Huynh
đệ Hoàng Đức về đến trạm giao dịch Động Đ́nh hồ, gơ mơ
hồi thứ nhất "cốc cốc" Phùng Hưng tuyên bố :
― Hôm nay triệu
tập toàn thể quí bang chúng trong trại để di tản đến địa
điểm mới, cùng lúc bổ sung nhân sự. Từ nay Phùng Điền
bang có danh xưng mới là Hoàng Đức Bang, thất huynh đệ
của mỗ xin tuyên bố tộc danh, như Phùng Hưng, Lữ Trường
Gia, Trịnh Đ́nh Thao, Lê Trung Kha, Mạc Thu Tá, Hoàng
Quốc Kỳ, Hoàng Tố Nguyệt. Mục đích sự thay đổi này nhằm
mục đích làm cho phù hợp hoạt động nghĩa hiệp. Huynh đệ
nào theo Hoàng Đức Bang th́ đến nơi mới lập nghiệp, c̣n
không sẽ được cấp số vốn về nguyên quán sinh sống, c̣n
trạm dịch này sẽ phóng hỏa hôm nay.
Bang chúng đồng
lên tiếng :
― Thất huynh đệ,
Tổng bang chủ Hoàng Đức Bang ở đâu, chúng bang cùng ở đó,
nguyện hy sinh, sống chết có nhau cùng tổng bang chủ.
Phùng Hưng tuyên
bố tiếp :
― Thưa quí huynh
đệ, tinh thần nghĩa hiệp của quí huynh đệ đối với thất
huynh đệ mỗ xem như một lời thề nguyện sống chết có nhau.
Ba mươi hai bang chúng trạm hồ Động Đ́nh đồng vui mừng
vỗ tay hoan hô từ nay hoạt động theo nghĩa hiệp của
Hoàng Đức Bang khởi đầu từ lúc này. Tiếng gơ mơ, hồi thứ
hai báo động bang chúng khuân vác tất cả vật dụng cần
thiết xuống ghe thuyền. Tiếng gơ mơ, hồi thứ ba cho biết
Lữ Gia thay mặt Phùng Hưng tuyên bố:
― Tổng bang chủ
quyết định khởi hành, đoàn ghe thuyền về hướng Bắc hồ
Động Đ́nh. Tạm lập trạm mới tại nhà trưởng trạm Lưu Đ́nh
Thanh gần mé sông Tương Thủy, nơi này là hợp lưu của các
con sông trước khi chúng tuôn nước ra hồ Động Đ́nh.
Lưu Đ́nh Thanh
vui mừng nói :
― Thưa tổng bang
chủ cùng quí huynh đệ, theo ngu đệ thấy từ xưa nay Phùng
Điền Bang chỉ hoạt động trên đường bộ, nếu ngày nay hoạt
động thêm đường thủy th́ thuận lợi hơn nhiều. Nếu tính
từ Động Đ́nh hồ di chuyển trên sông Ly Thủy th́ vào được
phía Đông Nam Trường Sa. Hướng di chuyển này xuyên qua
Quế Lâm rồi đến Tây Giang nối vào thành Phiên Ngung, lấy
đường thủy làm huyết mạch ra vịnh Hổ Môn. Về phía Đông
hồ Động Đ́nh c̣n có sông Tương Thủy chảy vào hai phụ lưu
sông Bằng Giang, sông Tây Giang, sông Kỳ Cùng từ Giao
Chỉ chảy ngược lên nối vào phía Đông ở Quế Lâm, vào phía
tây ở Thượng Quận. Đây là một hợp lưu của các sông Bắc
Giang, Đông Giang và Tây Giang cùng chảy ra cửa biển Nam
Hải. Đặc biệt sông Tương Thủy có một hợp lưu thứ hai ở
phía đông Châu Giang chảy xuyên qua Nam Hải.
Phùng Hưng hiểu
đươc lư của đường thủy, rồi cười nói :
― Lưu Hiền đệ,
nhờ đâu mà hiểu rạch ṛi về đường thủy vậy ?
Lưu Đ́nh Thanh có
ḷng tin đă tuyết phục được bang chủ đáp :
― Thưa bang chủ,
ngày c̣n thơ ấu, tiểu đệ theo gia gia mua bán hàng tơ
lụa, di chuyển bằng đường thủy, đi khắp mọi nơi. Nhờ vậy
đệ mới biết đường sông nẻo rạch, nay mạo muội tŕnh bày
không biết bang chủ có dùng được không ?
Phùng Hưng gật
đầu đôi lần tỏ vẻ đồng ư, chàng tươi cười nói :
― Rất cảm ơn Lưu
hiền đệ. Đây cũng là lúc khởi đầu để Hoàng Đức Bang
chuẩn bị hoạt động cả hai đường bộ và đường thủy. Hôm
nay may có hiền đệ biết rạch ṛi thủy lộ lẫn thủy tŕnh
th́ Hoàng Đức Bang sẽ được tăng thêm sức mạnh ! Mỗ xin
tán đồng ư kiến của hiền đệ. Nhân đây nhờ hiền đệ vẽ một
bản đồ đường thủy trong ṿng mươi ngày; sau đó hiền đệ
hăy nhận lănh nhiệm vụ phó Thủy Quản Binh. Nay mai mỗ sẽ
tuyển chọn một trăm huynh đệ luyện tập thuật thủy chiến.
Lưu Đ́nh Thanh
lên tinh thần, ḷng vui mừng :
― Đa tạ bang
chủ, ngu đệ thi thố hết khả năng, sự hiểu biết này đáp
lại ḷng tin dùng của bang chủ !
Hoàng Đức Bang đă
từng suy nghĩ về kế hoạch đường thủy, tương lai những
con sông chính là mạch huyết hoạt động của Hoàng Đức
Bang. Bang này khởi nghiệp mới thay h́nh đổi thể, tổ
chức sinh hoạt như lập thôn làng, lập trạm theo gia cư
Lạc dân. Thế đất có sẵn sau lung là núi, trước mặt là
sông, dịch trạm có bộ chỉ huy đặt ngay những thị trấn
lớn nhỏ. Tổng chỉ huy lấy rừng làm mật trú. Trong công
việc phát triển bang, các bang chúng dựa trên tiêu chuẩn
khả năng đức hạnh, bảo mật hoạt động của từng bang chúng
bằng hiệu lệnh.
Phùng Hưng truyền
khẩu lệnh khẩn :
― Nay dịch trạm
có tên và có số, tổng cộng ba mươi chín trạm đang hoạt
động ở khắp nơi, nhưng chỉ thay đổi nhân sự cho phù hợp
tổ chức mới.
Đại bản doanh
Hoàng Đức bang đặt tại núi Qui Liên Sơn, Tây giáp Tượng
Quận, Đông giáp Quế Lâm. Núi rừng Qui Liên Sơn hiểm trở.
Nhưng đây là linh địa. Thường vào mỗi buổi sáng đẹp trời
có phong cảnh hoa đồng cỏ nội phơi sắc gấm lộng lẫy, mây
kéo về như những giải lụa bảy sắc cầu vồng rồi dệt vảy
rồng trên bầu trời. Mây lành chiếu xuống hồ nước xanh
đổi thay mầu sắc từng hồi, gió thổi nhẹ dồn sóng lao xao
mặt nước lóe ánh sao rơi lấp lánh. Vùng linh địa này gồm
nhưng cảnh thơ mộng như Hồng Lĩnh Nhật Xuất (mặt trời
mọc trên đỉnh non Hồng), Hoàng Hoa Hào Khí ( hào khí mùa
hoa vàng ).
