Sự
h́nh thành hệ thống lưỡng đảng ở
Hoa Kỳ
Phạm Hồng Sơn
(phần 2)
Thomas Jefferson và Alexander Hamilton có những ư tưởng trái
ngược nhau về cách thức điều hành quốc gia. Chính sự mâu thuẫn của
họ đă giúp tạo nên hệ thống chính trị lưỡng đảng của Mỹ.
Đảng Người
Liên bang, do Bộ trưởng Tài chính Alexander Hamilton lănh đạo, ủng
hộ cho một chính quyền trung ương mạnh với một tổng thống uy lực và
một hệ thống ṭa án kèm theo. Người Liên bang cho rằng những người
giàu và có địa vị xă hội nên giữ vai tṛ lănh đạo đất nước. Vào đầu
những năm 1790, Người Liên bang đă tạo được ảnh hưởng khiến cho
những lănh đạo quốc gia Mỹ là những người như thế.
Đảng Người
Liên bang giành được quyền kiểm soát Quốc hội. Họ cũng có ảnh hưởng
lớn đối với Tổng thống đầu tiên, George Washington.
Trong khi
Đảng Người Cộng ḥa, do Bộ trưởng Ngoại giao Thomas Jefferson lănh
đạo, lại không muốn một chính quyền trung ương mạnh đến mức với
những quyền lực không giới hạn. Người Cộng ḥa cho rằng sẽ tốt hơn
nếu quyền lực chính trị được phân tán vào trong dân chúng.
Hai Đảng
đều thực hiện luận chiến trên những tờ báo của đảng. Các sử gia cho
rằng chính Hamilton là tác giả của phần lớn các bài luận chiến trên
tờ báo Người Liên bang. Trong khi Jefferson, theo các sử gia, chỉ
đóng vai tṛ tư vấn cho tờ báo Người Cộng ḥa.
Cả hai tờ
báo đều cho đăng những bài báo vô danh nhằm công kích phía bên kia.
Và cả hai cùng cho đăng những câu chuyện không có thực. Thỉnh thoảng
có cả những bài công kích cá nhân. Nhiều người cảm thấy hai vị bộ
trưởng đă đi quá giới hạn của một cuộc tranh luận về những vấn đề
chung của xă hội.
Khi gần hết
nhiệm kỳ Tổng thống đầu tiên, George Washington nhận được một lá thư
của Jefferson. Trong thư, vị Bộ trưởng Ngoại giao xin từ chức.
Jefferson nói rằng ông không đồng ư với phần lớn các chính sách điều
hành và quan điểm ngoại giao của chính phủ. Jefferson không nhắc đến
tên Hamilton. Điều đó không cần thiết v́ Washington hiểu ngay, chính
Hamilton là người đă chủ trương các chính sách đó.
Vị Tổng
thống đă cố gắng dàn ḥa hai người. Washington yêu quí và tôn trọng
cả hai. Ông hiểu rằng đất nước non trẻ cần tài năng của cả hai con
người đó. Tuy nhiên, sự bất đồng đă đi quá xa, vượt quá vấn đề bất
đồng của hai cá nhân mạnh mẽ. Đó là cuộc đấu của hai triết lư khác
nhau hoàn toàn về việc quản lư đất nước.
Wasington không dàn ḥa
nổi hai người. Nhưng Jefferson đă rút lại quyết định từ chức. Trong
một bức thư gửi con gái, Jefferson viết:”Những công kích cha đă làm
thay đổi quyết định mà cha đă nghĩ là không thể thay đổi. Cha phải ở
lại để đấu tranh.”
Khi đó, ư tưởng về các đảng chính trị là những điều c̣n mới mẻ ở Mỹ.
Lúc đó không có luật nào chỉ rơ các đảng được hay không được làm cái
ǵ. Cũng không có các hạn chế các thành viên chính phủ trong các
hoạt động chính trị. Do đó, trong khi vẫn đảm trách công việc Bộ
trưởng Ngoại giao, Jefferson bắt đầu vận động để đưa người của ḿnh
vào Quốc hội. Ông cho rằng đó là cách duy nhất để đánh bại Hamilton.
