Tuy
chàng đă am thông phương cách điểm huyệt, nhưng chưa thể
lấy làm đắc ư lắm, sáng hôm sau trở lại đỉnh núi, đem
theo một bao cát lấy từ dưới suối trong động. Đối diện
tam bích "Huyệt Pháp Lĩnh Nam" ngồi theo tư thế tĩnh
tọa, cách xa tam bích mười hai thước, trước mặt là đống
cát, thả lỏng thân tụ "Tinh Khí Thần" chuyển vào "Nê
hoàn cung, thông qua các huyệt Thái dương, Thiên trụ,
Đại thủy, Phong phù, Trí đường, Huyết trợ, Trương môn,
Vĩ long cốt" cuối cùn khí động lại Đơn điền. Miệng chàng
đọc mật quyết, hai tay phóng quyền "Hoa linh xà" vào
đống cát, đúng ba trăm hai mươi bốn hạt cát bay ra, dính
vào điểm của huyệt chính xác, không có một hạt cát nào
rớt xuống đất .
Chàng tạm hài ḷng, xuất luôn chín quyền vào ba trăm hai
mươi bốn huyệt h́nh nhơn, tổng cộng có hai ngàn chín
trăm mười sáu hạt cát dính vào huyệt. Bấy giờ chàng mới
thực sự hài ḷng về quyền "Hoa linh xà", lúc nào chàng
cũng để tâm huyết vào công phu vơ học với ư nguyện cao
cả hơn, nhằm cứu nhơn độ thế, chứ không v́ đam mê vơ
học, cộng tư chất mà chàng đă có, nay tiếp nhận được tam
bích huyết là do sự lẽ của việc đưa đến cho mỗi người .
Chàng sử dụng tiếp "Hoa hồng xà" quyền, phóng ra hai
ngàn chín trăm mười sáu hạt cát không sai một ly nào cả,
lần này chàng cao hứng sử dụng quyền "Kim tước xà" phóng
gấp đôi số cát, rồi gấp ba vào huyệt, cũng không có một
hạt cát nào rơi xuống đất. Chàng xem đây là thành công
khổ luyện huyệt lư, nhân dịp này chàng sử dụng quyền
"Kim tước xà" phóng ra ba trăm sáu mươi lăm hạt cát vào
điểm đốt xương rất chính xác. Lúc này chàng suy nghĩ
thầm:– Nếu như mỗ lấy được ba trăm sáu mươi lăm đốt
xương trong cơ thể, th́ địch thủ ấy như gà rút xương,
hóa thành một đống thịt ư ? Chàng vui mừng quỳ xuống
chắp hai tay bái. Đệ tử Hoàng Phi Bằng tạ ơn Người.
Rồi
chàng đến trước tứ bích "Mục Trường Lĩnh Nam" quỳ xuống
chắp hai tay niệm : – Ḷng thành của đệ tử kính bái sư
phụ, nay đệ tử Hoàng Phi Bằng đọc lời mật quyết xem như
đă thấy sư phụ, xin sư phụ khai khiếu cho đệ tử .
Ngồi
vào vị trí chiêu số tinh linh, toàn thân thư thái như
một đạo sĩ, vừa vận khí vào "Nê hoàn cung" đến "Vĩ long
cốt" có hai luồng khí rót vào rung động trên hai tay,
chưa hiểu xuất chiêu ra hướng nào, vội vàng tay chắp ấn
Tư chỉ lên không trung, âm dương gặp khí hóa nổ "bùng
bùng" vang động cả bầu trời như sấm sét, mây đen tụ về
như thể dông tố biến đổi vô lường, chuẩn bi đổ mưa.
Chàng vội vận khí trở lại chiêu số khởi động theo bích
đồ thứ hai, liền đọc mật quyết :
"Lĩnh Nam khí hóa
Khai thái vơ quân
Kiếm bất khả tri
Công bất khả nghị
Vô vi thái vơ chi tiền
Hữu thỉ siêu quần chơn chi thượng".
Mây
đen từ từ ḥa tan biến mất, bầu trời trở lại màu xanh
biếc, thế mới biết vơ học "Mục Trường Lĩnh Nam" có khả
năng hồi nguyên khí, biến hóa nội ngoại công . Cho nên
người thụ vơ học này phải chứa Âm dương "kim, mộc, thuỷ,
hỏa, thổ" và biết dụng ngũ hành để chuyển động "Tâm
thuộc hoả, phế thuộc kim, thận thuộc thuỷ, tỳ thuộc
thổ, can thuộc mộc".
Lúc
này chàng mới hiểu sự vi diệu của pháp trong ấn Tư, nhờ
đả thông hết tất cả thần kinh bát mạch như mười hai
thường mạch "tim, phế, tỳ, can, thận" (ngũ tạng) với lục
bảo là sáu bộ phận thuộc âm : "đại trường, tiểu trường,
đởm, bàng quang, tam tiêu" thuộc dương th́ có "âm kiểu,
dương kiểu" Sau khi thường mạch với thần kinh bát mạch
không c̣n ngăn cách trong ngũ tạng . Năng lực đă rót vào
hai yếu huyệt "Vân môn" và "Trung phủ" tụ lại trên hai
cánh tay và mười đầu ngón tay, huyệt đă hội hiệp nơi
"thiếu dương", "đới mạch" đó là cửa vận dụng chỉ pháp
"Mục Trường Lĩnh Nam" đă ở trong thân chàng .