Chỉ có một đêm,
bầu đoàn Hoàng Đức Bang từ phía Bắc hồ Động Đ́nh di
chuyển về hướng Nam lập trạm dịch hoàn bị. Phùng Hưng
phát động lần thứ hai lập trạm bí mật do Hoàng Đức Bang
chỉ huy. Lữ Trường Gia dẫn một toán lập trạm dịch cửa
biển Hổ-Môn thành Phiên Ngung. Trịnh Đ́nh Thao dẫn một
toán lập trạm cửa biển Nam Hải. Lê Trung Kha lập trạm
tại phía đông Châu Giang, Mạc Thu Tá lập trạm cửa biển
Long Biên. Hoàng Quốc Kỳ và em gái lập trang trại nam
Tây Giang. Hoàng Đức phân năm cư trú mới thành một lực
lượng liên hoàn hoạt động giao dịch bằng đường bộ và
đường thủy. C̣n Phùng Hưng quản thủ đại bản doanh Hoàng
Đức Bang.
Huynh đệ Hoàng
Đức Bang ước hẹn một tháng sau các nơi định cư hoàn tất.
Họ mua ngay trong ngày được hai mươi ghe thuyền nhỏ lớn
dành để di chuyển trên sông. Riêng về mặt đường biển th́
họ dự trù mua hai thuyền bầu. Từ đây họ nêu sáng tôn chỉ
giao dịch lương thiện, lấy nghĩa chiêu hiền đăi sĩ, anh
hùng thù tạc, diệt bạo trừ gian; mọi hoạt động từ đây
chỉ mục đích phù trợ công việc độc lập Nam Việt.
Nói về Hoàng Hạc,
ông đă từng nghiên cứu tỉ mỉ chiến thuật lẩn chiếc lược
cùng phương cách kinh doanh đường bộ và đường thủy. Ông
am tường sự lợi ích của đường thủy. Ông để hết tâm trí
vào sông ngoài nội địa Nam Việt, nhất là Trường Sa, Nam
Hải, Tượng Quận, Quế Lâm, Giao Chỉ, Nhật Nam, Cửu Chân,
Châu Nhai và Đam Nhỉ.
Ngày đúng hẹn,
Phùng Hưng đến Phong Lưu Tửu Lầu trước thăm lăo hiệp và
chưởng môn, sau tŕnh bày sinh hoạt canh tân của Hoàng
Đức Bang.
Lần này Hoàng Hạc
gặp lại huynh đệ Phùng Hưng, ông lấy làm vui mừng nói :
― Công việc như
vậy tốt lắm, lăo phu không ngờ bang chủ cùng các huynh
đệ có óc tổ chức, có tài canh tân tinh nhuệ như thế. Mà
này, xin bang chủ nhớ ngày mười lăm tháng chạp đến cửa
biển Hổ-Môn, tại Phụng Tiên Lầu, lăo phu sẽ chờ các hạ
từ sáng đến trưa. Ngày mai lăo phu sẽ nhờ người mang đến
cho các hạ tất cả những bản đồ đường thủy nội địa Nam
Việt.
Phùng Hưng ngó
Hoàng Hạc một cách ngạc nhiên hỏi :
― Thưa lăo hiệp,
những bản đồ ấy hiện giờ có ở đây không ?
Hoàng Hạc khiêm
tốn và ôn tồn :
― Các hạ an tâm.
Hiện giờ tuy chúng ở trong trí của Lăo phu chỉ cần vẽ ra
là có tất cả.
Phùng Hưng một
lần nữa ngạc nhiên hỏi tiếp :
― Văn bối không
ngờ trong trí của lăo hiệp đă sẵn có nhiều kỳ mưu diệu
lược, văn bối xin vâng lời giáo huấn của người.
Hoàng Hạc khích
lệ dịu dàng nói :
― Lăo phu hy vọng
các anh em được thành công mọi việc. Từ đây các anh em
của các hạ bắt đầu đi vào ngă rẽ của cuộc đời, phải chu
toàn trách nhiệm đối với dân chúng Bách Việt; chí khí
nghĩa hiệp của các anh chị em vẫn là tinh thần của lăo
phu. Đáng hănh diện lắm ! Bây giờ lăo phu xin tạm biệt ở
đây.
Hoàng Phi Bằng ở
lại Phong Lưu Tửu Lầu để chờ đón các bác của ḿnh. Hoàng
Hạc thân hành đến thủ phủ Trường Sa thành Nhạc Dương
thăm viếng Trường Sa Vương và những đại hiệp cố nhân,
tri kỷ.
Hoàng Phi Bằng
tiễn đưa nội tổ cho đến khi tiếng vó ngựa xa dần, không
c̣n thấy h́nh bóng mới xoay lưng về. Cậu siêng chăm
luyện nội công. Tay moi trong đảy sách của ông nội ḿnh,
những cuốn sách nói về tư tưởng kinh bang tế thế của
người xưa như "Chiến Quốc Sách", "Lă Thị Xuân Thu", "Hán
Thư" (của Ban Cố), "Kiêm Ái" (của Mặc Tử). Và có đêm,
cậu tơ tưởng đến hai mỹ nhân mà cậu đă gặp tại Phong Lưu
Tửu Lầu này. Năm nay, cậu chỉ mới mười lăm tuổi, song
thể chất cậu sớm phát triển nên cậu cao lớn hơn bọn trai
vào tuổi hoa niên đồng trang lứa với cậu. Hoàng Tố
Nguyệt và Lư Lệ Nga cũng chỉ lớn hơn cậu sáu hoặc bảy
tuổi là cùng. Cho nên nghĩ về họ, tâm thần cậu dao động,
cảm giác ấm áp sưởi nóng trái tim cậu. Có đêm, cậu đọc
bài "Cao Đường Phú" của Tống Ngọc, bài "Trường Môn Phú"
của Tư Mă Tương Như, bài "Bạch Đầu Ngâm" của nữ sĩ Trác
Văn Quân, rồi ngắm ngọn hàn đang trong pḥng, vành tà
nguyệt ngoài khung cửa sổ, hết đốt ngọn hồng lạp này
sang ngọn hồng lạp khác cho tới khi trống điểm canh ba,
ḷng bâng khuâng man mác.
Một sáng nọ,
Hoàng Phi Bằng xuống tiệm ăn, kêu một b́nh trà nóng, một
dĩa bánh ướt nhân tôm để dùng điểm tâm trước khi đi dạo
mát trên dặm liễu đường mai đưa về ngôi Ngọc Hoàng Bảo
Điện.
Bỗng một gia đ́nh
đến Phong Lưu Tửu Lầu gồm hai vợ chồng ngoài năm mươi
tuổi và cặp vợ chồng c̣n trẽ khoảng mươi chín tuổi cùng
ba cô cậu choai choai gồm một trai hai gái trạc tuổi từ
mười hai đến chín tuổi vào Phong Lưu Tửu Lầu xin thuê
một pḥng lớn để nghỉ tạm một ngày đêm. Người đàn ông
trung niên có vẻ quắc thước, tóc hoa râm, râu dài đậm
đuột, mặc y phục màu chàm đậm, khoác áo lông chim đỏ.
