Hoàng Phi
Bằng thấy hướng Tây thung lũng có một bầy chim đang đậu
trên cành Bạch thông đa niên, liền xuất chiêu "Phong tâm
kiếm", chiêu số xuất ra chậm chạp và nhẹ, không phát âm
thanh mà kh́nh lực cũng như khí độ phi dương, viên sỏi
trên tay hóa thành bụi mù bay đến Bạch thông. Lục đệ tử
thấy cả thảy bầy chim rơi xuống đất "rào rào" tính ra có
ba mươi bảy con chim rừng. Bảy thầy tṛ chạy đến xem,
thấy những con chim chết không bị thương tích, c̣n nóng
hổi.
Lữ Trường
Gia đôi mắt ngó sư phụ mà ḷng ngạc nhiên, miệng vội hỏi
:
― Thưa sư
phụ, "Kiếm pháp phá kiếm pháp" trong lẻ tám chiêu thức "Phong
tâm kiếm" có chiêu này hay sao ?
Hoàng Phi
Bằng bao giờ cũng lấy chơn tâm, đúng phép xử thế với mọi
người, chàng đáp :
― Trong vơ
học ḿnh phải sáng tạo ra chiêu mới, đứng trước trăm
địch thủ muốn hạ được th́ ḿnh phải sử dụng chiêu này
trong "Kiếm pháp phá kiếm pháp" của lẻ tám thức "Phong
tâm kiếm". Quư đệ tử hăy xuất chiêu thử xem nào, để ư
muốn đạt kết quả phải ḥa biến tâm thức, tâm khí tương
thông, âm dương phối hợp, điều tiết vận khí. Vơ học cần
bồi đắp vào sở trường, điền khuyết sở đoản, tụ nguyên
khí nhằm phát huy năng lực cao siêu nhất của kiếm pháp,
chứ ạ .
Ngũ Hoàng
Đức vâng lời đồng xuất chiêu, đúng như sư phụ truyền thụ,
họ không ngờ tiếp nhận được kết quả như ư, tất cả đồng
vui mừng khôn tả, reo lớn :
― Hoan hô,
thưa sư phụ vơ học tuyệt diệu, chúng đệ tử từ đây măi
măi phục mạng sư phụ, cùng xin chọn nơi này làm đất sống
không đi đâu nữa .
Hoàng Quốc
Kỳ sực nhớ đến cây kiếm của Hoàng Phi Bằng, vội hỏi :
― Thưa sư
phụ, chúng đệ tử muốn xem lại thanh kiếm một lần nữa,
mạo muội xin sư phụ ban tứ .
Hoàng Phi
Bằng liền đáp :
― Được
thôi. Hoàng Quốc Kỳ cùng quư đệ tử cứ tự nhiên, cằm thử
xem, nếu thấy hay th́ xuất vài chiêu cho biết .
Hoàng Quốc
Kỳ cằm cây kiếm thấy rất nhẹ, xuất chiêu hoàn toàn không
được như ư, đầu thanh kiếm mỏng dính, phất phới lắc lư
như đuôi con diều:– Quả thực là cây kiếm vô dụng như lời
sư phụ, thế mà vào tay sư phụ hoá ra bảo kiếm.
Lục Hoàng
Đức không thể hiểu được cây kiếm này, muốn hỏi nguyên uỷ
của kiếm, nhưng không dám v́ đây là kiếm gia bảo của sư
phụ.
Trong thời
khắc này kư ức gợi Hoàng Phi Bằng hồi tưởng về năm xưa.
Chàng nhớ lại kỷ niệm khó quên tại ḷ đúc kiếm, ngày ấy
chàng lên tám tuổi, đích thân Tổ phụ đúc kiếm cho chàng.
Những ngày đúc kiếm xem như mùa hội trong họ Hoàng. Bà
con trong họ hàng tụ hợp không thiếu vắng một ai, cảnh
sinh hoạt rộn rịp, tiệc vui thâu đêm suốt sáng, với
những thực đơn tự chế biến nào là xôi gà, cháo nấm, các
loại khoai nướng, bánh chưng, bánh nổ, kẹo đậu phụng,
bánh gạo chiên, bánh quế, uống trà xanh.
Những gia
đ́nh nhận kiếm tham gia vào việc thay phiên cằm cây thụt
bỡ từ trên cao hai thước, đẩy hơi vào ống thụt bỡ bán
kính ba tấc, cho lửa trong ḷ luôn luôn cháy đỏ, ngoài
ra c̣n có nhiều người phụ trách, như cằm cây soi xem độ
chảy của nước thep-đồng, tay xoay ly thep-đồng chảy đúng
lửa, đưa than vào ḷ, thay mẫu khung kiếm v.v...
Nhà họ
Hoàng đúc kiếm theo phương pháp gia truyền, mỗi khi đúc
từ ba đến năm cây kiếm. Thanh kiếm đúc theo truyền đời
vơ nghiệp và cá tính của chủ nhân.