Tổng tuyển cử đă được lên kế hoạch vào năm 1792.
Lúc đó không có bất đồng ǵ về vị trí lănh đạo cao nhất của nước
Mỹ. Mọi người đều muốn George Washington giữ thêm một nhiệm kỳ Tổng
thống. Nhưng, nhiều người Cộng ḥa thấy không nên để John Adams tiếp
tục làm phó Tổng thống. Adams là một người yêu nước và cần mẫn phục
vụ đất nước, nhưng ông ta không phải là người có đầu óc dân chủ.
Adams không giấu diếm quan điểm cho rằng những người sinh ra trong
các gia đ́nh quyền quí nên trở thành lănh đạo đất nước.
Người Cộng ḥa đă t́m thấy một lư do để chống lại Người Liên
bang. Chính sách tài chính của Hamilton đă tạo điều kiện cho các chủ
ngân hàng và những người cho vay có thể đầu tư vào mọi lĩnh vực. Một
quan chức cao cấp của Bộ Tài chính đă thực hiện một phi vụ kinh
doanh bằng những thông tin riêng của Bộ. Việc đầu tư của người này
đă gặp khó khăn và sau đó thất bại. Sự thất bại đó đă gây ra một
loạt các thất bại khác, dẫn đến sự suy sụp tài chính ở New York,
trung tâm tài chính nước Mỹ.
Người Liên bang có cơ sở rất mạnh ở vùng Đông-Bắc. Trong khi
Người Cộng ḥa có sức mạnh ở khắp mọi nơi. Người Cộng ḥa đă giành
được thế mạnh trong Hạ viện sau Tổng tuyển cử năm 1792. Tuy nhiên,
Người Cộng ḥa đă không thắng trong cuộc tranh cử chức Phó Tổng
thống. Một lần nữa, John Adams lại giữ vị trí Phó Tổng thống. Kết
quả này có thể là do nhiều người Mỹ lúc đó nghĩ rằng Tổng thống
Wasington vẫn muốn John Adams tiếp tục phụ tá cho ông. Nhưng, lần
này Adams chỉ hơn các đối thủ khác rất ít phiếu. Có bốn bang đă bỏ
phiếu cho George Clinton – một người thuộc Đảng Cộng ḥa ở New York.
Một bang bỏ phiếu cho Jefferson cho dù ông không ra ứng cử.
Năm 1793 bắt đầu xuất hiện những biến đổi quyền lực của
Alexandre Hamilton. Người Cộng ḥa ở Hạ viện chất vấn các kế hoạch
tài chính của Hamilton. Tại sao Bộ trưởng Tài chính đă từ chối cung
cấp cho Quốc hội các chứng cứ, tài liệu liên quan đến các chương
tŕnh vay, cho vay và đánh thuế?
Trong suốt bốn năm, Hạ viện đă thông qua tất cả các dự luật do
Hamilton đề xuất mà không được nghe giải tŕnh. Theo Hamilton, đó là
cách duy nhất để quản lư đất nước. Bây giờ chính là lúc Hạ viện cần
phải biết nhiều hơn nữa.
Hamilton đă coi chất vấn đó là một xúc phạm. Ông đáp lại ngay.
Hamilton đă làm bốn bản giải tŕnh về các hoạt động của Bộ Tài chính.
Người Cộng ḥa nghiên cứu kỹ các bản giải tŕnh đó để ḥng chứng
minh Hamilton và Người Liên bang đă dối trá. Nhưng không một chứng
cứ nào như thế được t́m thấy. Người Cộng ḥa không kết tội được
Hamilton đă biển lận tiền bạc cho bản thân, và họ đă chuyển tấn công
sang các lĩnh vực khác. Ví dụ, họ cho rằng Hamilton đă không tuân
theo chỉ đạo của Tổng thống Washington trong việc xử lư các khoản
vay nước ngoài, Hamilton đă trả lăi suất quá cao cho Ngân hàng Quốc
gia Mỹ và đă không tuân thủ chặt chẽ các luật (đă được Quốc hội
thông qua) liên quan đến chi tiêu ngân sách của chính phủ.