C̣n người đàn bà đứng tuổi kia có vẻ mạnh khỏe, hồng hào,
vận y phục màu tím than, khoác ngự hàn màu nâu, tóc cài
trâm bạc, cổ đeo xâu chuỗi hổ phách. Chàng thiếu niên
vóc vạc thanh cảnh, dung mạo tuấn mỹ với da ngà, mắt
phụng, môi tươi. Chàng vận bạch bào, đầu đi ngân quan có
nạm viên toản thạch màu hồng, thắt lưng bằng lụa đỏ. C̣n
người thiếu phụ đi bên cạch chàng thập phần kiều diễm,
vận y phục màu hồng đào, vai khoác áo lông cừu trắng,
tóc cài kim thoa nạm trân châu, cổ đeo xâu chuỗi trân
châu. C̣n ba cô cậu choai choai hăy cỏn nhỏ, mặt mày
đĩnh ngộ, đều vận y phục màu thiên thanh, tóc bới trái
đào, khoác áo ngự hàn bằng da chồn lửa.
Tửu bảo hướng dẫn
đến pḥng bên cạnh Hoàng Phi Bằng. Nhân dịp này Hoàng
Phi Bằng cũng ra tay giúp họ đem đồ đạc lên pḥng, lúc
đầu gia đ́nh này tưởng Hoàng Phi Bằng là tiểu nhị của
Phong Lưu Tửu Lầu, khi hiểu ra mới biết Hoàng Phi Bằng
cũng là người đang ở trọ pḥng kế bên. Cả gia đ́nh họ
cảm kích cách hành xử tương trợ của cậu, cảm ơn cậu.
Tửu bảo cũng đang
đứng kế bên liền giới thiệu :
― Thưa quí vị
khách quan, đây là thiếu hiệp Hoàng Phi Bằng, ở trọ tại
đây được mấy hôm. Cậu nhă nhặn nên ai cũng mến và cậu
c̣n cứu khốn pḥ nguy cho lê dân ở đây.
Lư B́nh Trương
đang đưa gia đ́nh chạy trốn bọn truy sát, bảo vệ dóng
dơi nhà họ Lư c̣n sót lại.
Hiện giờ địch thủ
chưa xuất hiện. Mọi cử động nào chàng cũng cẩn thận
trước, dè dặt đối với kẻ thù c̣n ẩn trong bóng tối. Tuy
vậy, đứng trước cậu trai tuổi áng hoa niên này, chàng
vẫn thản nhiên, tin rằng đây không phải là kẻ hắc đạo.
Ông lăo tự giới thiệu :
― Thế th́ hay quá
! Tâm ư tương đồng, lăo là Lư B́nh Trương, đây là Triệu
Anh Thư nương tử. C̣n đây là thằng trưởng nam Lư B́nh
Trung anh cả của Lư B́nh Tam, Lư Thư Phụng, Lư Thư Hồng.
C̣n đây là con dâu trưởng của lăo tên Trần Kiều Oanh.
Gia đ́nh lăo rất hân hạnh được biết người bạn trẻ. Theo
nhăn quan của lăo, người bạn trẻ đây có tư chất phi phàm,
ắt sẽ có một hậu vận phi thường, một cuộc đời oanh liệt.
Tiếc rằng lăo không c̣n thời gian được tương hội lâu dài.
Tuy vậy, gặp một lần cũng đă măn nguyện lắm rồi.
Lư B́nh Trung
hiểu ư thân sinh, thi lễ nói :
― Hài nhi xin
xuống lầu, sẽ gọi một ít rượu và thực đơn để
nhâm
nhi với thiếu hiệp, cũng gọi là lễ sơ kiến với một trang
thiếu hiệp anh tuấn.
Triệu Anh Thư vừa
gặp Hoàng Phi Bằng cũng có ít nhiều cảm t́nh, tự nhủ :
― Trượng phu ta
từ hồi nào cho tới bây giờ chưa hề nhận xét bất cứ ai
bằng hai tiếng "phi thường", nay lại gặp trang thiếu
hiệp c̣n vị thành niên này lại dùng hai tiếng ấy. Đây
chắc là mối linh cảm bén nhạy của Trương phu ta chăng ?
Hoàng Phi Bằng
thấy cả gia đ́nh cần ăn trưa, liền mời :
― Xin mời bá phụ,
bá mẫu cùng hiền huynh, tẩu tẩu và các em xuống lầu ăn
trưa cho vui !
Lư B́nh Trương
đang trên đường tản cư về quê ngoại để trốn kẻ thù, tiền
bạc không dư giả mà ăn nhậu do một người mới quen thết
đăi th́ không mạnh miệng để kết thân nên do dự.
Hoàng Phi Bằng
hiểu được ư nghĩ của Lư B́nh Trương, ân cần mời mọc một
lần nữa :
― Cháu xin bá phụ
và bá mẫu cùng anh chị em không nên từ chối ? h́nh như
các em gái có vẻ đói bụng rồi đó.
Triệu Anh Thư bảo
chồng :
― Phu quân à,
cung kính sao không bằng tuân lịnh. Xin chớ phụ ḷng
tiểu anh hùng.
Hoàng Phi Bằng
gọi bạn tửu bảo :
― Xin cho bảy
phần cơm trắng, canh chua cá Lư, ba đĩa thịt ḅ xào cải
bẹ xanh, thêm ba dĩa hủ tíu xào hải sản, hai cân rượu
Ngọc Quế Hương và một b́nh trà Vũ Di Sơn Kỳ Chưởng.
Sau buổi ăn trưa,
Hoàng Phi Bằng mời Lư B́nh Trung và Trần Kiều Oanh lên
pḥng ḿnh để đàm đạo.
Lư B́nh Trung cho
biết :
― Thưa tiểu hiệp,
ngôi nhà từ đường của chúng tôi ở Bạch Dương Hạng (ngơ
hẽm có trồng cây bạch dương ) thuộc ngoại ô của thành
Luy Lâu. Nhưng cụ thân sinh tôi v́ tha phương cầu thực
nên khi mới trưởng thành đến Nam Hải mở ḷ đúc binh khí
và lập gia đ́nh với mẫu thân tôi. Nhưng gần đây gặp vận
rủi, nên phải cùng bầu đoàn thê tử khăn gói trở về Giao
Châu để tránh tai nạn. Từ thuở mười ba tuổi, tôi được
chưởng môn phái vơ Lĩnh Nam truyền dạy chút ít vơ nghệ
để pḥng thân. Về nội công, tôi vẫn c̣n non kém. Bù lại,
tôi nghiên cứu về kiếm pháp, binh pháp và sở học kinh
bang tế thế.
Trần Kiều Oanh
nói :
― Tướng công tôi
thích đọc hai cuốn "Tôn Ngô Binh Pháp" của Tôn Vơ Tử và
Ngô Khởi và cuốn "Lă Thị Xuân Thu" vào thời Xuân Thu và
thời Chiến Quốc.
Hoàng Phi Bằng ḍ
ư :
― Tôi được biết
Tướng Quốc Lă Bất Vi thời Chiến Quốc là kẻ tham lam mưu
mẹo, nở đem vợ đang có thai của ḿnh để lừa gạt gả cho
công tử Tần Dị Nhân để sau này Tần công tử lên ngôi báu
th́ con ḿnh sẽ được nối ngôi vua. Kẻ v́ vinh hoa phú
quư mà gian ngoa lươn lẹo dám đoạt ngôi thiên tử của họ
Tần th́ đâu phải là chính nhân quân tử.
