủ quan dân, khiến mọi người phải hết sức giữ-ǵn, bắt đào sông, khai ng̣i, đắp đường, làm xe nước, để cho tiện việc vệ nông. Việc văn-học cũng vậy, không bao giờ ngài để trể-nải. Nhưng ngài trị-v́ được có 7 năm th́ mất, thọ được 44 tuổi.

VI. Lê Túc Tông ( 1504 ) và Lê Uy Mục ( 1505 - 1509 )

Niên-hiệu: Thái Trinh và Đoan Khánh

Hiến-tông mất, truyền ngôi lại cho người con thứ ba tên là Thuần, tức là vua Túc-tông.

Túc-tông làm vua được 6 tháng th́ mất. Triều-đ́nh tôn người anh thứ hai của ngài là Tuấn lên làm vua, tức là vua Uy-mục.

Từ vua Uy-mục trở đi th́ cơ-nghiệp nhà Lê mỗi ngày một suy dần, v́ rằng từ đó về sau không có ông vua nào làm được việc nhân-chính, và lại thường hay say-đắm tửu sắc, làm những điều tàn-ác, cho nên thành ra sự giặc-giă, thoán-doạt, đến nỗi về sau dẫu có trung-hưng lên được, nhưng quyền chính-trị vẫn về tay kẻ cường-thần.

Vua Uy-mục mới lên làm vua th́ giết tổ-mẫu là bà Thái-hoàng Thái- hậu, giết quan Lễ-bộ Thượng-thư là ông Đàm văn Lễ và quan Đô-ngự-sử là ông Nguyễn quang Bật, v́ lẽ rằng khi vua Hiến-tông mất, bà Thái-hậu và hai ông ấy có ư không chịu lập ngài.

Đă làm điều bạo-ngược, lại say đắm tửu-sắc; đêm nào cũng cùng với cung-nhân uống rượu, rồi đến khi say th́ giết đi. Có khi bắt quân sĩ lấy gậy đánh nhau để làm tṛ chơi. Tính đă hung-ác, mà lại hay phản-trắc. Cho nên sứ Tàu sang làm thơ gọi Uy-mục là Quỉ-vương .

Bấy giờ Uy-mục lại hay tin dùng mấy kẻ ngoại-thích và t́m những người có sức mạnh để làm túc-vệ. Bởi thế cho nên Mạc đăng Dung là người đánh cá vào thi đỗ đô-lực-sĩ, được làm chức Đô-chỉ-huy-sứ. C̣n những tôn- thất và công-thần th́ bị đánh-đuổi, dân sự th́ bị hà-hiếp, ḷng người ta-oán, thiên-hạ mất cả trông-cậy, triều-thần có nhiều người bỏ quan trốn đi.

Tháng chạp năm kỷ-tị (1509) có Giản-tu-công tên là Oanh cháu vua Thánh-tông, là anh em con chú con bác với ngài, bị bắt giam. Ông đút tiền cho người canh ngục mới được ra, trốn về Tây-đô, rồi hội với các quan cựu- thần đem binh ra đánh bắt vua Uy-mục và Hoàng-hậu Trần-thị giết đi.

VII. Lê Tương Dực ( 1510 - 1516 )

Niên-hiệu: Hồng Thuận

Giản-tu-công giết vua Uy-mục rồi tự lập làm vua, tức là vua Tương- dực.

Vua Tương-dực tính hay chơi-bời và xa-xỉ, như là sai người thợ tên là Vũ như Tô làm cái điện 100 nóc, xây cái Cửu-trùng-đài, bắt quân dân làm trong mấy năm trời không xong, mà thật là hao-tổn tiền-của, chết hại nhiều người. Rồi lại đóng chiến-thuyền bắt đàn-bà chèo chơi ở hồ Tây. Lại tư- thông cả với những cung-nhân đời tiền triều. V́ hoang dâm như thế cho nên sứ nhà Minh sang trông thấy ngài, bảo rằng ngài là tướng lợn,

sự loạn-vong chắc là sắp tới vậy.

1. Việc Thuế Má.

Việc thuế-má lúc bấy giờ th́ đại-khái cũng như mấy triều trước, nhưng không biết rơ tiền-tài sản-vật đồng-niên thu được những ǵ. Đến đời vua Tương-dực thấy sử chép rằng trước th́ thuế vàng thuế bạc đồng niên thu được :

Vàng mười, thứ tốt gọi là "kiêm-kim".. 480 lượng Vàng mười

2.883 lượng Bạc

4.930 lượng Nay vua Tương-dực định lệ đổi lại mỗi năm thu được : Vàng mười thứ "kiêm-kim"

449 lượng Vàng mười

2.901 lượng Bạc

6.125 lượng Những vàng bạc ấy là nộp vào kho để chi vua tiêu-dùng. C̣n cách thu-nộp thế nào th́ không rơ.

2. Đại Việt Thông Giám.

Đời bấy giờ có quan Binh-bộ Thượng-thư là ông Vũ Quỳnh làm xong bộ Đại-Việt thông-giám; chia ra từ họ Hồng-Bàng cho đến thập-nhị Sứ-quân làm ngoại-kỷ, c̣n từ Đinh Tiên- hoàng đến Lê Thái-tổ làm bản-kỷ, cả thảy là 26 quyển. Vua sai ông Lê Tung soạn bài tổng-luận về bộ sử ấy.

3. Sự Biến Loạn.

Thời bấy giờ vua th́ hoang chơi, triều-thần th́ tuy là có bọn ông Nguyễn văn Lang, ông Lê Tung, ông Lương đắc Bằng, v.v... nhưng người th́ già chết, người th́ xin thôi quan về. Vả cũng không có ai là người có thể ngăn giữ được vua và kinh-doanh được việc nước, cho nên trong nước giặc-giă nổi lên khắp cả mọi nơi. ở đất Kinh-bắc th́ có Thân duy Nhạc, Ngô văn Tổng, làm loạn ở huyện Đông-ngạn và huyện Gia-lâm; đất Sơn-tây th́ có Trần Tuân đánh phá. Lại có tên Phùng Chương làm giặc ở núi Tam-đảo; Trần công Ninh chống giữ ở huyện An-lăng. Đất Nghệ-an th́ có Lê Hy, Trịnh Hưng, Lê văn Triệt làm phản. Lại ở huyện Thủy-đường (Hải- dương) có Trần Cao thấy sấm nói rằng ở phương đông có thiên-tử khí,

bèn cùng với đồ-đảng đánh lấy đất Hải-dương, Thủy-đường, Đông-triều, rồi tự xưng là vua Đế-thích giáng sinh, bởi thế thiên-hạ theo có hàng vạn người.

Trần Cao đem quân về đóng ở đất Bồ-đề, bên kia sông Nhị-hà, chực sang lấy Kinh-đô. Sau quan quân sang đánh, Trần Cao lui về đóng ở Châu- sơn, thuộc phủ Từ-sơn. Vua sai An-ḥa-hầu là Nguyễn hoằng Dụ sang đóng quân ở Bồ-đề để chống giữ.

Tuy trong nước giặc cướp như thế, nhưng vua cũng không chịu sửa- sang việc ǵ cả, lại khinh-dể các quan triều-thần. Bấy giờ có Nguyên-quận- công là Trịnh duy Sản, trước vẫn có công đi đánh giặc, nhưng sau v́ hay can vua mà phải đánh. Trịnh duy Sản tức giận bèn mưu với Lê quảng Độ và Tŕnh chí Sâm để lập vua khác, rồi giả mượn tiếng đi đánh giặc, đêm đem binh vào cửa Bắc-thần giết vua Tương-dực.

Ngài trị-v́ được 8 năm, thọ được 24 tuổi.

VIII. Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng ( 1516 - 1527 )

Niên-hiệu: Quang Thiệu ( 1516 - 1526 )

Thống Nguyên ( 1527 )

Bọn Trịnh duy Sản giết vua Tương-dực rồi, hội triều-đ́nh lại định lập con Mục-ư-vương là Quang Trị, mới có 8 tuổi, nhưng Vơ-tá-hầu là Phùng Mại bàn nên lập cháu ba đời vua Thánh-tông là con Cẩm-giang-vương tên là Y, đă 14 tuổi. Đảng Trịnh duy Sản bắt Phùng Mại chém ngay ở chỗ nghị-sự, rồi lập Quang Trị. Quang Trị mới làm vua được ba ngày, chưa kịp đổi niên-hiệu th́ bị Trịnh duy Đại là anh Trịnh duy Sản đem vào Tây-kinh. Quang Trị vào đấy được mấy ngày lại bị giết.

Lúc trong triều c̣n đang rối loạn, chưa biết ai là vua th́ Nguyễn hoằng Dụ ở bến Bồ-đề được tin Trịnh duy Sản đă giết vua Tương-dực, bèn đem quân về đốt phá Kinh-thành và bắt Vũ như Tô, là người đốc việc làm đền-đài cho vua Tương-dực, đem chém ở ngoài thành.

Bọn Trịnh duy Sản lại lập con Cẩm-giang-vương là Y lên làm vua, tức là vua Chiêu-tông.

Nhưng bây giờ Kinh-thành đă bị tàn-phá rồi, Trịnh duy Sản phải rước vua vào Tây-kinh.

1. Giặc Trần Cao Quấy Nhiễu ở Đông Đô.

Giặc Trần Cao thấy Triều-đ́nh đă bỏ kinh-đô, bèn đem quân sang chiếm lấy, rồi tiếm hiệu làm vua.

Triều-đ́nh vào đến Tây-kinh, truyền hịch đi các nơi lấy binh ra đánh Trần Cao.

Trịnh duy Sản, Nguyễn hoằng Dụ, Trịnh Tuy, Trần Chân và các quan cựu thần phân binh ra vây Đông-kinh. Trần Cao phải bỏ thành chạy lên đất Lạng-nguyên (có lẽ là Lạng-sơn).

Triều-đ́nh lại về Đông-kinh, rồi sai Trịnh duy Sản lên Lạng-nguyên đuổi đánh Trần Cao. Trịnh duy Sản khinh địch quá, bị giặc giết mất. Quan giặc lại về đóng ở Bồ-đề. Vua sai Thiết-sơn-bá là Trần Chân đem quân đánh tập hậu, phá được quân của giặc.

Trần Cao lại chạy về Lạng-nguyên, và thấy sự-nghiệp không thành, bèn nhường quyền lại cho con là Thăng rồi cắt tóc đi tu để trốn cho khỏi nạn.

2. Quan Trong Triều Làm Loạn.

Tuy giặc Trần Cao đă phá được, nhưng mà lúc bấy giờ vua Chiêu-tông hăy c̣n trẻ tuổi, chưa quyết-đoán được, mà Triều-thần th́ không có ai là người có chí giúp nước, đến nỗi ngoài th́ giặc làm loạn, trong th́ các quan sinh ra hiềm-thù, đem quân đánh lẫn nhau, như là Nguyễn hoằng Dụ và Trịnh Tuy, hai người đi đánh giặc về rồi mỗi người đóng quân một nơi để chống-cự với nhau, vua can ngăn cũng không được.

ở trong triều th́ bọn Trịnh duy Đại mưu sự làm phản, bị người tố cáo ra, phải giết cả đảng.

Bọn Nguyễn hoằng Dụ và Trịnh Tuy cứ đánh nhau măi, sau Trần Chân bênh Trịnh Tuy đem quân đánh Nguyễn hoằng Dụ. Nguyễn hoằng Dụ bỏ chạy về giữ Thanh-hóa.

Vua sai bọn Mạc đăng Dung đi đánh Nguyễn hoằng Dụ. Nhưng Đăng Dung tiếp được thư của Hoằng Dụ viết riêng cho ḿnh, bèn không đánh, đem quân trở về.

Bấy giờ quyền-bính về cả Trần Chân và lại có người nói rằng Trần Chân có ư làm phản, vua bèn cho người vời Trần Chân vào thành rồi đóng cửa thành lại, bắt giết đi.

Bộ tướng của Trần Chân là bọn Hoàng duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng nghe tin Trần Chân phải giết, bèn đem quân vào đánh phá kinh-thành. Vua phải chạy sang lánh ḿnh ở đất Gia-lâm, rồi cho người vào Thanh-hóa vời Nguyễn hoằng Dụ ra đánh giặc. Nguyễn hoằng Dụ không ra.

Chiêu-tông không biết mong cậy vào ai được, phải cho người sang Hải-dương vời Mạc Đăng Dung về giúp. Mối thoán-đoạt gây nên từ đó.

Nguyên Mạc đăng Dung là cháu 7 đời ông Mạc đĩnh Chi, ngày trước vốn ở làng Đông-cao, huyện B́nh-hà (thuộc Hải-dương), sau dời sang ở làng Cổ-chai (thuộc huyện Nghi-dương, tỉnh Kiến-an bây giờ). Mạc đăng Dung thủa trẻ nhà nghèo, làm nghề đánh cá, nhưng có sức mạnh, thi đỗ Đô-lực-sĩ, làm đến Đô-chỉ-huy-sứ về triều vua Uy-mục; đến triều vua Tương-dực được phong là Vũ-xuyên-hầu.

Nay vua Chiêu-tông gọi sang, nhất thiết trao cả binh quyền để đánh giặc Hoàng duy Nhạc.

Mạc đăng Dung đem vua về ở Bồ-đề rồi cho người mật dụ bọn Nguyễn Kính, Nguyễn Áng về hàng. Bọn ấy nói rằng Trần Chân bị giết là tại Chử Khải, Trịnh Hựu, Ngô Bính gièm-pha. Nếu nhà vua làm tội ba người ấy th́ xin về hàng.

Vua bắt ba người đem giết đi, nhưng bọn tên Kính tên Áng vẫn không giải binh. Mạc đăng Dung lại dời vua về Bảo-châu (thuộc huyện Từ- liêm). Thế giặc vẫn mạnh, rồi lại có Trịnh Tuy và Nguyễn Sư làm phản, thông với bọn tên Kính lập Lê Do lên làm vua, đóng hành-điện ở Từ-liêm.

Vua lại phải cho người vào gọi Nguyễn hoằng Dụ lần nữa. Nguyễn hoằng Dụ đem binh Thanh-hóa ra để cùng với Mạc đăng Dung đi đánh giặc. Nhưng Hoằng Dụ xuất binh đánh trước, bại trận, phải rút quân về Thanh.

Được ít lâu Mạc đăng Dung trừ được bọn Lê Do, Trịnh Tuy và Nguyễn Sư, rồi lại hàng được bọn Hoàng duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng đem về làm vây-cánh của ḿnh. Từ đó quyền bính về cả Đăng Dung.

3. Mạc Đăng Dung Chuyên Quyền.

Mạc đăng Dung bây giờ quyền-thế hống-hách, ra vào cung cấm tiếm dụng nghi-vệ thiên-tử. Các quan ai có v́ nhà vua mà can-gián điều ǵ, th́ Đăng Dung t́m cách giết đi. Các quan triều-thần có nhiều người thấy quyền lớn về cả họ Mạc, cũng bỏ vua mà theo pḥ Mạc đăng Dung.