Hoàng Phi Bằng thu hết bích phổ vào thân thể. Cơ may này
chàng được hưởng theo tùy nghi biến hóa của nội ngoại
công, mỗi khi dụng quyền chỉ cần ư tưởng, tức th́ thành
tŕ hộ thể bao bộc, tiếp theo cơn băo tố cuồng cuộn xuất
ra biến hóa vô tư, chiêu số xuất khôn lường. Thể chất
của chàng với nội ngoại lực cứng rắn như hiện nay hay
đến lúc yếu mềm cũng chuyển động được khí Dương hóa Âm,
hay ngược lại . Tất cả đều ở trong nguyên lư ấn Tư mà
ra, từ đó theo tư tưởng của mỗi người điều khiển, dù đối
phương với thanh kiếm kỳ tài cũng phải cong lại, như bị
lửa hóa đốt mềm hay gẫy làm đôi. C̣n có khả năng hóa đối
phương đông giá lạnh thành băng tuyết, như cây nước đá
trắng phếu ở vùng băng sơn miền Bắc–cực. Luyện được pháp
này Hoàng Phi Bằng mở được cửu khiếu "Tinh, khí, thần",
cũng như thông huyết, trí tuệ mẫn giác "âm dương", chàng
luyện đến đây chỉ c̣n duy ư Việt .
Bỗng
trực giác nghe tiếng ân bố từ xa xa vọng lại: "– Lăo ban
ân tứ Mục Trường Lĩnh Nam này cho danh túc, đây là một
phép lạ chính thức gặp gỡ hữu khởi". Chàng quỳ xuống
chắp hai tay niệm:– Đệ tử Hoàng Phi Bằng được sư phụ
chan rưới huệ tính chói sáng, kính lễ tạ ơn sư phụ. Đệ
tử van xin yết kiến sư phụ.
Cùng
lúc có âm thanh th́ thầm, vọng lại bên tai, chàng định
thần độ tuổi sư phụ, có lẽ nay người đă ngoài trăm dư,
chàng nhận được hương thơm từ thân thể của sư phụ xuất
ra, hương thơm như gần mà xa, như xa lại gần, tuy vậy
chàng cũng không biết ở hướng nào xuất ra hương thơm ấy.
Có tiếng bên tai, th́ thầm tiếp :
―
Lăo là vô cực đạo tiên, cười "ha hà" rồi âm thanh cùng
mùi hương thơm cứ măi bay xa dần.
Chàng hiếu kỳ suy nghĩ:– Đúng rồi người sư phụ thân thế
vơ nghiệp siêu quần, đều biết sử dụng tính dược thảo,
ḿnh đă công phu những pho vơ học lộ thiên ở đây, nay
được học thêm Ngũ bích "Dược Giới Lĩnh Nam", đây cũng là
diệu dược để cứu sống hiền nhân, trừ khử những kẻ ác
độc. Nghĩ thế chàng quỳ xuống chắp hai tay khấn:– Đệ tử
Hoàng Phi Bằng quỳ trước Thánh Sư Thạnh Thế Thiên Tôn,
xin hứa dụng diệu dược cứu nhơn độ thế, cứu hiền tài,
người khó kẻ hèn, cứu nhân lập đức, cả muôn loài nếu cần
đến đệ tử. Trừ khử quan ô tham lại và cường hào ác bá,
đệ tử kính tấu, tạ ơn sư phụ.
Chàng đến trước bích phổ "Dược Giới Lĩnh Nam", tường tận
từng h́nh dạng động vật, thực khoáng vật, thổ nhưỡng,
địa khí, phép nuôi trồng, phương thức chế biến, trị
liệu. Lần đầu tiên chàng ư thức được muôn sự sống từ khi
có nước. Chàng tranh thủ đọc mật quyết :
"Dược giới nội điền
Vơ thỉ thượng cung
Cửu thập ngũ hồi
Chưởng thiện quả ư thi thơ chi phố
Bá thiên vạn hóa
Bồi quế thọ ư âm chất chi điền
Tự lôi trữ bính linh ư phụng lănh ".
Hai
ngày sau Hoàng Phi Bằng đă học thuộc hết h́nh đồ, cùng
mật quyết "Dược Giới Lĩnh Nam". Hiện nay trong động có
một kho dược liệu đă thành phẩm và dược liệu nguyên
chất, ghi chú thứ tự từng tên thuốc và phương trị liệu.
Riêng ngoài thung lũng cũng có một khu vườn thực vật
xanh, c̣n có những cây thuốc tác dụng gây mê. Chàng biết
thêm ở mé b́a thung lũng về hướng Tây có hơn một mẫu
Nhân sâm. Ngày trước chàng vào động nhằm lúc mùa Đông
chỉ thấy một vạt cỏ xanh, đến cúi mùa Xuân mọc lên cây
lá sum sê, nhờ vậy chàng mới biết vườn Nhân-sâm trong
động.
Hoàng Phi Bằng tiếp nhận được muôn ngh́n kỳ diệu, tâm
thần phát lộ phấn chấn, quỳ xuống chắp hai tay, tiếp tục
niệm:– Thánh Sư, đệ tử Hoàng Phi Bằng tạ ơn sư phụ .
Lúc
này trên đỉnh núi đă tối, mây phủ xuống dày đặc, có
những hạt tuyết nhỏ rơi thành chuỗi trắng bay lơ lửng,
đỉnh núi nhả sương đọng lại trên đầu lá, Hoàng Phi Bằng
vội rời khỏi ngũ giác đài để về Đông động dùng cơm tối.
Thời gian trôi qua hai tháng Hoàng Phi Bằng chưa xuống
đáy suối của núi, nay chàng phải làm một việc để bảo vệ
kho tàng Lạc Việt.