Tính cho
đến nay, họ Hoàng lưu trữ trên trăm thanh kiếm, mỗi
thanh kiếm có lịch sử riêng biệt, tuy những thân thanh
kiếm cùng một h́nh thể, nhưng khác biệt nhau rất nhiều,
chỉ có người truyền nhân mới biết thanh thế và giá trị
từng truyền đời cây kiếm, cũng như họ Hoàng truyền thụ
bí quyết đúc kiếm cho người xuất chúng nhất trong họ.
Hiện nay ai cũng biết Hoàng Hạc là người giữ bí quyết
đúc kiếm, c̣n truyền thụ cho người thứ hai th́ khó mà
biết được. Trên thực tế th́ lúc nào cũng có người thứ
hai, cách đây ba tháng Hoàng Hạc chính thức công bố thứ
nam Hoàng Phi Biên là người thừa kế bí quyết đúc kiếm họ
Hoàng.
Hoàng Hạc
công phu trao bí quyết đúc kiếm cho Hoàng Phi Biên đă
hơn mười năm, mà không tiết lộ trong họ, thế mới biết bí
pháp đúc kiếm là một kỹ thuật vơ học, đi đôi với phổ
kiếm pháp và nghệ thuật văn hóa của họ Hoàng.
Trong nội
vụ truyền nhân đúc kiếm họ Hoàng, chỉ có Hoàng Phi Cương
là không hài ḷng, v́ ông cho rằng chỉ có ông mới đủ tư
cách tiếp nhận truyền nhân vơ học họ Hoàng .
Thầy tṛ
Hoàng Phi Bằng ở trong động Lạc Việt trôi qua mười ngày,
công phu kiếm pháp, nội công đă như ư. Nay kiếm pháp của
lục Hoàng Đức cũng đă dạn dày hơn trước, thời gian trôi
qua như thoi đưa, đến lúc phải lên đường cho đúng hẹn
với sư tổ Hoàng Hạc tại cửa biển Hổ Môn.
Hoàng Phi
Bằng có ư muốn ở lại trong động nói :
― Quư hiền
đệ tử đi Hổ Môn, c̣n tại hạ xin ở lại động này, mục đích
để tự tọa công, tại hạ nhờ lục Hoàng Đức thưa lại với tổ
phụ, sau khi đại hội anh hùng Bách Việt bế mạc, th́ quư
đệ tử về đây đón tại hạ về với gia đ́nh. Xét rằng tại hạ
có đến Phiên Ngung thành cũng không ích lợi ǵ, nhờ lục
Hoàng Đức chuyển lời chúc sức khoẻ tất cả gia đ́nh của
tại hạ, nhân đây gửi lời thăm Trịnh Đ́nh Thao. Huynh đệ
Hoàng Đức nghe Hoàng Phi Bằng nói ở lại động để tự tọa
công, cũng mừng cho người sư phụ trẻ.
Phùng Hưng
nh́n lên trời thở dài, tự nghĩ trong ḷng:– Thế là thấm
thoát đă qua, nhật lạc Tây sơn như vó ngựa Phù Đổng phi
vào không gian. Nay sư phụ tự tọa công ở đây, cũng v́
mục đích chuẩn bị điểm hóa vơ học cho Hoàng Đức.
Phùng Hưng
với cười đầy hy vọng nói :
― Thưa sư
phụ, ở lại đây cũng phải, nhưng mà thân cô độc th́ buồn
lắm, hai nữa làm thế nào để tránh khỏi gió sương .
Hoàng Phi
Bằng đă có ư ở lại nhằm khám phá kỳ bí của động Lạc Việt,
cũng muốn thử thách cách sống tự do, sẵn ở đây có đầy đủ
lương thực, cho nên chàng không nao núng trước mọi khó
khăn, chàng cười nói :
― Thú thực
với quư hiền đệ tử, quan trọng nhất đối với tại hạ là
chưa được một ngày tự làm chủ chính ḿnh, cũng một phần
yêu thương thân mẫu mà khó xa gia đ́nh, nhân dịp này để
khởi đầu cho sự xa cách, tại hạ phải tập làm người lớn,
đây là cơ hội hiếm có không đến lần thứ hai. Từ khi tại
hạ theo Tổ phụ cho đến nay, mới nhận ra việc làm đầu
tiên là phải tự lập, không thể sống nhờ áo tới xè tay,
cơm tới hả miệng, ỷ lại gia đ́nh là tự hại thân, trước
mắt thấy quư hiền đệ tử cũng thế, t́m cho ḿnh một tâm
hồn sinh động, sống theo ư chí riêng của ḿnh đó là cung
cách nghĩa hiệp, nay xa gia đ́nh chỉ là thời gian tạm,
cho nên tại hạ muốn ở lại đây cũng v́ mục đích sống ấy.
Sao quư hiền đệ tử thấy thế nào ?