Vua Chiêu-tông thấy vậy, mới mưu ngầm với bọn nội thần là Phạm Hiến và Phạm Thứ để đánh Mạc đăng Dung, lại cho người vào Tây-kinh vời Trịnh Tuy đem binh ra làm ngoại ứng. Đêm đến canh hai vua chạy lên Sơn- tây để thu-xếp binh-mă đánh họ Mạc.

Sáng hôm sau Mạc đăng Dung mới biết vua xuất ngoại, liền sai Hoàng duy Nhạc đem quân đuổi theo, đến Thạch-thất, Duy Nhạc bị quân sở- tại bắt được giết đi.

Mạc đăng Dung cùng với các quan ở trong triều lập Hoàng-đệ là Xuân lên làm vua, tức là Cung-hoàng, đổi niên-hiệu là Thống-nguyên. Nhưng ở kinh-thành sợ vua Chiêu-tông viện quân về đánh, cho nên Mạc đăng Dung rước Hoàng-đệ Xuân về ở đất Gia-phúc, nay là Gia-lộc thuộc tỉnh Hải-dương.

Khi vua Chiêu-tông chạy lên Sơn-tây, những người hào-kiệt ở các nơi theo về cũng nhiều, nhưng v́ vua nghe lời những kẻ hoạn-quan là bọn Phạm Điền, không theo lời bàn của các tướng, cho nên ḷng người ly-tán, mọi việc hỏng cả. Vua cho người vào Thanh-hóa vời Trịnh Tuy ba bốn lần, Trịnh Tuy do-dự măi không ra. Sau Trịnh Tuy cùng với Trịnh duy Tuấn đem hơn một vạn quân ra giúp, th́ vua lại nghe lời bọn Phạm Điền bắt Nguyễn bá Kỷ là thuộc tướng của Trịnh Tuy đem giết đi. Trịnh Tuy tức giận đem quân bắt vua Chiêu-tông về Thanh-hóa.

Năm giáp-thân (1524) Mạc đăng Dung đem quân vào đánh Thanh- hóa, Trịnh Tuy thua trận rồi chết, vua Chiêu-tông bị bắt đem về để ở Đông- hà (thuộc huyện Thọ-xương), rồi cho người đến giết đi.

Vua Chiêu-tông làm vua được 11 năm, thọ 26 tuổi.

Cách hai năm sau là năm đinh-hợi (1527), Mạc đăng Dung bắt các quan nhà Lê thảo bài chiếu truyền ngôi cho nhà Mạc.

Cung-hoàng và bà Hoàng-thái-hậu đều bị giết cả. Bấy giờ triều-thần có Vũ Duệ, Ngô Hoán, quan Đô-ngự-sử là Nguyễn văn Vận, quan Hàn-lâm hiệu-lư là Nguyễn thái Bạt, quan Lễ-bộ thượng-thư là Lê tuấn Mậu, quan Lại- bộ thượng-thư là Đàm thận Huy, quan Tham-chính-sứ là Nguyễn duy Tường, quan Quan-sát-sứ là Nguyễn tự Cường, tước B́nh-hồ-bá là Nghiêm bá Kư, quan Đô-ngự-sử là Lại kim Bảng, quan Hộ-bộ thượng-thư là Nguyễn thiệu Tri, quan Phó Đô-ngự-sử là Nguyễn hữu Nghiêm, quan Lễ-bộ tả Thị-Lang là Lê vô Cương đều là người khoa-giáp cả, người th́ nhổ vào mặt Mạc đăng Dung hay là lấy nghiên mực đập vào mặt, hay chửi mắng, bị Đăng Dung giết đi. Có người th́ theo vua không kịp, nhảy xuống sông mà chết, người th́ quay đầu về Lam-sơn lạy rồi tự-tử. Những người ấy đều là người có nghĩa- khí để tiếng thơm về sau.

Nhà Lê, kể từ vua Thái-tổ cho đến vua Cung-hoàng vừa một trăm năm (1428-1527), được 10 ông vua. Nhưng trong bấy nhiêu ông, trừ vua Thái-tổ ra, th́ chỉ có vua Thánh-tông và vua Hiến-tông là đă lớn tuổi mới lên ngôi, c̣n th́ ông nào lên làm vua cũng c̣n trẻ tuổi cả. V́ thế cho nên việc triều-chính mỗi ngày một suy-kém, lại có những ông vua hoang-dâm, làm lắm điều tàn-bạo để đến nổi trong nước xảy ra nhiều sự biến loạn.

Vậy vận nhà Lê phải lúc trung-suy, nhưng công-đức vua Thái-tổ và vua Thánh-tông làm cho ḷng người không quên nhà Lê, cho nên dầu nhà Mạc có cướp ngôi cũng không được lâu bền, và về sau họ Trịnh tuy có chuyên-quyền nhưng cũng chỉ giữ ngôi chúa, chứ không dám cướp ngôi vua.

 

PHẦN IV

Tự Chủ Thời-Đại

Thời Kỳ Nam Bắc Phân Tranh

( 1528 - 1802 )

NHÀ HẬU LÊ Thời-kỳ phân tranh (1533-1788)

CHƯƠNG I

Lịch Triều Lược Kỷ

1. Nam-triều Bắc triều

2. Trịnh Nguyễn phân tranh

 

Nước Nam ta từ khi Ngô Vương Quyền đánh đuổi được quân Nam- Hán, vua Đinh Tiên-hoàng dẹp yên được loạn Thập-nhị Sứ-quân lập thành một nước tự-chủ, đời nọ qua đời kia kế truyền được non 600 năm. Đến đầu thập-lục thế-kỷ, bởi v́ vua nhà Lê hoang dâm vô độ, bỏ việc chính-trị đổ-nát, cho nên trong nước loạn-lạc, nhà Mạc nhân dịp mà làm sự thoán-đoạt. Nhà Lê tuy đă mất ngôi, nhưng ḷng người c̣n tưởng nhớ đến công-đức của vua Thái-tổ và vua Thánh-tông, cho nên lại theo pḥ con cháu nhà Lê trung- hưng lên ở phía nam, lập ra một Triều-đ́nh riêng ở vùng Thanh-hóa, nghệ- an để chống nhau với nhà Mạc. Ấy là thành ra Nam-triều và Bắc-triều; hai bên đánh nhau trong năm sáu mươi năm trời.

Đến khi nhà Lê nhờ có họ Trịnh giúp rập, dứt được nhà Mạc, tưởng là giang-sơn lại thống-nhất như cũ, ai ngờ họ Trịnh và họ Nguyễn lại sinh ra ḷng ghen-ghét, gây nên mối thù-oán, rồi mỗi họ hùng-cứ một phương, chia nước ra làm hai mảnh: họ Nguyễn giữ xứ Nam, họ Trịnh giữ xứ Bắc, mỗi họ chiếm-giữ một Xứ để làm cơ-nghiệp riêng của ḿnh. Từ đó giang-sơn chia rẽ, Nam Bắc phân tranh, ấy là một thời-đại riêng trong lịch-sử nước ta vậy.

Nhà Hậu-Lê từ khi trung-hưng lên, con-cháu vẫn giữ ngôi làm vua, nhưng quyền chính-trị ở cả họ Trịnh. C̣n ở phía nam th́ từ sông Linh-giang trở vào là cơ-nghiệp của họ Nguyễn. Tuy vậy, hai họ chỉ xưng chúa, chứ không xưng vua, và bề ngoài vẫn tôn-phù nhà Lê. Sau này ta hăy chép tóm cả các đời vua và các đời chúa để cho rơ sự kế truyền. C̣n những công-việc về thời bấy giờ th́ ta sẽ bàn riêng rẽ từng mục cho rơ-ràng.

I. NAM TRIỀU BẮC TRIỀU NAM TRIỀU

Lê Trang Tông (1533-1548) Niên hiệu: Nguyên-ḥa

Trang-tông húy là Duy-Ninh, con rốt vua Chiêu-tông. Ông Nguyễn Kim lập ngài lên làm vua ở đất Cầm-chân (Lào), sau đưa ngài về Thanh-Hóa, lập hành-điện ở Vạn-lại.

Trang-tông làm vua được 16 năm, thọ 31 tuổi.

Lê Trung Tông (1548-1556) Niên hiệu: Thuận-b́nh

Trung-tông húy là Duy Huyên, con vua Trang-tông. Ngài làm vua được 8 năm, thọ 28 tuổi.

BẮC TRIỀU

Thái Tổ Mạc Đăng Dung (1527-1529) Niên hiệu: Minh-Đức

Thái Tông Mạc Đăng Doanh (1530-1540) Niên hiệu: Đại-chính

Nhà Lê trung-hưng lên ở Thanh-hóa.

Hiến Tông Mạc Phúc Hải

(1541-1546) Niên hiệu: Quăng-ḥa

Lê Anh Tông (1556 - 1573) Niên hiệu: Thiên-hữu (1557) Chính-trị (1558-1571) Hồng-phúc (1572-1573)

Anh-tông húy là Duy-bang, cháu huyền-tôn ông Lê Trừ, anh vua Thái-tổ ngày trước. Vua Trung-tông không có con, cho nên ông Trịnh Kiểm mới đi t́m ngài về lập nên làm vua.

Khi Trịnh Kiểm mất rồi, quyền về Trịnh Tùng, ngài phải trốn về Nghệ-an. Trịnh Tùng sai người đuổi theo bắt về giết đi. Ngài làm vua được 16 năm, thọ 42 tuổi.

Lê Thế Tông (1573 - 1599) Niên hiệu: Gia-thái (1573-1577) Quang-hưng (1578-1599)

Thế-tông húy là Duy-Đàm, con thứ 5 vua Anh-tông. Trịnh Tùng lập ngài lên làm vua từ lúc c̣n 7 tuổi.

Trong đời ngài làm vua, Trịnh Tùng dứt được họ Mạc, lấy lại đất Đông-đô. Ngài làm vua được 27 năm, thọ 33 tuổi.

Tuyên Tông Mạc Phúc Nguyên (1546 - 1561) Niên hiệu: Vĩnh-Định (1547) Cảnh-lịch (1548-1553) Quang-bảo (1554-1561)

Mạc phúc Nguyên cố đánh lấy Thanh-hóa nhưng không được.

Mạc Mậu Hợp (1562-1592) Niên hiệu: Thuần-phúc (1562-1565) Sùng-khang (1566-1577) Diên-thành (1578-1585) Đoan-thái (1586-1587) Hưng-trị (1588-1590) Hồng-ninh (1591-1592)

Mạc Mậu Hợp làm vua được 30 năm. Sau bị Trịnh Tùng bắt được đem về chém ở Thăng- long và đem đầu vào bêu ở Thanh-hóa.

Nhà Mạc mất ngôi từ đấy. Nhưng con cháu được nhờ nhà Minh bênh-vực, c̣n được giữ đất Cao-bằng ba đời nữa. II. TRỊNH NGUYỄN PHÂN TRANH Lê Kính-tông (1600-1619) Niên hiệu: Thận-đức (1600) - Hoằng-định (1601-1619)

Kính-tông húy là duy-tân, con vua Thế-tông. Ngài làm vua đến năm kỷ-mùi (1619) bị Trịnh Tùng bắt phải thắt cổ mà tự tận. Trị-v́ được 20 năm, thọ 32 tuổi. TRỊNH

B́nh An Vương Trịnh Tùng (1570 - 1620) Miếu hiệu: Thành tổ Triết Vương

Trịnh Tùng tranh quyền của anh, nối nghiệp Trịnh Kiểm đánh phá nhà Mạc, lấy lại đất Đông-đô. Lập ra nghiệp chúa Trịnh, nhưng vẫn tôn vua Lê. NGUYỄN

Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng (1600 - 1613)

Truy tôn là Thái-tổ Gia-dụ Hoàng-đế , đương thời gọi là chúa Tiên .

Ông Nguyễn Hoàng là con thứ hai ông Nguyễn Kim, vào trấn đất Thuận-hóa và Quảng- nam lập ra nghiệp chúa Nguyễn.

Lấy đất của Chiêm-thành lập ra phủ Phú-yên. Mất năm quí- sửu (1613), thọ 89 tuổi.

Thụy Quận Công Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - 1635)

Truy tôn là Hi-tông Hiến văn Hoàng-đế,

đương thời gọi là chúa Săi. Ngài là con thứ 6 ông Nguyễn Hoàng, cải họ là Nguyễn-phúc.

Lê Thần Tông (1619-1643) (lần thứ nhất) Niên-hiệu: Vĩnh-tộ (1620-1628) Đức-long (1629-1643) Dương-ḥa (1635-1643)

Thần-tông húy là Duy-Kỳ, con vua Kính-tông. Làm vua đến năm quí-mùi (1643) th́ nhường ngôi cho Thái-tử, mà làm Thái-thượng-hoàng.

TRỊNH

Trịnh Tùng mất năm quí-hợi (1635).

Thanh Đô Vương Trịnh Tráng (1623 - 1657) Miếu-hiệu là: Văn-tổ Nghị-vương

Trịnh Tráng đánh họ Mạc ở Cao-bằng và khởi sự đánh nhau với họ Nguyễn ở đất Quảng- b́nh. NGUYỄN

Ông Nguyễn-phúc Nguyên chống với họ Trịnh ở Quảng- b́nh. Mất năm ất-hợi (1635), thọ 73 tuổi.

 

Nhân Quận Công Nguyễn Phúc Lan (1635-1648)

Truy tôn là Thần-tông Hiếu- chiêu Hoàng-đế,

đương thời gọi là chúa Thượng .

Ông Nguyễn-phúc Lan là con thứ hai chúa Săi, đánh nhau với họ Trịnh ở Quảng-b́nh.

Lê Chân Tông (1634-1649) Niên-hiệu: Phúc-thái

Chân-tông húy là Duy-Hữu, con vua Thần-tông, làm vua được 6 năm, thọ 20 tuổi.

Trong đời ngài, vua nhà Minh là Quế-vương đóng ở Quảng-tây sai sứ sang phong cho ngài là An-nam quốc-vương.

TRỊNH

Trịnh Tráng đánh họ Nguyễn ở phía nam. NGUYỄN

Ông Nguyễn-phúc Lan mất năm mậu-tí (1648), thọ 48 tuổi.

Dũng Quận Công Nguyễn Phúc Tần (1648-1687)

Truy tôn là Thái-tông Hiếu- triết Hoàng-đế,

đương thời gọi là chúa Hiền.

Ông Nguyễn-phúc Tần đánh nhau với họ Trịnh ở đất Nghệ- an. Lấy đất Chiêm-thành lập ra phủ Ninh-ḥa và phủ Diên- khánh (tức là đất Khánh-ḥa bây giờ).