Sáng
hôm sau, chàng đi thẳng xuống đáy núi, lấp ngơ vào kho
tàng, riêng ngơ lên đỉnh núi quanh co khó t́m, cũng khó
vào bên trong được. Chàng nghĩ thầm:– Đối với người có
bản năng như mỗ, th́ không khó, cho nên lấy những tảng
đá lớn lấp luôn ngơ lên đỉnh núi, từ nay chỉ có mỗ mới
lên đỉnh núi được mà thôi. Chàng an tâm trở về Đông động
để ăn trưa. Thấy thảnh thơi, chàng nghĩ ngay một cuộc
sống tự lập cho riêng ḿnh, chàng vào sảnh đường của
động, đến kệ lưu trữ ngân kim lấy ba lạng bạc đi thẳng
ra cửa ngơ Thiên–nhiên của động Đông, phi thân xuống núi
đi về hướng Nam t́m thị trấn mua vật dụng nhà nông, như
hạt giống đa niên, hạt giống ngũ cốc ngắn ngày. Một canh
giờ sau, chàng đến thị trấn Gia Nam thuộc Tượng Quận, ba
lạng bạc mua đủ thứ vẫn c̣n thừa .
Hôm
sau chàng phi thân xuống núi, đổi hướng đi về Đông, hơn
canh giờ gặp thị trấn Tia Đàn thuộc Quế Lâm, chàng mua
da thuộc, như ḅ, trâu, ngựa nhờ chủ tiệm cắt ra từng
mảnh vuông ba tấc. Chàng đi mua trong hai ngày liền,
tính ra th́ được trên năm trăm tấm da với ư định tẩm
thuốc trị liệu và gây mê theo phương pháp "Dược Giới
Lĩnh Nam".
Nhân
dịp có ba con hạc bị nội˗ngoại thương khác nhau, chàng
đem sự hiểu biết về dược của ḿnh vào thực dụng ngay,
chữa trị trước cho con hạc bệnh găy một chân . Chàng lấy
thuốc cứu, thuốc nghệ, phèn cháy, huệ cố tẩm với nước
thành cao sền sệt, bỏ vào tấm da, rồi bó vào chân hạc,
dùng hai nẹp cây thẻ mỏng, dây buộc cho cứng, mỗi ngày
thay đổi thuốc một lần, sau mười ngày con hạc đi lại
được, hạc cất cánh bay thoải mái. Hạc thứ hai bệnh ghẻ
lở loét trước ức, cả ngày nằm một chỗ. Chàng thấy vậy,
đem hạc ra rửa sạch vết thương, dùng mă tiền, thuốc cứu,
nghệ bịt vào mỗi ngày ba lần, vài ngày sau hạc tự động
đi xuống suối t́m cá để ăn. Con hạc thứ ba, bệnh nặng đă
hơn nửa tháng, thân gầy ṃn từng ngày, không ăn uống,
nằm trong bóng tối, sợ ánh sáng, đầu ḿnh nằm sát đất,
hai cánh bè ra, hơi thở thoi thóp chờ ngày chết. Chàng
liền vào kho thuốc lấy ra ba vị thuốc Cam thảo, Gừng,
Mía lau, thảo chi, nấu mười phân nước, sắc lại c̣n ba
phân thuốc, cho vào một ít mật ong, hạc uống ba lần
trong ngày. Hạc tỉnh lại đôi phần, hôm sau thay đổi
thang thuốc mới gồm có Nhục quế, Phục thần, Pḥng sâm,
nấu mười phân nước, sắc lại c̣n ba phân thuốc, cho vào
một ít mật ong, hạc uống ba lần trong ngày, hai ngày sau
sức khỏe của hạc nhanh chóng phục hồi, hạc tự động đi
t́m nước uống, chàng thay đổi thang thuốc mới lần thứ ba
gồm có Cam kỷ tử, Đại nguyên thục, Táo sau một cách nấu
thuốc, cho hạc uống liên tiếp ba lần trong ngày, hạc
b́nh phục hoàn toàn qua khỏi cửa tử, hạc tung tăng khắp
thung lũng, tự t́m mồi ăn thỏa thích.
Chàng thấy hơn mười con hạc cánh bị xụ xuống chấm đất,
thân ủ rũ có triệu chứng buồn, chàng vào kho lấy thuốc
"Cao đơn sinh", lấy ngay năm mươi viên thành phẩm, trở
ra thung lũng, đến trước bầy hạc búng vào ức mỗi con một
viên thuốc. Những đôi cánh hạc trước đây bị xụ xuống,
lúc này mới gấp lại b́nh thường, thân hạc ủ rũ buồn, bây
giờ tinh minh hơn, quả là tiên đơn rất công hiệu.
Sáng
hôm sau bồi thêm cho mỗi con hạc một viên thuốc "Cao
bách hồng" bầy hạc mạnh khỏe, hơn xưa, thuốc này chủ yếu
tăng cường sức mạnh cho cơ cốt cùng nội tạng cường
tráng, cũng là vị thuốc trị liệu bệnh truyền nhiễm rất
công hiệu.
Chàng không ǵ vui bằng, nay thấy bầy hạc thân thiết.