Người Liên bang trong Quốc hội cũng đáp trả các cáo buộc. Người
Liên bang luôn lên tiếng rằng Người Cộng ḥa không thể chứng tỏ Bộ
trưởng Tài chính đă phạm luật trong bất cứ hành động nào.
Nỗ lực phế
truất Hamilton ra khỏi Quốc hội đă thất bại.
Nhưng Hamilton lại sẵn
sàng ra đi. Hamilton cảm thấy hài ḷng với công việc mà ông đă thực
hiện. Hơn bất kỳ ai khác, Hamilton là người đă định h́nh các chính
sách cho nước Mỹ trong suốt năm năm đầu tồn tại (kể từ khi có Hiến
pháp-ND). Hamilton tin rằng quốc gia non trẻ sẽ tiếp tục được điều
hành bởi các quan điểm chính trị mà ông đă khởi xướng và ủng hộ.
Hamilton trở về New York, làm luật sư và dành nhiều thời gian hơn
cho gia đ́nh.
Đa phần dân chúng Mỹ lúc đó không quan tâm đến những cuộc tranh
căi giữa Đảng Người Liên bang và Đảng Người Cộng ḥa về những vấn đề
như Ngân hàng Quốc gia Mỹ. Nông dân và người lao động chân tay không
hiểu các vấn đề kinh tế. Nhưng đối với cuộc Cách mạng Pháp lại là
một vấn đề khác.
Người Liên bang phản đối cuộc Cách mạng Pháp. Họ lên án việc sử
dụng bạo lực và hành động xử tử vua và nữ hoàng. Người Liên bang
cũng muốn có quan hệ kinh tế, chính trị tốt hơn với nước Anh. Trong
khi đó, Người Cộng ḥa lại chào đón cách mạng. Họ cho rằng đó là
cuộc đấu tranh v́ tự do và dân chủ - y như họ đă đấu tranh chống lại
người Anh. Hơn nữa, Người Cộng ḥa cho rằng nước Anh không phải là
bạn của Mỹ.
Nước Anh đă vi phạm hiệp ước ḥa b́nh đă được kư giữa hai nước
khi vẫn cố chiếm giữ đất ở phía tây nước Mỹ. Nước Anh vẫn dùng tiền
ḥng xúi giục người Da đỏ bản địa hạ sát người nhập cư da trắng.
Nước Anh vẫn bắt cóc thủy thủ Mỹ để làm lính trên các chiến hạm Anh.
Cuộc Cách mạng ở Pháp đă đưa nước Mỹ vào một t́nh thế khó khăn.
T́nh h́nh càng khó khăn hơn khi các hoàng gia châu Âu cùng gửi quân
sang để chống lại nước cộng ḥa non trẻ mới được thành lập ở Pháp.
Nước Mỹ trước đó đă có một hiệp ước với Pháp, có qui đinh rằng Mỹ sẽ
giúp đỡ Pháp khi Pháp bị tấn công. Song, Tổng thống Washington đă
xác quyết là Mỹ không nên tham dự vào chính sự ở châu Âu. Và
Washington đă tuyên bố Mỹ sẽ trung lập.
Lời tuyên bố đó là một chiến thắng cho Người Liên bang. Họ vẫn
c̣n giữ được ảnh hưởng lớn đối với Tổng thống Washington. Nhưng t́nh
h́nh sẽ ra sao sau năm 1796? Nhiệm kỳ hai của Washington sẽ kết thúc
vào năm đó. Trong khi Washington đă tuyên bố trước đó là ông sẽ
không ra tranh cử nữa. Vào lúc đó, Hiến pháp Mỹ chưa giới hạn số
nhiệm kỳ của Tổng thống. Nhưng George Washington cảm thấy hai nhiệm
kỳ là đă đủ.
Phạm Hồng Sơn
chuyển ngữ theo sự cho phép của VOA.
Tháng 12/2008
(Nguồn:This
is program #31 of :
THE MAKING OF A NATION,
http://www.voanews.com/specialenglish0 ) |