Lư B́nh Trung nói
:
― Theo ngu ư, khi
làm tới bậc Tướng Quốc, họ Lă chẳng những không tham
nhũng, không tàn ác, lại c̣n mở rộng giao du để kết bạn
với những tay danh sĩ. Cuốn "Lă Thị Xuân Thu" dù không
phải do ông ta viết ra mà do sự kết hợp tư tưởng của
Xuân Thân Quân nước Sở, B́nh Nguyên Quân nước Triệu, Mẫn
Tưởng Quân nước Tề và Tín Lăng Quân nước Ngụy. Xét về
công tội, Lă Bất Vi chỉ đoạt ngôi họ Tần bằng đứa con
của ḿnh, tức là Tần Thỉ Hoàng sau này. Nhưng ông ta
cũng gây nên công với giang sơn Trung Nguyên không phải
nhỏ đâu. Cuốn "Lă Thị Xuân Thu" đóng góp cho văn hóa Hán
tộc biết bao là tư tưởng quư báu về sách lược kinh bang
tế thế, về văn hóa v.v...
Trần Kiều Oanh
nói :
― Dân Bách Việt
chúng ta không nên câu nệ tiểu tiết mà bỏ rơi đại cuộc.
Nhất là học vấn cốt để gồm thu mọi tư tưởng biến hóa
thành học vấn của ḿnh.
Giang sơn nầy đâu
phải của riêng ai. Chúng ta nên bắt chước cái hay cái
đẹp của cổ nhân. Nhưng chúng ta phải ǵn giữ cái tinh
túy của tập tục Bách Việt.
Nàng nh́n đăm đăm
Hoàng Phi Bằng hỏi tiếp:– Không hiểu thiếu hiệp nghĩ sao
? Ngay trong việc ẩm thực, tôi cho rằng các món ăn người
Hán nhiều dầu mỡ, làm sự tiêu hóa thực khách khó khăn.
Trong khi đó, các món ăn của dân Nam Việt chúng ta rất
thanh tao, rất điều độ v́ có nhiều thứ rau ăn sống lẫn
rau nấu canh rất nhuận trường. C̣n dân Hán th́ cứ ăn cải
ngọt, bầu, bí, mướp và rau câu kỷ làm món canh thôi,
chẳng biết nhiều tới các canh rau đay, rau giền, rau
ngót, canh khoai sọ, khoai mỡ, khoai môn. Ngoài ra họ
đâu biết rau húng, rau diếp cùng các rau hoang dại khác
với mùi vị tuyệt vời dành để ăn sống, dùng để làm gỏi cá,
làm nộm, nói chung thảo mộc nào ăn đươc gọi là rau,
không ăn được gọi là cỏ. Người đàn bà quư tộc người Hán
lại bắt chước nàng Triệu Phi Yến bó chân nên sự đi lại
của họ quá khó khăn bất tiện trong khi phụ nữ Nam Việt
chúng ta v́ không theo tục bó chân nên họ có hai bàn
chân lành mạnh, ngón chân không méo mó tật nguyền, sự di
chuyển dễ dàng và mau lẹ.
Lư B́nh Trung
cười nói :
― Xứ Giao Châu,
nhứt là ở quê tôi có nhiều cây mật hương, thớ vỏ thơm
ngọt như mùi mật ong, tôi nghe đồn dân Nam Việt ta thử
làm giấy. Tôi ao ước về quê song song với nghề làm đao
đúc kiếm, tôi sẽ thử làm giấy mật hương xem sao. Lại nữa
quê tôi có nhiều gỗ bạch đàn hương, làm nhang rất thơm
rất ngát. Tôi ước ao về đó dùng thứ gỗ ấy làm phấn vẽ
mày cho các cô gái thay thế loại đại ngọc mắc tiền.
Hoàng Phi Bằng
rót trà cho vợ chồng Lư B́nh Trung, thầm ao ước:– Cặp vợ
chồng này chẳng những đẹp đôi mà c̣n có kiến thức nữa.
Ta phải t́m cách kết bạn với họ.
Xế xế, trước khi
dùng cơm tối, Hoàng Phi Bằng mời cả gia đ́nh họ thưởng
thức bánh Cốm Đệm Chả Chim Ngói vốn là món thời trân nổi
tiếng vùng châu thổ Giao Châu. Cậu nhờ nhà bếp pha cho
ḿnh một b́nh trà đặc sản Đồng Tương.
Lư B́nh Trương
thấy cũng lạ người bạn trẻ này biết sản phẩm Cốm Đệm Chả
Chim Ngói của châu thổ Giao Châu, ông đem ḷng cảm phục,
rồi hỏi về nguyên nhân đến đây :
― Hiền điệc từ
nơi nào đến đây ? Tạm trú ở đây đă bao lâu rồi ?
Hoàng Phi Bằng
thực thà đáp :
― Thưa bá phụ,
cháu đến từ Giang Tô đi một ṿng Giang Nam rồi đến Động
Đ́nh hồ này, tạm trú ở đây đă vài hôm. Có thể ngày mai
theo ḍng nước xuôi nam về thành Phiên Ngung tham dự đại
hội.
Lư B́nh Trung "ồ"
lên một tiếng :
― Tiếc quá, tiếc
quá ! V́ bận việc nhà, tai hạ không thể tham dự được.
Vậy thiếu hiệp có thật ḷng muốn tham dự không ?
Hoàng Phi Bằng
cười thật tươi :
― Thưa hiền huynh,
nếu nay mai các bác của tiểu đệ từ khắp nơi tụ ở đây th́
tiểu đệ mới có thể đi Phiên Ngung được.
Lư B́nh Trung vội
nói :
― Tại hạ tiếc lắm.
Ngàn năm một thuở thành Phiên Ngung mới có dịp đại hội
anh hùng Bách Việt, thế mà tôi phải về quê.
Chàng thở dài
thất vọng. Hoàng Phi Bằng động ḷng nói :
― Thưa hiền huynh,
về quê rồi trở lại thành Phiên Ngung tham dự cũng chưa
muộn, v́ c̣n vài tháng nữa hội mới khai mạc kia mà.
― Đúng vậy, nhưng
tại hạ có nhiều việc phải làm như sửa sang gia đường,
canh cải ruộng nương, châm bón vườn tược, sắp đặt lại
cách sống đâu đó cho ngăn nắp. C̣n việc chạy cơm áo cho
cả gia đ́nh nữa. Tôi hy vọng gặp lại thiếu hiệp lần thứ
hai; khi ấy nhờ người thuật lại diễn biến đại hội này
cho tôi nghe nhé ! Hôm nay tôi gặp người bạn trẻ tốt
trong hoàn cảnh t́nh cờ. Thời gian th́ có hạn, nên tôi
thay mặt cùng gia đ́nh xin phép trở gót về pḥng.
Tới giờ mùi, trời
tối mịt. Tửu Lầu thắp đèn sáng trưng. Sáu người trong
gia đ́nh họ Lư đi xuống lầu để dùng cơm. Lư B́nh Trung
đi ngang qua pḥng Hoàng Phi Bằng, mời cậu cùng gia đ́nh
ḿnh cùng dùng cơm tối.
Hoàng Phi Bằng
nói :
― Đa tạ hiền
huynh, tiểu đệ hăy c̣n no lắm. Xin cả nhà cứ tự nhiên.
Trong khi vợ
chồng Lư B́nh Trương và ba đứa con nhỏ đă xuống lầu và
chọn bàn ăn ở phía trái cánh cửa sổ pḥng trọ của Hoàng
Phi Bằng chừng bảy thước th́ vợ chồng Lư B́nh Trung hăy
c̣n thu xếp một vài vật dụng trong pḥng. Khi chàng cùng
vợ vừa tới đầu cầu thang th́ bỗng dưng có một luồng gió
từ trên mái nhà thổi thốc xuống. Lúc đó Hoàng Phi Bằng
cũng từ pḥng ḿnh bước ra. Cậu biết ngay rằng đây chắc
chắn có kẻ phi thân để giở tṛ sát thủ hay trộm cướp.