Chàng trực nhớ ngũ bích "Dược Giới Lạc Việt", vội phi
thân lên đỉnh Ngũ giác đài, quỳ xuống chắp hai tay bái
Thánh sư phụ:– Đệ tử thay mặt cho bầy hạc đa tạ ơn Thánh
sư phụ, vừa ngẩng đầu lên hai mắt thấy h́nh con hạc như
mọi lần đă xem qua bích phổ dược giới, nhưng không để ư
tại miệng con hạc, mà đă bao lâu nay tưởng rằng bụi bậm
bám vào, khi xem kỹ th́ thấy lạ. Chàng xem thật kỷ trong
mật quyết mới biết nước miếng của hạc rất nóng và độc,
ai trúng nhằm loại cỏ này là chết tức khắc, nhưng lấy
độc trị độc th́ công hiệu vô cùng. Chú thích c̣n ghi rất
rơ "Phía Nam núi Thất Long nơi ở của hạc đă hơn ba trăm
năm, khi chúng ngủ nước miếng chảy ra tích tụ lâu ngày
trên cành cây hay dưới khe đá, hóa thành Hạc thảo, dạng
của lá có nhiều điểm màu đỏ, cỏ sống từ một trăm đến ba
trăm năm, độc trị độc nhơn cả đơn tiên".
Chàng háo hức phi thân qua phía Nam núi Thất Long t́m
cỏ, quả thật có vô số cỏ Hạc thảo Chàng đem về động một
túi Hạc thảo đa niên, liền phi thân lên nơi hạc ở cũng
thấy có cỏ Hạc nhưng nó chỉ mới lú nhú thưa thớt trên
mặt đất, chàng nói thầm:– Từ đây "Hạc Thảo Đơn" sẽ là
dược liệu độc trị độc. Thấy ngoài trời vẫn c̣n sớm, phi
thân ra khỏi động, t́m được một con nghé rừng đem về để
thử nghiệm gây mê và rút vài đốt xương. Chàng nói với
nghé rừng:
― Mỗ
không phải là kẻ ác độc, chỉ v́ muốn cứu muôn loài độ
thế, cho nên cần đến nhà ngươi một việc, xem ra rất khó
cho mỗ, đó là thử thuốc gây mê và rút vài đốt xương, có
thể đem đến sự nguy hiểm sống chết cho ngươi, dù biết
ngươi sẽ khổ v́ mỗ, mỗ xin hứa:– Nếu ngươi có mệnh chung
ǵ th́ mỗ sẽ chôn cất ngươi như bạn thâm t́nh. Tuy rằng
người đời có nói mi là "Ngu như ḅ" nhưng ở riêng mỗ
không nói thế.
Lần
đầu tiên nghé rừng được ăn cỏ trong động có mùi thơm đặc
biệt, nó thích thú lắm, cất lên tiếng vui mừng "ngọ ngọ"
nghé rừng chỉ cần đứng tại chỗ cũng không ăn hết cỏ
chung quanh. Hôm sau Hoàng Phi Bằng ẩn ḿnh trong Đông
động, cách xa ba mươi thước, không cho nghé rừng thấy.
Chàng thảy ra một mảnh da tẩm thuốc gây mê với cường lực
mạnh, không động gió, mảnh da chụp vào mặt nghé rừng lăn
ra bất tỉnh một canh giờ, nghé tỉnh lại tiếp tục ăn cỏ,
xem như nghé trải qua một giấc mộng cỏ non thơm.
Chàng tiếp tục thảy ra một mảnh da đă tẩm thuốc gây mê
cùng cường độ, chụp vào mặt nghé rừng lăn ra bất tỉnh,
cùng lúc thảy tiếp mảnh da thứ hai có thuốc giải mê, con
nghé tỉnh lại, tiếp tục ăn cỏ như thường lệ.
Qua
ngày hai Hoàng Phi Bằng cũng ở vị thế ấy, cùng động tác
đó, với thuốc gây mê tăng lên nồng độ mười lần, nghé
rừng lăn ra bất tỉnh từ sáng đến trưa, sau đó nghé mới
đứng dậy được.
Ngày
ba cũng thuốc gây mê nồng độ đó, chàng thảy mảnh da chụp
vào mặt toàn thân nghé lăn xuống đất, nhân dịp thử
nghiệm "Hạc Thảo Đơn", cho vào miệng nghé, tức th́ con
nghé rùng ḿnh đứng dậy dáng điệu khỏe mạnh, tiếp tục ăn
cỏ.
Hoàng Phi Bằng đắc ư, khám phá được cửu hạnh độc, tạo
thành những cá tính của con người, như dung dịch rắng
độc, trái tim của hồn nhi, băng tuyết Bắc hải, da thạch
thiên sơn, dũng mănh của sư tử, ác độc của lan soái, sự
nhẫn nại của lạc đà, tính hồn ma mười tám tần địa ngục,
đó là sự thông minh của con người có được. Cũng là sự ác
thường bám theo người tham vọng v́ muốn đạt mục đích
khống chế người khác. Chàng reo mừng:– Nay có dược thần
trừ gian ắt hiệu nghiệm, mỗ sợ ǵ cửu độc của địch thủ .
Ngày
thứ tư, chàng dùng nồng độ nhẹ hơn nhưng sức tàn phá
khủng khiếp, thảy mảnh da chụp vào mặt con nghé lăn
xuống đất, nước mắt nghé ứa lệ, chàng thảy tiếp mảnh da
"Hạc Thảo Đơn" nghé trở lại sống b́nh thường.
Lần
này thay đổi cách thử nghiệm, chàng rút một đốt xương
tại mỏ ác, tức th́ con nghé tắt thở, chàng cảm động thở
dài, biết rằng thử nghiệm thành công, nhưng rất thương
con nghé rừng vô tội.
Tuy
chàng đă để ư chuẩn bị tháp lại đốt xương mỏ ác, cùng
thuốc để cứu sống nhưng không kịp, v́ nghé rừng đă mấy
ngày liền bị đem ra thử nghiệm liên tục nên kiệt sức.