Sau nghe
Hoàng Phi Bằng nói, tất cả lục Hoàng Đức đồng suy nghĩ:–
Những lời ưu tư chân thành của sư phụ cũng phải, v́ thất
Phùng Hưng năm xưa cũng đi trên con đường này. Tuy hoàn
cảnh khác nhau nhưng tất cả cùng bắt đầu từ tuổi trẻ. Ai
cũng đồng ư lời nói của Hoàng Phi Bằng có căn cơ, ở đây
cũng không phải là nơi nguy hiểm, chính ở đây mới là nơi
an toàn nhất .
Hoàng Tố
Nguyệt cá tính người phụ nữ, có phần lo xa nói :
― Thưa sư
phụ, tuy ở động này vô hại, nhưng rất là đơn độc xin xét
lại, con đường sư phụ đang đi bằng phẳng, nếu ở lại đây
khác nào đi trên đường hiểm trở .
Hoàng Phi
Bằng hiểu được ư của Hoàng Tố Nguyệt đáp :
― Đúng vậy,
đường đời không có phẳng phiu, mỗi người phải tạo ra và
chọn lựa con đường đi do chính ḿnh, ít nhiều ai cũng
phải trải qua con đường đời dằng dặc. Tục ngữ có câu: "Tâm
thành tấc linh" không có ngày hôm nay th́ làm sao có
ngày mai đây chứ ?
Mạc Thu Tá
vốn nội tâm, tất cả việc ǵ cũng để trong ḷng ít nói,
chàng lấy hành động thực hiện ư chí. Trong huynh đệ thất
Hoàng Đức đặt cho chàng biệt hiệu đệ nhất tiết kiệm lời
nói, đôi khi họ c̣n cho chàng là nhân vật lạc lẽo t́nh
đời. Hôm nay trước giờ tiễn biệt Mạc Thu Tá ḷng thoả
măn, đắc ư, lễ phép thưa :
― Thưa sư
phụ, khai ân một ly trà xanh thay rượu lạc tạm biệt,
ḷng thành này chỉ biết thể hiện "T́nh bất tại nghĩa,
hoàn tại thiên tứ lộ diệu". Chúng đệ tử cùng chia nhau
uống một chung trà, một nắm cơm lành, một ḷng hướng về
vạn dân đang quằn đắng nước non. Nay gặp sư phụ khác nào
tam sanh hữu hạnh, chúc sư phụ như ư.
Hoàng Phi
Bằng cảm động nói :
― Đa tạ
hiền đệ tử, đúng là thời kỳ phi thường gặp được phi
thường, như thất anh hùng khí độ phi dương, đă từng
giang hồ dọc ngang độc thủ kỳ công.
Chuẩn bị
lên đường Lữ Trường Gia tŕnh bày qui luật trong động để
Hoàng Phi Bằng am tường :
― Thưa sư
phụ, trong động có ba cửa, tại cửa Tây để đi vào, cửa
Nam để đi ra, mỗi cửa có sáu chốt bằng đá, ra vào hai
cửa từ giờ Tư cho đến canh năm, riêng cửa Đông là cửa
sống của động, khi đóng cửa Đông lại xem như bên ngoài
thung lũng là cánh đồng hoang vu, cửa động này có chín
chốt cũng bằng đá, trong động cửa Đông là trung tâm đại
sảnh đường rất bí mật, chỉ có sư phụ và thất huynh đệ
biết mà thôi, tất cả tiện nghi sinh hoạt đều ở trong cửa
Đông, ngoài ra trong cửa động Đông c̣n có một cửa thiên
nhiên bề ngang rộng một thước hai, thất huynh đệ chưa hề
ra vào cửa này v́ bích đá cao thâm thẩm rất nguy hiểm, ở
ngoài động vách núi đứng thẳng, cao trật ót, xa cả tầm
mắt, chót vót cheo leo, sương mù phủ khắp và quanh năm.
Nay sư phụ
ở lại đây chúng đệ tử chỉ lo ngại nhất về sức khoẻ. Lục
đệ tử hứa sẽ trở lại sau ngày đại hội, thôi kính tạm
biệt sư phụ.
Hoàng Phi
Bằng gật đầu tỏ ư thấu hiểu, chàng cười rồi nói :
― Tạm biệt
lục đệ tử, chúc sức khoẻ b́nh an, nhớ ngày hội ngộ, đừng
bỏ tại hạ ở đây nhé ? À c̣n một việc vừa nhớ lại, tại hạ
có kết nghĩa với ba người, vợ chồng hiền huynh tỷ Lư
B́nh Trung, Trần Kiều Oanh và hiền đệ Trịnh Trường, hiện
giờ cũng có thể đă đến sơn trại Hoàng Đức rồi, nhờ quư
hiền đệ tử, tạo điều kiện công phu vơ học cho tam vị ấy
nhá ? Tại hạ thay mặt tam huynh tỷ đệ đa tạ trước.