Tuy không thấy h́nh dạng đương sự, nhưng cậu biết đó là
một cao thủ lạ mặt. Hoàng Phi Bằng vội nép ḿnh ngó qua
khe cửa sổ, thấy người mặc áo nâu, chít khăn nâu che kín
đầu và mặt, chỉ c̣n chừa đôi mắt. Kẻ lạ mặt phi thân
thật nhanh đứng trên bàn cơm của gia đ́nh Lư B́nh Trương
tay cầm kiếm xuất liên hoàn chiêu kỳ lạ, hắn vung kiếm
sát hại mẫu thân cùng các em của Lư B́nh Trung. Bốn thủ
cấp rơi lăn lóc trên nền gạch. Riêng thân phụ Lư B́nh
Trung trên tay vẫn cầm đôi đũa, tay cầm b́nh trà để đối
chọi với lưỡi kiếm của tên sát thủ.
Hoàng Phi Bằng
lanh lẹ gọi Lư B́nh Trung :
― Đại huynh cẩn
thận có thích khách !
Lư B́nh Trung vừa
trông thấy mẫu thân, các em đă bị người bịt mặt sát hại,
muốn la lên mà miệng không thốt thành lời. Chàng muốn
phi thân xuống lầu mà chân vẫn đóng như đinh tại chỗ,
nước mắt cứ chảy như suối làm mờ đôi mắt, thân thể yếu
như người mắc phải bệnh bại liệt, miệng ú ớ như kẻ nằm
thấy ác mộng; Hoàng Phi Bằng trên tay đang cầm chung trà,
vận hết nội lực đă học được nơi tổ phụ, phóng Bạch Thiết
Châm trúng sau gáy phía cổ trái của thích khách, máu hắn
tuôn xối xả xuống đất, cũng là lúc thủ cấp của Lư B́nh
Trương rời khỏi thân thể. Tên áo nâu, bịt mặt ngó lên
lầu thấy năm sáu pḥng mở cửa sổ, không biết chung trà
từ đâu phóng ra, rồi phi thân mất dạng. Cuộc diễn biến
quá đột ngột, thực khách quan trong Phong Lưu Tửu Lầu,
cả Hoàng Phi Bằng cùng vợ chồng Lư B́nh Trung cũng không
kịp phản ứng; sự việc thảm thương làm mọi người đều phẩn
nộ, xót xa cho năm người vắn số. Không ai biết nguyên do
cuộc thảm sát như thế nào ? Trần Kiều Oanh té xỉu, c̣n
Lư B́nh Trung v́ hoàn cảnh thê thảm xúc động quá mạnh
mất hết ư chí, cho nên không phản ứng được ǵ, chân chưa
bước được ra đến bực cửa lầu, th́ người áo nâu đă biến
mất.
Hoàng Phi Bằng,
Lư B́nh Trung vội xuống lầu, thấy cảnh vợ chồng Lư B́nh
Trương và ba đứa em cùng chết bởi một thức kiếm như nhau.
Lư B́nh Trung không c̣n suy nghĩ được cách nào để làm
tang sự cho thân nhân v́ chàng không đủ tiền mua sắm
quan tài cho họ để đem về quê quán cũng như không biết
đem năm thi hài an táng nơi ở thị trấn này cho tiện ?
Hoàng Phi Bằng
thấy mọi người bối rối, bảo Lư B́nh Trung :
― Tiểu đệ xin
cùng hiền huynh và tẩu tẩu lo tang sự trước đă. Hiền
huynh chớ lo lắng thái quá.
Hoàng Phi Bằng
lấy ra năm mươi lạng bạc nhờ ông chủ Phong Lưu Tửu Lầu
cùng mười tửu bảo, đứng ra làm lễ an táng.
Lư B́nh Trung suy
nghĩ một hồi lâu rồi nói :
― Tang sự cho
tiện nhất là hỏa táng theo tục lệ xứ Tây Trúc.
Hoàng Phi Bằng
thấy hơi lạ hỏi :
― Tại sao phải
hỏa táng ? Người Nam Việt chúng ta chỉ biết thờ cúng tổ
tiên thôi. Làm ma chay theo Khổng, nếu hỏa táng coi bộ
bất tiện lắm đó.
Người chủ tửu lầu
am tường và hiểu ư của khách, liền bảo :
― Ở Đào Hoa Thôn
gần đây có Lư Vân Đ́nh tiên sinh có chân trong Tam Thanh
Hội mà cơ sở của hội là Ngọc Hoàng Bảo Điện. Lư tiên
sinh là cha của cô Lư Lệ Nga, Lư cô nương là học tṛ của
Hồ Đ́nh Thăng điện chủ. Chúng ta nên nhờ Lư tiên sinh
xin phép điện chủ dành cho một khoảnh đất để an táng Lư
tiền bối cùng phu nhân, đệ nhị công tử và hai tiểu thư.
Hoàng Phi Bằng
hỏi lại :
― Lư Vân Đ́nh là
ai vậy ?
Chủ Tửu Lầu nói :
― Nhân vật này có
tài học uyên bác không chịu đi thi để đỗ đạt làm quan.
Ông ta thọ giáo một vị tăng ở nước Khương bên Tây Trúc
giáo lư nhà Phật nên quyết làm cư sĩ, nghĩa là kẻ tu tại
gia. Ông ta dùng cây mật hương chế được thứ giấy vừa
trắng nơn như cánh c̣ vừa thơm như mật lại có vân màu gỗ
tươi rất đẹp.
Nói xong, ông ta
sai một tên tửu bảo mặt mày sáng sủa, tuổi cỡ Hoàng Phi
Bằng đến Đào Hoa Thôn. Chừng nửa canh giờ sau cha con
học sĩ Lư Vân Đ́nh tới. Học sĩ tuổi ngoài năm mươi, thần
thái phiêu hốt, tóc điểm hoa râm, mặc bạch bào, thắt
lưng lụa tía, mang giày nhung đen thêu mặt hổ phù bằng
kim tuyến. C̣n Lư Lệ Nga thay y phục mới bằng áo cẩm sa
màu trắng, quần lụa thiên thanh, lưng thắt ngọc thạch
đái, tóc giắt ngọc trâm ở mép tóc và cài kim thoa trên
đầu, tai đeo hoa tai kết trân châu, cổ đeo kiềng vàng.
Chủ Tửu Lầu ngơ
lời với Lư B́nh Trung :
― Tôi sẽ trích ra
hai lạng bạc lo việc ma chay và bốn lạng bạc dành cho
Ngọc Hoàng Bảo Điện lo việc nhang khói cho vong linh chư
vị bị thảm sát.
Lư Vân Đ́nh xin
xuất ra thêm ba lạng bạc để mua sắm linh cửu bằng gỗ
huỳnh đàn chớ không nên mua quan tài bằng gỗ tạp xấu xí.
Lư Lệ Nga giúp Trần Kiều Oanh may tang phục cho Lư B́nh
Trung và cho cả Trần Kiều Oanh. Các linh cửu được quàng
tại Đông lang của Ngọc Hoàng Bảo Điện hai ngày trước khi
an táng. Có rất nhiều thương gia và các hào phú cùng các
người hảo tâm đến phúng điếu. Cho nên sau khi việc mở
cửa mả hoàn tất, vợ chồng Lư B́nh Trung có tới trên một
trăm lạng bạc có thể về quê trang trải cuộc sống mới.
Luôn tiện Lư Lệ Nga may cho Trần Kiều Oanh chiếc áo lụa
đỏ, cổ tṛn và có cái thắt lưng bằng nhiễu xanh. Chiếc
cổ trổ ra hàng nút lụa vàng thắt h́nh cánh dơi, c̣n thắt
lưng có thắt h́nh cánh bướm.