Lê Thần Tông (1649-1662) (lần thứ hai) Niên-hiệu: Khánh-đức (1649-1652) - Thịnh-đức (1653-1657) - Vĩnh-thọ (1658-1661) - Vạn-khánh (1662)

Chân-tông mất không có con. Trịnh Tráng lại rước Thần- tông Thái-thượng-hoàng về làm vua. Lần thứ hai này ngài làm vua được 13 năm th́ mất, thọ 56 tuổi.

TRỊNH

Trịnh Tráng mất năm đinh- dậu (1657)

Tây Vương Trịnh Tạc (1657-1682) Miếu-hiệu: Hoằng-tổ Dương-vương

Trịnh Tạc đánh con cháu nhà Mạc lấy lại đất Cao-bằng. Đặt ra lệ vào chầu vua không lạy, sớ tấu không viết tên, và đặt giường ngồi ở bên tả ngai vua ngự.

NGUYỄN

Nguyễn-phúc Tần (Chúa Hiền) LÊ HUYỀN-TÔNG (1663-1671) Niên-hiệu: Cảnh-trị

Huyền-tông húy là Duy-Vũ, con thứ hai vua Thần-tông. Trong đời ngài làm vua mới khởi đầu thông sứ với nhà Thanh, và cấm đạo Gia-tô. Ngài làm vua được 9 năm, thọ 18 tuổi.

TRỊNH

Trịnh Tạc NGUYỄN

Nguyễn phúc Tần (Chúa Hiền)

Lê Gia Tông (1672-1675) Niên-hiệu: Dương-đức (1672-1773) - Đức-nguyên (1674-1675)

Gia-tông húy là Duy-Hội, con thứ ba vua Thần-tông. Lúc ngài lên hai tuổi th́ Thần-tông mất, Trịnh Tạc đem về nuôi trong phủ. Khi vua Huyền-tông mất, không có con, Trịnh Tạc lập ngài lên làm vua, được 4 năm, thọ được 15 tuổi.

TRỊNH

Trịnh Tạc

NGUYỄN

Nguyễn-phúc Tần (Chúa Hiền)

Lê Hi Tông ( 1676-1705) Niên-hiệu: Vĩnh-trị (1678-1680) - Chính-ḥa (1680-1705)

Hi-tông húy là Duy-Hợp, con thứ tư vua Thần-tông. Khi Thần-tông mất, bà Trịnh-thị mới có thai được bốn tháng, Trịnh Tạc đem về nuôi ở bên phủ. Gia-tông mất không có con, Trịnh Tạc lập lên làm vua được 29 năm rồi truyền ngôi cho Thái-tử mà làm Thái-thượng-hoàng.

TRỊNH

Trịnh Tạc mất năm nhâm- tuất (1682)

Định Vương Trịnh Căn (1682-1709) Miếu-hiệu là: Chiêu-tổ Khang-vương

Trịnh Căn làm chúa được 28 năm th́ mất, truyền ngôi chúa cho cháu huyền-tôn là Trịnh Cương. NGUYỄN

Nguyễn-phúc Tần mất năm đinh-măo (1687), thọ 68 tuổi.

Hoằng Quốc Công Nguyễn Phúc Trăn (1687 - 1691)

Truy tôn là Anh-tông Hiếu- nghĩa Hoàng-đế,

đương thời gọi là chúa Nghĩa .

Lập phủ ở Phú-xuân là chỗ kinh-đô bấy giờ. Mất năm tân- mùi (1691), thọ 43 tuổi.

Tộ Quốc Công Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725)

Truy tôn là Hiến-tông Hiếu- minh Hoàng-đế,

đương thời gọi là Quốc-chúa .

Ông Nguyễn-phúc Chu lấy hết nước Chiêm-thành (nay là đất B́nh-thuận) và lại lấy đất Gia-định, Hà-tiên của Chân-lạp.

Lê Dụ Tông (1706-1729) Niên-hiệu: Vĩnh-thịnh (1706-1719) - Bảo-thái (1720-1729)

Dụ-tông húy là Duy-Đường, làm vua được 24 năm, bị Trịnh Cương bắt phải truyền ngôi cho Thái-tử là Duy-Phương. Mất năm tân-hợi (1731), thọ 52 tuổi.

TRỊNH

Trịnh Căn mất năm kỷ-sửu (1709).

An Đô Vương Trịnh Cương (1709 - 1729) Miếu-hiệu là: Hi-tổ Nhân-vương.

Mất năm kỷ-dậu (1729). NGUYỄN

Nguyễn-phúc Chu mất năm ất-tị (1725), thọ 51 tuổi, có 146 người con.

Đỉnh Quốc Công Nguyễn Phúc Trú (1725-1738)

Truy tôn là Túc-tông Hiếu- ninh Hoàng-đế

mở-mang đất Gia-định, và bảo-hộ nước Chân- lạp.

Lê Đế Duy Phương (1729-1732) Niên-hiệu: Vĩnh-khánh

Duy-phương làm vua được 3 năm, bị Trịnh Giang vu cho tư thông với vợ Trịnh Cương, phải bỏ, giáng xuống làm Hôn-đức- công, rồi đến năm nhâm-tí (1732) th́ bị giết.

TRỊNH

Trịnh Cương mất.

Uy Nam Vương Trịnh Giang (1729 - 1740) Miếu-hiệu là: Dụ-tổ Thuận-vương

Trịnh Giang làm chúa xa-xỉ và hung-ác quá độ, giặc-giă nổi lên rất nhiều.

NGUYỄN

Nguyễn-phúc Trú.

Lê Thuần Tông (1732-1735) Niên-hiệu: Long-đức

Thuần-tông húy là Duy-Tường. Ngài là con vua Dụ-tông, trước đă được lập làm Thái-tử, sau bị Trịnh Cương bỏ để lập Duy- Phương. Trịnh Giang lại bỏ Duy-Phương lập ngài lên làm vua, mất năm ất-măo (1735), thọ 37 tuổi.

TRỊNH

Trịnh Giang NGUYỄN

Nguyễn-phúc Trú

Lê Ư Tông (1735-1740) Niên-hiệu: Vĩnh-hữu

Ư-tông húy là Duy-Th́n, con vua Dụ-tông, Trịnh Giang bỏ con vua Thuần-tông mà lập ngài.

Năm canh-thân (1740) Trịnh Doanh bắt ngài phải nhường ngôi cho con vua Thuần-tông, rồi làm Thái-thượng-hoàng, mất năm kỷ-măo (1759), thọ 41 tuổi.

TRỊNH

Trịnh Giang bị bỏ năm canh- thân (1740), làm Thái-thượng- vương. Em là Trịnh Doanh lên thay.

Minh Đô Vương Trịnh Doanh (1740 - 1767) Miếu-hiệu là: Nghị-tổ Ân-vương

Trịnh Doanh đánh-dẹp giặc- giă trong nước.

NGUYỄN

Nguyễn-phúc Trú mất năm mậu-ngọ (1738), thọ 43 tuổi.

Vũ-Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765)

Truy tôn là Thế-tông Hiếu-vơ Hoàng-đế.

Ông Nguyễn-phúc Khoát đánh Chân-lạp mở thêm đất ở Gia-định.

Lê Hiển Tông (1740-1786) Niên-hiệu: Cảnh-hưng

Hiển-tông húy là Duy-Diêu, con vua Thuần-tông. Làm vua được 46 năm, thọ 70 tuổi.

TRỊNH

Trịnh Doanh mất năm đinh- hợi (1767).

Tỉnh Đô Vương Trịnh Sâm (1767 - 1782) Miếu-hiệu là: Thánh-tổ Thịnh-vương

Trịnh Sâm dẹp yên giặc ở xứ Bắc. Lấy đất Thuận-hóa và Quảng-nam của chúa Nguyễn. Nhưng v́ say-đắm nàng Đặng thị Huệ, mới bỏ con trưởng lập con thứ, làm thành ra cái mối biến-loạn. Mất năm nhâm-dần (1782).

Tôn Đô Vương Trịnh Cán

Làm chúa được 2 tháng bị quân Tam-phủ bỏ đi, lập anh là Trịnh Khải lên làm chúa.

Đoan Nam Vương Trịnh Khải (1783 - 1786)

Bị Tây-sơn bắt được, phải tự tử năm bính-ngọ (1786). NGUYỄN

Vơ-vương Nguyễn-phúc Khoát xưng vương-hiệu năm ất- dậu (1765).

Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (1765 - 1777)

Truy tôn là Diệu-tông Hiếu- định Hoàng-đế.

Đời ngài làm chúa bị Trương phúc Loan chuyên quyền. Quân Tây-sơn nổi lên đánh phía nam, quân họ Trịnh đánh phía bắc.

Sau quân chúa Trịnh vào lấy mất Phú-Xuân, Định-vương chạy vào Gia-định bị tướng Tây-sơn là Nguyễn văn Huệ giết mất. Ngài thọ 24 tuổi.

Nguyễn Vương Nguyễn Phúc Ánh

Tức là vua Thế-tổ Cao-hoàng- đế nhà Nguyễn khởi binh ở Gia- định.

Lê Mẫn Đế (1787-1788) Niên-hiệu: Chiêu-thống

Mẫn-đế là cháu đích-tôn vua Hiển-tông. Ngài bị quân Tây-sơn đánh thua chạy sang Tàu cầu-cứu, sau đánh thua lại trở sang Tàu, bị quan Tàu làm nhục, rồi mất ở Yên-kinh.

TRỊNH

Ân Đô Vương Trịnh Bồng

Khi quân Tây-sơn về Nam rồi, đảng họ Trịnh lại lập Trịnh Bồng lên làm chúa. Vua gọi Nguyễn hữu Chỉnh ra đánh họ Trịnh, Trịnh Bồng bỏ đi tu.

NGUYỄN

Nguyễn-vương Nguyễn-phúc Ánh khôi-phục đất Gia-định. CHƯƠNG II

NAM-TRIỀU BẮC-TRIỀU (1527-1592)

1. Chính-trị nhà Mạc

2. Việc nhà Mạc giao-thiệp với nhà Minh

3. Họ Nguyễn khởi nghĩa giúp nhà Lê

4. Quyền về họ Trịnh

5. Trịnh Tùng thống-lĩnh binh-quyền

6. Khôi-phục thành Thăng-long

7. Nhà Mạc mất ngôi

8. Việc nhà Hậu-Lê giao-thiệp với nhà Minh

9. Con-cháu nhà Mạc ở Cao-bằng

1. Chính-Trị Nhà Mạc.

Năm đinh-hợi (1527) Mạc đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lên làm vua, đặt niên-hiệu là Minh-đức.

Nhà Mạc tuy đă làm vua, nhưng c̣n sợ ḷng người nhớ nhà Lê, cho nên công-việc ǵ cũng theo phép nhà Lê cả, rồi lại tặng phong cho những người v́ nhà Lê mà tuẩn-tiết, và lục dụng những con-cháu các quan cựu thần, phong cho quan-tước để dụ về với ḿnh. Nhưng mà kẻ th́ trốn-tránh vào ở chỗ sơn-lâm, kẻ th́ đi ra ngoại-quốc, kẻ th́ đổi họ tên, không mấy người chịu phục. Lại có kẻ tức-giận v́ họ Mạc làm điều gian-ác, tụ họp những người nghĩa-khí nổi lên đánh phá, như Lê công Uyên, Nguyễn Ngă, Nguyễn thọ Trường, khởi-nghĩa ở đất Thanh-hóa, nhưng v́ thế-lực không đủ, cho nên phải thua. Sau lại có Lê Ư nổi lên đánh họ Mạc ở đất Mă-giang, mấy phen đă được thắng trận, nhưng cũng v́ khinh địch cho nên đến nỗi phải bị bắt.

Mạc đăng Dung bắt chước lối nhà Trần, làm vua được ba năm th́ nhường ngôi cho con là Mạc đăng Doanh rồi về ở Cổ-trai, làm Thái-thượng- hoàng.

Năm canh-dần (1530) Mạc đăng Doanh lên làm vua, đặt niên-hiệu là Đại-chính. Đăng Doanh tuy làm vua nhưng công việc trong nước thường do Đăng Dung quyết đoán cả.

Mạc đăng Doanh làm vua được 10 năm, đến năm canh-tí (1540) th́ mất, truyền ngôi lại cho con là Mạc phúc Hải.

Mạc phúc Hải lên nối ngôi, đổi niên-hiệu là Quảng-ḥa.

2. Việc Nhà Mạc Giao-Thiệp Với Nhà Minh.

Từ khi nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê rồi, quan nhà Lê đă có người sang kêu cầu bên Tàu để xin viện binh. Vua nhà Minh đă sai quan đi đến Vân-nam cùng với quan Tuần- phủ sở-tại tra-xét bên An-nam thực hư thế nào.

Quan nhà Lê sang Vân-nam kể rỏ việc họ Mạc làm điều thí nghịch. Quan nhà Minh tâu với vua xin cử binh-mă sang đánh.

Việc định sang đánh họ Mạc không phải là vua nhà Minh có vị ǵ họ Lê, nhưng chẳng qua cũng muốn nhân lúc nước Nam có biến, lấy cớ mà sang làm sự chiếm giữ như khi trước sang đánh họ Hồ vậy. Ta phải biết rằng phàm những việc nước nọ giao-thiệp với nước kia th́ thường là người ta mượn tiếng " vị nghĩa " mà làm những việc " vị lợi " mà thôi.

Năm đinh-dậu (1537) vua nhà Minh bèn sai Cừu Loan làm Đô-đốc, Mao bá Ôn làn Tán-lư-quân-vụ, đem quân sang đóng gần cửa Nam-quan rồi truyền hịch đi mọi nơi, hễ ai bắt được cha con Mạc đăng Dung th́ thưởng cho quan-tước và hai vạn bạc. Lại sai người đưa thư sang cho Mạc đăng Dung bảo phải đưa sổ ruộng-đất nhân-dân sang nộp và chịu tội, th́ được tha cho khỏi chết.

Mạc đăng Dung sai bọn Nguyễn văn Thái sang sứ nhà Minh để xin hàng.

Đến tháng 11 năm canh-tí (1540), Mạc đăng Dung thấy quân nhà Minh sửa-soạn sang đánh, sợ-hăi quá chừng, bèn để Mạc phúc Hải ở lại giữ nước, rồi cùng với bọn Vũ như Quế cả thảy hơn 40 người, tự trói ḿnh ra hàng, sang chịu tội ở cửa Nam-quan, lạy phục xuống đất để nộp sổ điền-thổ và sổ dân-đinh, lại xin dâng đất 5 động: là động Tê-phu, động Kim-lạc, động Cổ-xung, động Liễu-cát, động La-phù, và đất Khâm-châu. Lại đem vàng bạc dâng riêng cho nhà Minh.