Phùng Hưng
biết ông sư phụ trẻ có tính trọng hiền, đăi sĩ nói :
― Thưa sư
phụ, việc ấy th́ chúng đệ tử sẽ lo liệu chu toàn, đây là
bổn phận, sư phụ đừng nhọc tâm, bây giờ chúng đệ tử kính
xin tạm biệt, ngày đăi vọng không xa, chúng đệ tử sẽ trở
lại đây đón sư phụ.
Canh ba
ngoài trời c̣n tối, lục Hoàng Đức thẳng hướng đến vịnh
Hổ Môn, kẻ đi người ở chạnh ḷng nhớ nhau. Hoàng Phi
Bằng sống một ḿnh trong động, ngày cũng như đêm cô
quạnh quẽ, làm bạn với rừng núi tịch liêu, tuy vậy chàng
không để ḷng, chỉ lo luyện tập kiếm pháp, nội công,
cùng lúc luyện Ngọc Thanh kiếm pháp, mà chàng đă học lóm
được ở Phong Lưu Tửu lầu, ngoài ra c̣n luyện các môn vơ
học của họ Hoàng như "Bạch Thiết Châm", quyền, huyệt đạo,
Hoàng kiếm và Hoàng thư.
Lần đầu
tiên chàng sống cô độc, cảm thấy ngày dài vô tận, về đêm
ngắn chỉ một canh. Mươi ngày sau chàng đă thích nghi với
không gian rừng sâu núi cao, lâu ngày sự b́nh yên này
thấm vào người.
Chàng để ư
xem xét cảnh vật trong động, trên đỉnh đầu núi là một
không gian nhỏ, mặt trời không có hoàng hôn, bóng chiều
tà, chỉ biết ánh sáng đó là một ngày trôi qua, nỗi ḷng
hiện lên nhớ câu ca dao của cô mẫu Hoàng Lữ Trinh thường
ru chàng ngủ vào buổi chiều tà "Chiều chiều ra đứng ải
vân, Chim kêu gềnh đá, gẫm thân thêm buồn" trong lời ca
quả là bốn bề im lặng như tờ, tiếng ca của một cô phụ
đứng chờ trong một phu quân hỏi sao mà biền biệt không
trở về ! Nhưng ở ḷng chàng th́ khác:– Chiều chiều ra
đứng động Đông, hỏi thăm mây nước có động t́nh không ?
Rồi chàng tự trả lời: Nơi đây chiếu cói hởi vơng đay.
Giường cây, xe sậy ta đây thắm trần. Thế mới biết chàng
yêu đời dù ở nơi nào cũng vậy .
Màn đêm
buông xuống cảnh núi rừng lúc ấy mới thật là âm u ghê
rợn, chỉ thấy một màu đen dày kịt, trong đêm khuya khoắt
lâu lâu nghe có tiếng hạc kêu rời rạc, lẫn tiếng côn
trùng âm khúc liên hồi, có tiếng vọng lại từ xa của loài
dă thú.
Đêm hôm
sau bầu trời sáng âm, không thấy bạch thố đi qua Vân Sơn
Đài, mới biết "Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời".
Nụ cười của trăng xem ra c̣n vài ngày nữa là rằm tháng
chạp. Chàng tự nhủ thầm th́ ra nay đă giữa mùa đông,
chuẩn bị vào đầu xuân tết Đoan–ngọ, báo hiệu cho chàng
biết mười sáu tuổi rồi đó ạ .
Chàng c̣n
nhớ, ngày mồng chín tháng giêng đầu mùa xuân này, đại
hội anh hùng Bách Việt sẽ khai mạc tại thành Phiên Ngung,
cả nhà thân thuộc trên dưới đồng tham dự vào ngày đó,
ḷng chàng ray rức không yên, nhớ tất cả mọi người nhất
là mẫu thân. Nghĩ đến đây ḷng động, nước mắt tự trào.
Chàng trực
nhớ ḿnh không c̣n là trẻ bế bồng của mọi người thân nữa,
nay chính ḿnh phải can đảm để tập làm người lớn, hay
một ông cụ sống ẩn nơi cùng cốc này cũng tốt thôi. Chàng
vung người đứng dậy tự nói: – Đúng rồi, có khổ mới biết
đời khổ, có gian nan mới biết đường đời khó khăn. Mỗ là
Hoàng Phi Bằng chưa biết khổ, chưa biết gian nan mới ở
trong động này hơn tháng mà nước mắt rơi lệ ư ? Mỗ chẳng
phải là kẻ hèn, mỗ phải tự lập chí từ hôm nay, có xá chi
cái cảnh u huyền này chứ, nếu ngày nay mỗ sợ ma, cuối
cùng sợ cướp thế th́ không làm việc lớn .