Lư B́nh Trung bảo
Hoàng Phi Bằng :
― Khi nào tại hạ
t́m được hung thủ th́ mới cải táng chưa muộn. Nói đến
đây chàng ̣a lên khóc. Hoàng Phi Bằng thấy hoàn cảnh như
vậy, đề nghị :
― Chúng ta khoan
tính việc phục thù. Kẻ sát thủ không phải là kẻ vơ nghệ
tầm thường đâu. Hiền huynh cần phải tầm sư học vơ nghệ
thêm. Sau khi thành tài th́ mới t́m hung thủ cũng chưa
muộn. Theo tiểu đệ thấy, hung thủ là nhân vật vơ học cao
thâm, vô lường.
Con người này rất
nguy hiểm, cho nên hiền huynh phải cẩn thận, đệ thấy
hung thủ này mặc áo nâu, chít khăn nâu che kín đầu và
mặt, chỉ là ám hiệu một đảng nào đó. Có lẽ hung thủ này
tóc không nhiều, cho nên chít khăn che kín đầu. Nhưng
tại sao hắn phải chít khăn mặt, tức hắn không phải là
người lạ với gia đ́nh hiền huynh. Hiện nay khó mà t́m ra
hắn, tuy vậy hắn không thể nào qua khỏi lưới trời.
Tinh thần Lư B́nh
Trung đă b́nh tĩnh, chàng nói :
― Tôi thấy gia
gia tôi dùng đôi đũa như đoản kiếm, đâm vào cánh tay
trái để cắt đứt gân của hung thủ, đây là chiêu Đả Đoản
Kiếm như vậy cánh tay trái này chắc chắn đă bị liệt,
không c̣n sử dụng đao kiếm được. Trước sau ǵ tôi cũng
t́m được hung thủ qua thương tích cánh tay trái.
Hoàng Phi Bằng
liền hỏi :
― Hiền huynh có
thấy được một phần chiêu số và thức kiếm của hung thủ
không ?
― Lúc ấy tại hạ
không c̣n tâm trí nào để ư chiêu kiếm kỳ lạ ấy ! Có thấy
mà không được rơ lắm, hy vọng thiếu hiệp nếu thấy điều
ǵ, xin chỉ giáo tại hạ :
Hoàng Phi Bằng
thấy những chiêu số là đă in vào trí nhớ đáp :
― Ngu đệ chú ư
tất cả những chiêu kiếm của hung thủ, như vậy đệ xin
xuất chiêu để thử nghiệm, nhằm sau này để huynh t́m ra
hung thủ. Xin huynh chú ư nhé ! Bây giờ đệ xuất chiêu
chậm chạp hai lần, khi đến lần thứ ba th́ đệ xuất chiêu
thức thật nhanh, nhân dịp này hiền huynh cũng luyện tập
để biết vơ học của hung thủ mà ḿnh muốn t́m ! Bắt đầu,
đệ xuất chiêu lần thứ nhất đến lần thứ ba.
Hoàng Phi Bằng
rút gươm ra đi vài chiêu thức. Lưỡi kiếm vung loang
loáng như ánh tuyết che phủ toàn thân. Tiếng kiếm rít
như gió. Cách xoay trở của cậu cực kỳ uyển chuyển như
rồng lượn trên mây, như cá vẫy vùng trong nước. Xong,
cậu tra kiếm vào vỏ, rồi nói tiếp:– Ngu đệ chỉ biết liên
hoàn kiếm này mà không biết chiêu số của nó.
Lư B́nh Trung tuy
đang buồn cảnh tang gia, nhưng lại ngạc nhiên một cách
thích thú. Chàng không ngờ Hoàng Phi Bằng thông minh về
vơ học nên nghĩ thầm:– Chỉ cần t́m ra hai yếu tố chính
như là thương tích cánh tay trái cùng kiếm pháp là phát
hiện được hung thủ ngay. Quả nhiên Hoàng Phi Bằng thực
ḷng muốn giúp ta trả mối thù này. Trong lúc ta đau khổ,
lại có quí nhân đến phù trợ, như người đời có nói "Bể
khổ mênh mông rồi cũng có lúc vào bờ".
Lư B́nh Trung cảm
khái nói :
― Ta sẽ t́m được
hung thủ. Kẻ thù kia không thể nào cao bay xa chạy.
Hoàng Phi Bằng
phân tích tiếp vơ học để cho Lư B́nh Trung tiếp thu kiến
thức :
― Hiện giờ tuy
hiền huynh đă hiểu hết những chiêu thức của hung thủ,
nhưng không thể sử dụng được v́ có những bí ẩn của nó ở
bên trong. Để tránh hiểu lầm hung thủ, đệ tự sáng tạo ra
một thức kiếm mới để hướng dẫn hiền huynh. Theo kiếm
pháp của họ Hoàng, chiêu thức thứ nhất là Thần Nhơn Đă
Ngưu xuất từ chậm ra nhanh gồm tám chiêu kiếm, dung hợp
vào kiếm pháp thứ ba mươi sáu của hung thủ.
Chiêu thứ hai
Long Hổ Thần Kiếm xuất dương thu về âm gồm bốn đường
kiếm, dung hợp theo kiếm pháp thứ ba mươi lăm của hung
thủ.
Chiêu thứ ba Vong
Hồn Thần Kiếm xuất hư chiêu là thực gồm năm đường kiếm,
dung hợp theo kiếm pháp thứ ba mươi bốn của hung thủ .
Chiêu thứ tư Đoạt
Mệnh Thần Kiếm xuất chiêu chẻ ngang, chẻ dọc gồm chín
đường kiếm, dung hợp theo kiếm pháp thứ ba mươi ba của
hung thủ.
Những thế kiếm
pháp này biến hoá bao nhiêu chiêu tùy theo ư của ḿnh,
hiền huynh sử dụng những chiêu thức này, nếu gặp phải
địch thủ chúng hóa thành khắc tinh, như vậy địch thủ
không biết đâu là chiêu pháp thực hư.
Sau khi ma chay
xong, hiền huynh tập lại cho thật kỹ. Không nên đ̣i công
đạo vào lúc này v́ lai lịch kẻ thù không phải đơn giản
đâu. Muốn báo thù cho gia đ́nh phải t́m đích thực hung
thủ.
Hoàng Phi Bằng
thấy Lư B́nh Trung lo lắng, hiểu được ư nói :
― Thế th́ hiền
huynh có những dự pḥng nào chưa ?
Lư B́nh Trung vừa
trải qua những bối rối nói :
― Hiện giờ đầu óc
tại hạ trống không, ngu huynh chưa biết phải đi về đâu !
C̣n tương lai th́ vô định !
Hoàng Phi Bằng đề
nghị :
― Tiểu đệ xin kết
kim bằng với hiền huynh được không ?
Lư B́nh Trung khi
nghe tiếng kết nghĩa, tuy đang thống khổ lại hoá ra vui
mừng. Chàng suy nghĩ:– Ḿnh đang gặp cơn tai biến trong
gia đ́nh đến bước đường cùng, nếu ḿnh được kết nghĩa
với Hoàng Phi Bằng th́ chẳng khác nào sắp chết lại được
người cứu sống. Chàng hớn hở đáp:
― Thật là cái may
mắn nhất trong đời của tại hạ.
Đột nhiên một tửu
bảo từ ngoài cửa chạy vào pḥng, giới thiệu tiểu đệ họ
Trịnh tên Trường. Hoàng Phi Bằng cũng vội vàng chắp tay
xá xá để đáp lễ. Hoàng Phi Bằng hỏi :
― Trịnh hiền đệ,
sao lại bỏ Kinh Châu về đây ?