Chàng đem con nghé rừng ra ngoài động chôn cất tử tế,
cắm xuống đất trước mộ một trụ gỗ làm bia, viết "Hạnh
nghé vô chấp, t́nh người vật khắc ghi chi mộ". Miến vơ
da này Hoàng Phi Bằng lấy ư từ mảnh da thú của Phùng
Hưng ngày trước, để sáng tạo thành binh khí ngày nay.
Chàng ở trong động lâu ngày sợ thất nghiệp, cho nên hết
làm việc này là nghĩ ra việc khác để làm. Việc trong đầu
cứ thế mà bảo tay chân làm mệt nghỉ. Chính chàng cũng
ăn, ngồi không yên, do khối óc tinh thông hiếu động,
liền phi thân lên đỉnh núi vào kho tàng, chủ ư lần này ở
trong kho tàng một ngày cho nên đem theo đồ ăn trưa. Lục
lạo t́m ṭi tỉ mỉ, ngày trước chàng chỉ thoáng qua kho
tàng mà đă hoa mắt, hôm nay vào th́ cũng thế thôi, nhưng
chàng chú ư muốn t́m hiểu tường tận, chính xác hơn, ba
canh giờ sau, chàng khám phá được kho tàng ngoài dự
liệu, tất cả châu báu thấy được chỉ là mặt nổi, phần
dưới của mặt nổi mới là chính, theo thứ tự của mỗi vật,
trên mặt bàn châu ngọc th́ ở dưới là ḥm lớn ba thước
vuông vứt đầy ắp ngọc quí, trên mặt bàn ngân kim th́ ở
dưới cũng là ḥm lớn ngân kim, ngoài ra c̣n có những thứ
vật khác lạ chưa hề biết .
Kế
bên lại có một sảnh đường nhỏ chứa Thư pháp, Binh pháp,
Thư tư trị và Thư Dược trên tường có giá gắn thập thất
bửu binh khí, nặng nhẹ, dài ngắn, lớn nhỏ khác nhau, kèm
theo mười bảy phổ binh thư.
Thư
Tư Trị và Thư Pháp gồm có hai mươi chín phổ như,
Tam Hoàng Ngũ Đế,
Nhà Hạ, Nhà Thương,
Nhà Chu, Nhà Tây Chu,
Nhà Đông Chu, Xuân Thu, Chiến
Quốc, Tam Quốc, Ngụy, Thục & Ngô, Nhà Tấn, Nhà Tây Tấn,
Nhà Đông Tấn, Ngũ Hồ thập lục quốc, Nam Bắc Triều, Nhà
Tùy, Nhà Đường, Nhà Vũ Chu, Nhà Đường, Ngũ Đại Thập
Quốc, Nhà Liêu, Nhà Tống, Nhà Bắc Tống, Nhà Tây Hạ, Nhà
Nam Tống, Nhà Kim, Kinh Xuân Thu ghi chép 170 nước lớn
nhỏ, Ngũ Bá quốc
và Thư quốc nói về trị thiên hạ gồm có 9 chương,
như Nhất Ố Tu dưỡng tư thân, Nhị Tôn sung hiền nhân, Tam
Thân ái than tộc, Tứ Kính trọng đại thần, Ngũ Thông cảm
cho quân thần, Lục Yêu dân như con, Thất Triệu nạp công
trượng, Bát Ưu đăi viễn khách, Cửu An uổi chư hầu.
Ở
đây cũng có bộ Thư quyền ghi chép Tiểu cầm nă có 36
chiêu. Thư quyền Đại cầm nă có 72 chiêu. Thư Đả vào thân
thể 108 huyệt. Sách nói về người th́ có 108 huynh đệ,
thiên can tinh 36, địa xác tinh 72 tổng số đại kiết .
Binh
Chiến gồm có ba phổ. Đại chiến
Thành Bộc, Đại chiến Bi, Đại chiếu Yên Lăng.
Chàng chọn đọc Thư Tư Trị trước, rồi ở luôn trong kho
tàng mười ngày, miệt mài đọc phổ Tam Hoàng Ngũ Đế (Phục
Hy, Thần Nông, Hoàng Đế, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Câu
Tiễn) và chú ư nhất về văn phong, thi ca, thư pháp, bản
khắc chữ, họa mộc bản, tuồng hát, niên lịch .
Cương Giới phổ: Chép nguồn gốc Bách Việt từ Nam sông
Dương Tử, Động Đ́nh hồ đến miền cực Nam Á, gồm có các
miền như Nam Hải và Hợp Phố (Quảng Đông), Thượng Ngô và
Uất Lâm (Quảng Tây), Châu Nhai và Nam Nhĩ (Hải Nam),
Giao Chỉ (Bắc Việt), Cửu Chân (Thanh Hóa), Nhật Nam
(Nghệ An và Hà Tĩnh).
Ngũ
Cốc Biên gồm có: Đạo, lương, thúc, mạch, thử và tắc
truyền thừa từ thời Thần Nông. Phổ nông điền ghi chép.
Nông kỹ gồm Nông sản, Nông dân, Nông cụ, Nông mục, Nông
chánh.
Bách
Việt Tịch Phổ: Âu Việt, Điền Việt, Dương Việt, Mân Việt,
Nam Việt, Lạc Việt, Môn-Khmer Việt, Giao Việt,
Việt-Mường, Tày-Thái Việt, Mèo-Dao Việt, Tây Việt, Đông
Việt, U Việt.