Trong đêm
thanh vắng chàng quyết tâm cằm kiếm nhảy ra thung lũng,
xuất hơn trăm chiêu thức, tự cảm trong ḷng ṿng ngực
trổi dậy hùng đồ tráng chí, huyết quản hoà nhập hiệp cốt
nhu cường, tay xuất chiêu bạt gió ào ạt, một hồi lâu
tinh thần chàng sảng khoái, đầy ấp nghị lực. Chàng tự
thầm:– Hôm nay mỗ dụng tâm lượng khổ, hy vọng có ngày
ngóc đầu lên giữ núi rừng xanh tại động Lạc Việc này.
Đêm đă
khuya, chàng vào động ngủ một mạch cho đến trưa hôm sau.
Từ đó Hoàng Phi Bằng là bạn đời của động Lạc Viêt kỳ bí,
cả ngày chàng luyện tập tất cả các môn trong vơ học đă
biết, ngoài ra chàng tự sáng tạo những chiêu số mới
trong vơ học họ Hoàng như kiếm, Bạch thiết châm, quyền
pháp, huyệt đạo v.v...
Tuy chàng
là con cái ḍng hào kiệt, nhưng ở vào hoàn cảnh này,
chàng cảm nhận được sức sống tự lập thân vẫn hay hơn,
trong tâm khảm có những thôi thúc nào đó mà chàng phải
tiếp nhận để vươn vai đi đến, chàng không tể nào biểu
đạt thấu tâm t́nh của ḿnh, vốn rất nhiều lời để tỏ bày,
nhưng không biết nói từ đâu và nói với ai .
Chính
trong động này cho chàng một cuộc sống đổi thay hoàn
toàn mới, có thế nói đắc ư nhất của sự tự do. Rồi những
tuyệt chiêu "Kiếm pháp phá kiếm pháp" xuất ư nhập kiếm
thâm diệu đến với chàng .
Vốn cha mẹ
sinh h́nh hài, trời sinh bổn tính, gặp môi trường tốt tự
nó phát khởi khí căn, trí tuệ thông minh, chàng c̣n biết
dụng ưu việt của vơ học họ Hoàng, cũng như tính hiếu
động mạnh không ngừng trong tâm khảm của chàng và chưa
bao giờ bỏ lỡ cơ hội nào mỗi khi mắt thấy tai nghe, cũng
như những việc làm có lợi cho đạo nghĩa th́ chàng không
từ nan, dù có những thách đố trước mặt chàng chưa hề
thối chí. Nay lấy quyết định ở lại động Lạc Việt, cũng
v́ bổn tính hóa sinh thôi thúc chàng t́m một thứ ǵ đó
chưa xuất hiện.
Qua ngày
đêm suy nghĩ, chàng chỉ đúc kết được bởi công phu vơ học,
đọc sách, lục lạo trong động. Chàng thích thú nhất là
sục t́m khắp nơi trong các cửa động Đông, trong động có
rất nhiều ngơ ngách kỳ lạ, nhỏ chật hẹp, đường cùn, to
rộng sâu thẩm, hun hút, h́nh thù khác nhau, có lúc chàng
tự hỏi :– đă đếm được bao nhiêu hang động th́ ra vô số
kể .
Chàng suy
nghĩ thầm:– Rất tiếc phải chi có thêm một hay hai bạn
cùng canh với ḿnh, th́ tổ chức được tṛ chơi cút bắt
vui biết mấy, thôi th́ ḿnh chơi một ḿnh cũng được vậy .
Mỗi khi chàng vào hang động, đi qua một ngơ ngách để lại
dấu vết bằng số, nhằm để chỉ lối trở về. Chàng khám phá
được ngơ xuống đáy núi có một ḍng suối ôn tuyền, khí
hậu thoáng, thời gian xuống đáy mất hơn hai canh giờ.
Hôm sau chàng khám phá được đường lên đỉnh núi, chỉ mất
một canh giờ, đứng trên đỉnh núi thấy tận đường chân
trời, ở phía trong là một gian nhà ngũ giác không có mái
che, rộng hơn chín mươi thước.
Hôm sau
chàng xuống đáy núi để xem xét kỹ lưỡng hơn, t́m thử dấu
vết tiền nhân, ngoài ra không thấy ǵ cả, đặc biệt ḍng
suối ôn tuyền trong veo. Nhăn lực của chàng thấy kỳ lạ
hiện ra bảy h́nh tượng, bốn h́nh tượng toạ tĩnh ngồi, ba
h́nh tượng toạ tĩnh nằm. Chàng hiếu kỳ ṭ ṃ, tự làm
theo h́nh tượng thứ nhất, chàng vừa tĩnh toạ th́ hiển
hiện trước mặt, thấp thoáng bóng mật ngữ "Thiên Đế Cư".