Trịnh Trường đáp
:
― Đệ đến đây để
cúng lễ tiết Thanh Minh và để tảo mộ cho ngoại tổ của em
tức là nhạc phụ của học giả Lư Vân Đ́nh.
Trần Kiều Oanh
hỏi :
― Như vậy Lư tiên
sinh là bác rể của cậu đệ, có phải không ?
Trịnh Trường gật
đầu đáp :
― Đúng vậy, tỷ Lư
Lệ Nga là biểu tỷ của đệ.
Dù mặc y phục
tiểu nhị màu thạch thanh, đầu vấn khăn đen, nhưng dung
mạo Trịnh Trường rất khôi ngô, vóc vạc cậu sớm nẩy nở
cân đối và vạm vỡ. Lưng cậu không vấn khăn mà lại mang
chiếc nịt da trăn, có đính bao kiếm bằng da ráy cá. Nghe
Hoàng Phi Bằng thuật lại chuyện Lư B́nh Trung, cậu cũng
xin kết nghĩa Đào Viên với họ Lư.
Hoàng Phi Bằng
giải thích trước khi phân định huynh đệ :
― Trước khi kết
nghĩa Đào Viên, hai huynh đệ phải hiểu ít nhiều về đặc
tục tộc Việt như cắt tóc, lấy máu uống thề, xâm ḿnh làm
hiệu, đi đường thủy lấy thuyền làm xe, lấy chèo làm ngựa,
đến th́ như gió thoảng, đi th́ khó đuổi theo, vơ học bản
nguyên nhân nghĩa, quí hiền huynh và nghĩa đệ thấy thế
nào ?
Trịnh Trường
thông minh lanh lợi, vốn sống đă trải qua trong lớp áo
tửu bảo, nhưng chưa hề nghe ai nói về đặc tục tộc Việt,
cho nên lúc này cậu mới biết được ư nghĩa việc kết bạn
đồng sanh tử, cậu thán phục Hoàng Phi Bằng như một ân
công chỉ lối đường về.
Hoàng Phi Bằng
nói tiếp:– Đúng thế phải thực hiện những đặc tục của tộc
Việt, đó là căn bản không thể thiếu được trong lúc này,
hăy phân định theo tuổi tác huynh đệ.
Hoàng Phi Bằng
nhờ chủ quán lập bàn hương án, thắp nhang Ngọc Liên
Hương, và đốt cặp đèn pha lê. Cậu cùng Lư B́nh Trung,
Trần Kiều Oanh và Trịnh Trường qú xuống, trích máu vào
rượu thề đất trời chứng giám cho cả bốn, lúc sống khác
giờ, khác ngày, khác tháng, khác năm th́ nguyện xin khi
chết cùng giờ, cùng ngày, cùng tháng, cùng năm. Vợ chồng
Lư B́nh Trung lớn hơn Hoàng Phi Bằng bốn tuổi làm anh cả,
Hoàng Phi Bằng làm nhị đệ, c̣n Trịnh Trường nhỏ tuổi
nhất th́ làm tam đệ. Cả bốn cùng lạy Hoàng thiên hậu thổ.
Xong, Hoàng Phi Bằng mời Trần Kiều Oanh để cho ḿnh cùng
Trịnh Trường làm lễ tương kiến. Cả hai lạy nàng bốn lạy
và gọi nàng là tẩu tẩu, nàng chắp tay xá xá đáp lễ và
gọi hai cậu là nhị thúc thúc và tam thúc thúc.
Lư B́nh Trung xin
về pḥng lấy thanh Thái Danh Kiếm gia bảo, nhưng t́m
hoài mà không thấy, trong ḷng bồi hồi, tự nghĩ ta đă
mất cả nhà, lại c̣n mất kiếm, vậy từ đây xem như ta
không c̣n thấy mặt gia gia rồi, quả là kẻ hung thủ quá
tàn nhẫn, may mà "Thái Danh Kiếm Phổ" c̣n ở trong chiếc
rương bọc da ḅ của ḿnh. Lúc này Lư B́nh Trung uất hận,
thét lên ba tiếng thật to làm Hoàng Phi Bằng ở pḥng bên
cạnh không biết chuyện ǵ xảy ra cho nghĩa huynh của
ḿnh ? Lư B́nh Trung ra khỏi pḥng để t́m gặp Hoàng Phi
Bằng và Trịnh Trường, cùng lúc Trịnh Trương cũng trở lại
bàn ăn ở tầng trệt.
Hoàng Phi Bằng
vội hỏi :
― V́ sao mà Lư
đại huynh mắt c̣n ngấn lệ, c̣n Trương tam đệ th́ hớn hở
vậy ?
Trịnh Trường trả
lời :
― Thưa đại huynh,
đệ vừa đến t́m ông chủ để vấn an. Ông ta cho em bảy lạng
bạc nữa, ông nói khi nào cần tiền th́ cho ông biết.
Hoàng Phi Bằng
thấy khác lạ hỏi :
― Ông chủ tốt với
tam đệ như vậy là có nguyên nhân.
Trịnh Trường
không dám vui mừng v́ thấy Lư B́nh Trung hăy c̣n sầu
thảm, trả lời :
― Thưa nhị huynh,
ông chủ chính là thúc phụ của tiểu đệ, từ ngày gia đ́nh
tiểu đệ lâm cơn đại nạn, cùng một lúc cả thảy bảy người,
lúc ấy tiểu đệ mới sinh ra được hai ngày, nằm ngủ trong
chăn cho nên hung thủ không phát giác ra được. Thúc phụ
mới đem đệ về nuôi, nhờ thế mà đệ sống được đến ngày nay.
Thúc phụ hiểu được lư do đệ phải tạm biệt, c̣n nhắc đi
nhắc lại nhiều lần: "Trên đường hành hiệp bôn ba, cháu
phải cẩn thận v́ giang hồ hiểm ác, kẻ hắc đạo dẫy đầy".
Ngoài ra thúc phụ c̣n nói: "Điệc nhi à ! Khi nào cháu có
vơ nghệ siêu quần th́ thúc phụ sẽ cho biết hung thủ đă
giết cả gia đ́nh hài nhi là ai ? C̣n bây giờ th́ không
tiện".
Hoàng Phi Bằng
ngó lại hỏi Lư B́nh Trung :
― C̣n Lư đại
huynh t́nh trạng như thế nào mà khóc lóc như thế ?
― Gia tài của ngu
huynh chỉ c̣n lại cây Thái Danh Kiếm, thế mà đă bị kẻ
cắp mất rồi ! Không khác nào người đời có câu: "Kiếm đao
c̣n là người c̣n, kiếm đao mất là người mất". Cũng c̣n
may ngu huynh đang luyện tập kiếm, cho nên Thái Danh
Kiếm Phổ hăy c̣n ! Tuy ngu huynh mất kiếm mà vẫn c̣n cán
kiếm.
Trịnh Trường vội
hỏi :
― Th́ ra gia gia
của tiểu đệ có cây Thượng Danh Kiếm, như vậy nó có sự
liên hệ ǵ với cây Thái Danh Kiếm không ? Ở cây kiếm
hoặc chung quanh cây kiếm ấy có điều bí mật ǵ không ?