Phổ
Canh Cư: Đồng Tương, Tượng Quận đồng Nam, Quế Lâm đồng
Bái, Nam Hải đồng Thủy, Giao Chỉ đồng Phong Châu, Hải
Nam đồng Vàng, Cửu Chân đồng Tỉnh, Nhật Nam đồng Hà.
Ngoài ra c̣n vùng trú cư ở Trung nguyên như Quế Châu, Tứ
Xuyên, Trùng Khánh, Hồ Bắc, Phúc Kiến, Giang Tây, Triết
Giang, Giang Tô, Hà Nam, Thiểm Tây.
Trong phổ cũng có nói về Sông ng̣i: Bắc-giang,
Đông-giang, Tây-giang, Dương tử, Bằng-giang, Kỳ-cùng,
Châu-giang. Hồng Hà v.v...
Vùng
biển có các cửa vịnh như Hổ Môn, Phiên Châu, Hợp Phố,
Long Biên, Cửu Chân, Nhật Nam.
Phổ
Chánh Quốc: Thành "Thủ đô" trấn "Miền" châu "Tỉnh" tộc
"Huyện" hương "Họ"
Phong Hóa Phổ: Tập tục căn bản từ Đế Phục Hy, Thần Nông,
Hoàng Đế, Đường Nghiêu, Ngưu Thuấn, Hùng Vương, Mẫu hệ,
thờ phụng đa thần .
Phong Thổ Phổ: Bắc có Động Đ́nh hồ ( đêm lạnh ngày ấm)
Tây Tượng Quận và Đông Nam Hải (ẩm thấp và lạnh) Giao
Chỉ (ấm áp) Cửu Chân, Nhật Nam, Hải Nam (nhiệt nón).
Thư
Nghi Lễ : Cáo Thành Hoàng, Trời đất, đa thần, bát quái
đồ, ngũ hành, hung họa phúc.
Chàng đọc hết hai mươi chín thư phổ, mới am tường trị
chính và văn hiến thượng cổ đất Lĩnh Nam của tộc Bách
Việt. Chàng vốn con nhà văn˗vơ lưỡng toàn, được gia gia
dạy vơ˗văn, thân mẫu dạy thêm văn bên ngoại, mười tuổi
Hoàng Phi Bằng đă đọc kinh thư Thái Thượng Lăo Tổ, thời
sơ khai Bách Việt, Lĩnh Nam, thời Hùng Vương, thời An
Dương Vương, thời U Việt Câu Tiễn, riêng về Bát Quái phổ
có hai bộ cổ và tân, chàng lấy làm thích thú đọc cả hai,
t́m hiểu trong tám quẻ, càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly,
khôn và đoài thuật biến hóa kỳ diệu, nhân dịp này chàng
đối chiếu cả hai phổ Bát Quái Đồ tuy có khác nhưng cũng
là một v́ chỉ cần thay đổi Nam Việt hay Bắc Hán là biết
vận chuyển của Bát Quái Đồ, từ đó luận bàn để định hướng
được thịnh suy của đối tượng . Chàng là con mọt sách đi
gậm lá rừng, miệt mài đọc ba bộ Thư Tư Trị, Thư Pháp và
Thư Dược đúng mười chín ngày. Về phổ Đồ Trận, chàng ngốn
một hơi hết Hỗn Ngươn Thiên, Hư vô thiên, Tạo hóa thiên,
Phi tưởng thiên, Hạo nhiên thiên, Kim thiên, Xích thiên,
Huỳnh thiên, Thanh thiên và mười tám Bồ Trượng Pháp, Bố
Trận Như, Thái dương, Thiếu âm, Thiếu dương, Thái âm,
Quẻ phục, Quẻ lâm, Quẻ thái mỗi quẻ có lục thức từ
Thượng lục đến Sơ cửu .
Phổ
Vơ Học gồm có Kiếm, Đao, Thương, Côn, Trảo, Cước, Song
câu, Quyền, Lang nha bổng, Nha sản, Phi tiêu, Ám khí,
Cầm nă, Đinh ba, Khinh công, Chùy, Phán Quan. Chàng lănh
ngộ được trong kỳ môn vơ học cổ nhân kim lai. Đệ nhất
hiện thủ vơ học đă tập hợp được đao, thương, kiếm,
quyền, tâm, khí, lực, huyệt. Thông qua bảy vơ công cao
nhất của thiên hạ, bảy loại công phu, bảy loại tuyệt kỹ,
rồi viết ra Lục Bích Phổ để một nơi nào đó, mà người ta
thường nói Lục Bích Kinh Lạc Việt không ngờ phổ ở trong
động Lạc Việt này .
Hoàng Phi Bằng ra khỏi kho tàng mang theo kiến thức hoàn
toàn mới, nhờ vùi sâu vào ba pho Thư Tư Trị, Binh pháp
và Thư dược. Trong lúc đọc Binh pháp mới phát hiện được
hai bản chính vơ học "Tuyệt Cao Kỳ Kiếm" và "Phong Tâm
Kiếm", đọc kỹ mới thấy phần ghi chú, bổ túc từng chiêu
thức mới, có đính kèm mật quyết, chàng đem hết vào ḷng
không bỏ qua một mật quyết nào .
Chàng ra khỏi kho tàng, luyện tập lại "Tuyệt Cao Kỳ
Kiếm" và "Phong Tâm Kiếm" quả nhiên hai pho kiếm pháp
này vi diệu hơn trước trăm lần .