Quan nhà Minh tuy làm bộ hống-hách nói đem binh sang đánh, nhưng cũng sợ phải cái vạ như mấy năm b́nh-định ngày trước, và lại được tiền bạc của Đăng Dung rồi, cái ḷng nhiệt thành vị quốc cũng nguội đi, cho nên mới tâu với vua nhà Minh xin phong cho Mạc đăng Dung làm chức Đô- thống-sứ hàm quan nhị-phẩm nhà Minh.

Mạc đăng Dung đă làm tôi nhà Lê mà lại giết vua để cướp lấy ngôi, ấy là một người nghịch thần; đă làm chủ một nước mà không giữ lấy bờ-cơi, lại đem cắt đất mà dâng cho người, ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ được cái danh-giá cho trọn-vẹn, đến nỗi phải cởi trần ra trói ḿnh lại, đi đến qú lạy ở trước cửa một người tướng của quân nghịch để cầu lấy cái phú-quí cho một thân ḿnh và một nhà ḿnh, ấy là một người không biết liêm-sỉ.

Đối với vua là nghịch thần, đối với nước là phản quốc, đối với cách ăn-ở của loài người, là không có nhân-phẩm; một người như thế ai mà kính phục? Cho nên dẫu có lấy được giang-sơn nhà Lê, dẫu có mượn được thế nhà Minh bênh-vực mặc ḷng, một cái cơ-nghiệp dựng lên bởi sự gian-ác hèn-hạ như thế, th́ không bao giờ bền-chặt được. Cũng v́ cớ ấy cho nên con cháu họ Lê lại trung-hưng lên được.

3. Họ Nguyễn Khởi-Nghĩa Giúp Nhà Lê.

Khi Mạc đăng Dung làm sự thoán-đoạt th́ các quan cựu thần trốn-tránh đi cũng nhiều. Thủa ấy có người con ông Nguyễn hoằng Dụ, tên là Nguyễn Kim (hay là Nguyễn hoằng Kim) 97

làm quan Hữu-vệ Điện-tiền Tướng-quân An-thanh-hầu, trốn sang Ai-lao. Vua nước ấy là Xạ-đẩu cho đến xứ Sầm-châu (thuộc Trấn-man phủ, đất Thanh-hóa). Ông Nguyễn Kim đến ở Sầm-châu rồi cho người đi t́m con-cháu nhà Lê để đồ sự khôi-phục. Đến năm quí-tị (1532) t́m được một người con rốt vua Chiêu-tông tên là Duy-Ninh lập lên làm vua, tức là Trang- tông.

Khi ấy lại có một người tướng giỏi tên là Trịnh Kiểm, ở làng Sóc-sơn, huyện Vĩnh-lộc, phủ Quảng-hóa. Ông Nguyễn Kim thấy người có tài, gả con gái là Ngọc Bảo cho, để cùng ra sức giúp nhà Lê, dứt nhà Mạc.

Vua tôi nhà Lê nương-náu ở Sầm-châu để chiêu-tập quân-sĩ, măi đến năm canh-tí (1540), ông Nguyễn Kim mới đem quân về đánh Nghệ-an. Năm nhâm-dần (1542) Trang-tông mới cất quân về đánh Thanh-hóa và Nghệ-an, qua năm sau (1543) th́ thu phục được đất Tây-đô, quan Tổng-trấn nhà Mạc là Dương chấp Nhất ra hàng.  [97]

Xem sách Việt Nam Khai Quốc Chí truyện, th́ ông Nguyễn Kim tức là ông Nguyễn Hoằng Kim, là con ông Nguyễn Hoằng Dụ, cháu ông Nguyễn Văn Lang, đều làm quan nhà Lê cả. 4. Quyền Về Họ Trịnh.

Năm ất-tị (1545) ông Nguyễn Kim đem quân tiến đánh Sơn-nam, đi đến huyện Yên-mô, bị Dương chấp Nhất là hàng tướng nhà Mạc đánh thuốc độc chết. Những binh-quyền giao cả lại cho con rể là Trịnh Kiểm.

Trịnh Kiểm rút quân về Thanh-hóa, lập hành-điện ở đồn Vạn-lại (thuộc huyện Thụy-nguyên, Thanh-hóa) để cho vua ở, rồi chiêu-mộ những kẻ hào-kiệt, luyện-tập quân-sĩ, tích trữ lương-thảo để lo việc đánh họ Mạc.

Bấy giờ có những người danh-sĩ như là các ông Phùng khắc Khoan (tức là trạng Bùng), ông Lương hữu Khánh đều vào giúp nhà Lê. Giang-sơn bấy giờ chia làm hai: từ Thanh-hóa trở vào thuộc nhà Lê, làm Nam-Triều; từ Sơn-nam trở ra thuộc về họ Mạc, làm Bắc-Triều.

Năm bính-ngọ (1546) Mạc phúc Hải mất, truyền ngôi lại cho con là Mạc phúc Nguyên, niên-hiệu Vĩnh-định.

Năm mậu-thân (1548) vua Trang-tông mất, Trịnh Kiểm lập Thái-tử tên là Duy Huyên lên làm vua, được 8 năm th́ mất, tức là Trung-tông.

Vua Trung-tông mất không có con, mà bấy giờ ḍng-dơi họ Lê cũng không có ai, việc binh-quyền th́ ở trong tay Trịnh Kiểm cả.

Tục truyền rằng Trịnh Kiểm đă lưỡng-lự muốn tự xưng làm vua, nhưng c̣n chưa dám định hẳn bề nào, các quan cũng không ai biết làm thế nào cho phải. Sau Trịnh Kiểm cho người lẻn ra Hải-dương hỏi ông Nguyễn bỉnh Khiêm 98 , tức là Trạng Tŕnh, xem nên làm thế nào.

Ông Nguyễn bỉnh Khiêm không nói ǵ cả, chỉ ngảnh lại bảo đầy-tớ rằng: " Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên t́m giống cũ mà gieo mạ ". Nói rồi lại sai đầy-tớ ra bảo tiểu quét-dọn chùa và đốt hương, để ông ra chơi chùa, rồi bảo tiểu rằng: " Giữ chùa thờ Phật th́ ăn oản ".

Sứ-giả về kể chuyện lại cho Trịnh Kiểm nghe. Trịnh Kiểm hiểu ư, mới cho người đi t́m con cháu họ Lê. Sau t́m được người cháu huyền-tôn ông Lê Trừ, là anh vua Thái-tổ, tên là Duy Bang, ở làng Bố-vệ, huyện Đông- sơn, rước về lập lên làm vua.  [98]

Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm làm quan nhà Mạc, được phong là Tŕnh Quốc Công cho nên mới gọi là Trạng Tŕnh, sau về trí sĩ ở làng Trung An, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương.

Bấy giờ nhà Lê th́ lo đánh họ Mạc để khôi phục lại đất Đông-đô, nhà Mạc th́ muốn trừ họ Lê để nhất-thống thiên-hạ. Nhưng từ khi ông Nguyễn Kim mất rồi, và trong mấy năm về đời vua Trung-tông, Trịnh Kiểm cứ giữ thế thủ ở đất Thanh-hóa, để sửa-sang việc binh-lương, đợi ngày ra đánh họ Mạc.

Nhà Mạc sai Mạc kính Điển, là chú Mạc phúc Nguyên cầm quân đi đánh họ Lê.

Mạc kính Điển đem binh vào đánh Thanh-hóa cả thảy kể hơn mười phen, phen nào cũng phải thua trở về, Trịnh Kiểm cũng ra đánh Sơn-nam kể vừa 6 lần, nhưng không có lần nào được toàn thắng. Chỉ có năm kỷ-mùi (1559) Trịnh Kiểm đem 6 vạn quân ra đánh mặt Bắc, đă lấy được những tỉnh Sơn-tây, Hưng-hóa, Thái-nguyên, Kinh-bắc, Lạng-sơn, và các huyện ở mặt Hải-dương, tưởng đă sắp thành-công, nhưng lại bị Mạc kính Điển đem một đạo quân đi đường bộ vào đánh Thanh-hóa nguy-cấp lắm, Trịnh Kiểm lại phải bỏ miền Bắc về giữ đất Tây-đô. Thành ra hai bên cứ giữ nhau măi: nhà Lê tuy đă trung-hưng, nhưng giang-sơn vẫn chưa thu được lại như cũ, mà nhà Mạc có làm vua, th́ cũng chỉ làm vua ở miền Bắc mà thôi.

Năm tân-dậu (1561) vua nhà Mạc là Phúc Nguyên mất, con là Mạc mậu Hợp lên nối ngôi làm vua.

Việc tranh chiến vẫn cứ như trước: khi th́ Trịnh Kiểm ra đánh Sơn- nam, khi th́ Mạc kính Điển vào đánh Thanh-hóa, hai bên không bên nào được hẳn.

5. Trịnh Tùng Thống-Lĩnh Binh-Quyền.

Năm canh-ngọ (1570) Trịnh Kiểm mất, trao quyền lại cho con trưởng là Trịnh Cối để lo việc đánh dẹp. Nhưng Trịnh Cối hay say đắm tửu sắc, tướng-sĩ không mấy người phục; lại có em là Trịnh Tùng ư muốn cướp quyền của anh, bèn cùng với bọn Lê cập Đệ, Trịnh Bách rước vua về đồn Vạn-lại, rồi chia quân ra chống với Trịnh Cối.

Đương khi hai anh em họ Trịnh đánh nhau, th́ Mạc kính Điển lại đem hơn 10 vạn quân vào đánh Thanh-hóa, Trịnh Cối liệu thế địch không nổi, bèn đem quân về hàng họ Mạc, được giữ quan-tước như cũ. Quân nhà Mạc thừa thế tiến lên đến sông Mă-giang, tràn sang đóng ở đất Hà-trung, rồi đến vây đánh An-trường (thuộc huyện Thụy-nguyên) là chỗ vua nhà Lê đóng.

Bấy giờ vua Anh-tông về ở Đông-sơn, phong cho Trịnh Tùng làm tả- thừa-tướng, tiết chế chư quân, để chống giữ với quân nhà Mạc. Trịnh Tùng sai các tướng giữ mọi nơi rất là chắc-chắn. Mạc kính Điển đánh măi không được, lâu ngày hết lương phải rút quân về Bắc.

Quân nhà Mạc rút về rồi, vua phong cho Trịnh Tùng làm Thái-úy Trưởng-quốc-công, và thăng thưởng cho các tướng-sĩ. Lại sai ông Phùng khắc Khoan đi chiêu-tập những hoang dân ở Thanh-hóa về yên-nghiệp làm ăn, và chỉnh-đốn việc chính-trị lại.

Bấy giờ việc ǵ cũng do Trịnh Tùng quyết-đoán cả, uy-quyền hống- hách, vua cũng lấy làm lo. Lê cập Đệ thấy vậy, mưu với vua để trừ họ Trịnh, nhưng Trịnh Tùng biết ư dùng mưu giết Cập Đệ, vua Anh-tông biết sự không thành, lo sợ lắm, bèn cùng với bốn hoàng-tử chạy vào Nghệ-an.

Trịnh Tùng thấy vua xuất ngoại rồi, bèn cho người đi rước hoàng-tử thứ năm là Duy Đàm, ở làng Quảng-thi, huyện thụy-nguyên về làm vua, rồi sai Nguyễn hữu Liêu đem binh đi đuổi theo vua Anh-tông.

Anh-tông vào đến đất Nghệ-an, thấy quân đuổi đến, vội-vàng ẩn vào trong vườn mía, nhưng bị Hữu Liêu t́m thấy đưa về, đến huyện Lôi-dương th́ Trịnh Tùng sai người đến giết đi, rồi nói rằng vua thắt cổ chết.

Trịnh Tùng giết vua Anh-tông rồi, thăng thưởng cho những người đồng đảng với ḿnh, và chia quân ra pḥng giữ các nơi để chống với quân nhà Mạc.

Từ năm quí-dậu (1573) cho đến năm quí-mùi (1583) vừa 10 năm, Trịnh Tùng cứ giữ vững đất Thanh-hóa, Nghệ-an, để cho quân nhà Mạc vào đánh phải hao binh tổn tướng. Trong bấy nhiêu năm, tướng nhà Mạc là Mạc kính Điển, Nguyễn Quyện, và Mạc ngọc Liễn, khi th́ vào đánh Thanh-hóa, khi th́ vào đánh cả mặt Thanh và mặt Nghệ, nhưng mà không bao giờ thành công, phen nào cũng được một vài trận rồi lại thua, phải rút quân về.

Từ năm ất-măo (1579) trở đi, Mạc kính Điển mất rồi, Mạc đôn Nhượng đem binh vào đánh họ Lê, nhưng cũng không được trận nào.

6. Khôi-Phục Thành Thăng-Long.

Đến năm quí mùi (1583) Trịnh Tùng xem thế ḿnh đă mạnh, mới cử binh mă ra đánh Sơn-nam lấy được thóc gạo đem về. Từ đó về sau năm nào cũng ra đánh, bắt quân nhà Mạc phải đổi thế công ra thủ. Và nhà Mạc thấy thế nhà Lê một ngày một mạnh, bèn bắt quân-dân đắp ba từng lũy, đào ba lần hào ở ngoài thành Đại- la để làm kế thủ-bị.

Quân nhà Lê ra đánh trận nào được trận ấy, Trịnh Tùng bèn quyết ư cử đại binh ra đánh Thăng-long.

Năm tân-măo ( 1591 ) Trịnh Tùng sai Diễn-quận-công Trịnh văn Hải, Thái-quận-công Nguyễn thất Lư đem binh trấn-thủ các cửa bể và các nơi hiểm-yếu. Sau Thọ-quận-công Lê Ḥa ở lại giữ ngự-dinh và cả địa hạt Thanh-hóa. Pḥng bị đâu đó rồi, bèn đem hơn 5 vạn quân chia ra làm 5 đội, sai quan Thái-phó Nguyễn hữu Liêu, quan Thái-úy Hoàng đ́nh Ái, Lân-quận- công Hà thế Lộc, Thế-quận-công Ngô cảnh Hữu, mỗi người lĩnh một đội, c̣n Trịnh Tùng tự lĩnh 2 vạn quân ra cửa Thiên-quan (Ninh-B́nh) qua núi Yên mă (ở huyện An-sơn ) đất Tân-phong (tức là Tiên-phong ) rồi kéo về đóng ở Tốt-lâm ( ? ) .

Vua nhà Mạc là Mạc mậu Hợp cũng điều-động tất cả quân bốn vệ và quân năm phủ được hơn 10 vạn, sai Mạc ngọc Liễn và Nguyễn Quyện lĩnh hai đạo tả hữu, Mậu Hợp tự dẫn trung-quân đến đóng đối trận với quân Trịnh Tùng.