Chàng luôn miệng đọc :
"Đại la
vơ đế
Hoá dục
quyền sinh
Thống
ngự vạn vật"
Trong
người của chàng có dấu hiệu biến hoá, thành chuỗi khí cơ
thể liên kết, từ lúc bất động nội ngoại tâm phóng được ư
tạp. Cửa "Nê hoàn cung" hấp thụ khí Dương chảy vào thần
kinh, động tinh khí đưa đến "Thái hư" tự nó chảy vào "Thiên
tiền" xuống đường xương sống đến huyệt "Phong phù", rồi
hồi về "Nê hoàn cung", hoá khí Âm xuất ra ngoài thân.
Gọi là nhị
khí hội tụ "âm dương" trong cơ thể, chàng nhận rơ ràng
trong đường xương sống ấm áp, từ "Nê hoàn cung" đến
huyệt "Phong phù" kết quả luyện tập h́nh đồ thứ nhất,
thuộc ḷng mật quyết.
Trong khi
luyện tập diệu dụng được nhị khí "âm dương" thân thể tự
nó bay bổng là đà trên mặt nước, toàn cơ thể thoải mái,
ấm áp lănh hội được huyền ảo. May cho Hoàng Phi Bằng lúc
trước chung thuỷ luyện thập pháp tĩnh toạ, vận khí, năng
công với tổ phụ. Đúng là "Ngẫm cơ hội ngộ, để dành hôm
nay".
Chàng tiếp
tục công phu mật ngữ h́nh tượng thứ hai trong "Thiên Đế
Cư".
"Nguy
chiêu thượng bách vô kinh "
Nhược
thiệt nhược hư
Bất
ngôn động háo biến thiên hoá
Vô dịch
bách dịch chơn quần linh"
Chàng nghe
văng vẳng bên tai như có tiếng người gọi:
― Mi mở
cửa "Nê hoàn cung", hấp thụ khí Dương bên ngoài chuyển
vào cửa "Nê hoàn cung", dụng thần kinh chuyển khí dương
đến huyệt "Thái hư", từ ấy chuyển vào "Thiên tiền" xuống
đường xương sống, qua "Phong phù" vào huyệt "Trí đường",
rồi hồi về "Nê hoàn cung" xuất khí Âm ra ngoài, đă thành
công một tọa tịnh mới rồi đó.
Chàng vâng
lời tiếp nhận khí âm dương ấm áp tại "Nê hoàn cung" đến
huyệt "Trí đường", rồi chuyển trở về "Nê hoàn cung" hoá
khí âm xuất ra ngoài, kết quả lần thứ hai, một ṿng tṛn
hơi ấm theo tứ chi, thân thể bay cao khỏi mặt nước, thần
lực như sức mạnh phi thường.
Chàng tiếp
tục luyện tập mật ngữ thư ba trong "Thiên Đế Cư".
"Tịnh
hành bất tức
Khí
phân tứ tượng
Hoát
triền vô biên
Càn
kiện cao minh"
Cũng có
tiếng văng vẳng, th́ thầm bên tai của chàng, nhờ có nhĩ
lực tuyệt hảo mới nghe được:
― Mi mở "Nê
hoàn cung", hấp thụ khí dương chuyển vào, dụng thần kinh
chuyển khí dương qua "Thái dương", từ đó chuyển đến "Thiên
tiền", cho qua đường xương sống "Phong phù" vào huyệt "Trí
đường", rồi "Huyết trợ" hồi khí về "Nê hoàn cung", hoá
âm đề khí nhẹ thật nhẹ xuất ra ngoài, đề khí "âm dương"
nổi lên nóng đến lạnh từ "Huyết trợ", hồi về "Nê hoàn
cung" xuất ra ngoài, trong thân thể của chàng như một
tảng băng tuyết ngàn cân.
Chàng nghe
có tiếng nói tiếp :
― Mi đă
thực hành điều lư âm dương đúng lắm, quả là như ư của mỗ.
Hoàng Phi
Bằng vẫn ở thế tĩnh toạ, nhưng thân thể đă bay ra khỏi
cửa động Đông tự bao giờ, rồi tự ư khí âm dương đưa
chàng trở về điểm tĩnh toạ như cũ, thân thể trải qua
biến hoá thần diệu. Chàng chuyên cần, tập luyện, tiếp
tục theo h́nh đồ đọc tứ mật ngữ.
"Trung
ứng niệm tướng bách phân
Thượng
chưởng tam thập lục thiên"
Lần này
Hoàng Phi Bằng nghe từ trong "Nê hoàn cung" phát ra
tiếng nói :– Mi tự hấp thụ khí dương chuyển vào "Nê hoàn
cung", dụng thần kinh hoá nhị khí âm dương chuyển đến "Thái
hư" và "Thiên tiền", đưa xuống đường xương sống cho khí
vào "Phong phù", rót nhẹ huyệt khí "Trí đường", cho qua
"Trương môn" hồi về "Nê hoàn cung", hoá nhị khí âm dương
xuất ra ngoài, mi sẽ nhận tứ hướng một ṿng tṛn ánh
sáng xanh, vàng, đỏ. Khí âm dương tụ lại "Trương môn"
xuất ra "Nê hoàn cung", đó là sức mạnh của biến hoá vô
h́nh, mi hành đúng không sai.