Hoàng Phi Bằng nhận định về thất Hoàng Đức, th́ ra cũng
gặp may mắn mới vào được động Lạc Việt, thừa hưởng hai
bộ phổ kiếm pháp, nhưng không được trọn vẹn, thế mà họ
đă cho rằng đắc ư, v́ vậy không đi xa hơn nữa, đó là lư
do họ không khám phá được kho tàng châu báu bí mật trong
ḷng đỉnh núi Thất Long .
Hoàng Phi Bằng trở về sảnh đường Đông động, lấy hai bản
"Tuyệt Cao Kỳ Kiếm" và "Phong Tâm Kiếm" xếp vào kệ sách,
c̣n những sách khác th́ Hoàng Phi Bằng đă đọc hết khi
c̣n ở Giang Tô.
Hôm
sau chàng phi thân lên đỉnh núi mở cửa bích "Mục Trường
Lạc Việt", chàng bước vào kho tàng cũng như mọi khi, đọc
lại Thư Tư Trị, Thư pháp, Binh pháp và Thư dược một lần
nữa, lần này chàng ṭ ṃ t́m xem có ǵ lạ không, t́m măi
cũng vẫn thứ ấy ngọc ngà châu báu và binh khí .
Bỗng
dưng tay chàng đụng nhẹ cánh cửa thứ hai của thư pḥng
bật ra, chàng thấy toàn là đại bào, tiểu bào dày, mỏng
đủ loại nhiều cở khác nhau, có cả hia hài và mũ đẹp (
vương niệm ) thứ nào cũng đính cẩn ngọc, kim cương rất
đẹp đúng là "Giọt châu thánh thót thấm bào". Chàng nhớ
ra cũng nên cần bào phục che thân v́ những bộ bào đem
theo nay đă tả tơi . Chàng t́m một bộ bào phục đúng với
tầm vóc, lựa măi mới vừa vặn mặc vào, rồi t́m được một
đôi hài thêu hoa, lấy một cái mũ đội lên đầu rất đẹp,
tiếp theo chàng t́m đươc cái khậu vừa cở mặc vào đúng là
một bộ khôi giáp .
Lúc
này chàng mới chú ư bộ bào phục vừa mặc màu lam đen, (
Măng Lan bào để Thái tử mặc ) lớp ngoài được may bằng
vải Đoạn bát ti tơ tằm, bào thêu nổi h́nh con hạc trắng,
bao phủ hai vạt bào trước sau, thân bào trước ḿnh và
đầu, đôi mắt hạc đính kim cương, mỏ đính kim thạch vàng,
thân bào sau đôi cánh sè ra như thể hạc đang bay, viền
tà bào màu kim tuyến, cho đến từng đường kim mũi chỉ
thêu cũng như se tơ, dệt vải rất là tỷ mỉ, đối với chàng
đây là một bào phục rất giá trị, mà chàng chưa bao giờ
thấy ai mặc.
Chàng cảm thấy bộ bào phục này nhẹ nhành thoải mái, sườn
bào qua gối, vai thân vừa vặn. Chàng thích thú, ḥ reo
khắp kho tàng, chân búng nhẹ phi thân tưởng rằng ḿnh là
ông tiên nhỏ đang bay ngoài không gian .
Tiếp
theo chàng t́m được bộ bào phục thứ hai rất vừa ư, bào
thêu rồng 4 móng ( Măng Thu Đông bào để Hoàng tử
mặc ) dệt từ các loại vải quư như Đoạn bát ti tơ tằm, sa
nam, the, vải quế, nhiễu, vân... với những hoa văn tinh
xảo, lộng lẫy.
Chàng vui mừng đem hai bộ bào phục xuống động cất, rồi
lấy con Tu hú mời bầy hạc ăn chiều, vốn chàng từ thuở
lên ba tuổi, đă thích chơi Tu hú gỗ quây dây, để đùa
giỡn với Tu hú ăn sâu bọ mía ngoài đồng, nay Tu hú gỗ
trở thành vật gia bảo, cũng là một loại vũ khí thông
minh, lúc nào cũng để trong túi áo của chàng .
Chàng ở trong động đă lâu, cảm thấy hết việc để vui
chơi, cùng lúc nhớ đến con Tu hú, nẩy ư dùng con Tu hú
gỗ để luyện tập bầy hạc, lúc trước mỗi khi gọi hạc dùng
miệng huưt sáo, tức th́ hạc tự hiểu tiếng người. Hôm nay
trái lệ thường, gọi bầy hạc qua tiếng của con Tu hú, bầy
hạc nghe qua âm giai, nhiệp điệu ngắn dài kỳ lạ, hạc ngơ
ngác hồi lâu, mới quen được tiếng Tu hú. Chàng tập luyện
được hai ngày cả bầy hạc mới thông làu những âm độ cao
thấp khác nhau của tiếng con Tu hú. Chàng điều khiển bầy
hạc rất tài t́nh, mỗi âm độ là một mệnh lệnh đặc biệt,
thích nhất là mệnh lệnh tập hợp bầy hạc để nghe chàng
thổi sáo Tử trúc Nhật Nam .
Ngoài ra Hoàng Phi Bằng c̣n luyện tập nội công cho bầy
hạc, đến nay được ba mươi con hạc có khả năng chuyên chở
trọng lượng trên bảy mươi cân. Hoàng Phi Bằng dùng hạc
bay vào mây xem toàn cảnh dăy núi Thất Long, quan sát tứ
hướng động Lạc Việt .
Mỗi
ngày chàng luyện tập kiếm pháp, đao, quyền, nội ngoại
công, dược liệu, phi thân, đọc lại thư pháp, binh pháp
và thú nhất là điều khiển bầy hạc theo âm thanh Tu hú.