Trịnh Tùng thấy quân Mạc đă đến, bèn tự ḿnh dốc tướng-sĩ thề đánh cho được để báo thù. Quân họ Trịnh đánh rất hăng, quân nhà Mạc đánh không nổi, thua to, chết đến hàng vạn người. Mạc mậu Hợp bỏ chạy. Quân họ Trịnh thừa thế đuổi tràn gần đến thành Thăng-long. Nhưng vừa đến tết Nguyên-đán, cho nên Trịnh Tùng đ́nh-chiến lại cho quân-sĩ nghỉ- ngơi ăn tết. Qua sang tháng giêng năm nhâm-th́n ( 1592 ) Trịnh Tùng lập đàn tế trời đất và các vua nhà Lê rồi đặt ba điều ước để cấm quân-sĩ.

1. Không được vào nhà dân mà lấy đồ ăn và củi-đuốc.

2. Không được cướp lấy của-cải và chặt lấy cây-cối.

3. Không được dâm hiếp đàn-bà con-gái, và không được v́ tư thù mà giết người.

Ai phạm ba điều ấy th́ cứ theo quân-pháp mà trị. Đoạn rồi, tiến quân lên đánh Thăng-long thành.

Mạc mậu Hợp thấy quân nhà Lê lại tiến lên, bèn sai Mạc ngọc Liễn, Bùi văn Khuê, Nguyễn Quyện và Trần bách Niên ở lại giữ thành Thăng-long, rồi đem quân sang sông Nhị-hà về đóng ở làng Thổ Khối.

Trịnh Tùng sai tướng chia quân vây đánh các cửa thành. Quân nhà Mạc giữ không nổi, ba tầng lũy đều phải phá cả bọn Mạc ngọc Liễn, Bùi văn Khuê phải bỏ thành mà chạy, Nguyễn Quyện th́ bị bắt.

Trịnh Tùng lấy được thành Thăng-long rồi bắt quân phá những hào lũy đi, sau phẳng ra làm b́nh địa, rồi về Thanh-hóa đem tin thắng trận cho vua biết.

Sử không nói rơ tại làm sao Trịnh Tùng đă lấy được Thăng-long mà không đánh rấn đi, lại bỏ về Thanh-hóa. Có lẽ là tại quân họ Trịnh tuy thắng trận, nhưng tướng sĩ đều mỏi-mệt cả, vả lại thế họ Mạc hăy c̣n mạnh, ở lại giữ không nổi, cho nên phải bỏ mà về.

 

Trịnh Tùng đă bỏ Thăng-long về Thanh-hóa, nhưng Mậu Hợp không biết nhân lấy dịp ấy mà sửa sang việc vơ-bị, chỉnh-đốn việc chính-trị, lại cứ say đắm tửu sắc, bạc đăi các tướng-sĩ, đến nỗi công-việc hỏng nát, thân ḿnh bị hại.

Bấy giờ Bùi văn Khuê có người vợ tên là Nguyễn-thị nhan sắc hơn người, Mạc mậu Hợp muốn giết Văn Khuê đi để lấy Nguyễn-thị làm vợ.

Văn Khuê biết ư đem vợ vào ở huyện Gia-viễn ( thuộc Ninh-b́nh ) Mậu Hợp cho quân vào bắt. Văn Khuê phải xin về hàng với Trịnh Tùng.

7. Nhà Mạc Mất Ngôi.

Trịnh Tùng được Văn Khuê về hàng, mừng lắm, liền sai Hoàng đ́nh Ái ra đón Văn Khuê rồi đem đi làm tiền đội, tự ḿnh lại đem đại binh trở ra Tràng-an, gặp quân nhà Mạc ở sông Thiên-phái ( ở về cuối huyện Ư-yên và huyện Phong-doanh, tỉnh Nam-định ), đánh nhau một trận, lấy được 70 chiếc thuyền, tướng nhà Mạc là Trần bách Niên về hàng.

Quân Trịnh Tùng kéo ra B́nh-lục, sang Thanh-oai đóng ở băi Tinh- thần ( bây giờ là xă Thanh-thần ở huyện Thanh-oai ) rồi tiến lên đến sông Hát-giang, cửa sông Đáy ra sông Hồng-hà, gặp tướng nhà Mạc là Mạc ngọc Liễn, đánh đuổi một trận lấy được chiến thuyền kể hằng ngh́n chiếc.

Mạc mậu Hợp được tin quân ḿnh thua to, bỏ thành Thăng-long chạy sang Hải-dương về đóng ở kim-thành thuộc Hải-dương.

Trịnh Tùng ra đến Thăng-long, rồi sai Nguyễn thất Lư, Bùi văn Khuê và Trần bách Niên sang đánh Mậu Hợp ở Kim-thành, lấy được vàng bạc của cải nhiều lắm, và bắt được mẹ Mậu Hợp đem về.

Mạc mậu Hợp thấy quân ḿnh thua luôn, bèn giao quyền chính-trị cho con là Mạc Toàn rồi tự ḿnh làm tướng đem quân đi đánh.

Bấy giờ quan nhà Mạc là bọn Đỗ Uông, Ngô Tạo, cả thảy 17 người về hàng nhà Lê.

Trịnh Tùng sang đóng quân ở huyện Vĩnh-lại, rồi sai Phạm văn Khoái đem quân đi đuổi đánh Mậu Hợp ở huyện Yên-dũng và huyện Vũ-ninh ( nay là Vũ-giang ). Mạc mậu Hợp phải bỏ thuyền chạy lên bộ, vào ẩn trong cái chùa ở huyện Phượng-nhỡn. Văn Khoái đuổi đến đấy, có người chỉ dẫn bắt được đem về Thăng-long, làm tội sống ba ngày, rồi chém đầu vào bêu ở trong Thanh-hóa.

Bấy giờ có con Mạc kính Điển là Mạc kính Chỉ ở đất Đông-triều biết tin Mạc mậu Hợp đă bị bắt, bèn tự lập làm vua, đóng ở huyện Thanh-lâm. Con cháu họ Mạc hơn 100 người và các quan văn vơ đều về đấy cả, rồi treo bảng chiêu mộ quân-sĩ, chẳng bao lâu được sáu bảy vạn người. Mạc Toàn là con Mạc mậu Hợp cũng theo về với Mạc kính Chỉ.

Trịnh Tùng thấy Kính Chỉ lại nổi lên, thanh thế to lắm, quan quân đánh măi không được, bèn đem quân sang đánh ở huyện Cẩm-giang và Thanh-lâm, bắt được Kính Chỉ và con cháu họ Mạc cùng các quan cả thảy hơn 60 người.

Trịnh Tùng đánh được trận ấy, rồi về Thăng-long, sai quan vào rước vua Thế-Tông ra Đông-đô, mở triều và thăng thưởng cho các tướng-sĩ.

Năm sau, tướng nhà Mạc là Mạc ngọc Liễn t́m được một người con Mạc kính Điển là Mạc kính Cung lập lên làm vua, chiếm giữ châu Yên-bác ở đất Lạng-sơn để làm căn-bản. Nhưng chẳng bao lâu quan Thái-úy là Hoàng đ́nh Ái đem binh lên đánh. Mạc kính Cung và Mạc ngọc Liễn phải chạy sang Long-châu. Ít lâu Ngọc Liễn chết có để thư lại dặn Kính Cung rằng : " Nay họ Lê lại dấy lên được, ấy là số trời đă định; c̣n dân ta th́ có tội ǵ, mà ta nỡ để khổ sở măi về việc chiến-tranh ? Vậy ta nên đành phận lánh ḿnh ở nước ngoài, chứ đừng có đem ḷng cạnh-tranh mà lại mời người Tàu sang làm hại dân nước ḿnh . "

Trung-hậu thay, mấy lời dạy lại của Mạc ngọc Liễn! Chỉ tiếc v́ họ Mạc không ai chịu theo!

Từ đó nhà Mạc mất ngôi làm vua, ngày sau tuy Mạc kính Cung nhờ có nhà Minh bênh-vực được về ở đất Cao-bằng, nhưng cũng là ở một chỗ nhỏ-mọn gần chỗ biên-thùy mà thôi.

Nhà Mạc làm vua từ Mạc đăng Dung cho đến Mạc mậu Hợp là từ năm đinh-hợi ( 1527 ) đến năm nhâm-th́n ( 1592 ) kể vừa được 65 năm.

Trịnh Tùng tuy đă lập được công to dứt được nhà Mạc, lấy lại được đất Đông-đô, nhưng nhà Minh vẫn có ư bênh nhà Mạc không chịu nhận nhà Lê. Và con cháu nhà Mạc hăy c̣n nhiều; nay xưng vương chỗ này, mai khởi loạn chỗ khác, cho nên Trịnh Tùng phải một mặt dùng trí mà giữ cho nhà Minh khỏi quấy nhiễu, và một mặt dùng lực mà đánh dẹp dư-đảng họ Mạc.

8. Việc Nhà Hậu-Lê Giao-Thiệp Với Nhà Minh.

Khi Trịnh Tùng đă thu-phục được thành Thăng-long rồi, người nhà Mạc sang kêu với vua nhà Minh rằng họ Trịnh nổi lên tranh ngôi, chứ không phải con-cháu nhà Lê.

Vua nhà Minh sai quan đến Nam-quan khám-xét việc ấy.

Tháng 3 năm bính-thân ( 1596 ) vua Thế-tông sai quan Hộ-bộ Thượng-thư là Đỗ Uông và quan Đô-ngự-sử là Nguyễn văn Giai lên Nam- quan tiếp quan Tàu. Sau lại sai hai ông hoàng-thân là Lê Cánh, Lê Lựu cùng với quan Công-bộ tả-thị-lang là Phùng khắc Khoan đem 10 người kỳ-mục, 100 cân vàng, 1,000 cân bạc, cái ấn An-nam Đô-thống-sứ của nhà Mạc và cái ấn An-nam-quốc-vương của vua nhà Lê ngày trước, sang cho quan nhà Minh khám. Nhưng quan nhà Minh lại bắt vua Thế-tông phải thân hành sang hội ở cửa Nam-quan.

Trịnh Tùng sai Hoàng đ́nh Ái, Nguyễn hữu Liêu đem một vạn quân đi hộ giá, đưa vua sang phó hội. Sang đến nơi, quan nhà Minh lại đ̣i phải nộp người vàng và ấn vàng như tích cũ, rồi không chịu đến hội. Vua chờ lâu, không xong việc lại phải trở về.

Đến tháng tư năm sau, sứ nhà Minh lại sang mời vua Thế-tông lên hội ở Nam-quan. Triều-đ́nh sai quan Thái-úy Hoàng đ́nh Ái đem 5 vạn quân đi hộ giá sang hội ở Nam-quan.

Đến khi xa giá về, Trịnh Tùng đem các quan đi đón mừng rồi sai Công-bộ tả-thị-lang Phùng khắc Khoan làm chánh-sứ, quan Thái-Thường tự- khanh Nguyễn nhân Thiệm làm phó sứ, đem đồ lễ sang Yên-kinh cống nhà Minh và xin phong.

Vua nhà Minh chỉ phong cho vua Thế-tông làm An-nam Đô-thống- Sứ. Ông Phùng khắc Khoan dâng sớ tâu rằng : " Đô-thống-sứ là chức cũ của họ Mạc, chứ vua nước Nam là ḍng dơi họ Lê, mà phong cho chức ấy th́ không xứng-đáng

" . Vua nhà Minh trả lời rằng : vẫn biết họ Lê không ví như họ Mạc, nhưng lúc đầu mới phong hăy tạm cho chức ấy, rồi về sau sẽ phong vương.

Ông Phùng khắc Khoan phải chịu mà về. Từ đó nhà Minh với nhà Lê lại thông sứ như trước.

9. Con cháu nhà Mạc ở Cao-Bằng.

Từ khi Mạc mậu Hợp và Mạc kính Chỉ bị bắt rồi, con cháu họ Mạc ẩn ở các nơi để mong đường khôi- phục. Bấy giờ có Mạc kính Chương xưng làm Tráng-vương, chiếm-giữ từ huyện Đông-triều cho đến đất Yên-quảng.

Năm bính-thân ( 1596 ) Trịnh Tùng sai quan Trấn-thủ Hải-dương là Phan Ngạn đánh bắt được Kính Chương.

Lại có người Mạc kính Dụng là con Mạc kính Chi chiếm-giữ đất Yên- bắc ( Lạng-sơn ) xưng làm Uy-vương, nhưng cũng chẳng bao lâu bị quân họ Trịnh bắt được.

C̣n Mạc kính Cung trước đă chạy sang ở Long-châu, sau lại về cùng với đảng ḿnh đánh phá ở đất Cao-bằng và đất Lạng-sơn. Trịnh Tùng sai quan lên đuổi đánh, nhưng Mạc kính Cung sang kêu với nhà Minh, vua nhà Minh cho đưa thư sang bắt nhà Lê phải để đất Cao-bằng cho con cháu họ Mạc.

Nhà Lê bất-đắc-dĩ phải để đất Cao-bằng cho họ Mạc ở.

 

CHƯƠNG lll

Trịnh-Nguyễn phân tranh

1. Họ Trịnh xưng chúa miền Bắc

2. Họ Nguyễn xưng chúa miền Nam

1. Họ Trịnh Xưng Chúa Miền Bắc.

Từ khi Trịnh Tùng dứt được họ Mạc, thu giang sơn lại cho nhà Lê rồi, mỗi ngày một kiêu hănh, chiếm giữ lấy quyền chính trị và lại hà hiếp nhà vua. Họ Nguyễn ở trong Thuận-hóa thấy họ Trịnh chuyên quyền, cũng tự xưng độc-lập ở miền Nam, làm thành ra Nam Bắc đôi nơi và gây nên sự chiến tranh rất là tàn-hại cho nước nhà.

Năm kỷ-hợi ( 1599 ) đời vua Thế-tông nhà Lê, Trịnh Tùng thu-xếp xong việc thông sứ với nhà Minh, và đă chịu nhường đất Cao-bằng cho con- cháu nhà Mạc rồi, trong nước đă yên dần, bèn tự xưng làm Đô-nguyên-súy Tổng-quốc-chính Thượng-phu B́nh-an-vương rồi định lệ cấp bổng cho vua được thu thuế 1.000 xă, gọi là lộc thượng-tiến, cấp cho vua 5.000 lính để làm quân túc-vệ. C̣n những việc đặt quan, thu thuế, bắt lính, trị dân, đều thuộc về họ Trịnh cả. Chỉ có khi nào thiết triều hay là tiếp sứ th́ mới cần đến vua mà thôi.

Từ đó về sau, họ Trịnh cứ thế tập làm vương, tục gọi là chúa Trịnh.

Uy quyền họ Trịnh bấy giờ hống-hách như thế và các quan lại theo về họ Trịnh cả. Giả-sử Trịnh Tùng có muốn dứt nhà Lê đi mà làm vua, th́ cũng không khó ǵ. Tuy vậy mà Trịnh Tùng không dám làm, là tại sao ? Tại lẽ rằng ở phía Bắc sợ nhà Minh sinh sự lôi thôi, lại có họ Mạc c̣n giữ đất Cao-bằng nhỡ có làm điều ǵ phản-trắc, th́ e quân nghịch nổi lên lấy thù Lê thảo Trịnh làm cớ.