Chàng tiếp
tục ở thế tĩnh toạ, thân thể đă bay vào không trung,
biến hoá mười hai ṿng khí, rồi tự trở về điểm tĩnh toạ,
như đang chứa một hấp lực khí của trời đất, thần khí
thoải mái. Chàng tiếp tục công phu, ngũ mật ngữ trong "Thiên
Đế Cư":
"Xuất ư
thiên thiên
Kim
xuân cổ ngưỡng
Diệu
nhựt nguyệt khí thần hoả quang"
Lời nói từ
mênh mông vô hạn của không gian, rót vào nảo căn của
Hoàng Phi Bằng gọi rằng: – Mi hăy mở cửa "Thái hư" hấp
thụ khí dương chuyển vào "Nê hoàn cung", dụng thần kinh
chuyển khí dương vào "Thiên tiền", cho đi qua đường
xương sống đến "Phong phù" rồi đến huyệt "Trí đường", "Trương
môn" và đến "Vĩ long cốt" hồi về "Nê hoàn cung", hoá nhị
khí âm dương xuất ra ngoài. Cùng lúc mười đầu ngón tay
có tiếng "xịt xịt" khói trắng mỏng bay ra là đà trên mặt
nước.
Tiếng xịt
chỉ có Hoàng Phi Bằng mới nghe được, dù người ở gần có
nội lực kỳ tài cũng như kẻ điếc, hay nhĩ lực như những
nhạc sĩ tài ba cũng không thể nào nghe thấu. Lúc này
thần khí âm dương của chàng như gió thổi qua "Vĩ long
cốt" hồi về "Nê hoàn cung". Thân thể Hoàng Phi Bằng ch́m
xuống đáy nước, thế mà bộ phận hô hấp vẫn b́nh thường,
cứ thế theo ḍng nước trôi măi đến điểm cùng mới dừng
lại.
Hoàng Phi
Bằng đọc tiếp, lục mật ngữ :
"Khai
tịch trường nghiêm
Biến
hoá vô cùng"
Hoàng Phi
Bằng nghe trong tâm thức nói:
― Đến đây
mi tự công phu lấy. Chàng hấp thụ khí âm dương mở cửa "Nê
hoàn cung", dụng thần kinh chuyển nhị khí vào "Thái hư",
từ ấy chuyển vào "Thiên tiền" xuống xương sống "Phong
phù", rót khí vào huyệt "Trí đường " qua "Trương môn"
đến "Vĩ long cốt", hồi về "Nê hoàn cung" xuất ra âm
dương khí. Bỗng có một âm khúc đưa vào tai chàng:
"Linh
oai biến trắc,
Vô cực,
vô thường"
Ư bảo
Hoàng Phi Bằng: Đọc kỷ hai câu mật ngữ, rồi vận khí tại
huyệt "Vân đài", sau đó mới hồi nhị khí về "Nê hoàn cung"
xuất ra nhị khí âm dương, có như thế mới thành công.
Hoàng Phi
Bằng vui mừng:– Ôi hay thật, thân thể lại ch́m xuống vực
thẩm không bờ bến, tự động đứng dậy đi dưới nước như đi
trên mây. Thân thể tiếp tục đi theo ḍng nước rồi dừng
lại điểm cuối của bờ mênh mang. Hoàng Phi Bằng đọc tiếp,
thất mật ngữ :
"Đại
sáng, đại tạo
Huyền
vi vơ thượng tôn".
Hoàng Phi
Bằng chờ một chập lâu, không nghe tiếng vô h́nh dạy bảo,
chàng tự tâm thức bảo đọc kỹ thất mật ngữ, rồi mở cửa "Nê
hoàn cung" hấp thụ khí âm dương bên ngoài chuyển vào,
dụng thần kinh chuyển khí dương ra "Thái hư", từ ấy
chuyển vào "Thiên tiền" xuống đường xương sống "Phong
phù", rót vào huyệt "Trí đường" qua huyệt "Trương môn"
qua huyệt "Vĩ long cốt", chuyển vào huyệt "Vân đài" cuối
cùng đến "Đại truy" hồi về "Nê hoàn cung", hoá khí âm
dương xuất ra ngoài.
Tiếp theo
chàng nghe âm thanh từ mênh mông nói:
― Bây giờ
mi nghe kỹ mật ngữ, để tự giải huyệt trừ độc, nhớ nhé,
mi chỉ nghe thoáng qua một lần không bao giờ nghe lần
thứ:
"Khai
thiên cung,
Thiếu
thương đại lăng
Tam đại
huyệt khí
Tẩu đơn
điền"
Đến đây
Hoàng Phi Bằng tự thấy toàn thân biến đổi, từ thạch
tượng rồi nhẹ như bông vải, sức khí âm dương trong thân
thể tiết ra làm ḍng suối nóng như ḷ đúc kiếm, hai chân
đi như bay trên mặt nước chảy xiết, với thân h́nh phơi
phới ngũ sắc, hương hoa ngào ngạt, cảnh đẹp bao la, hiện
hoá vô bờ bến, như cảnh sống thực trước mặt trần gian.