Chàng làm thêm sáu gian nhà cho hạc ăn ở bốn hướng trên
đỉnh động. Chàng ở đây đă lâu, hôm nay mới tản bộ đến
ngồi trên bàn đá bên bờ suối, nh́n thấy thân thể vạm vỡ,
có bắp thịt hơn trước, nước da hơi sẫm một ít, khuôn mặt
hiện ra dưới mặt hồ, chàng la lên "ha hà", có việc làm
rồi:– Mỗ đi làm khuôn mặt nạ của thằng Hoàng Phi Bằng
hai .
Vốn
chàng đă biết phương thức làm khuôn đúc kiếm của họ
Hoàng, cho nên khi thấy mặt ḿnh dưới mặt hồ mới nẩy ư
đúc khuôn mặt nạ bằng da thú cho ḿnh .
Chàng phi thân ra cửa động đi t́m đất sét, độ hai tuần
trà, mang về một bao đất sét, ngồi trên bàn đá bên bờ
suối, nhồi đất thật nhuyễn, rồi chia ra làm hai phần,
chàng úp vào mặt của ḿnh để làm khuôn mặt nạ, khoét hai
lỗ mắt, mũi để thấy bên ngoài và để thở, hai giờ sau
khuôn đất sét trên mặt mới khô, chàng lấy ra sửa lại mắt
mũi, nền khuôn ngoài đă thành để vài ngày sau cho hoàn
toàn khô, chàng lấy da trừu ngâm vào nước nóng cho mềm,
thái thật mỏng, ngâm thêm vài ngày nữa mới cho vào
khuôn, chàng lấy phần đất sét c̣n lại để trên da trừu
thế là thành khuôn trong, đem ra nắng phơi khô hai ngày
mới lấy ra, chàng đă sáng tạo được một mặt nạ, lấy chu
hoàng đánh thật mỏng vào mặt nạ, thế là hoàn hảo. Tuy
vậy khuôn mặt nạ giả vẫn không giống như thực, nhưng nó
có thể giữ kín nét mặt thực, chàng mang mặt nạ vào đến
bờ suối xem thử. Chàng "à" lên một tiếng:– Không ngờ rất
hay, rất hay. Kể từ nay nếu cần th́ có hai thằng Hoàng
Phi Bằng xuất hiện, thực và giả như thực, tốt lắm mỗ có
cách để dùng nó vào việc cần thiết "ha hà".
Chàng tự nghĩ tiếp:– C̣n một việc mà bấy lâu nay đă dự
định mà vẫn chưa làm được, nhân dịp này phải làm gấp.
Chàng đem tất cả các hạt giống cây ăn trái đa niên, như
măng cầu, soài, mít, mận, cam, bưởi, chanh, dừa, đào, đu
đủ, thanh long, vú sữa, khế, quít, chôm chôm, nhăn lồng.
Công việc trồng cây ăn trái của Hoàng Phi Bằng án chừng
ba năm sau là có thu hoạch .
Chàng vẫn chưa thấy lục Hoàng Đức trở lại, trong ḷng
muốn đi Phiên Ngung thành một chuyến, cho nên chàng phải
tự ḿnh lấy quyết định, bốn ngày nữa lên đường, trước
khi lên đường chàng phải t́m bốn tảng đá lớn lấp trong
và ngoài cửa động Tây, Nam và một tảng đá lớn chắn cửa
động Đông làm b́nh phong, khi chàng lấp cửa động Tây
phát hiện ở dưới đáy suối sâu có một khe nhỏ người có
thể chui vào trong động được, th́ ra khe này mới là
nguyên do cho thất Hoàng Đức vào được trong động, nhờ
vậy mới học "Tuyệt Cao Kỳ Kiếm" và "Phong Tâm Kiếm".
Chàng lấp cửa động, dựng trong động một cột lớn vạt theo
h́nh thẻ bài, viết "Từ nay thất Hoàng Đức ra vào động,
phải qua khe dưới đáy suối", chàng đă chu toàn công việc
động trong ngoài đă chu đáo .
Hoàng Phi Bằng chuẩn bị lên đường, chàng mặc bào phục
màu lam đen, thêu nổi h́nh con hạc trắng, đai lưng xanh
thêu nổi h́nh con đại bàng vàng . Đôi hài thêu nổi ba
đóa hoa Trang Nguyên Hồng màu vàng, Hán Cung Xuân màu
đỏ, Nguyệt Tân Châu màu xanh da trời, viền hài bằng hạt
cườm trắng . Mũ màu đen xám "vương niệm" trung tâm thêu
nổi h́nh con hổ, đính vào đôi mắt hổ viên ngọc thạch
hồng, viền con hổ thêu kim tuyến vàng tuyệt đẹp, rực rỡ
và uy nghi.
Chàng với năm con đại hạc, mỗi con cao một thước bảy,
cùng bay vào không trung hướng về Đông–Bắc thẳng đến
Thành Phiên Ngung.
Trong ḷng
thênh thang cảm xúc tự ngâm Cứ Ước Mơ :
Người ta
về núi rừng trở xuống sương
Tuy lạnh
ḷng ngực vẫn ấm tin vui
Thế mới
gọi đời trai mộng lăng du
Đă nghiêng
vai xẻ đá thẳng cuộc đời
Áo sương
điểm bụi thấm gối gió vàng
Người là
ta không thể lầm chí khuất
Hẹn ngày
nào ta đi hết đất Nam
Ḷng ước
vọng bước khắp nẻo sơn hà
Thân trai
chí để tung hoành đôi mươi
Nào để lỡ
hội vận cứ ước mơ . |