Và chăng mặt Nam c̣n có họ Nguyễn, thế-lực cũng chẳng kém-hơn ǵ, mà lại có ư độc-lập để tranh quyền với họ Trịnh. Chi bằng không lấy nước cũng như lấy nước, không làm vua mà lại hơn vua. V́ bao giờ có phải đi đánh-dẹp nơi nào, vẫn lấy lệnh thiên tử mà sai khiến mọi người, không ai bắt-bẻ ǵ được. Bởi thế cho nên họ Trịnh đành chịu ngôi thứ nh́ trong nước mà giữ quyền cả nước.

2. Họ Nguyễn Xưng Chúa Miền Nam.

Nguyên khi xưa ông Nguyễn Kim khởi-nghĩa giúp nhà Lê đánh nhà Mạc đi lấy được đất Thanh- nghệ rồi , sau đem quân ra đánh Sơn-nam bị hàng tướng nhà Mạc nhà Mạc là Dương chấp Nhất đánh thuốc độc chết, binh quyền giao cả lại cho rể là Trịnh Kiểm để đánh giặc.

Ông Nguyễn Kim có hai người con là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng cũng làm tướng lập được nhiều công. Người anh là Nguyễn Uông được phong là Lang-quận-công, người em là Nguyễn Hoàng được phong là Thái-úy Đoàn-quận-công.

Nhưng v́ Trịnh Kiểm sợ họ Nguyễn tranh mất quyền ḿnh, bèn kiếm chuyện mà giết Nguyễn Uông đi. C̣n Nguyễn Hoàng cũng sợ Trịnh Kiểm có ư ám hại, chưa biết thế nào mới cho người ra Hải-dương hỏi ông Nguyễn bỉnh Khiêm. Ông ấy bảo rằng : " Hoành-sơn nhất đái, vạn đại dung thân

" nghĩa là một dăy Hoành-sơn 99

kia có thể yên thân được muôn đời.

Nguyễn Hoàng mới nói với chị là bà Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho vào trấn phía Nam.

Năm mậu-ngọ ( 1558 ) đời vua An-tông, Trịnh Kiểm mới tâu vua cho Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận-hóa. Bấy giờ những người họ hàng ở huyện Tống-sơn cùng những quân lính ở đất Thanh-nghệ nhiều người đưa cả vợ con theo đi. Nguyễn Hoàng vào đóng ở Xă Ái-tử ( sau gọi là kho Cây- khế ), thuộc huyện Đăng-xương, tỉnh Quảng-trị.

Nguyễn Hoàng là một người khôn-ngoan mà lại có ḷng nhân-đức, thu-dùng hào-kiệt, yên-ủi nhân-dân, cho nên ḷng người ai cũng mến-phục.

Đến năm kỷ-tỵ ( 1569 ) ông ra chầu vua ở An-tràng. Qua năm sau Trịnh Kiểm gọi quan tổng-binh ở Quảng-nam là Nguyễn bá Quưnh về giữ đất Nghệ-an, và lại cho ông vào trấn cả đất Thuận-hóa và đất Quảng-nam. Lệ mỗi năm phải nộp thuế là 400 cân bạc, 500 tấm lụa.

Năm nhâm-thân ( 1572 ) nhân lúc Trịnh Kiểm mới mất, con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng đánh nhau, nhà Mạc đem quân vào đánh Thanh-hóa và sai tướng là Lập Bạo đem một toán quân đi 60 chiếc thuyền, bởi đường hải- đạo kéo vào đóng ở làng Hồ-xá và ở làng Lạng-uyển ( thuộc huyện Minh-linh ) để đánh Nguyễn Hoàng.  [99]

Núi Hoành Sơn là núi Đèo Ngang ở tỉnh Quảng B́nh

Ông mới sai một người con gái đẹp là Ngô-thị giả làm cách đưa vàng bạc sang nói với Lập Bạo xin cầu ḥa. Lập Bạo mừng rỡ, không pḥng bị ǵ cả, bị quân họ Nguyễn đánh lẻn, bắt được giết đi, và đánh tan quân nhà Mạc.

Năm quí-tị ( 1593 ) Trịnh Tùng đă lấy được thành Thăng-long, bắt được Mạc mậu Hợp, nhưng mà đảng nhà Mạc c̣n nhiều, phải đánh dẹp nhiều nơi, Nguyễn Hoàng đưa quân-binh và súng-ống ra Đông-đô, ở hằng 8 năm, giúp Trịnh Tùng để đánh họ Mạc, lập được nhiều công to. Nhưng mà Trịnh Tùng vẫn có ư ghen ghét không muốn cho ngài về Thuận-hóa, mà ngài cũng không có dịp ǵ mà về được.

Năm canh-tư ( 1600 ) nhân v́ họ Trịnh kiêu hănh quá, các quan có nhiều người không phục ; bọn Phan Ngạn, Ngô đ́nh Hàm, Bùi văn Khuê khởi binh chống lại với họ Trịnh ở cửa Đại-an ( thuộc Nam-định ), Nguyễn Hoàng mới đem bản bộ tướng-sĩ giả cách nói đi đánh giặc, rồi theo đường hải-đạo về Thuận-hóa.

Nguyễn Hoàng về Thuận-hóa rồi, sợ họ Trịnh nghi-ngờ, bèn đem người con gái là bà Ngọc Tú gả cho Trịnh Tráng là con trai Trịnh Tùng. Ngài ở giữ đất Thuận-hóa, cho người con thứ sáu vào trấn đất Quảng-nam dựng ra kho tàng, tích-trữ lương thực.

Từ đấy trở đi, Nam Bắc phân-biệt, bề ngoài th́ làm ra bộ ḥa-hiếu, nhưng bề trong th́ vẫn lo việc pḥng-bị để chống cự với nhau.

 

CHƯƠNG IV

Sự Chiến Tranh

1. Họ Trịnh đánh họ Mạc ở Cao Bằng. 2. Nhà Thanh dấy nghiệp. 3. T́nh thế họ Nguyễn ở miền Nam. 4. Đánh nhau lần thứ nhất. 5. Đánh nhau lần thứ hai. 6. Đánh nhau lần thứ ba. 7. Đánh nhau lần thứ tư. 8. Đánh nhau lần thứ năm. 9. Đánh nhau lần thứ sáu. 10. Đánh nhau lần thứ bảy.

1. Họ Trịnh Đánh Họ Mạc ở Cao Bằng.

Năm kỷ hợi (1599), vua Thế Tông mất, Trịnh Tùng cùng với các quan triều thần lập hoàng tử là Duy Tân lên làm vua, tức là vua Kính Tông. Qua năm sau (1600) bọn Phan Ngạn, Ngô Đ́nh Hàm và Bùi Văn Khuê nổi loạn ở cửa Đại An. Trịnh Tùng ở Thăng Long sợ bốn mặt thụ địch, bèn rước vua vào Thanh Hóa.

Đảng họ Mạc thấy thành Thăng Long bỏ không, bèn rước bà thứ mẫu của Mậu Hợp là Bùi Thị về tôn lên làm quốc mẫu, rồi cho người lên đón Mạc Kính Cung ở đất Cao Bằng.

Phan Ngạn và Bùi Văn Khuê lại nghi ngờ nhau rồi giết lẫn nhau, c̣n Ngô Đ́nh Hàm th́ về giúp nhà Mạc.

Trịnh Tùng đem Kính Tông vào Thanh Hóa rồi thu xếp ra lấy lại Thăng Long, nhưng c̣n sợ mặt Thuận Hóa có biến chăng, bèn sai quan vào ủy dụ Nguyễn Hoàng; đoạn rồi đem thủy bộ đại quân ra Bắc, đánh bắt được Bùi Thị giết đi, c̣n Mạc Kính Cung bỏ chạy sang Kim Thành ở Hải Dương, sau thấy đảng của ḿnh thua cả, lại bỏ Kim Thành chạy lên Cao Bằng.

Trịnh Tùng lấy lại Thăng Long rồi sai quan vào rước vua ra, và sai các tướng đi tiễu trừ đảng họ Mạc ở mặt Thái Nguyên, Lạng Sơn và Yên Quang.

Trịnh Tùng càng ngày càng kiêu hănh quá, vua cũng không chịu được, lại nhân họ Trịnh có con là Trịnh Xuân muốn ganh quyền với người con trưởng là Trịnh Tráng, vua Kính Tông mới mưu với Trịnh Xuân để giết Trịnh Tùng, nhưng chẳng may sự không thành. Trịnh Tùng bức vua phải thắt cổ chết, và bắt Trịnh Xuân giam mấy tháng rồi tha.

Trịnh Tùng giết vua Kính Tông rồi, lập Hoàng Tử là Duy Kỳ lên làm vua, tức là vua Thần Tông.

Năm quư hợi (1623) Trịnh Tùng đau, hội các quan lại giao binh quyền cho con là Trịnh Tráng, và cho Trịnh Xuân làm phó.

Trịnh Xuân không bằng ḷng, đem binh làm loạn, đốt phá kinh thành, Trịnh Tùng thấy biến, chạy về xă Hoàng Mai, vào nhà Trịnh Đỗ, rồi cho gọi Trịnh Xuân đến bắt giết đi. Được mấy hôm Trịnh Tùng mất ở chùa Thanh Xuân, thuộc huyện Thanh Tŕ.

Trịnh Tráng lên nối nghiệp làm chúa. Nhưng v́ đảng Trịnh Xuân c̣n làm loạn, cho nên mới đưa vua về Thanh Hóa. Vua phong cho Trịnh Tráng làm Thái Úy Thanh Quốc Công, tiết chế thủy bộ chư quân.

Bấy giờ có Mạc Kính Khoan là cháu Mạc Kính Cung xưng làm Khánh Vương ở đất Thái Nguyên. Trước đă bị quân họ Trịnh đánh phá mấy trận, phải lên ẩn núp ở đất Cao Bằng, nay thâ"y người nhà họ Trịnh làm loạn, lại đem quân vào đóng ở làng Thổ Khối, huyện Gia Lâm. Nhưng chẳng bao lâu Trịnh Tráng ở Thanh Hóa ra đánh. Kính Khoan lại phải chạy về Cao Bằng.

Trịnh Tráng dẹp yên đất Đông Đô, lại vào rước vua ra, và tự xưng làm Nguyên Súy, Thống Quốc Chính Thanh Đô Vương, rồi sai con là Trịnh Kiều đem quân lên đánh Cao Bằng (ất sửu 1625) bắt được Mạc Kính Cung đem về giết đi. Mạc Kính Khoan th́ chạy sang Tàu, rồi cho người về dâng biểu xin hàng.

Triều đ́nh phong cho Kính Khoan làm Thái Úy Thông Quốc Công, và cho giữ đất Cao Bằng theo lệ cống tiến.

2. Nhà Thanh Dấy Nghiệp.

Khi Trịnh Tráng ở An Nam ta mới lên nối nghiệp làm chúa và đang phải đánh dẹp họ Mạc ở đất Cao Bằng, th́ ở bên Tàu nhà Minh mất nước.

Nguyên ở xứ đông bắc nước Tàu có một xứ gọi là Măn Châu, có giống người Nữ Chân ở. Về đời nhà Tống người Nữ Chân đă lập nên một nước lớn gọi là Kim, xưng đế được 120 năm, rồi bị nhà Nguyên lấy mất. Nhà Nguyên đặt Vạn Hộ Phủ để cai trị đất Măn Châu.

Sau nhà Minh dứt được nhà Nguyên, tuy ở Măn Châu nhà Minh có đặt vệ địa, nhưng mà người xứ ấy vẫn tự cai trị lấy.

Đất Măn Châu bấy giờ chia làm bốn bộ:

1. Măn Châu Bộ (thuộc về Kiến Châu Vệ Địa) 2. Trường Bạch Bộ (thuộc về Kiến Châu Vệ Địa) 3. Đông Hải Bộ (thuộc về Dạ Nhân Vệ Địa) 4. Hỗ Luân Bộ (thuộc về Hải Tây Vệ Địa)

Về cuối đời nhà Minh, ở Trường Bạch Bộ có một người tên là Nỗ Nhĩ Cấp Xích, tức là vua Thái Tổ nhà Thanh, đánh lấy tất cả đất bốn bộ, đóng kinh đô ở Thẩm Dương, là Thịnh Kinh bây giờ.

Nỗ Nhĩ Cáp Xích mất, con lên nối nghiệp tức là Thanh Thái Tông. Sau nhân được cái Truyền Quốc Tỉ của nước Tàu, Thái Tông mới cải quốc hiệu là Đại Thanh.

Con Thái Tông tên là Phúc Lâm lên làm vua, tức là Thanh Thế Tổ, đánh lấy được cả đất Liêu Tây của nhà Minh.

Khi tướng nhà Minh là Ngô Tam Quế đang chống với quân nhà Thanh ở Sơn Hải Quan th́ Lư Tự Thành nổi lên vây đánh Yên Kinh. Vua Trang Liệt nhà Minh gọi Ngô Tam Quế về cứu, nhưng về đến nửa đường, Tam Quế được tin Yên Kinh đă thất thủ, Trang Liệt Đế và Hoàng Hậu đă bị giết, Tam Quế lại trở về Sơn Hải Quan.

Lư Tự Thành cho người gọi Tam Quế về hàng, Tam Quế không về. Tự Thành đem quân đến đánh Sơn Hải Quan. Tam Quế xin hàng nhà Thanh để lấy binh về đánh Tự Thành.

Lư Tự Thành đánh thua, phải bỏ Yên Kinh mà chạy, quân nhà Thanh vào giữ Yên Kinh rồi dời kinh sư về đó.

Các quân cựu thần nhà Minh lập Phúc Vương lên làm vua ở Nam Kinh, nhưng sau v́ các tướng không ḥa với nhau, Phúc Vương phải ra hàng.

Phúc Vương hàng Thanh rồi, Đường Vương xưng đế ở Phúc Châu, chẳng bao lâu cũng bị bắt, phải nhịn ăn mà chết.

Ḍng dơi nhà Minh là Quế Vương xưng đế ở đất Triệu Khánh (thuộc tỉnh Quảng Tây) được mấy năm, bị quân nhà Thanh đến đánh, phải chạy sang Diến Điện. Vua Diến Điện bắt Quế Vương nộp cho Ngô Tam Quế. Tam Quế đem giết đi. Từ đấy nhà Thanh nhất thống nước Tàu.

Khi Quế vương xưng đế ở đất Quảng Tây, có ư muốn nhờ An Nam cứu viện, cho nên mới phong cho vua Thần Tông nhà Lê làm An Nam Quốc Vương và phong Trịnh Tráng làm phó vương.

Khi ấy ở phía bắc nước Tàu đang loạn, họ Mạc th́ đă về hàng, Trịnh Tráng mới nhân dịp quyết ư đi đánh họ Nguyễn ở phía nam.