Chàng phát
hiện chân hoả chạy khắp huyệt đạo, trong đường xương
sống bốc lên "Nê hoàn cung" chạy tới đâu biết đến đó,
khí âm dương đă hỗn hợp được Thiên-nhiên, tam khí hợp
nhất mở hết huyệt đạo "Tinh, khí, thần" hợp nhất.
Chàng
luyện được nội ngoại công đă thành, thế mà nào hay biết
để sử dụng khả năng biến hoà phép thuật cương bỏ, nhu
lấy hay cương vũ, nhu dịu cũng tuỳ biến hoá ngược lại,
đó là phép phi thân đang ẩn tàng trong thân thể của
Hoàng Phi Bằng.
Ngoài ra
trong phép phi thân c̣n có phép nội ngoại công như một
kho năng lực diệu kỳ, chỉ cần khám phá là sử dụng không
thể hết nội ngoại lực. Lần đầu tiên chàng vận dụng
nguyên khí cho nên chưa hiểu hết âm dương trong ngoài vũ
trụ.
Chàng
chính là kho tàng nguyên khí của "kim, mộc, thuỷ, hoả,
thổ" về ngũ hành th́ có "Tâm thuộc hoả, phế thuộc kim,
thận thuộc thuỷ, tỳ thuộc thổ, can thuộc mộc". Tuy chàng
đả thông hết tất cả kinh kỳ bát mạch gồm có mười hai
thường mạch "tim, phế, tỳ, can, thận" (ngũ tạng) cùng
lục bảo thuộc âm. "đại trường, tiểu trường, đởm, bàng
quang, tam tiêu" thuộc dương "âm kiểu, dương kiểu".
Bát mạch
này không thuộc hệ chính kinh âm dương, không phân biệt
biển lư phối hợp hay đạo kỳ hành, nên mới gọi là kinh kỳ
bát mạch. Sau khi thường mạch với kinh kỳ bát mạch không
c̣n ngăn cách, những âm dương độc nằm trong ngũ tạng xem
như tự hoá. C̣n lại hai yếu huyệt "Vân môn" và "Trung
phủ" những huyệt nhỏ ở hai cánh tay, ngón tay là nơi hội
tụ thiếu dương, cùng "đới mạch" th́ tất cả chất độc
trong người tự nó hoá giải, đúng là gặp may, vô sư tự
luyện mà thành đạt thượng thừa nội ngoại công.
Những ngày
đầu chàng xuống đáy núi, lên động cũng mất bốn canh giờ,
ngày nay xuống lên động chỉ ha khắc thời gian .
Sáng sớm
chàng mở cửa động Đông ra thung lũng luyện tập nội ngoại
công đă học được ở dưới đáy núi, quả nhiên nội ngoại
công ứng hoá thay đổi thể pháp, từ thế tĩnh toạ ngồi ra
đứng, vận nội ngoại công cùng lúc càng tinh diệu, thân
hoá càng biến chuyển linh động, luyện tập cả ngày thân
thể vẫn thoải mái, từ đó chàng thích thú đời sống trong
động.
Vài ngày
sau chàng khám phá thân thể có khả năng đằng vân, chàng
thử nghiệm quả thực thành công, chỉ tam khắc chàng đă đi
khắp đỉnh núi Vân Sơn Đài.
Tính hiếu
kỳ cho chàng một suy nghĩ táo bạo. Hôm sau chàng đứng
tại cửa động Đông, dụng hết nội ngoại công, đằng vân
xuống núi rồi phi thân về lại động một cách diệu dụng,
ḷng chàng mở cờ vui mừng vô tả, sáng nào chàng cũng
công phu phi thân, đến lúc chàng nhận ra: Không cần phải
dụng hết nội ngoại lực nữa, chỉ đề khí nhẹ là phi thân
lên xuống núi, như chim đi t́m mồi, bay về tổ.
Ngày thứ
chàng lập một trà đường nhỏ dưới đáy núi, gần cuối ḍng
nước suối ôn tuyền, để tiện bế môn tư quá và sau giờ
khắc luyện tập chàng uống trà xanh, thưởng ngoạn bông
tuyết của suối, cùng nh́n hoa phong lan rừng trong sương
mù.
Đôi lúc
chàng cảm xúc, viết trên vách trà đường những vần thơ
lưu niệm, trong số đó có bài thơ Lạc Việt Chi Truyền,
chàng thường ngâm nhiều nhất :
Suối
reo sông núi mấy xuân
Đất
trời mưa gió trăng tuần mây không
Nào ai
biết đặng ḷng khôn
Dẫu
ngoài đằng đẵng cũng đồng nguyên xuân.
|