Lư B́nh Trung
ngạc nhiên đáp :
― Ngu huynh có
nghe gia gia kể lại rằng từ thuở thiếu niên có ba người
cùng ở huyện Giao Đỉnh thuộc Quế Lâm, kết nghĩa huynh đệ,
học cùng chung một sư phụ. Khi sư phụ họ qua đời, ông có
tặng cho mỗi đệ tử một cây kiếm, mỗi cây kiếm có tên
tuổi khác nhau và chiêu thức. Cũng vậy, tên của ba cây
kiếm tức nhiên là phải khác nhau. Đó là Ngọc Danh Kiếm,
Thái Danh Kiếm và Thượng Danh Kiếm gọi chung là Tam Danh
Bảo Kiếm. Đại đệ tử của ông tiếp nhận Ngọc Danh Kiếm,
nhị Đệ tử tiếp nhận Thượng Danh Kiếm, c̣n gia gia tiểu
đệ tiếp nhận được cây Thái Danh Kiếm. Tam huynh đệ này
rất thương nhau, họ sống thanh bạch đúng nghĩa với chí
khí hào hiệp. Đến một ngày kia cả gia đ́nh Thượng Danh
Kiếm qua đời mà không ai biết nguyên nhân. Gia gia của
ngu huynh không c̣n tha thiết ǵ với cuộc đời bon chen
nữa, nên hạ lạc về miền thôn dă để sống ẩn, cho đến ngày
nay th́ bị nạn cả nhà tại nơi đây.
Bây giờ Trịnh
Trường mới hiểu được mối liên hệ giữa ḿnh với Lư B́nh
Trung nói :
― Này Lư đại
huynh, Trời cao có mắt, huynh đệ chúng ta không hẹn mà
gặp, đây mới gọi là trái đất tuy to mà nhỏ, đệ đây chính
là truyền nhân Thượng Danh Kiếm đây. Gia gia của em là
Trịnh Bảo.
Lư B́nh Trung vui
mừng hai tay gạt nước mắt nói :
― Đúng rồi chính
nghiêm phụ hiền đệ là sư huynh của gia gia ngu huynh đó
! Như vậy em c̣n giữ cây Thượng Danh Kiếm không ? Chuyện
này quan trọng v́ trên chuôi kiếm có "Thượng Danh Kiếm
Phổ".
Trịnh Trường hai
tay run run, tự trách ḿnh có kiếm mà không biết sử dụng,
quả là người mù đứng trước phong cảnh rực ánh thái dương,
may mà hôm nay gặp được Lư đại huynh của ḿnh nên mới rơ
chuyện ! Trịnh Trường mở túi vải đựng kiếm, rồi lấy vỏ
kiếm ra, Lư B́nh Trung mừng quá nói liền :
― Tam đệ ơi !
Đúng rồi, vỏ kiếm màu vàng th́ chuôi kiếm cũng màu vàng,
trên sống kiếm c̣n ghi Thượng Danh Kiếm đặc biệt giấy
của kiếm phổ cũng màu vàng. Tam đệ hăy vặn nắp dưới
chuôi kiếm xem quyển kiếm phổ có c̣n không ?
Trịnh Trường tay
càng run mạnh hơn, cho nên vặn chuôi kiếm rất là chậm
chạp, lại nữa kiếm để trong bao lâu ngày răng của đường
nắp đă khô cho nên khó mở. Nhưng rồi cuối cùng cậu mở ra
cũng được, đúng là "Thượng Danh Kiếm Phổ" c̣n nguyên.
Cậu thở dài nhẹ nhơm cảm nhận được t́nh huynh đệ đă hiểu
thấu tâm can. Từ nay Trịnh Trường ra sức luyện tập "Thượng
Danh Kiếm". C̣n Lư B́nh Trung tiếp thục luyện tập "Thái
Danh Kiếm Pháp".
Hoàng Phi Bằng
thầm đoán biết việc đi t́m hung thủ sẽ không khó nói :
― Hiện nay kẻ thù
của chúng ta c̣n ở trong bóng tối, cho nên xin phải cẩn
thận. Thứ nhất, thanh Thượng Danh Kiếm nên gửi lại nhà,
chỉ đem theo quyển kiếm phổ mà thôi. Thứ hai, tam đệ hăy
thưa với thúc phụ, nhờ chạm bài vị cho năm kẻ khuất núi,
vài năm sau đại huynh sẽ trở lại thỉnh hài cốt cùng bài
vị về nơi cư ngụ mới. Thứ ba, bí mật luyện tập Thượng
Danh Kiếm và Thái Danh Kiếm tuyệt đối không nên động thủ
hai thứ kiếm pháp này với bất cứ ai, có như thế mới bảo
mật được. Riêng thanh Ngọc Danh Kiếm, đại huynh và tam
đệ phải cẩn thận không nên t́m dấu vết của nó trong lúc
này, hăy đợi tới khi nào cả hai học vơ thành công.
Hoàng Phi Bằng
lấy ra sáu lạng vàng tặng Trịnh Trường, Trần Kiều Oanh
và Lư B́nh Trung. Cả ba không muốn tiếp nhận. Hoàng Phi
Bằng nói :
― Đây là lễ sơ
giao mà. C̣n hai lá thư này mới là quan trọng. Thư thứ
nhất giới thiệu Lư huynh, Trần tỷ và Trịnh đệ, đến địa
chỉ cư ngụ để học văn, luyện nội công cùng luyện hai bộ
kiếm pháp "Tuyệt Cao Kỳ Kiếm" và "Phong Tâm Kiếm". Thư
thứ hai ngoài bao đề: Người nhận Phùng Hưng, người gửi
Hoàng Phi Bằng. Mời Trịnh đệ, Lư huynh đọc lại hai lá
thư trước khi lên đường. Khi đến nơi, xin nhờ người báo
tin cho tôi biết. Ba người hăy ở đó cho đến khi tôi trở
về để cùng huynh, tỷ, đệ tái ngộ.
Lư B́nh Trung,
Trần Kiều Oanh và Trịnh Trường mắt ứa lệ. Cả bốn ôm nhau
thật chặt, chúc nhau thượng lộ b́nh an trước khi từ giă.
Về Trần Kiều Oanh
th́ ít nói, nhưng nàng có một trí nhớ rất là tốt, tất cả
sự biết đều để trong ḷng, như thấy h́nh ảnh người thích
khách áo nâu, giọng nói của huynh đệ kết nghĩa với chồng
nàng và cả mùi thơm đều nớ, nhờ những ưu điểm này nàng
sẽ trợ lực cho Lư B́nh Trung thành danh .
Lư B́nh Trung,
Trần Kiều Oanh, Trịnh Trường, xuống lầu. Trinh Trường
vào pḥng riêng cúi đầu lạy thúc phụ xin tạm biệt, hẹn
ngày về nhận lại cây kiếm. C̣n Lư B́nh Trung cùng vợ tạ
ơn ông chủ Phong Lưu Tửu Lầu, lạy hai lạy và xin ông xem
vợ chồng ḿnh như Trịnh Trường, rồi gọi ông bằng nghĩa
thúc phụ, và nhờ ông chăm sóc năm nấm mộ phần, c̣n tất
cả vật dụng của gia đ́nh chàng xin tặng cho những ai cần
dùng. Cả ba người trên vai mang theo vật dụng cá nhân,
cưỡi ngựa ra đi. Gió xuân phơi phới làm cho hoa đào rụng
lấm tấm, cành liễu đong đưa. Tiếng hát của Trần Kiều
Oanh vang lộng dài theo dặm đường trường:
Vung kiếm
rửa thù trên cơi Bắc
Rồi về cư
ngụ đất phương Nam
Nơi đây
nắng ấm tràn muôn lối
Rực rỡ
sông Hồng, đẹp núi Lam. |