3. T́nh Thế Họ Nguyễn ở Miền Nam.

Từ khi Nguyễn Hoàng về Thuận Hóa rồi, bề ngoài tuy vẫn chưa ra mặt chống với họ Trịnh, nhưng bề trong th́ hết sức lo sợ pḥng bị. Xem như năm quư sửu (1613), khi Nguyễn Hoàng sắp mất, gọi người con thứ 6 là Nguyễn Phúc Nguyên vào dặn rằng: "Đất Thuận, Quảng này bên bắc th́ có núi Hoàng Sơn, sông Linh Giang, bên nam th́ có núi Hải Vân và núi Bi Sơn thật là một nơi trời để cho người anh hùng dụng vơ. Vậy ta phải thương yêu nhân dân, luyện tập quân sĩ để mà gây dựng cơ nghiệp về muôn đời." Xem lời ấy th́ biết họ Nguyễn đă có ư muốn độc lập để chống với họ Trịnh.

Khi ở ngoài Bắc, Trịnh Tùng mất, chúa Săi là ông Nguyễn Phúc Nguyên bảo các quan rằng: "Ta muốn nhân dịp này mà ra đánh họ Trịnh, nhưng hiềm v́ công việc chưa xong, vậy th́ hăy sai người ra phúng điếu, trước là cho phải cái nghĩa hôn nhân với nhau, sau là nhân thể xem t́nh ư ngoài Bắc ra thế nào."

Bấy giờ ở miền Nam lại có những người tôi giỏi giúp rập như các ông Nguyễn Hữu Dật, ông Đào Duy Từ, và ông Nguyễn Hữu Tiến đều là người có tài trí cả.

Nguyễn Hữu Dật là người làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa, học rộng, tài cao, và lại có tài hùng biện, đánh giặc giỏi, thật là một bậc văn vơ kiêm toàn.

Đào Duy Từ là người làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. V́ ông là con nhà xướng hát cho nên không được đi thi, ông phẫn trí mới đi vào miền Nam t́m đường lập công, nhưng chưa gặp được người tiến cử cho, bèn vào ở chăn trâu cho một nhà phú gia ở làng Tùng Châu, phủ Hoài Nhân (nay là B́nh Định). Ông làm bài "Ngọa Long Cương" để tự ví ḿnh với ông Gia Cát Lượng. Sau có quan Khâm Lư là Trần Đức Ḥa biết Duy Từ là người có tài, đem về nuôi, và gả con gái cho, rồi đưa dâng chúa Săi. Chúa dùng làm Nội tán, phong làm Lộc Khê Hầu 100 .

Nguyễn Hữu Tiến cũng là người Thanh Hóa, làng Vân Trai, huyện Ngọc Sơn, vơ nghệ tinh thông, dùng binh rất có kỷ luật, thật là một người làm tướng có tài vậy.

Những người ấy giúp chúa Nguyễn, bày mưu định kế, luyện tập quân lính, xây đồn đắp lũy để chống với quân họ Trịnh 101 .

Khi những đồn lũy đă kiên cố, binh lương đă đủ rồi, chúa Săi mới ra mặt không thần phục họ Trịnh nữa, và sai tướng ra chiếm giữ lấy đất Nam Bố Chính là đất ở phía nam sông Linh Giang để làm chỗ chống giữ. Từ đó họ Trịnh và họ Nguyễn đánh nhau tai hại trong khoảng 45 năm ở đất Quảng B́nh, Hà Tĩnh bây giờ.

4. Đánh Nhau Lần Thứ Nhất.

Năm đinh măo (1627) nhân khi nhà Minh bên Tàu c̣n đang chống nhau với nhà Thanh, và họ Mạc ở Cao Bằng th́ về hàng, Trịnh Tráng mới sai quan vào Thuận Hóa giả tiếng nhà vua sai vào đ̣i tiền thuế từ ba năm về trước.

Tờ sắc làm bằng chữ nôm như sau này:

"Hoàng thượng sắc dụ cho Thái bảo Thụy quốc công là Nguyễn Phúc Nguyên được biết rằng: Mệnh lệnh triều đ́nh, Đạo làm tôi phải nên tuân thủ; Thuế má phủ huyện, Tướng ngoài cơi không được tư chuyên. Trước đây trẫm có sai Công bộ thượng thư là Nguyễn Duy Th́, Bá Khê Hầu là Phan Văn Trị vào Thuận Hóa, đạo đạt t́nh ư, chỉ bảo đường họa phúc, để cho tỉnh biết mà phục tùng quyền chính triều đ́nh. Không ngờ nhà ngươi mang ḷng dùng dằng, tối đường tới lui, nói thoái thác cho lôi thôi ngày tháng, để đến nỗi thuế má thiếu thốn, không đủ việc chi thu, đạo làm tôi như thế đă phải chưa? Nhà ngươi nay nên đổi lỗi trước, giữ ǵn phép tắc. Phàm ngạch thuế trong hai xứ Thuận, Quảng, từ năm quư hợi về trước, có  [100]

Đào Duy Từ giúp chúa Săi được 8 năm th́ mất, thọ 63 tuổi. [101]

Đào Duy Từ lập đồn Trường Dục ở huyện Phong Lộc (Quảng B́nh). Và xây cái lũy dài ở cửa Nhật Lệ (cửa Đồng Hới) tức là cái Trường thành ở Quảng B́nh bây giờ. Người ta thường gọi lũy ấy là lũy Thầy, nghĩa là lũy của Đào Duy Từ đắp ra. phải đă mất mùa th́ xá cả cho; c̣n từ năm giáp tí đến nay phải tính cho đủ số theo lệ trước, tải thuyền đem ra nộp cho đủ; và phải chỉnh tề binh mă, hoặt thân đến kinh đô triều hạ, hoặc phải sai con đi thay, để coi xem nghi vệ trong nước, và để tỏ giăi tấm ḷng làm tôi. Nếu thế th́ triều đ́nh sẽ phong thêm cho chức tước vinh hiển, để rạng tỏ đến tổ tông. Nhược bằng thoái thác không đến, th́ tức là phạm tội với triều đ́nh.

Khâm tai dụ sắc!"

Chúa Săi tiếp sứ nhưng không chịu nộp thuế. Trịnh Tráng lại sai sứ mang sắc vua Lê vào dụ chúa Săi cho con ra chầu, và lấy 30 con voi cùng 30 chiếc thuyền để đưa đi cống nhà Minh. Chúa Săi không chịu.

Trịnh Tráng thấy vậy, bèn quyết ư đánh họ Nguyễn, sai Nguyễn Khải và Nguyễn Danh Thế đem 5.000 quân đi làm tiên phong vào đóng ở xă Hà Trung (tục gọi là Cầu Doanh), rồi đem đại binh, rước vua Lê đi đánh mặt Nam.

Chúa Săi sai cháu là Nguyễn Phúc Vệ làm tiết chế cùng với Nguyễn Hữu Dật đem binh mă ra giữ các nơi hiểm yếu. Quân họ Trịnh đến đánh, chết hại rất nhiều. Bọn Nguyễn Hữu Dật lại đặt ra một kế khiến cho quân Trịnh phải rút về, sai người đi nói phao ra rằng ở ngoài Bắc có Trịnh Gia và Trịnh Nhạc sắp làm loạn.

Trịnh Tráng nghe tin ấy trong bụng sinh nghi, không biết thực hư thế nào, bèn rước vua và rút quân về Bắc.

5. Đánh Nhau Lần Thứ Hai.

Năm canh ngọ (1630) chúa Săi nghe lời Đào Duy Từ, sai người đem sắc dụ ra trả vua Lê, rồi sai tướng đánh lấy phía nam ngạn sông Linh Giang để chống với quân họ Trịnh. Đến năm quư dậu (1633) nhân khi chúa Săi có người con thứ ba tên là Ánh, trấn thủ ở đất Quảng Nam, có ư muốn tranh quyền, bèn sai người đưa thư ra Thăng Long xin chúa Trịnh đem quân vào đánh bắn súng làm hiệu, th́ sẽ làm nội ứng. Ánh lại xin chúa Săi cho ra Trấn thủ đất Quảng B́nh để cho tiện làm mưu gian, nhưng chúa Săi có ḷng ngờ, không cho.

Khi Trịnh Tráng được cái thư của ngươi Ánh gửi ra, liền đem đại binh vào đóng ở cửa Nhật Lệ (cửa Đồng Hới).

Chúa Nguyễn sai Nguyễn Vân Thắng và Nguyễn Hữu Dật đem quân ra chống giữ.

Quân Họ Trịnh đến đợi hơn 10 ngày, không thấy tin tức ǵ của ngươi Ánh, bèn lui quân ra để chờ.

Quân lính đợi lâu thành ra lười biếng, quân họ Nguyễn mới xuất kỳ bất ư, đổ ra đánh đuổi.

Trịnh Tráng thấy sự không thành, rút quân về.

6. Đánh Nhau Lần Thứ Ba.

Năm ất hợi (1635) chúa Săi là Nguyễn Phúc Nguyên mất, con là Nguyễn Phúc Lan lên nối nghiệp làm chúa, gọi là chúa Thượng.

Lúc ấy ngươi Ánh ở Quảng Nam nghe tin chúa Săi mất rồi, anh lên nối nghiệp, bèn phát binh làm phản - Bấy giờ có Nguyễn Phúc Khê giúp chúa Thượng, sai quân vào đánh bắt được ngươi Ánh, lấy nghĩa "Anh em là t́nh riêng, phép nước là nghĩa lớn" đem giết đi.

Trịnh Tráng thấy anh em họ Nguyễn tranh nhau, sai tướng vào đánh đất Nam Bố Chính, giết được tướng họ Nguyễn là Bùi Công Thắng rồi tiến lên đóng ở cửa Nhật Lệ.

Đến năm quư tị (1643) Trịnh Tráng đem đại binh và rước vua Lê vào đất Bắc Bố Chính. Nhưng bấy giờ đang tiết tháng tư, khí trời nóng lắm, quân sĩ chết hại rất nhiều, Trịnh Tráng phải rút về Bắc.

7. Đánh Nhau Lần Thứ Tư.

Năm mậu tí (1648) Trịnh Tráng sai đô đốc Tiến Quận Công Lê Văn Hiểu 102

đem quân thủy bộ vào đánh miền Nam; bộ binh tiến lên đóng ở đất Nam Bố Chính; c̣n thủy quân th́ vào đánh cửa Nhật Lệ.

Bấy giờ có hai cha con Trương Phúc Phấn cố sức giữ lũy Trường Dục, quân họ Trịnh đánh mă không tiến lên được.

Chúa Nguyễn sai con là Nguyễn Phúc Tần đem binh ra chống giữ với họ Trịnh, khi ra đến Quảng B́nh, Nguyễn Phúc Tần hội các tướng lại bàn rằng: "Quân kia tuy nhiều, nhưng người đánh giỏi th́ ít. Nếu đến đêm, ta cho voi xông vào rồi đem đại quân đến đánh là chắc phá được". Đoạn rồi, một mặt cho thủy quân đi phục sẳn ở sông Cẩm La để chặn đường quân Trịnh chạy về; một mặt sai Nguyễn Hữu Tiến đem 100 con voi đến canh năm xông vào trại quân Trịnh, quân bộ tiếp sau vào đánh phá. Quả nhiên quân  [102]

Có nơi chép là Trịnh Đào hay là Hàn Tiến. Trịnh thua to chạy về Bắc, lại gặp quân thủy của họ Nguyễn đón đường đuổi đánh măi đến sông Lam Giang mới thôi.

Trận ấy quân họ Nguyễn bắt được mấy người tướng và 3.000 quân của họ Trịnh.

Trịnh Tráng thấy quân ḿnh thua, sai Lê Văn Hiểu cùng với Trần Ngọc Hậu lĩnh một vạn quân đóng ở Hà Trung, Lê Hữu Đức cùng với Vũ Lương đóng ở Hoàng Sơn, Phạm Tất Toàn đóng ở đất Bắc Bố Chính để pḥng giữ quân họ Nguyễn.

Lúc bấy giờ ở trong Nam th́ chúa Thượng mất, truyền nghiệp chúa lại cho con là Nguyễn Phúc Tần, gọi là chúa Hiền. Ở ngoài Bắc th́ vua Chân Tông mất, không có con, Trịnh Tráng lại rước Thần Tông, Thái Thượng Hoàng, về làm vua lần nữa.

Họ Trịnh vào đánh họ Nguyễn đă mấy phen, đánh phen nào th́ hao binh tổn tướng phen ấy, thế mà vẫn không chịu thôi việc chiến tranh. Đến năm ất tị (1655) quân nhà Trịnh lại vào đánh đất Nam Bố Chính. Bấy giờ chúa Hiền mới quyết ư đem quân ra đánh họ Trịnh.

8. Đánh Nhau Lần Thứ Năm.

Tháng tư năm ất tị (1655) chúa Hiền sai Thuận Nghĩa Hầu là Nguyễn Hữu Tiến, Chiêu Vũ Hầu là Nguyễn Hữu Dật đem quân qua sông Linh Giang ra đánh đất Bắc Bố Chính, tướng họ Trịnh là Phạm Tất Toàn về hàng.

Quân nhà Nguyễn tiến lên đến Hoành Sơn, gặp quân của Lê Hữu Đức, đánh đuổi một trận, rồi thừa thắng đánh đến đồn Hà Trung, Lê Văn Hiểu chống không nổi, phải cùng với Lê Hữu Đức rút quân về giữ An Trường (tức là thành Nghệ An bây giờ).

Nguyễn Hữu Tiến đem binh đến đóng ở huyện Thạch Hà, Lê Văn Hiểu và Lê Hữu Đức lại sang đóng ở xă Đại Nại.

Trịnh Tráng thấy bọn Lê Văn Hiểu binh bại ở Hà Trung, bèn cho sứ vào triệu về kinh, và sai Trịnh Trượng vào làm Thống lĩnh, kinh lược đất Nghệ An.

Lê Văn Hiểu bị đạn ở chân, về đến nửa đường th́ chết; c̣n bọn Lê Hữu Đức, Vữ Lương đều phải giáng chức cả.

Trịnh Trượng tiến binh lên đến huyện Kỳ Hoa, cho thủy binh vào đóng ở cửa Kỳ La.

Nguyễn Hữu Tiến thấy quân họ Trịnh đă tiến, bèn rút quân về sông Linh Giang để nhử quân nghịch. Nhưng mà Trịnh Trượng thấy tự nhiên quân Nguyễn bỏ về như vậy, sợ có mưu kế ǵ, không dám đuổi, bèn đóng quân ở lại Lạc Xuyên, rồi cho 500 người vào đóng ở đồn Hà Trung.

Nguyễn Hữu Tiến thấy quân họ Trịnh không đuổi, bèn đem quân đến đánh quân Trịnh ở Lạc Xuyên; c̣n Nguyễn Hữu Dật th́ đem thủy binh ra đánh cửa Kỳ La, đuổi chiến thuyền của họ Trịnh về cửa Châu Nhai.

Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật thừa thắng tiến binh lên đánh quân họ Trịnh, rồi chiếm giữ lấy đồn Lạc Xuyên. Binh tướng họ Trịnh phải chạy về An Tràng.

Bấy giờ những huyện ở phía nam sông Lam Giang (tức là sông Cả bây giờ) là huyện Kỳ Hoa, huyện Thạch Hà, huyện Thiên Lộc, huyện Nghi Xuân, huyện La Sơn, huyện Hương Sơn, huyện Thanh Chương, cả thảy là bảy huyện đều thuộc về họ Nguyễn cả.

Tin quân Trịnh thua ở Lạc Xuyên ra đến Thăng Long, Trịnh Tráng giáng Trịnh Trượng xuống làm đô đốc, rồi sai con là Trịnh Tạc vào Nghệ An làm Thống lĩnh để chống giữ với quân họ Nguyễn.

Bọn Nguyễn Hữu Tiến thấy quân Trịnh Tạc lại tiến, liền lui quân về đóng ở Hà Trung để giữ trận thế. Nhưng bây giờ ở ngoài Bắc lắm việc, Trịnh Tráng phải gọi Trịnh Tạc về, để tướng là Đào Quang Nhiêu ở lại trấn thủ đất Nghệ An, đóng ở An Tràng, sai Thân Văn Quang, Mẫn Văn Liên đóng ở làng Tiếp Vũ (thuộc huyện Thiên Lộc), thủy quân đóng ở sông Khu Độc (thuộc huyện Nghi Xuân).

Qua năm bính thân (1656) quân họ Nguyễn đến đánh đồn Tiếp Vũ, bọn Thân Văn Quang bỏ chạy, Nguyễn Hữu Tiến đem quân đến đóng ở sông Tam Chế. C̣n Nguyễn Hữu Dật tiến binh đến núi Hồng Lĩnh, gặp quân họ Trịnh đánh đuổi đến đất Mẫn Tường, rồi lại gặp thủy binh củaVũ Văn Thiêm, đánh phá một trận, Văn Thiêm thua chạy. Quân họ Nguyễn thừa thắng tiến lên đến làng Minh Lương và lành B́nh Lạng gặp quân của Đào Quang Nhiêu, hai bên đánh nhau một trận rất dữ. Đào Quang Nhiêu thua chạy về An Tràng, dâng biểu tạ tội và xin viện binh.

Trịnh Tráng sai người con út là Ninh Quận Công Trịnh Toàn (tục hay gọi là ông Ninh) vào làm thống lĩnh trấn thủ đất Nghệ An.

Trịnh Toàn vào đến Nghệ An, đốc chư quân tiến lên đến Thạch Hà, sai Đào Quang Nhiêu và Dương Hồ đem binh đến đóng ở làng Hương Bộc và ở làng Đại Nại, sai Lê Sĩ Hậu, Bùi Sĩ Lương đem thủy quân đến đóng ở Nam Giới, và sai Vũ Văn Thiêm đem thủy quân đến đóng ở Châu Nhau.

Nguyễn Hữu Tiến thấy quân họ Trịnh cử động như vậy, bèn sai bọn Dương Trí, Tống Phúc Khang cùng với Nguyễn Hữu Dật đem thủy bộ quân đến đánh quân Trịnh ở Nam giới, lấy được hơn 30 chiếc thuyền, rồi tràn xuống sông Lam Giang đánh Vũ Văn Thiêm ở Châu Nhai, Vũ Văn Thiêm phải bỏ thuyền mà chạy.

Trịnh Toàn thấy các đạo thủy binh của ḿnh đă thua, bèn rút về đóng ở bến Hoạt, bỗng nghe tin toán quân của Đào Quang Nhiêu bị vây ở Hương bộc, lập tức đem quân đến cứu, hai bên đánh nhau ở làng Đại Nại, quân họ Nguyễn chạy về Hà Trung. Trịnh Toàn và Đào Quang Nhiêu đem quân đuổi đến Tam Lộng, bị quân của Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật đón đường đánh phá. Trịnh Toàn lại thua, phải chạy về An Tràng.

Trịnh Toàn từ khi vào trấn thủ đất Nghệ An, hậu đăi tướng sĩ, yêu mến quân dân, ḷng người đều phục; nhưng chẳng được bao lâu, Trịnh Tráng mất, Trịnh Tạc lên thay, thấy em có nhiều người mến phục, lấy làm nghi kỵ, bèn cho con là Trịnh Căn vào cùng trấn đất Nghệ An, có ư giữ để cho khỏi biến loạn. Đoạn rồi cho người vào đ̣i Trịnh Toàn về kinh, trách sao không về chịu tang, bắt bỏ ngục giam chết.

Binh quyền ở Nghệ An giao lại cho Trịnh Căn. Đến tháng sáu năm đinh sửu (16570 Trịnh Căn chia quân làm 3 đạo, sai Lê Hiến làm tướng trung quân, sai Hoàng Nghĩa Giao làm tướng tả quân, sai Trịnh Thế Công làm tướng hữu quân, sang sông Lam Giang rồi tiến lên đánh tướng nhà Nguyễn là Tống Hữu Đại ở làng Nam Hoa (thuộc huyện Thanh Chương).

Nhưng v́ có người báo trước, bọn Nguyễn Hữu Tiến đă pḥng bị cả, đến khi quân Trịnh đến, th́ mắc kế phải thua, may nhờ có quân Trịnh Căn tiếp ứng, cho nên mới rút về được.

Từ đó quân hai bên cứ giữ nhau ở sông Lam Giang, thỉnh thoảng đánh nhau một trận, như tháng chạp năm mậu tuất (1658), đánh ở làng Tuần Lễ (huyện Hương Sơn), quân họ Nguyễn phải lùi; đến tháng tám năm canh tí (1660) đánh ở Nghi Xuân, quân họ Trịnh thua bỏ thuyền mà chạy; qua tháng 9 năm ấy đang khi quân họ Nguyễn c̣n đóng ở làng Hoa Viên (tức là làng Xuân Viên bây giờ), Trịnh Căn định sang lấy núi Lận Sơn để giữ trận thế, bèn sai Hoàng Nghĩa Giao và Phan Kiêm Toàn đem binh sang ssông Lam Giang ở làng Âm Công, và sai Lê Hiến 103

đi xuống phía Hội Thống rồi sang sông, chờ đến nửa đem th́ hai đạo cùng tiến cả.

Đạo quân của Đào Nghĩa Giao đi đến Lận Sơn bị quân của Nguyễn Hữu Dật đánh và vây ngặt lắm. Bấy giờ Trịnh Căn đứng thị chiến trên núi Quyết Dũng (ở gần Bến Thủy bây giờ), trông thấy quân ḿnh bị vây nguy cấp lắm, liền sai quân sang cứu, và truyền cho thủy quân đến bờ sông mà bắn lên, quân họ Nguyễn phải lùi.

C̣n đạo quân của Lê Hiến và Mẫn Văn Liên sang đến làng Tả Ao gặp quân họ Nguyễn, hai bên đánh nhau, Mẫn Văn Liên tử trận, nhưng quân họ Nguyễn phải bỏ Hoa Viên lui về đóng ở Nghi Xuân.

Lúc ấy đại quân của Nguyễn Hữu Tiến đóng ở Nghi Xuân, c̣n Nguyễn Hữu Dật th́ đóng ở Khu Đốc. Chúa Hiền cũng đem binh đến tiếp ứng, đóng ở làng Phù Lộ (nay là làng Phù An thuộc huyện B́nh Chính, Quảng B́nh). Nguyễn Hữu Dật lẻn về ra mắt chúa Hiền, kể đầu đuôi mọi việc đánh lấy thế nào, chúa Hiền mừng lắm, cho Hữu Dật một thanh bảo kiếm bằng vàng và lại sai trở lại đánh giặc.

Nguyễn Hữu Tiến biết việc ấy, trong bụng lấy làm không bằng ḷng, và bấy giờ lại nhân có những sĩ tốt mới hàng ở đất Nghệ An, thường hay bỏ trốn, Hữu Tiến bèn hội chư tướng lại để bànx em nên đánh hay là nên lui về. Mọi người đều muốn lui về, duy chỉ có Nguyễn Hữu Dật không chịu.

Khi các tướng họ Nguyễn đang bàn bạc, th́ có tin rằng Trịnh Căn sai bọn Lê Hiến đi men bờ bể đến làng Cương Gián, bọn Hoàng Nghĩa Giao đến làng Lũng Trâu và làng Măn Trưởng, rồi tiến lên đánh ở làng An Điền và ở làng Phù Lưu; quân họ Nguyễn thua. Được tin ấy Nguyễn Hữu Tiến quyết ư đem quân về, nhưng bề ngoài giả tảng truyền lện cho các tướng rằng đến tối 28 th́ các đạo đều phải tiến sang đánh An Tràng, Nguyễn Hữu Dật đem binh đi hậu tiếp. Đoạn rồi, dặn riêng các tướng đến nữa đêm rút quân về Nam Bố Chính, không cho Nguyễn Hữu Dật biết. Nguyễn Hữu Dật sắm sửa đâu vào đấy, chờ măi không có tin tức ǵ, đến khi cho người đi thámvề nói mới biết quân ḿnh đă rút về Nam rồi. Lúc ấy quân họ Trịnh đă sang sông đến đánh đồn Khu Độc. Hữu Dật mới dùng kế nghi binh để cho quân Trịnh không dám tiến lên, rồi đem binh chạy về, đến Hoành sơn mới gặp quân của Nguyễn Hữu Tiến. Bấy giờ quân Trịnh Căn vừa đuổi đến, hai bên đánh nhau một trận chết hại rất nhiều.  [103]

Có sách chép là Lê Thời Hiến.

Trịnh Căn lui về đóng ở Kỳ Hoa. C̣n bên kia Nguyễn Hữu Tiến đóng ở Nhật Lệ. Nguyễn Hữu Dật đóng ở Đông Cao, giữ các chỗ hiểm yếu. Từ bấy giờ 7 huyện ở vùng sông Lam Giang lại thuộc về đất Bắc.

Trịnh Căn thấy quân họ Nguyễn giữ ǵn mọi nơi chắc chắn lắm, liệu thế đánh không được, bèn sai Đào Quang Nhiêu ở lại trấn thủ đất Nghệ An và kiêm lĩnh cả đất Bắc Bố Chính để pḥng giữ mọi nơi, rồi về Thăng Long.

9. Đánh Nhau Lần Thứ Sáu.

Đến tháng 10 năm tân sửu (1661) Trịnh Tạc cử đại binh và đem vua Lê vào đánh chúa Nguyễn: sai Trịnh Căn làm thống lĩnh, Đào Quang Nhiêu làm Tổng suất, Lê Hiếu và Hoàng Nghĩa Giao làm Đốc suất, Lê Sĩ Triệt và Trịnh Tế làm Đốc thị, đem binh sang sông Linh Giang rồi đến đóng ở làng Phúc Tự.

Quan Trấn thủ Nam Bố Chính của họ Nguyễn là Nguyễn Hữu Dật đóng ở làng Phúc Lộc chia quân ra đắp lũy, giữ vững mọi nơi, quân Trịnh đánh măi mấy tháng không được.

Đến tháng 3 năm nhâm dần (1662), quân mệt, lương hết, Trịnh Tạc phải thu quân và rước vua về Bắc. Nguyễn Hữu Dật đem binh đuổi đánh đến sông Linh Giang mới thôi.

Năm ấy Thần Tông về rồi đến tháng 9 th́ mất. Trịnh Tạc lập Thái tử là Duy Vũ lên làm vua tức là vua Huyền Tông. Huyền Tông làm vua được 8 năm th́ mất. Trịnh Tạc lại lập Hoàng Đệ là Duy Hội lên làm vua, tức là vua Gia Tông.

10. Đánh Nhau Lần Thứ Bảy.

Từ năm tân sửu (1661) quân họ Trịnh thua ở đất Bắc Bố Chính rồi, Trịnh Tạc về phải lo việc nước và phải đánh dẹp họ Mạc ở đất Cao Bằng, cho nên không ḍm ngó đến phía Nam; măi đế năm nhâm tí (1672) Trịnh Tạc lại đem mấy vạn quân và rước vua Gia Tông và đất Bắc Bố Chính để đánh họ Nguyễn, sai Trịnh Căn làm thủy quân Nguyên Súy, Lê Hiến làm bộ quân Thống suất.

Chúa Hiền cũng sai em thứ tư là Hiệp làm Nguyên Súy đem binh ra cùng Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Mỹ Đức giữ các nơi hiểm yếu để ngự địch, chúa Hiền đem đại binh đi tiếp ứng.

Quân họ Trịnh đến đánh lũy Trấn Ninh rất hăng, đă hai ba phen sắp phá được lũy, nhưng Nguyễn Hữu Dật hết sức chống giữ, quân Trịnh đánh măi không được, phải lùi về Bắc Bố Chính. Đến tháng chạp, trời mưa rét và lại nghe tin rằng Trịnh Căn đi đến Linh Giang phải bệnh nặng, Trịnh Tạc bèn sai Lê Hiến ở lại trấn thủ Nghệ An, Lê Sĩ Triệt làm Đô Đốc đóng ở Hà Trung để giữ các nơi yếu lộ, lấy sông Linh Giang, tức là sông Giang bây giờ mà phân giới hạn Nam Bắc, rồi rút quân về Thăng Long.

Từ đó Năm Bắc thôi việc chiến tranh, măi đến khi Tây Sơn khởi binh, th́ họ Trịnh mới nhân dịp vào đánh lấy đất Thuận Hóa.

Kể từ năm đinh măo (1627) đời vua Thần Tông lần thứ nhất, đến năm nhâm tí (1672) đời vua Gia Tông, vừa 45 năm, họ Trịnh, họ Nguyễn đánh nhau cả thảy 7 lần. Trong bấy nhiêu lần, họ Nguyễn chỉ ra đánh họ Trịnh có một lần, đă lấy được 7 huyện ở phía nam sông Lam Giang, nhưng v́ các tướng họ Nguyễn không đồng ḷng với nhau, cho nên lại phải bỏ về giữ đất cũ.

C̣n như thế lực binh lương th́ họ Trịnh mạnh hơn họ Nguyễn, nhưng người Bắc phải đi đánh xa xôi, vận tải khó khăn, mà người Nam th́ đánh ở đất nhà ḿnh, có đồn lũy chắc chắn, tướng sĩ hết ḷng, cho nên thành ra hai bên đối địch chứ không làm ǵ được nhau, chỉ khổ cho những dân sự, phải sưu dịch vất vả, và bị tàn phá thiệt hại rất nhiều.

Đọc tiếp trang 2

 

Trang Nhà  :

 

Tiếp nhận thư tín :